Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.2 KB, 41 trang )

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
1

VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TRUNG ƯƠNG
TRUNG TÂM THÔNG TIN – TƯ LIỆU


NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

MỤC LỤC

A. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 3
1. Một số vấn đề cơ bản về FDI 3
1.1. Khái niệm về FDI 3
1.2. Các nhân tố thúc đẩy FDI 5
1.3. Những lợi ích của việc thu hút FDI 6
2. Khái quát xu hướng FDI trên thế giới 7
B. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN FDI TẠI VIỆT NAM 9
1. Thực trạng FDI tại Việt Nam 9
1.1. Tình hình vốn FDI đăng ký và thực hiện 9
1.2. Những tác động của FDI tới sự phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 11
1.2.1. FDI trong tổng đầu tư xã hội và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế 11
1.2.2. FDI nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu 12
1.2.3. FDI tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực 13
1.2.4. FDI đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô 13
1.2.5. Những tác động tích cực gián tiếp khác 14
2. Một số hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút và sử dụng vốn
FDI ở Việt Nam 14
2.1. Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn FDI 15
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu


2

2.1.1. Hiệu quả của vốn FDI còn thấp, chuyển giao công nghệ chậm chạp,
chuyển giá ra ngoài, khu vực FDI chưa tạo ra được tác động lan tỏa tới các
khu vực kinh tế khác như mong muốn 15
2.1.2. Những bất cập trong cấu trúc vốn FDI 17
2.1.3. Tình hình trì hoãn thực hiện dự án và rút vốn đầu tư gia tăng 23
2.1.4. Phân cấp đầu tư còn nhiều bất cập 25
2.1.4. Tác động tiêu cực của FDI tới môi trường 27
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam 29
C. XU HƯỚNG FDI VÀO VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA FDI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI 32
1. Xu hướng FDI vào Việt Nam 32
2. Kiến nghị về chính sách và biện pháp để phát huy mặt tích cực, khắc phục
mặt tiêu cực, nâng cao hiệu quả FDI 34
2.1. Cần có quan điểm, tư duy, định hướng mới về thu hút và sử dụng FDI 35
2.2. Giải quyết tốt những “nút thắt cổ chai” của nền kinh tế trong thu hút và sử
dụng FDI 35
2.3. Hướng mạnh FDI vào các mục tiêu phát triển 36
2.4. Thu hút và sử dụng FDI phải phù hợp và hỗ trợ quy hoạch phát triển mới các
vùng kinh tế 37
2.5. Thu hút và sử dụng FDI phải hài hòa, bổ trợ cho chiến lược phát triển các
doanh nghiệp 38
2.6. Cần có các chính sách riêng biệt thu hút các nhà đầu tư chiến lược 38
2.7. Thực hiện mạnh mẽ cải cách thể chế, chính sách kinh tế 38








CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
3

A. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
1. Một số vấn đề cơ bản về FDI
1.1. Khái niệm về FDI
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về FDI. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), FDI được định nghĩa là: “Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó
một tổ chức trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ
một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác”. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác ấy.
Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), luồng
vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan
khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ
phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một
tài sản ở một nước khác (nước tiếp nhận đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong
phần lớn các trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài
là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi
là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát về FDI như sau: FDI tại
một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào vào quốc gia ấy để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát
một thực thể kinh tế tại quốc gia này, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình.

Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình
(máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép
có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản
lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy,
FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm
cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế; và chủ đầu tư
(pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối
tượng đầu tư.
Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
4

kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật này”.
Hiện nay, trên thế giới dòng vốn FDI được biểu hiện dưới nhiều hình thức, cụ thể:
- Phân theo bản chất đầu tư:
(1) Đầu tư phương tiện hoạt động: Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức
FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới
ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.
(2) Mua lại và sáp nhập (M&A): Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó
hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một
doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua
lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết
dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
- Phân theo tính chất dòng vốn:
(1) Vốn chứng khoán: Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu
doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền
tham gia vào các quyết định quản lý của công ty.

(2) Vốn tái đầu tư: Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ
hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.
(3) Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ: Giữa các chi nhánh hay công ty con
trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu,
trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
- Phân theo động cơ của nhà đầu tư:
(1) Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể
kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào.
Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở
nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài
sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các
nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
(2) Vốn tìm kiếm hiệu quả: Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào
kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các
yếu tố sản xuất như điện, nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng
sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi,
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
5

(3) Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường
hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư
này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các
nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị
trường khu vực và toàn cầu.
1.2. Các nhân tố thúc đẩy FDI
Vốn FDI là nguồn vốn quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nhiều nước. Các nhân tố chính thúc đẩy FDI
bao gồm:
- Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước: Giữa các nước luôn tồn

tại sự khác biệt về năng suất cận biên của vốn. Một nước thừa vốn thường có năng suất
cận biên thấp hơn, trong khi một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn.
Tình trạng này dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm
tối đa hóa lợi nhuận.
- Chu kỳ sản phẩm: Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc
tế thì chu kỳ sống của các sản phẩm được xem xét bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là:
giai đoan sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi; giai đoạn sản phẩm chuẩn
hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và
sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước
nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm cho nhu cầu trên thị trường bản địa tăng
lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này
bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài (giai đoạn sản phẩm chín
muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa,
nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn
ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI. Raymond Vernon (1966) cho
rằng, khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa thì là lúc thị trường sản
phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết
định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản
phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
- Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia: Các công ty đa quốc gia có những
lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại
về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa
điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất
đai, chính trị…) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty đa
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
6

quốc gia có lợi thế lớn về vốn và công nghệ thường đầu tư vào những nước sẵn có
nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường có thị trường tiêu thụ tiềm năng

- Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại: Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Thí dụ, Nhật Bản thường
bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các đối
tác của Nhật Bản lại bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật
Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy
tính ngay tại Mỹ và châu Âu để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ
còn tiến hành đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường
Mỹ và châu Âu.
- Khai thác chuyên gia và công nghệ: Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước
phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại cũng khá mạnh mẽ
1
. Bằng
con đường đầu tư vào các nước phát triển, nhiều nước đang phát triển có thể tiếp cận
nhanh và khai thác nguồn nhân lực chất lượng cao và công nghệ hiện đại từ các nước phát
triển.
- Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều
công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú.
Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950
là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
1.3. Những lợi ích của việc thu hút FDI
Lợi ích của FDI đối với các nước tiếp nhận đầu tư thể hiện ở một số điểm chính
sau đây:
- Bổ sung cho nguồn vốn trong nước: Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế,
nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn,
phải có nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn
có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.

1
Các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia
người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các

nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung
Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch
Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của
IBM,…

CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
7

- Tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý: Trong một số trường hợp, vốn cho tăng
trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc
bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính
sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia giúp một nước có cơ hội tiếp thu
công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển
qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn.
- Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu: Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc
gia, không chỉ doanh nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các
doanh nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với doanh nghiệp đó cũng tham gia
vào quá trình phân công lao động khu vực và toàn cầu. Chính vì vậy, nước thu hút
đầu tư có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi để đẩy mạnh xuất
khẩu.
- Tạo việc làm và đào tạo nhân công: Vì một trong những mục đích của FDI là
khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ
phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế
của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà
trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước tiếp nhận FDI, sẽ được doanh
nghiệp cung cấp. Điều này góp phần tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước
tiếp nhận FDI.
- Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Đối với nhiều nước đang phát triển,

hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng.
2. Khái quát xu hướng FDI trên thế giới
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã có tác động sâu sắc
đến các dòng vốn trên thế giới, trong đó có FDI. Tiếp theo đà suy giảm của năm 2008,
các dòng vốn trên thế giới giảm mạnh trong năm 2009. Nguyên nhân chính của sự
giảm sút FDI là do các hoạt động đầu tư mới cũng như sát nhập và mua lại đều giảm.
Hiện tượng nhiều công ty rút vốn đầu tư cũng góp phần khiến cho tổng FDI toàn cầu
giảm mạnh. Về chủ thể đầu tư và nhận đầu tư, các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt nhóm
BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) là những địa điểm hấp dẫn, song FDI vào
các ngành theo định hướng xuất khẩu của các quốc gia này giảm do cầu của các nước
phát triển sụt giảm mạnh. Có một xu hướng đáng lưu ý đã hình thành là việc các nước
mới nổi đang ngày càng đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài.
Trong khi đó, nhiều quốc gia gặp khó khăn trong nỗ lực trả nợ. Mỹ, Nhật Bản và
hầu hết các nước phát triển đều là những “nhà nước - con nợ” khổng lồ với chỉ số tín
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
8

nhiệm không ổn định, thậm chí có nguy cơ tụt hạng. Theo Tạp chí BusinessWeek số
tháng 1/2010, năm 2009 tỷ lệ nợ công/GDP của Nhật Bản là 227%, Mỹ 93,6%, Bồ
Đào Nha 84,6%, Đức 84,5%, Pháp 82,6%, Tây Ban Nha 54%… Do vậy, cộng đồng
quốc tế đang và có thể phải tung ra các khoản cứu trợ lớn để giúp các nước - con nợ
(có thể tới 90-150 tỷ Euro cho Hy Lạp, 40 tỷ Euro cho Bồ Đào Nha và 350 tỷ Euro
cho Tây Ban Nha). Có thể nói, quả bom nợ nần đang treo lơ lửng, có nguy cơ gây
những bất ổn khó lường và trở thành vũ khí gây áp lực chính sách mới đối với nhiều
quốc gia và cả nền kinh tế thế giới…
Theo đánh giá của UNCTAD, khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tồi tệ
đến kế hoạch năm 2009 của các công ty đa quốc gia - một nhân tố quan trọng trong
FDI toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã khiến FDI của các công ty này giảm 2/3 lượng
vốn đầu tư trong năm 2009, do tín dụng bị siết chặt và lợi nhuận giảm. Tính chung cả

năm 2009, FDI toàn cầu đã thu hẹp gần 30%. Tuy nhiên UNCTAD dự báo FDI sẽ
phục hồi chậm vào năm 2010, sau đó sẽ tăng mạnh vào năm 2011, do các công ty đa
quốc gia sẽ bắt đầu đầu tư trở lại. Các ngành công nghiệp có tác động đến chu kỳ kinh
doanh và đang hoạt động tại các thị trường có lượng tiêu thụ ổn định, chẳng hạn như
nông nghiệp, có thể trở thành động lực cho đợt bùng nổ FDI tiếp theo.
Bảng 1. Luồng vồn FDI toàn cầu
Năm Lượng vốn FDI
2009 1.200 tỷ USD
2010 (Dự báo) 1.400 tỷ USD
2011 (Dự báo) 1.800 tỷ USD
Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2009.
Có nhiều nghiên cứu đánh giá cho rằng, năm 2010, dòng FDI thế giới có xu
hướng phục hồi, nhưng có sự chuyển dịch mới về cơ cấu, tăng cường đổ vào các quốc
gia mới nổi và củng cố hơn vai trò động lực chủ đạo của các nước này thúc đẩy kinh
tế thế giới phục hồi. Tuy nhiên, dự báo dòng vốn này sẽ tăng trưởng chậm theo sự
phục hồi kinh tế toàn cầu, với mức bình quân 2,5% GDP toàn cầu trong giai đoạn
2010 – 2014. Thậm chí, đến năm 2014, dòng FDI toàn cầu sẽ vẫn thấp hơn so với
mức đỉnh điểm của năm 2007.
Bối cảnh mới và các xu hướng mới nói trên đang đặt ra yêu cầu về các chính
sách mới ở cả cấp quốc gia và quốc tế. Theo đó, yêu cầu hàng đầu vẫn là cải thiện
môi trường đầu tư theo hướng thuận lợi hơn và thực hiện các biện pháp nhằm bảo
đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, các tổ chức cũng như các chính phủ cần có
những đột phá trong cải cách khu vực tài chính – ngân hàng nhằm tăng trách nhiệm
và hiệu quả của các định chế tài chính, giảm nguy cơ bất ổn định trong tương lai và
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
9

làm cho khu vực này linh hoạt hơn, quản lý tốt hơn dòng vốn đang tái xuất hiện. Đồng
thời, các yêu cầu và cơ chế về sự phối hợp điều hành kinh tế đa phương trở nên phổ
biến và linh hoạt hơn, tầm ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế phi chính phủ sẽ được

mở rộng hơn…

B. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN FDI TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng FDI tại Việt Nam
1.1. Tình hình vốn FDI đăng ký và thực hiện
Trong hơn 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước,
FDI đã có những đóng góp đáng kể. Hiện nay, đất nước đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì nguồn vốn FDI tiếp tục đóng vai trò rất quan
trọng.
Chính sách thu hút FDI tại Việt Nam đã được thực hiện ngay từ khi Việt Nam
tiến hành cải cách kinh tế và được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật. Xu hướng
thay đổi chủ đạo trong chính sách FDI chung là ngày càng nới rộng quyền, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và thu hẹp sự khác biệt giữa đầu tư
nước ngoài và đầu tư trong nước. Những thay đổi này thể hiện nỗ lực của Chính phủ
trong việc cải thiện, tạo môi trường đầu tư theo xu hướng hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Những thay đổi này xuất phát từ ba yếu tố chính: (1) thay đổi về nhận thức và
quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực có vốn FDI; (2) thay đổi trong
chính sách thu hút FDI của các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo nên áp lực
cạnh tranh đối với dòng vốn FDI vào Việt Nam; và (3) những cam kết quốc tế của
Việt Nam về đầu tư nước ngoài.
Theo định hướng chính sách, Việt Nam tập trung thu hút FDI vào những ngành
và lĩnh vực có thể tận dụng được lợi thế của các công ty đa quốc gia, bao gồm các
ngành công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật
liệu mới, viễn thông ; các ngành mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da
giầy, công nghiệp chế biến…; những ngành có khả năng sinh lợi cao như du lịch, tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và một số ngành dịch vụ khác,… để tạo thêm nhiều công
ăn việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước mở cửa thị trường,
thực hiện đúng lộ trình mở cửa theo cam kết hội nhập WTO (Bảng 2).
Bảng 2. Danh mục các ngành ưu tiên thu hút FDI và các công ty đa quốc gia
mục tiêu

Ngành mục tiêu Các công ty đa quốc gia mục tiêu
Công nghệ thông tin Mỹ, Nhật Bản, EU, Singapore, Ấn Độ
Điện tử Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
10

Hoá chất Mỹ, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc
Dầu khí Mỹ, EU, Nga
Chế biến thực phẩm Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc
Dệt may, Da giầy Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore
Xây dựng hạ tầng KCN Nhật Bản, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc
Tài chính, ngân hàng EU, Mỹ, Trung Quốc
Bảo hiểm EU, Mỹ, Trung Quốc
Nguồn: Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006).
Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam là nước có môi trường
chính trị, kinh tế, xã hội ổn định, hơn nữa các Bộ, ngành và địa phương đều rất tích
cực trong việc thu hút FDI và có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành. Điều này đã
góp phần biến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2009, ước tính Việt
Nam đã thu hút được hơn 190 tỷ USD vốn FDI đăng ký, với số vốn thực hiện trong
giai đoạn 1988 – 2009 đạt gần 67 tỷ USD, bằng 34,72% lượng vốn đăng ký. Bảng 3
và Hình 1 dưới đây cho thấy thực tế và xu hướng biến động vốn FDI trong giai đoạn
2001-2009.
Bảng 3. Lượng vốn FDI đăng ký và thực hiện giai đoạn 2001 – 2009
Năm Số dự án
Vốn đăng ký
(Triệu USD)
Vốn thực hiện
(Triệu USD)
Tỷ lệ vốn thực hiện/

vốn đăng ký
2001 555 3142,8 2450,5 0,78
2002 808 2998,8 2591,0 0,86
2003 791 3191,2 2650,0 0,83
2004 811 4547,6 2852,5 0,63
2005 970 6839,8 3308,8 0,48
2006 987 12004,0 4100,1 0,34
2007 1544 21347,8 8030,0 0,38
2008 1557 717260 11500,0 0,16
2009 839 21482,1 10000,0 0,47
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Hình 1: Xu hướng phát triển FDI giai đoạn 2001 – 2009 ở Việt Nam
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
11

0.0
10000.0
20000.0
30000.0
40000.0
50000.0
60000.0
70000.0
80000.0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
N
ă
m
Tri


u USD
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
S

d

án
T

ng s

v

n
đă
ng ký T

ng s

v


n th

c hi

n S

d

án

Nguồn: Tính toán theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1.2. Những tác động của FDI tới sự phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam
Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung đáng kể vào tổng đầu tư xã hội và góp
phần cải thiện cán cân thanh toán. Các nghiên cứu gần đây đều có chung nhận định
rằng, FDI đã đóng góp phần quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng cao, góp
phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ nhiều ngành kinh tế, khai
thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là gia tăng kim ngạch xuất khẩu), đóng góp cho
ngân sách nhà nước và tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho một bộ phận lao động.
Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ, tạo ra sức ép buộc các
doanh nghiệp trong nước phải tự động đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Các dự án FDI có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản
lý và trình độ của người lao động, tạo ra kênh truyền tác động tích cực hữu hiệu.
1.2.1. FDI trong tổng đầu tư xã hội và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
Trong những năm qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đồng thời có đóng góp cho GDP gia tăng liên tục. Trong
những năm gần đây, vốn FDI chiếm gần 20% vốn đầu tư toàn xã hội và đóng góp
khoảng 30% vào tăng trưởng GDP hàng năm (Hình 2).
Hình 2. FDI thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội và đóng góp của

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
12

13.76 13.76
14.47
15.13
15.99
16.98
17.96
18.68
18.33
17.60
17.38
16.01
14.21
14.89
16.21
24.32
31.49
25.73
-
2.00
4.00
6.00
8.00
10.00
12.00
14.00
16.00

18.00
20.00
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
%
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
%
% so với tổng vốn đầu tư xã hội % đóng góp trong GDP

Nguồn: Dựa trên số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu tư.
Không chỉ đóng góp nhiều cho GDP, khu vực FDI đã luôn luôn dẫn đầu về tốc
độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng
động nhất.
1.2.2. FDI nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu
Phần lớn vốn FDI chảy vào lĩnh vực công nghiệp, chiếm tới 2/3 tổng vốn FDI
vào Việt Nam. Các dự án FDI hầu hết là đầu tư mới đã thu hút lượng lao động lớn,
cộng với năng suất lao động của khu vực này cao hơn khu vực khác nên giá trị sản
xuất công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn công nghiệp chung của cả nước, góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các
doanh nghiệp FDI đã tạo ra một số ngành công nghiệp mới và đưa năng lực sản xuất
tăng lên như dầu khí, viễn thông, hoá chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia
dụng, dệt may, da giày, thực phẩm Hiện các doanh nghiệp FDI chiếm 100% dầu
thô, sản xuất ôtô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% sản lượng thép
cán; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác;

55% sản lượng sợi; 49% da giày; 25% thực phẩm đồ uống,
Trong những năm gần đây, FDI đổ vào các lĩnh vực dịch vụ ngày càng tăng,
đáng chú ý là những dịch vụ có giá trị gia tăng cao như: du lịch, tài chính – ngân
hàng, bảo hiểm, tư vấn… Điều này góp phần cải thiện chất lượng, nâng cao sức cạnh
tranh của các ngành dịch vụ, đặc biệt có thể hình thành các dịch vụ mũi nhọn, có khả
năng cạnh tranh tầm quốc tế.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
13

FDI đã góp phần quan trọng trong việc Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế,
vượt qua được những khó khăn về thị trường do những biến động ở Đông Âu và Liên
Xô trước đây gây ra, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ song phương,
đa phương, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,… qua đó nâng cao năng lực xuất khẩu.
Cùng với tốc độ tăng trưởng trong tổng kim ngạch xuất khấu Việt Nam (ước đạt trung
bình 21% mỗi năm) thì các doanh nghiệp FDI đóng góp trung bình 51,25% trong tổng
kim ngạch này
2
. Xu hướng này tăng dần qua các năm, nếu các doanh nghiệp FDI chỉ
chiếm 4,6 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu (11,54 tỷ USD) trong năm 1999,
thì sau 4 năm (năm 2003) con số này đã tăng gấp đôi đạt 10,2 tỷ USD và 3 năm sau
đó (năm 2006) đạt gần 23 tỷ USD (gấp đôi năm 2003), và đạt mức 35 tỷ USD trong
năm 2008.
1.2.3. FDI tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Tác động xã hội quan trọng nhất của FDI là tạo việc làm, tạo thu nhập, tăng
năng suất lao động và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Đến nay, các doanh nghệp
FDI đã thu hút được khoảng 1,7 triệu lao động trực tiếp. Tính bình quân, thu nhập và
năng suất lao động của người lao động trong khu vực FDI cao hơn so với các khu vực
doanh nghiệp trong nước. Nhiều dự án FDI ở Việt Nam tập trung vào những ngành sử
dụng nhiều vốn và lao động có trình độ cao. Điều này lý giải mức thu nhập trung bình

của lao động khu vực này cao gấp hai lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận công nghệ hiện đại, kỷ luật lao động tốt, học
hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Hàng vạn cán bộ quản lý và kỹ thuật
người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp FDI đã được nâng cao kỹ năng và
tay nghề. Một bộ phận chuyên gia Việt Nam đã có thể thay thế dần các chuyên gia
nước ngoài trong việc đảm nhận chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển quy
trình công nghệ hiện đại. Bên cạnh số việc làm trực tiếp, khu vực FDI còn gián tiếp tạo
thêm hàng triệu việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và trong các ngành công nghiệp phụ trợ
trong nước.
1.2.4. FDI đối với nguồn thu ngân sách nhà nước và các cân đối vĩ mô
Khu vực FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của nhà nước.
Thời kỳ 1996 – 2000, không kể thu từ dầu thô, khu vực doanh nghiệp FDI đã nộp
ngân sách 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần so với thời kỳ 5 năm trước đó; trong 5 năm 2001
– 2005 đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm; con số này của 2 năm 2006 và
2007 là trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996 – 2000 và bằng 83% thời kỳ 2001 –
2005; riêng năm 2008 đạt 2 tỷ USD, tăng 25,8% so năm 2007.

2
Tính cả dầu khí.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
14

Hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã tác động tích cực đến các cân đối lớn
của nền kinh tế như: đóng góp vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, giảm thiểu
thâm hụt thương mại qua đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần cải thiện cán cân thanh toán
nói chung. Khu vực FDI cung cấp lượng hàng hóa và dịch vụ lớn ra thị trường, đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô
Do dòng vốn FDI tập trung đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh như
các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu, khai thác tài nguyên,

chế biến nông, lâm, hải sản, kinh doanh bất động sản nên Nhà nước có điều kiện
dành nhiều hơn vốn ngân sách đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội ở các lĩnh vưc nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ lợi, giao thông vận tải, giáo
dục, chăm sóc sức khoẻ, khoa học và công nghệ, văn hoá, thể dục, thể thao Nhà
nước hỗ trợ cao hơn cho vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, đồng bào nghèo. Nhờ đó, đầu tư từ ngân sách có điều kiện phát huy được tác
dụng bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện
phát triển bền vững và tạo thêm xung lực để thu hút FDI.
1.2.5. Những tác động tích cực gián tiếp khác
Hoạt động của khu vực FDI tạo ra tác động lan tỏa tích cực đối với các doanh
nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân ở các vùng kém phát triển và ít có
FDI xuất hiện qua kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh
3
. Thông qua đó đã tạo
việc làm cho hàng triệu lao động gián tiếp, tập trung vào các lĩnh vực xây dựng cơ
bản, cung cấp nguyên liệu, bán thành phẩm và cung ứng dịch vụ.
Việc quản lý, điều hành hoạt động của các doanh nghiệp FDI giúp chúng ta có
thêm kinh nghiệm thực tiễn để tiếp tục hình thành các yếu tố của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hiện diện của các doanh nghiệp FDI đã góp
phần ghi nhận các quyền cơ bản của nền kinh tế thị trường: quyền tự do kinh doanh;
quyền tự chủ, tự quyết các công việc của mình; quyền được bình đẳng trước pháp luật
khi gia nhập thị trường
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp và nền kinh tế có
thêm cơ hội tham gia mạng lưới toàn cầu, tạo thuận lợi hơn cho việc đẩy mạnh xuất
khẩu.
2. Một số hạn chế và các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút và sử dụng vốn
FDI ở Việt Nam

3
Lê Xuân Bá, Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nhà

xuất bản khoa học kỹ thuật, Hà Nội, năm 2006.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
15

2.1. Một số hạn chế trong thu hút và sử dụng vốn FDI
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu và góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, nhưng đi sâu vào phân tích thực trạng thu hút và sử dụng FDI ở Việt
Nam có thể thấy còn nhiều vấn đề cần xem xét và điều chỉnh.
2.1.1. Hiệu quả của vốn FDI còn thấp, chuyển giao công nghệ chậm chạp,
chuyển giá ra ngoài, khu vực FDI chưa tạo ra được tác động lan tỏa tới các khu vực
kinh tế khác như mong muốn
Từ khi FDI vào Việt Nam, khối doanh nghiệp FDI được kỳ vọng sẽ là lực lượng
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo vốn và kích thích chuyển giao và
đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, trên thực tế, trong giai đoạn 1999-2009, đặc biệt là
trong 3 năm gần đây, khu vực FDI bị coi là khu vực có hiệu quả kém, với nhiều doanh
nghiệp bị thua lỗ, hoặc các doanh nghiệp khác thì thực chất chỉ là một phân xưởng gia
công của công ty mẹ ở nước ngoài. Có thể đánh giá hiệu quả FDI căn cứ vào hai chỉ
số: Tỷ số gia tăng vốn và đầu vào (ICOR) và Hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP).
Nghiên cứu của chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho thấy, trong 10 năm 1999 –
2009, ICOR của khu vực nhà nước là 7,76; khu vực tư nhân là 3,54; khu vực FDI là
7,91. Nhìn ra thế giới, ICOR trung bình của nhóm tăng trưởng cao chỉ là 3,6. Như
vậy, có thể thấy, khối doanh nghiệp FDI có chỉ số cao nhất và điều đó chứng tỏ hiệu
quả trong khu vực này là thấp nhất.
Về việc chuyển giao công nghệ, TFP của các khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân
và doanh nghiệp FDI lần lượt là: 8,6; 3,1 và -17,6. Theo nghiên cứu này, TFP của khối
doanh nghiệp nhà nước cao nhất, cho thấy rằng mặc dù vốn đầu tư rót vào khu vực này
nhiều (đầu tư không hiệu quả) nhưng sự chuyển giao công nghệ là có thật. Trong khi ở
khối FDI thì chỉ số này lại âm (-17,6), cho thấy sự tăng trưởng chủ yếu nhờ vào các yếu
tố khác, thí dụ lao động rẻ, chứ không phải do công nghệ. Trên thực tế, khảo sát ở

nhiều doanh nghiệp FDI cho thấy máy móc, công nghệ được đối tác nhập vào Việt
Nam đều cũ kỹ hoặc đã khấu hao hết. Thực tế này khiến nhiều người lo ngại Việt nam
có thể bị biến thành “bãi rác” công nghệ. Điều đáng nói là Việt Nam không có chính
sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc… Vì vậy, sau gần
20 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia kinh
tế cho rằng có lẽ Việt Nam vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô.
Khu vực FDI chưa tạo ra được tác động lan tỏa lớn trong nền kinh tế. Khu vực
FDI và khu vực kinh tế nội địa liên kết với nhau rất lỏng lẻo. Bằng chứng rõ ràng là
công nghiệp phụ trợ của Việt Nam rất yếu, trong nhiều lĩnh vực để có thể xuất khẩu
được thì cần phải nhập khẩu tới 70-80% nguyên vật liệu từ nước ngoài. Rõ ràng, điều
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
16

này một mặt hạn chế tác dụng lan tỏa tích cực của FDI đối với các doanh nghiệp trong
nước, mặt khác tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Kênh chuyển giao
và phổ biến công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước cũng
không có hoặc ít diễn ra. Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa có được nhiều dự án có chất
lượng cao về công nghệ, về quy mô kinh tế, về tính bền vững, về năng lực cạnh tranh
quốc tế và khả năng kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu để tạo nên năng lực và lợi
thế cạnh tranh mới cho nền kinh tế.
Ngoài xu hướng khai thác lợi thế, khai thác những ưu đãi, hơn là chuyển giao
công nghệ, thì đa số các liên doanh ở Việt Nam hiện nay là liên doanh giữa nhà đầu
tư nước ngoài với doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Ngay cả trong mấy năm gần đây,
khi người nước ngoài được mua cổ phần ở các doanh nghiệp trong nước, mối quan
tâm lớn nhất của họ vẫn là mua cổ phần của các DNNN được cổ phần hóa của Việt
Nam. Đây được cho là điều “rất không bình thường” so với FDI ở phần lớn các nước
khác trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta lại dễ hiểu, bởi sự ưu đãi cao dành cho
DNNN. Các nhà đầu tư nước ngoài vì thế đã lựa chọn hình thức này để tận dụng
những ưu đãi mà DNNN được hưởng, đặc biệt là quyền tiếp cận với các nguồn lực,
quyền kinh doanh, sự bảo hộ của Nhà nước.

Hậu quả là tác động lan tỏa của FDI đối với sự phát triển doanh nghiệp ở Việt
Nam, nhất là về chuyển giao công nghệ và tạo mạng lưới liên kết, còn khá hạn chế so
với ở nhiều nước khác. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, có thể do chính sách thu hút
FDI của chúng ta chưa thật hướng trọng tâm vào những nền kinh tế tiên tiến nhất,
những công ty hàng đầu trong các lĩnh vực cần quan tâm, mà còn dàn trải, nặng về nỗ
lực thu hút tối đa số lượng dự án và số vốn cam kết từ mọi nguồn. Cũng có thể do
năng lực của chúng ta còn hạn chế, từ việc hiểu và biết cách chơi với các nhà đầu tư
lớn, đến khả năng chọn lựa, thẩm định các đối tác FDI, nhất là ở cấp địa phương.
Một vấn đề đã được nói đến từ lâu là thủ thuật “chuyển giá” của doanh nghiệp
FDI. Theo số liệu công bố mới đây của Cục Thuế Thành phố Hồ Chí Minh, trong số
1.254 doanh nghiệp có vốn FDI nộp hồ sơ báo cáo thuế năm 2008, có đến 708 doanh
nghiệp báo lỗ, trong đó có đến gần 90% hoạt động trong lĩnh vực may mặc. Đây rõ
ràng là điều vô lý và không bình thường khi hầu hết doanh nghiệp may mặc Việt
Nam, dù phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu của nước ngoài, đều làm ăn có lãi.
Các doanh nghiệp FDI luôn có lợi thế hơn hẳn so với các doanh nghiệp trong nước
khi có các công ty mẹ ở chính quốc sản xuất nguyên phụ liệu. Họ sẵn sàng cung cấp
nguyên phụ liệu cho các công ty con ở nước ngoài sản xuất. Vậy vì sao các doanh
nghiệp này bị lỗ?
Tại Việt Nam có không ít doanh nghiệp FDI tận dụng yếu tố lao động rẻ để đầu
tư vào các ngành công nghiệp gia công với công nghệ không cao, thậm chí với máy
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
17

móc lạc hậu, để tạo ưu thế về chi phí sản xuất hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp này
không chỉ thu lãi trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, mà còn tạo điều kiện cho các công
ty ở chính quốc tăng lợi nhuận khi tính cao giá công thiết kế, bản quyền, hậu cần hay
tư vấn Phía đối tác thực hiện chiến lược chuyển giá bằng hình thức tăng giá đầu
vào, giảm giá đầu ra, gây thiệt hại không nhỏ cho các phía đối tác Việt Nam. Cuối
cùng, lợi nhuận thực đã “chảy” ra nước ngoài.
Một điểm đáng lưu ý nữa là tại Việt Nam đã xuất hiện nguy cơ rửa tiền dưới

hình thức FDI. Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế
chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách
hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền
không chính thức còn cao. Việt Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được
đánh giá là nền kinh tế có độ mở lớn, việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào, ra đã
tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có
thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có
thể tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
nhưng thực chất không phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất
hợp pháp.
2.1.2. Những bất cập trong cấu trúc vốn FDI
Cấu trúc FDI chưa như mong muốn. FDI tập trung nhiều nhất trong những
ngành, lĩnh vực mà chúng ta thực sự mở cửa, ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ.
Trong khi đó, một số lĩnh vực khác dù được quan tâm kêu gọi FDI nhưng chưa thu
hút được nhiều dự án, do chính sách chưa đủ hấp dẫn, chưa thực sự cởi mở hoặc chưa
tạo được niềm tin về năng lực tiếp nhận (như nông nghiệp, kết cấu hạ tầng, công nghệ
cao…). Một lý do có thể được viện dẫn là đường hướng công nghiệp hóa chưa đủ
mạch lạc, hợp lý, còn mang tính “lưỡng thể”, lại thực hiện một cách dàn trải, thiếu
trọng tâm, chưa dành nguồn lực đối ứng đủ để lôi cuốn các nhà đầu tư tham gia vào
những lĩnh vực mong muốn. Những bất cập trong cấu trúc vốn FDI thể hiện ở một số
điểm chính sau đây:
(1) Về cấu trúc vốn FDI theo vùng:
Địa hình lãnh thổ Việt Nam được chia thành nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, với
những đặc trưng và lợi thế riêng. Để có thể phát huy thế mạnh của từng vùng, Chính
phủ đã có những định hướng phát triển cho từng vùng dựa trên đặc điểm của từng
vùng, cùng với các chính sách, biện pháp nhằm mở rộng, phát huy những thế mạnh
của từng địa bàn có nhiều lợi thế, phát huy vai trò các vùng động lực, các khu chế
xuất, khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế mở. Trong những năm vừa qua, Việt
Nam khuyến khích phát triển hợp tác trong khu công nghiệp và dịch vụ tại các địa
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu

18

phương có nhiều lợi thế như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Hải Phòng, Đồng thời cũng có nhiều ưu đãi khi đầu tư vào những địa bàn có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như: Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Bắc Cạn, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị…
Cho đến nay FDI đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Tuy nhiên, cơ
cấu dự án FDI theo vùng thay đổi khá chậm và bộc lộ nhiều bất cập. Cơ cấu đầu tư
còn mất cân đối và phân bổ không đồng đều. Phần lớn các dự án FDI tập trung ở các
trung tâm kinh tế, nơi có điều kiện hạ tầng thuận lợi, nguồn lao động dồi dào, có trình
độ, và nhiều lợi thế khác. Hiện nay, FDI tập trung nhiều ở vùng kinh tế trọng điểm
Đông Nam Bộ (chiếm tới 44,2% lượng vốn FDI của cả nước), tiếp đến là vùng Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (chiếm 34,4%), vùng Đồng bằng sông Hồng
(chiếm 15,5%) (Hình 3).
Hình 3. Cơ cấu FDI theo vùng kinh tế
15.05
1.53
34.04
0.33
44.20
4.86
Đồng Bằng Sông Hồng Trung Du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung Tây Nguyên
Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Cửu Long

Nguồn: Dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê.
Mặc dù một vài năm gần đây các tỉnh miền Bắc và Trung bộ đã có nhiều nỗ lực
và thu hút được lượng vốn FDI khá hơn, tuy nhiên, kết quả đạt được chưa như mong
muốn. Một số vùng thu hút được lượng vốn FDI rất thấp, đáng chú ý là: Trung du và
miền núi phía Bắc (chiếm 1,53% tổng lượng vốn FDI); Tây Nguyên (chiếm 0,33%);

Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 4,86%). Đây đều là những vùng có rất ít dự án FDI
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
19

mặc dù Chính phủ đã dành cho những vùng này nhiều ưu tiên, và bản thân các địa
phương rất quan tâm đến việc xúc tiến đầu tư.
Để thấy rõ hơn sự mất cân đối về cấu trúc FDI theo địa bàn, chúng ta xem xét sự
chênh lệch về vốn FDI giữa 5 địa phương thu hút nhiều nhất và 5 địa phương thu hút
ít nhất. Tính đến cuối năm 2009, 5 địa phương thu hút FDI nhiều nhất gồm Thành phố
Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình dương có tổng cộng
7.969 dự án với tổng số vốn đăng ký hơn 100 tỷ USD, chiếm hơn 50% lượng vốn
đăng ký của cả nước. Trong khi đó, 5 địa phương thu hút FDI ít nhất gồm Đắc Nông,
Hà Giang, Cà Mau, Lai Châu và Điện Biên chỉ thu hút được tổng cộng 20 dự án với
số vốn đăng ký vẻn vẹn 35,14 triệu USD. Như vậy 5 địa phương đầu gấp 5 địa
phương sau hơn 380 lần về số dự án và gấp gần 2.850 lần về vốn (Bảng 4).
Bảng 4. 5 địa phương thu hút FDI nhiều nhất và 5 địa phương thu hút
FDI ít nhất, tính đến 15/12/2009
TT

Địa phương Số dự án
Tổng vốn đầu tư
đăng ký (triệu USD)
5 địa phương thu hút nhiều FDI nhất
1 TP. Hồ Chí Minh 3.140 27.214,86
2 Bà Rịa-Vũng Tàu 211 23.641,92
3 Hà Nội 1.644 19.473,33
4 Đồng Nai 1.028 16.339,13
5 Bình Dương 1.946 13.394,13
Tổng 7.969 100.063,37
5 địa phương thu hút ít FDI nhất

1 Đắc Nông 5 15,50
2 Hà Giang 6 8,51
3 Cà Mau 5 7,00
4 Lai Châu 3 4,00
5 Điện Biên 1 0,13
Tổng 20 35,14
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Sự mất cân đối về thu hút và sử dụng FDI giữa các vùng và địa phương được
xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển không cân đối về
kinh tế - xã hội giữa các vùng và địa phương trong cả nước, đồng thời làm cho
khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng ngày một tăng lên. Có những nơi chúng ta
tuyên bố dành ưu tiên cao nhất nhưng FDI vẫn chưa sẵn sàng vào, nhiều khu công
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
20

nghiệp được mở ra ở các tỉnh trên khắp mọi miền đất nước nhưng tỷ lệ khai thác rất
thấp, trong khi có một số nơi lại quá tải, một số quy hoạch phát triển bị đảo lộn do có
quá nhiều cam kết FDI.
(2) Về cấu trúc vốn FDI theo ngành, lĩnh vực:
Cơ cấu đầu tư theo ngành chưa hợp lý, về cơ bản chưa kéo được FDI vào những
lĩnh vực cần phát triển ưu tiên như hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ cao,
nhằm tạo ra cơ sở phát triển bền vững và tăng khả năng đón đầu phát triển. Việt Nam
chưa có được những dự án có chất lượng cao về quy mô kinh tế, về tính bền vững, về
năng lực cạnh tranh quốc tế và khả năng kết nối với các chuỗi giá trị toàn cầu để tạo
nên năng lực và lợi thế cạnh tranh mới cho nền kinh tế. Sự mất cân đối giữa các
ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế được thể hiện ở chỗ FDI thường tập trung vào
những ngành có khả năng sinh lợi cao và sinh lợi ngay như khai thác tài nguyên thiên
nhiên, khoáng sản, dầu khí, những ngành khai thác được nguồn nhân lực giá rẻ, tận
dụng được vị trí địa lý và thị trường nội địa, khai thác những lợi thế so sánh vốn có
của Việt Nam. Những năm gần đây, ngày càng nhiều vốn FDI đổ vào một số ngành

dịch vụ có khả năng sinh lợi cao như dịch vụ du lịch, bất động sản
4
… Trong khi
những ngành như nông nghiệp, các dịch vụ như giáo dục và đào tạo, y tế lại thu hút
được rất ít vốn FDI (Hình 4). Điều này góp phần dẫn tới sự mất cân đối giữa các
ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế.

4
Năm 2009, Việt Nam thu hút được 21,482 tỷ USD vốn FDI, trong đó: lĩnh vực lưu trú và ăn uống
vẫn dẫn đầu với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm; lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ
hai với 7,6 tỷ USD. Riêng lĩnh vực bất động sản chiếm hơn 35% vốn, cao hơn mức 30% của năm
2008 và 12% của năm 2007.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
21

Hình 4. Cơ cấu FDI phân theo ngành kinh tế giai đoạn 2000 - 2009
52.37
4.23
9.64
3.92
25.26
2.29
1.60
0.69
Nông nghiệp, lâm nghiệp và Thủy sản
Công nghiệp, năng lượng
Xây dựng
Khách sạn và nhà hàng
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
Tài chính, tín dụng và các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản, dịch vụ tư vấn

Y tế, Giáo dục và đào tạo
Hoạt động khác

Nguồn: Dựa trên số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Điều đáng lưu ý là dù FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp, đóng góp tới
hơn 35% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước, nhưng đến nay hầu hết các
ngành công nghiệp của chúng ta vẫn chỉ ở trình độ công nghệ khiêm tốn, tạo được ít giá
trị gia tăng, năng lực cạnh tranh hạn chế, và ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị khu vực và
toàn cầu. Trong khi đó, nông nghiệp là thế mạnh của nước ta, lại là ngành thu hút FDI
không đáng kể, và khu vực FDI cũng không tạo ra được tác động tích cực trong việc
thúc đẩy sự phát triển của ngành này. Nguyên nhân chính là do đặc điểm của sản xuất
nông nghiệp là nhiều rủi ro, lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm nên các nhà đầu tư ít quan
tâm. Vì vậy, khu vực nông nghiệp – nông thôn hiện tại cũng như những năm tới trông
chờ chủ yếu vẫn là vốn ngân sách nhà nước.
(3) Về cấu trúc FDI theo hình thức đầu tư:
Nếu như trong những năm đầu, đa số doanh nghiệp FDI chọn phương thức liên
doanh với doanh nghiệp trong nước giống như ở nhiều nước trên thế giới, thì càng
những năm sau, phương thức lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng trở
nên phổ biến hơn, kể cả nhiều doanh nghiệp liên doanh cũng được nhà đầu tư nước
ngoài mua nốt phần vốn góp của phía Việt Nam để trở thành 100% vốn nước ngoài.
Trước năm 2000, các doanh nghiệp liên doanh chiếm tỷ trọng 60-70% số dự án FDI,
thì kể từ đó đến nay, các doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng trên
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
22

70%. Đây là một hiện tượng bất thường bởi sức lan tỏa của FDI không thể dựa chủ
yếu vào doanh nghiệp 100% vốn ngoại. Cho đến nay, hầu như chưa có một nghiên
cứu toàn diện nào từ các cơ quan quản lý nhà nước về xu hướng phát triển này đã đặt
ra vấn đề gì cho đất nước, nhất là tác động lan tỏa của FDI đối với các doanh nghiệp
trong nước.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, trong số hơn 500.000 doanh nghiệp
dân doanh trong nước ở Việt Nam hiện nay có nhiều doanh nghiệp có thể đảm đương
được những dự án mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài đang thực hiện. Thực tế này đặt
ra yêu cầu Chính phủ cần có những định hướng về lĩnh vực, ngành nghề, dự án cần
được liên doanh giữa nhà đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở
đảm bảo rằng, việc khuyến khích FDI không gây trở ngại đối với chủ trương hình
thành “doanh nghiệp dân tộc” ngày càng lớn mạnh, đủ sức làm chủ thị trường trong
nước và từng bước có chỗ đứng vững chắc trên thị trường khu vực và thế giới.
(4) Về cấu trúc vốn FDI theo nước đầu tư:
Hiện nay, đã có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Tuy
nhiên, phần lớn FDI đến từ các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là
Đài Loan, Malaixia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…, chiếm khoảng 70% tổng
lượng vốn FDI. Phần lớn nhà đầu tư là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với trình độ khoa
học công nghệ ở mức trung bình trên thế giới. Luồng vốn đầu tư từ các nước có trình
độ phát triển cao, thị trường lớn, công nghệ nguồn, cũng như trình độ quản lý hiện
đại như các quốc gia thuộc EU còn khá hạn chế. Có thể nói, hầu như chưa có thay
đổi đáng kể về cơ cấu FDI theo nước đầu tư trong thời gian qua, ngoại trừ việc FDI từ
Mỹ đã tăng lên đáng kể trong một vài năm trở lại đây, đưa Mỹ trở thành một trong
những nước đầu tư lớn vào Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2009, trong số 10 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào
Việt Nam chỉ có Mỹ và Nhật Bản là các nước phát triển, trong khi đó một số đối tác
phát triển khác như Pháp, Vương quốc Anh, Đức, Italia thì lượng vốn còn tương đối
hạn chế (Bảng 5).
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
23

Bảng 5. FDI vào Việt Nam phân theo đối tác đầu tư, tính đến 15/12/2009
Thứ
hạng


Đối tác đầu tư
Số dự án
(còn hiệu lực)
Tổng vốn FDI đăng ký
(triệu USD)
1 Đài Loan 2.023 21.344.405,81
2 Hàn Quốc 2.327 20.572.892,32
3 Malaysia 341 18.064.514,60
4 Nhật Bản 1.160 17.816.524,08
5 Singapore 776 17.003.489,91
6 Mỹ 495 14.539.123,31
7 Quần đảo Virgin (Anh) 453 13.194.840,65
8 Hồng Kông 564 7.718.774,72
9 Quần đảo Cayman 44 6.630.072,85
10 Thái Lan 220 5.773.990,71
11 Canađa 93 4.798.138,13
13 Pháp 274 3.040.302,27
18 Vương quốc Anh 120 2.151.477,50
22 CHLB Đức 139 777.611,41
31 Italia 34 162.002,27
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thu hút FDI từ các đối tác là nước phát triển là điều đáng mong muốn, tuy nhiên
những năm qua chúng ta chưa có chiến lược FDI trọng điểm có hiệu quả, với quan
điểm phổ biến là thu hút FDI thiên về mặt lượng, từ bất kỳ đối tác nào, cho nên kết
quả đạt được không như mong muốn.
2.1.3. Tình hình trì hoãn thực hiện dự án và rút vốn đầu tư gia tăng
Trong những năm gần đây, một vấn đề nổi lên rất bức bách là, có nhiều dự án
FDI bị bỏ dở, bị trì hoãn do nhà đầu tư nước ngoài gặp khó khăn về kinh tế. Không
thu xếp được tài chính, nhiều chủ dự án đã có đơn xin rút hoặc tạm dừng đầu tư. Sự
gia tăng quá nhanh các dự án lớn, hay còn gọi là các “siêu dự án”, với cơ cấu đầu tư

không được chọn lọc kỹ lưỡng đã làm phát sinh các hệ quả không mong muốn. Kỷ lục
cao nhất trong thu hút FDI vào nước ta là năm 2008 với trên 64 tỷ USD vốn đăng ký
(cả cấp mới và tăng vốn), trong số đó vốn điều lệ các doanh nghiệp chỉ có 15,429 tỷ
USD, bằng khoảng hơn 20%. Từ đó, có thể thấy muốn thực hiện dự án, các doanh
nghiệp FDI phải liên kết với các doanh nghiệp khác hoặc lệ thuộc phần lớn vào nguồn
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
24

vốn vay mới có thể thực hiện dự án. Những dự án mà nhà đầu tư dựa vào giấy phép
được cấp để gọi vốn đối tác hoặc vay của các tổ chức tài chính nếu không đủ “lực”
thực hiện sẽ làm dự án triển khai không trôi chảy, ì ạch và nếu không triển khai được
sẽ để lại hậu quả rất nặng nề.
Theo WB, có một số bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp FDI đang tận dụng
cơ hội lãi suất thấp và chi phí xây dựng thấp để nhanh chóng thực hiện việc mở rộng
dự án. Các doanh nghiệp chủ yếu vay tiền từ các ngân hàng Việt Nam, hơn là phụ
thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài. Trong trường hợp không vay được vốn từ các
ngân hàng, nhiều dự án đã bị đình trệ, bị rút giấy phép đầu tư hoặc bản thân nhà đầu
tư nước ngoài rút khỏi dự án, đặc biệt là trong các ngành thép và bất động sản.
5

Hộp 1. Thực chất dự án tỷ đô
Khi nước ta ngày càng thu hút mạnh nguồn vốn FDI và chỉ riêng năm 2008 đạt trên 64
tỷ USD, có nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần có sự chọn lựa kỹ càng hơn về
các dự án đầu tư, nhằm tăng chất lượng và tính bền vững dòng vốn này. Thực tế cho thấy
nhiều dự án FDI có vốn đầu tư hàng tỷ USD đang bộc lộ những điểm yếu, không có lợi cho
nền kinh tế.
Thông tin mới đây cho biết, nhiều khả năng dự án khổng lồ gần 10 tỷ USD đầu tư khu
liên hợp thép Cà Ná tại tỉnh Ninh Thuận sẽ bị rút giấy phép đầu tư. Dự án này chia làm 4
giai đoạn, trong đó, giai đoạn 1 (năm 2008-2010) sẽ xây dựng nhà máy có công suất là 4,5
triệu tấn/năm. Tuy nhiên, kể từ khi động thổ hồi cuối năm 2008 đến nay, dự án vẫn “giậm

chân tại chỗ”.
Còn tại Thái Nguyên, dự án khai khoáng Núi Pháo – một trong những dự án FDI lớn
nhất ở tỉnh này (quy mô 450 triệu USD) được cấp phép cách đây nhiều năm đến nay vẫn
không triển khai được, đang trong quá trình đàm phám chuyển đổi cho nhà đầu tư trong
nước thực hiện.
Năng lực tài chính của nhà đầu tư nước ngoài hạn chế là nguyên nhân việc triển khai
các dự án chậm trễ. Các trường hợp “nhùng nhằng” như trên không phải lần đầu tiên mới
xảy ra. Điển hình nhất về tình cảnh “đầu voi, đuôi chuột” là dự án liên hợp thép Tycoon -
E.United ở Dung Quất, Quảng Ngãi.
Được cấp phép vào tháng 9/2006 với tổng vốn 1,2 tỷ USD, nhưng sau 3 năm, hình hài
dự án chưa thấy đâu, chỉ thấy sự thay đổi như chong chóng của phía các nhà đầu tư.
Một dự án khác ở Bà Rịa - Vũng Tàu có tổng vốn đầu tư lên đến trên 3 tỷ USD, nhưng
ngay từ khi triển khai dư luận đã cho rằng đây là một dự án “xí chỗ”, bởi lẽ tiềm lực tài
chính của chủ đầu tư chỉ có khoảng 100 triệu USD, cùng với “lá bùa” là giấy phép xây dựng
casino, nằm trong tổng thể dự án khách sạn, khu du lịch, nghỉ dưỡng…

5
Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, WB 6/2009.
CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu
25

“Thời gian gần đây các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực BĐS có số vốn đăng ký khá lớn.
Phải hết sức lưu tâm rằng, không phải nhà đầu tư nước ngoài sẽ đem toàn bộ tiền của mình
vào đầu tư. Phổ biến là làm theo kiểu cuốn chiếu “lấy mỡ nó rán nó”. Do đó việc đóng góp
vào mục tiêu cân đối ngoại hối không lớn và loại hàng hóa này cũng không xuất khẩu được,
để mang về ngoại tệ cho đất nước!” - ông Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch
và Đầu tư nhận định.
Hậu quả tất yếu của việc dễ dãi trong tiếp nhận FDI là sẽ có nhiều dự án tỷ đô bị rút
giấy phép. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giải pháp bất đắc dĩ. Các hệ lụy xảy ra cuối cùng
nước ta phải gánh chịu. Có thể thấy mỗi dự án liên hợp thép thường chiếm ít nhất từ 1.000 -

3.000ha đất, chưa kể diện tích cảng biển và các ngành công nghiệp hỗ trợ. Khi dự án kéo
dài thì đồng nghĩa một diện tích đất lớn bị di dời, giải tỏa nhưng không phát huy tác dụng,
gây lãng phí. Những dự án treo như vậy cũng đã làm lỡ mất cơ hội cho các nhà đầu tư khác
đủ năng lực hơn và lỡ cả cơ hội có được lợi nhuận nếu như dự án triển khai đúng tiến độ.
Trong khi đó, hàng ngàn hộ dân đã phải “nhường mặt bằng” cho những dự án này.
Nhìn lại các dự án FDI bị rút giấy phép thời gian qua cho thấy, mặc dù nguyên nhân
cơ bản vẫn là do chủ đầu tư nước ngoài không thu xếp được tài chính, song cũng cần thấy
rằng tình trạng “treo” các dự án trên là hệ quả của việc cấp phép dễ dãi tại các địa phương.
Việc thẩm định năng lực chủ đầu tư của chính quyền cấp tỉnh là có vấn đề. Liệu rằng,
tới đây, sẽ còn những dự án FDI đầu voi đuôi chuột như vậy? Các chuyên gia kinh tế cho
rằng, lời hứa của các nhà đầu tư FDI cần được soát xét kỹ càng hơn, và việc cấp phép tràn
lan của chính quyền địa phương cũng cần được nghiêm khắc xử lý.
Nguồn: Nâng cao chất lượng thu hút FDI - Hệ lụy từ việc “trải thảm đỏ”,
www.sggp.org.vn
, 2010

2.1.4. Phân cấp đầu tư còn nhiều bất cập
Những năm gần đây, việc phân cấp quản lý đầu tư cho các địa phương được đẩy
mạnh nhằm tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính năng động của các địa
phương, giảm thiểu đầu mối trong xét duyệt dự án và cấp phép đầu tư. Tuy nhiên,
trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, kịp thời, năng lực quản lý của đội
ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực FDI tại nhiều địa phương còn yếu, cũng như thiếu
các cơ chế giám sát, đánh giá có hiệu quả, việc phân cấp mạnh đã gây ra nhiều vấn đề.
Đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương trong kêu gọi,
mời chào FDI, thu hút FDI nhưng thiếu sự liên kết vùng, khu vực, ảnh hưởng đến cơ
cấu ngành, lĩnh vực đầu tư. Sự phân cấp quá sâu đã góp phần gây ra tình trạng nền
kinh tế quốc dân bị chia cắt, với 63 nền kinh tế địa phương cùng cạnh tranh với nhau.
Sự cạnh tranh này dẫn đến tình trạng giấy phép được cấp quá dễ dãi, ưu tiên đối với
các dự án có quy mô vốn lớn mà không xét tới thực chất nhu cầu của dự án về đất đai,

×