Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TIỂU LUẬN MÔN KINH DOANH CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.34 KB, 34 trang )

I. BỐI CẢNH KINH TẾ
1.1. KINH TẾ VĨ MÔ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục được cải thiện.
Tổng sản phẩm trong nước 9 tháng
năm 2014 ước tính tăng 5,62% so
với cùng kỳ năm 2013, trong đó
quý I tăng 5,09%; quý II tăng
5,42%; quý III tăng 6,19%. Đây là
mức tăng cao so với mức tăng cùng
kỳ năm 2012 và 2013, cho thấy dấu
hiệu tích cực của nền kinh tế.
Trong mức tăng 5,62% của toàn
nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 3,00%, cao hơn mức 2,39% của cùng kỳ năm 2013, đóng góp
0,54 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
6,42%, cao hơn mức 5,20% của 9 tháng năm 2013, đóng góp 2,46 điểm phần trăm;
khu vực dịch vụ tăng 5,99%, mức tăng của cùng kỳ năm 2013 là 6,25%, đóng góp 2,62
điểm phần trăm.
Như vậy, cả 3 quý đầu năm đều có sự tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, trong đó
khu vực dịch vụ và công nghiệp và xây dựng là đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế. Những
dấu hiệu này cho thấy sự phục hồi tích cực. Theo chu kỳ kinh tế, thường quý IV GDP
sẽ tiếp tục tăng. Chúng tôi kỳ vọng vào sự phục hồi của năm nay, mặc dù còn chậm
nhưng sẽ tiếp tục là tiền đề cho những năm tiếp theo.
Lạm phát duy trì ở mức thấp, đảm bảo được mục tiêu cả năm:
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2014 tăng 0.4% so với tháng trước, mức tăng cao nhất
trong các tháng kể từ tháng 6/2014.
CPI tháng 9 tăng chủ yếu do nhóm giáo dục tăng cao ở mức 6.38%, tác động làm chỉ
số giá chung tăng 0.39%. Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng chủ yếu do trong tháng có 43
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh học phí các loại theo lộ trình tăng
học phí của Bộ Giáo dục và Đào tạo theo Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Thủ tướng
1


chính phủ.
CPI tháng 9/2014 tăng 2,25% so với tháng 12/2013 (bình quân mỗi tháng tăng 0,25%)
và tăng 3,62% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng 4,61%
so với bình quân cùng kỳ năm 2013, mức tăng thấp nhất trong 10 năm gần đây. Những
yếu tố chủ yếu góp phần giữ ổn định CPI 9 tháng năm nay: (1) Nghị quyết 01/NQ-CP
ngày 02/01/2014 của Chính phủ về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014
được các Bộ, ngành và địa phương triển khai tích cực và hiệu quả; (2) Vụ đông xuân
và hè thu năm nay được mùa nên nguồn cung lương thực dồi dào; (3) Giá các mặt
hàng thiết yếu trên thế giới tương đối ổn định.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những yếu tố ảnh hưởng làm tăng giá tiêu dùng: Điều
chỉnh tăng giá dịch vụ y tế tại thành phố Hồ Chí Minh và Tiền Giang; tăng học phí các
loại ở 43 tỉnh, thành
phố; tăng mức lương tối
thiểu vùng áp dụng cho
người lao động ở doanh
nghiệp (DN) từ ngày
01/01/2014 và tăng giá
xăng dầu.
Chỉ số sản xuất công
nghiệp và hàng tồn
kho có xu hướng tăng
dần cho thấy sự phục hồi còn chưa vững chắc.
Chúng tôi đánh giá cao sự chuyển biến của hoạt động sản xuất kinh doanh khi chỉ số
sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng dần qua từng tháng 9 tháng đầu năm.
Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính tăng
6,7% so với cùng kỳ năm 2013 (Quý I tăng 5,3%, quý II tăng 6,9%, quý III tăng
7,7%), cao hơn mức tăng 5,3% của cùng kỳ năm trước.
Trong mức tăng chung 9 tháng của toàn ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo
tăng 8,3%, cao hơn nhiều so với mức tăng 6,7% của 9 tháng năm 2013, đóng góp 5,8
điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện tăng 11,2%, đóng góp 0,7 điểm phần trăm;

2
ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 6,0%, đóng góp 0,1 điểm phần
trăm; ngành khai thác tăng 0,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm mức tăng chung.
Tuy nhiên chúng tôi vẫn lo ngại về tình trạng tồn kho. Chỉ số này có xu hướng tăng
trong 3 tháng liên tiếp và chỉ giảm xuống vào tháng 9. Thực trạng của hàng tồn kho đã
làm cho các DN hạn chế mở rộng sản xuất kinh doanh và số lượng thành lập DN mới
cũng giảm sút. Riêng trong quý III/2014, số DN đăng ký thành lập mới là 15.877 DN
với số vốn đăng ký là 89,4 nghìn tỷ đồng, so với quý II/2014 giảm 16,3% về số DN và
giảm 32,7% về số vốn đăng ký; so với quý I/2014 tương ứng giảm 13,5% và giảm
8,7%; so với quý IV/2013 giảm 15,2% và giảm 23,8% và so với cùng kỳ năm trước
giảm 17,8% và tăng 1,9%.
Thêm vào đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cũng có xu hướng giảm
sút trong 3 tháng gần đây. Điều này cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế vẫn ở mức
độ hạn chế do cầu còn khá yếu.
Xuất khẩu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là yếu tố quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế thời gian gần đây.
3
Trong 9 tháng năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt khoảng 109,6 tỷ
USD; tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực FDI đạt gần 73 tỷ
USD; tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước và đóng góp hơn 66,6% vào tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch nhập khẩu đạt 107,1 tỷ USD; tăng 11,1% so
với cùng kỳ 2013.
Trong khi đó, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong 9 tháng năm 2014 đạt 11,18
tỷ USD; vốn giải ngân đạt 8,9 tỷ USD; tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy
có thể nhận thấy sự đóng góp của khối FDI trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh
tế vẫn duy trì ở mức độ cao. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi mà khối DN trong
nước đang gặp khó khăn thì đóng góp của khối ngoại ngày càng rõ nét. Tốc độ tăng
trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp mà theo Thống đốc là do “DN và ngân hàng thiếu
niềm tin lẫn nhau”.
Trong hoạt động nhập khẩu, đáng chú ý là cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu trong 9 tháng,

nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 100,2 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ, tiếp
tục giữ tỷ trọng lớn với 93,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nhóm hàng máy
móc, thiết bị dụng cụ đạt 39,2 tỷ USD, chiếm 36,6%; nguyên nhiên vật liệu đạt 61 tỷ
USD, chiếm 56,9%. Công cụ
dụng cụ và nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất tăng cho thấy
hoạt động sản xuất kinh doanh
vẫn đang có sự phục hồi mặc
dù chưa chắc chắn.
Thị trường tiền tệ - ngân
hàng.
Tín dụng và nợ xấu.
Con số thống kê cho thấy, tính
đến hết 30/9/2014, tổng
phương tiện thanh toán tăng
10,73%, huy động vốn tăng 11,01%, trong đó huy động bằng VND tăng 12,37%, huy
động bằng ngoại tệ tăng 2,87% so với cuối năm 2013.
4
Về tín dụng, đến cuối quý III, tín dụng toàn hệ thống các TCTC đối với nền kinh tế
tăng 7,26% so với cuối năm 2013. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung
vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.
Tốc độ tăng trưởng huy động và cho vay vẫn chênh lệch nhau khá lớn do thực trạng
khó khăn của các DN hiện nay. Về phía ngân hàng, việc thắt chặt các tiêu chuẩn về
cho vay để giảm nợ xấu cũng được làm sát sao hơn những năm trước rất nhiều.
Về nợ xấu, VAMC vẫn đang được kỳ vọng sẽ giúp cải thiện thực trạng nợ xấu của các
ngân hàng hiện nay. Tính đến cuối tháng 9, tổng nợ xấu đã được xử lý là 249.000 tỷ
đồng, giảm đáng kể so với con số 464.000 tỷ đồng vào tháng 9/2012. Tuy nhiên việc
xử lý nợ xấu vẫn còn chậm do thiếu cơ chế. Điều này, theo người đứng đầu ngành
ngân hàng, các TCTD vừa thực hiện vừa tháo gỡ khó khăn và xác định những bước đi
dài hơn để hoàn chỉnh pháp lý, tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động của VAMC,

góp phần đẩy nhanh xử lý nợ xấu.
Tỷ giá.
Sau khi NHNN chủ động điều chỉnh tăng 1% tỷ giá BQLNH vào ngày 19/6/2014, thị
trường ngoại tệ diễn biến ổn định. Mặt bằng tỷ giá mới được thiết lập nhưng thấp xa so
với mức trần tỷ giá theo quy định của NHNN. Đến cuối tháng 9 vừa qua, tỷ giá liên
ngân hàng thực tế chỉ tăng 0.5% so với cuối năm 2013, cho thấy tỷ giá trên thị trường
được điều tiết bởi cung cầu ngoại tệ thực tế.
Thanh khoản trên thị trường tốt, trung bình khối lượng giao dịch khoảng từ 900 triệu
USD đến 1 tỷ USD/ngày, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều
được các ngân hàng đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt, NHNN vẫn tiếp tục mua được
ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước sau khi điều chỉnh tăng tỷ giá. Dự trữ
ngoại hối hiện nay cũng ở mức cao với 35 tỷ USD.
1.2. Thị trường chứng khoán (TTCK)
1.2.1 Các giai đoạn phát triển của TTCK
Có thể nói rằng, trong vòng một năm qua, TTCK Việt Nam đã có những bước phát
triển nhảy vọt và trở thành một hiện tượng của nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian
hơn 15 năm kể từ ngày thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh năm
1998, ngoại trừ thời gian mấy tháng giao dịch đầu tiên chứng kiến sự tăng trưởng khá
5
nhanh, nhưng ngay sau đó TTCK Việt Nam lại nhanh chóng quay trở về vạch xuất
phát ban đầu.
Một thời kỳ ảm đạm kéo dài suốt mấy năm cho đến tận 2005, chỉ số VN-Index chỉ
xoay quanh mức 200 điểm. TTCK đối với đa số người dân dường như không tồn tại
trong thời gian này.
TTCK Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc bắt đầu từ năm 2006 khi thị trường có sự gia
nhập của nhiều công ty lớn hơn niêm yết trên sàn chứng khoán, trong đó có những
công ty có vốn lớn và làm ăn hiệu quả như Vinamilk. Với nhiều nỗ lực của Chính phủ
nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCK bắt đầu có hiệu lực, TTCK đã thu hút sự chú ý
của các công ty cổ phần và các nhà đầu tư trong nước. Số công ty niêm yết trong năm
2006 tăng vọt về số lượng, từ 41 công ty năm 2005 lên 193 công ty.

TTCK Việt Nam được coi là bùng nổ vào những tháng cuối năm 2006 và đầu 2007,
sau những sự kiện nổi bật là Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC
tháng 11/2006, và ngay sau đó là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Cùng với kết quả tăng trưởng kinh tế trong nhiều
năm qua, những sự kiện dồn dập này mang lại niềm hứng khởi cho các nhà đầu tư
trong nước về triển vọng đầu tư.
Đến năm 2008 là thời điểm đen tối của TTCK Việt Nam do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Chỉ số VN-Index từ mức kỷ lục trên 1.100 điểm vào
cuối tháng 5/2007 đã giảm mạnh hơn 50% chỉ còn 312.49 điểm.
Tuy vậy nhưng đến hết năm 2009, các nhà đầu tư đã được chứng kiến cảnh vực dậy
đầy ấn tượng từ đáy lên tới đỉnh trong ngày 23/10/2009 với 633.21 điểm. Điều này đã
dẫn tới chỉ số VN-Index tăng 2.69 lần. HASTC-Index cũng tăng 2.79 lần khi đạt đỉnh
với 218.38 điểm.
Từ năm 2010 đến nay thì TTCK Việt Nam liên tục biến động, có nhiều thăng trầm và
vẫn còn trong giai đoạn khó khăn, chưa thể quay về được thời hoàng kim như ở giai
đoạn 2006 – 2007. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2013, chỉ số VN-Index đứng ở 505
điểm, tăng 23%; HN-Index đứng ở mức 67 điểm, tăng 15% so với cuối năm 2012.
TTCK Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 nước có mức độ phục hồi mạnh nhất và
có mức tăng cao so với các thị trường trên thế giới.
6
Tuy vậy nhưng nếu nhìn nhận tỉnh táo hơn sẽ thấy TTCK Việt Nam tính đến thời điểm
này về thực chất vẫn là sơ khai mặc dù đã có một khung khổ pháp lý tương đối hoàn
chỉnh. Qui mô thị trường nếu tính theo giá trị niêm yết của các công ty vẫn là quá nhỏ
và chưa đóng vai trò là kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế, hay nói cách khác
chưa phải là kênh đầu tư nguồn tiền tiết kiệm mang tính chất lâu dài của người dân
như ở các nước có TTCK phát triển. Tuy nhiên, từ sự phát triển vượt bậc của TTCK
trong thời gian gần đây, có thể nói rằng TTCK bắt đầu có ý nghĩa thực sự trong đời
sống kinh tế và xã hội ở Việt Nam. Điều đó cho thấy triển vọng phát triển của TTCK
về lâu dài là rất sáng sủa.
1.2.2. Nhận định chung trong giai đoạn hiện nay

Năm 2014, triển vọng của TTCK Việt Nam được đánh giá là khả quan cùng với sự
phục hồi và ổn định của Kinh tế Vĩ mô. Dù rủi ro vẫn còn, nhưng các yếu tố hỗ trợ
TTCK đang mạnh hơn. So với các kênh đầu tư truyền thống tiền gửi, vàng, ngoại tệ và
bất động sản thì Chứng khoán đang rất hấp dẫn.
Trong quý 3, thị trường hồi phục tích cực sau nhịp điều chỉnh trong quý 2 do tác động
từ sự kiện biển Đông. Chỉ số VNINDEX tăng điểm mạnh mẽ trong 2 tháng đầu quý và
có thời điểm vượt đỉnh 633 của năm 2009 dưới sự dẫn dắt của nhóm ngành dầu khí.
Tuy nhiên sang tháng 9, dưới áp lực bán chốt lời của nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn nói
chung và cổ phiếu ngành dầu khí nói riêng, chỉ số này đã quay đầu giảm điểm. Tính
chung trong cả quý, VNINDEX tăng 3,6% kết thúc ở mức điểm 598 với thanh khoản
đạt 7,62 triệu cổ phiếu, tăng 37% so với quý trước. Trong khi đó, chỉ số HNXINDEX
có sự tăng trưởng tích cực hơn với cả 3 tháng tăng điểm do ít chịu ảnh hưởng từ áp lực
bán chốt lời trong tháng 9 từ các mã vốn hóa lớn trên sàn HOSE. Tính chung trong cả
quý, chỉ số này tăng 13,7% và kết thúc ở mức điểm 88,6 với thanh khoản đạt 3,96 triệu
cổ phiếu, tăng 12% so với quý 2.
Dòng tiền có sự chuyển dịch nhẹ sang nhóm cổ phiếu midcap, penny trong quý 3 thể
hiện qua tỷ trọng giao dịch ở nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn so với toàn thị trường có sự
sụt giảm so với quý 2. Mặc dù vậy, nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn vẫn đóng vai trò chi
phối chính trong diễn biến của 2 chỉ số trong giai đoạn này với biên độ giao động
mạnh. Khi nhóm này tăng nóng tháng 7, tháng 8 hỗ trợ thị trường tăng điểm mạnh.
7
Ngược lại, khi nhóm này điều chỉnh trong tháng 9 đã khiến VNINDEX quay đầu giảm
điểm với mức giảm đáng kể.
Giá dầu thế giới giảm tiếp tục có những ảnh hưởng tiêu cực lên thị trường trong tuần
qua (8 – 12/12/2014); trong đó, nhóm cổ phiếu Dầu khí chịu tác động mạnh nhất. Bên
cạnh xu hướng giá dầu giảm thì hoạt động Call margin ở nhóm cổ phiếu Dầu khí cũng
góp phần khiến các cổ phiếu trong nhóm lùi sâu và ảnh hưởng đến tâm lý giới đầu tư.
Điểm tích cực là dòng tiền đầu cơ đã hoạt động trở lại trong phiên cuối tuần và giúp
“sắc xanh” trở lại thị trường và lan tỏa.
Tuần giao dịch tới, nhiều khả năng việc giá dầu thế giới sụt giảm sẽ tiếp tục tác động,

đặc biệt là ở nhóm cổ phiếu Dầu khí. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng ảnh hưởng tiêu
cực từ giá xăng dầu sẽ không còn quá mạnh khi: (i) giới đầu tư đã quen thuộc hơn với
ảnh hưởng tiêu cực từ giá dầu, (ii) ngoài nhóm ngành nóng thì hoạt động đầu cơ vào
các nhóm ngành hưởng lợi từ xu hướng giá dầu giảm có thể sẽ nở rộ hơn, đặc biệt khi
giá cổ phiếu trên toàn thị trường đã sụt giảm đáng kể. Điều này có thể sẽ giúp giao
dịch tích cực hơn.
Một yếu tố đáng chú ý đó là việc khối tự doanh CTCK đã mở rộng mua ròng mạnh
trong tuần qua. Với vị thế dẫn dắt tâm lý giới đầu tư thì đây là tín hiệu khá tích cực.
Điều cần để ý lúc này là tâm lý thận trọng vẫn đang đeo bám giới đầu tư và có thể kích
thích hoạt động chốt lời diễn ra nhanh hơn khi thị trường hồi phục.
Với những yếu tố ảnh hưởng thị trường trong tuần tới thì nhiều khả năng xu hướng hồi
phục sẽ trở lại. Tuy nhiên, đà hồi phục sẽ không quá mạnh khi giới đầu tư vẫn còn khá
e dè sau đợt giảm điểm mạnh.
Về cuối tuần, giao dịch sẽ trở nên sôi động hơn khi hoạt động tái cơ cấu danh mục của
cả 2 quỹ ETF bước vào giai đoạn nước rút. Sức hút từ hoạt động này có thể sẽ không
quá mạnh khi hoạt động đầu cơ ăn theo hoạt động tái cơ cấu này đã diễn ra trong
những tuần gần đây.
1.2.3. Dự báo TTCK Việt Nam cuối năm 2014
Các chuyên gia đều đánh giá chứng khoán là kênh sinh lời cao nhất từ đầu năm đến
nay và cơ hội sắp tới vẫn khá cao cho các nhà đầu tư (NĐT). Tuy nhiên, đầu tư ở thị
trường này luôn phải đối mặt với rủi ro mà không phải ai cũng có thể sớm nhận biết.
8
Hai kịch bản
Tại Hội nghị thường niên các NĐT 2014 tổ chức vào trung tuần tháng 10 vừa qua,
Công ty quản lý quỹ đầu tư VinaCapital cho biết tăng trưởng lợi nhuận ước tính cho cổ
phiếu VN ở mức 3% năm 2014 và 10% năm 2015. Hiện tại, mức kỳ vọng chỉ số VN-
Index của đơn vị này vào cuối năm nay sẽ tăng lên 620 - 650 điểm, vượt mức đưa ra
đầu năm chỉ ở mức 580 - 600 điểm, do dựa trên chỉ số giá tiêu dùng và lãi suất đã
được điều chỉnh ở mức thấp hơn.
Tương tự, gần đây các tổ chức tài chính thế giới đều đánh giá cao về triển vọng kinh tế

VN nói chung và TTCK nói riêng. Việc VN phát hành thành công 1 tỉ USD trái phiếu
quốc tế với lãi suất thấp nhất từ trước đến nay, với hơn 430 nhà đầu tư quốc tế đăng ký
mua số lượng lớn hơn gấp 10 lần, càng khẳng định thêm điều này.
Tuy nhiên, với cái nhìn thận trọng hơn, chuyên gia Phan Dũng Khánh nhận định sẽ có
2 kịch bản xảy ra trên TTCK từ nay đến cuối năm. Đó là thị trường vẫn theo xu hướng
tăng với xác suất khoảng 60 - 65%, tương tự như diễn biến xảy ra vào cuối năm 2013.
Nhưng trong đó mức tăng cũng theo từng nhóm cổ phiếu (CP) chứ không có chuyện
tăng đồng loạt cả thị trường. Kịch bản thứ hai với xác suất thấp hơn, từ 35 - 40%, là thị
trường sẽ tăng đến hết tháng 11 và sau đó giảm dần đến Tết Nguyên đán 2015 và chỉ
phục hồi lại sau đó. Nguyên nhân là giá xăng dầu thế giới đang giảm mạnh và trên thế
giới các NĐT đang bán ra nhóm CP ngành dầu khí vì dự báo lợi nhuận sẽ giảm.
Tại thị trường VN, nhóm CP dầu khí được xem là dẫn đầu thị trường vì chiếm tỷ trọng
lớn và có tác động mạnh đến việc tăng giảm của chỉ số VN-Index như GAS, PVX,
PVS Với tác động từ thế giới thì nhóm CP dầu khí trên sàn khó tăng mạnh, dẫn đến
chỉ số VN-Index cũng không được hỗ trợ để tăng như kỳ vọng. Ngoài ra, động thái
bán ròng trong tháng 10 của các NĐT nước ngoài và hoạt động giao dịch yếu ớt trong
tháng 11 này khiến thị trường chưa có thêm dòng tiền hỗ trợ. Những năm trước khối
ngoại đều mua vào mạnh trong tháng 10 nên động thái bán ra trong năm nay khiến
nhiều NĐT trong nước ngạc nhiên. Vì vậy, xu hướng rót thêm tiền hay rút bớt ra của
khối ngoại cũng sẽ có tác động lớn đến dòng tiền tham gia chứng khoán và cả tâm lý
của các NĐT trong nước. Đây chính là yếu tố khó dự báo nhất trong thời gian tới.
Chọn nhóm ngành ưu tiên
9
Chứng khoán có cơ hội nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là khi NĐT không lựa
chọn đúng CP sinh lời. Theo chuyên gia kinh tế Đinh Thế Hiển, để giảm thiểu rủi ro
thì NĐT vẫn nên dành nhiều quan tâm cho những công ty có quy mô lớn, đang dẫn
đầu hoặc có triển vọng dẫn đầu của một ngành. Bởi những DN này vẫn luôn hoạt động
ổn định và CP có giá trị cao, đặc biệt đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường
nên sẽ ít bị gặp phải những yếu tố bất thường.
Còn chuyên gia Phan Dũng Khánh dự báo, nhóm ngành bất động sản có thể thay thế

nhóm ngành dầu khí trong thời gian tới để trở thành nhóm mang tính dẫn dắt theo xu
hướng tăng trên thị trường. Nhưng không phải CP nào cũng tăng, mà ước chỉ khoảng
50% số CP ngành bất động sản, xây dựng trên hai sàn có khả năng gia tăng. Đứng tiếp
theo sẽ là ngành vận tải và thủy sản khi giá dầu giảm, kinh tế dần phục hồi giúp nhu
cầu của thị trường gia tăng nên các DN sẽ thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh
của mình.
2. MÃ CHỨNG KHOÁN KDC
2.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
2.1.1. Ngành bánh kẹo Việt Nam:
Hiện nay, tính đến tháng 7/2014, với trên 93 triệu dân, Việt Nam trở thành một
thị trường tiêu thụ bánh kẹo khá tiềm năng không chỉ đối với DN trong nước mà cả
các công ty nước ngoài. Theo ước tính, hiện có khoảng 30 DN trong nước, hàng trăm
cơ sở sản xuất nhỏ và một số công ty nhập khẩu bánh kẹo nước ngoài đang tham gia
thị trường. Các DN trong nước với một loạt các tên tuổi lớn như Kinh đô (bao gồm cả
Kinh đô miền Nam và Kinh đô miền Bắc), Bibica, Hải Hà, Hữu Nghị, Orion Việt Nam
ước tính chiếm tới 75-80% thị phần còn bánh kẹo ngoại nhập chỉ chiếm 20%-25%.
Các DN trong nước ngày càng khẳng định được vị thế quan trọng của mình trên
thị trường với sự đa dạng trong sản phẩm (cho nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau), chất lượng khá tốt, phù hợp với khẩu vị của người Việt Nam . Trong khi đó, các
cơ sở sản xuất nhỏ lẻ đang dần dần bị thu hẹp về quy mô sản xuất do vốn ít, công nghệ
lạc hậu, thiếu sự đảm bảo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Biểu đồ thể hiện thị phần của thị trường bánh kẹo:
10
2.1.2. Giới thiệu công ty
Được thành lập năm 1993, khởi đầu với sự thành công của
sản phẩm Snack, ngành thực phẩm của Kinh Đô đã có những
bước tiến vượt bậc và là nền tảng cho sự phát triển chung của
toàn Tập đoàn. Trải qua hơn 20 năm, Kinh Đô phát triển với
nhiều Công ty hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm trong đó
nổi bật là Công ty Cổ Phần Kinh Đô và Kinh Đô Miền Bắc chuyên kinh doanh ngành

bánh kẹo và Công ty Ki Do chuyên về ngành kem, sữa chua
Lĩnh vực kinh doanh chính:
- Chế biến nông sản thực phẩm
- Sản xuất bánh kẹo
Ngoài ra còn sản xuất nước uống tinh khiết, sữa chua, kem và nước ép trái cây.
Sản phẩm chính của công ty:
Bánh trung thu; Bánh bông lan; Cracker; Cookies; Kẹo; Snack; Kẹo, kem và sữa chua.
Đặc điểm nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm :
Các sản phẩm bánh kẹo có sản lượng tiêu thụ thay đổi lớn phụ thuộc theo thời gian
trong năm, theo các dịp lễ hội. Cụ thể như sau:
- Nhu cầu tiêu thụ bánh Cracker, bánh bông lan, Sanack tăng mạnh vào các dịp lễ Tết,
như Tết thiếu Nhi, Tết Nguyên Đáng, Tết Trung thu, các ngày lễ,… Ngoài thời gian
trên, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm này tuy không mạnh nhưng vẫn đóng góp đáng kể
vào cơ cấu doanh thu của KDC.
- Sản phẩm bánh Trung thu có nhu cầu tiêu thụ tăng đột biến trong dịp Tết Trung Thu,
kéo dài từ khoảng đầu tháng 7 đến đầu tháng 8 dương lịch. Ngoài thời gian này, nhu
cầu tiêu thụ của sản phẩm này hầu như rất thấp.
Thành quả và vị thế của KDC
11
Từ quy mô chỉ có 70 cán bộ công nhân viên khi mới thành lập, đến nay Kinh Đô đã có
tổng số nhân viên gần 8.000 người. Tổng vốn điều lệ là 1.599 tỷ đồng. Năm 2013 là
năm mang ý nghĩa rất đặc biệt - đánh dấu 20 năm ngày thành lập Tập đoàn. “Tăng
trưởng có lợi nhuận” với doanh thu đạt 4.561 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 619
tỷ đồng. Tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, 6 tháng đầu năm 2014, lợi nhuận sau thuế của
Kinh Đô tăng 22,1% so với cùng kỳ. Luỹ kế 6 tháng đầu năm, Kinh Đô đạt gần 1.800
tỷ đồng doanh thu thuần. Trong quý 3/2014, công ty đã hoàn thành sớm kế hoạch
trung thu cả năm 2014, kỳ vọng kết quả kinh doanh quý 4 sẽ có nhiều bứt phá.
Các sản phẩm mang thương hiệu Kinh Đô đã có mặt rộng khắp các tỉnh thành thông
qua hệ thống phân phối đa dạng trên toàn quốc gồm 300 nhà phân phối và 200.000
điểm bán lẻ với tốc độ tăng trưởng 20%-30%/năm. Thị phần bánh trung thu của riêng

Kinh Đô đã chiếm đến 76% toàn thị trường Việt Nam. Thị trường xuất khẩu của Kinh
Đô cũng phát triển rộng khắp qua hơn 30 nước như Nhật, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc,
Myanmar, Thái Lan, Nam Phi, Đài Loan, Hongkong, Trung Quốc, Lào, Campuchia
2.2. PHÂN TÍCH CƠ BẢN
2.2.1. Phân tích hiệu suất
Lợi nhuận
Biểu đồ : Lợi nhuận của KDC qua các năm
Qua biểu đồ ta dễ dàng nhận thấy xu hướng tăng cao của lợi nhuận gộp trong khi
lợi nhuận hoạt động và lợi nhuận ròng dao động không ổn định. Nguyên nhân xuất
phát từ việc kiểm soát tốt giá vốn hàng bán (giá vốn hàng bán qua các năm tăng theo
xu hướng tăng doanh thu và có mức tăng tương đối thấp hơn so với doanh thu, từ đó
dẫn tới lợi nhuận gộp tăng).
Ngoài ra, lợi nhuận hoạt động và lợi nhuận ròng dao động khá đồng đều nhau,
đều tăng mạnh trong giai đoạn từ 2008-2010 nhưng bất ngờ giảm nhanh trong 3 năm
2010 - 2013. Nguyên nhân xuất phát từ việc công ty đầu tư cho việc quảng bá thương
hiệu, mở rộng hình ảnh công ty, quản lý DN khiến phần chi phí bán hàng và quản lý
DN trong bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tăng cao, khiến cho lợi nhuận
hoạt động và lợi nhuận ròng có xu hướng phát triển khác so với lợi nhuận gộp.
12
13
2.2.2. Phân tích Doanh thu – Chi phí
Cơ cấu doanh thu
Doanh thu của Kinh Đô phần lớn đến từ sản phẩm bánh Cracker (21%), bánh bông lan
(18%) và bánh trung thu (17%). Mặt hàng bánh trung thu được tiêu thụ mạnh chỉ trong
giai đoạn tết trung thu. Các sản phẩm còn lại được tiêu thụ đều trong năm.
Cơ cấu chi phí
Giá vốn của KDC chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm trên 60% doanh thu trong giai
đoạn 2010 - 2013. Tiếp theo đó là chi phí bán hàng và quản lý DN, tỷ trọng dao động
từ 15% - 25% doanh thu từ 2009 - 2013.
Chi phí tài chính chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm đáng kể do chiến

lược của KDC là: (1) giảm bớt các hoạt động đầu tư tài chính để tập trung vào ngành
hàng kinh doanh chính; (2) chú trọng vào các nhóm sản phẩm đem lại doanh thu và lợi
nhuận tốt cho Công ty; (3) phát triển sản phẩm mới nhằm tận dụng tối đa ưu thế về
thương hiệu và hệ thống phân phối.
BIỂU ĐỒ TĂNG TRƯỞNG DOANH THU VÀ CHI PHÍ
Kinh Đô có doanh thu tăng trưởng liên tục từ năm 2009 đến 2013, đặc biệt trong năm
2011 đến nay, doanh thu Kinh Đô tăng trưởng rất mạnh.
Doanh thu Công ty liên tục tăng trong các năm qua do sản lượng tiêu thụ tăng, trong
đó chủ yếu là dịp Tết Trung Thu và Tết Nguyên Đán. Dòng sản phẩm bánh trung thu,
bánh bông lan, kem và sữa chua, cracker là những dòng sản phẩm mang lại doanh thu
cao cho KDC.
Nhận xét: Trong 5 năm, từ 2009 đến 2013, doanh thu và chi phí đều tăng trưởng liên
tục, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của doanh thu luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của
chi phí.
2.2.3. Phân tích các thông số thị trường
2.2.3.1. Phân tích ROA
14
Dựa vào bảng số liệu ta thấy, ROA của KDC có xu hướng giảm. Nguyên nhân là do
tổng tài sản của KDC tăng mạnh. Trong những năm gần đây, Kinh Đô thường xuyên
đầu tư mở rông tài sản cố định.
2.2.3.2. Phân tích ROE
Lợi nhuận sau thuế của Kinh Đô ở mức thấp và ngày càng giảm. Điều này cho
thấy việc liên tục tăng vốn chủ sở hữu qua các năm của KDC chưa đem lại hiệu quả.
2.2.3.3. Phân tích EPS
Xu hướng chung đối với chỉ số EPS của KDC tăng lên trong giai đoạn 2010 - Q3
2014.
Trừ năm 2011, còn lại EPS đều có mức tăng trường khá ổn đinh. Điều này phản ánh sự
cải tiến trong hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Giai đoạn 2011, EPS của KDC có sự sụt giảm khá lớn, nhưng công ty đã kịp thời điều
chỉnh lại xu hướng. Năm 2012, công ty có sự phục hồi trở lại với mức tăng đến 2.538

đồng/cổ phiếu.
2.2.3.4. Phân tích P/E
Nhìn chung, P/E của KDC có xu hướng tăng rất nhanh và ổn định qua các năm.
Đặc biệt, đến năm Q3/2014, P/E của KDC đã vượt qua P/E của ngành và còn có xu thế
tăng trong những năm tiếp theo cho thấy được các nhà đầu tư sẽ sẵn sàng trả một mức
giá cao cho cổ phiếu của công ty, biểu hiện công ty đang có triển vọng tăng trưởng cao
và ít gặp rủi ro trong tương lai.
2.2.3.5. Phân tích P/B
Giá trị sổ sách của KDC tính đến ngày 11/2014 là 31.875, giá thị trường là 48,000.
Như vậy, P/B của KDC bằng khoảng 1,5. Như vậy, công ty có giá thị trường của cổ
phiếu cao hơn giá trị ghi sổ, đây là dấu hiệu cho thấy công ty làm ăn khá tốt, thu nhập
trên tài sản cao.
15
Tóm lại: Kết quả kinh doanh cùng các chỉ số ROA, ROE, EPS, P/E của Kinh Đô
đều khá tốt, tương xứng với giá trị của cổ phiếu KDC trên thị trường.
2.3. PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
2.3.1. Phân tích tính thanh khoản
Giá hiện tại của KDC nằm trong khoảng 50.000đ/cp. Đây là mức giá được cho
là khá tốt nhất là khi TTCK Việt Nam vẫn chưa thực sự phục hồi sau một thời gian
dài.
Cổ phiếu KDC có khối lượng giao dich hàng ngày thay đổi lớn theo thời gian trong
năm. Từ đầu năm 2014 đến nay, khối lượng giao dịch từ tháng 1 đến cuối tháng 7 rất
thấp. Từ tháng 8 đến nay, khối lượng giao dịch KDC tăng lên đột biến, khối lượng
giao dịch hằng ngày khoảng 50.000 – 2.000.000 cổ phiếu.
Sự biến động khối lượng giao dịch theo chu kỳ là do trong khoảng từ tháng 8 về
cuối năm có nhiều lễ hội lớn, lượng cầu bánh kẹo và các sản phẩm liên quan tăng
khiến các nhà đầu tư chú ý hơn đến mã KDC.
2.3.2. Phân tích các chỉ báo nhanh
STOCHASTIC - SKD
Trong cuối tháng 11/2014 này, đường Stochatic nằm dưới mức 20 và đang có đấu hiệu

đi lên. Đường Fast Stochastic (%K) cắt đường Low Stochastic (%D) hướng từ dưới
lên cho tín hiệu mua nhưng chưa rõ ràng. Nhà đầu tư nên chờ đợi cho đường
Stochastic chạm đến mức 20 để chắc chắn.
16
RSI - RELATIVE STRENGTH INDEX (CHỈ SỐ SỨC MẠNH TƯƠNG ĐỐI )
Biểu đồ đường RSI của mã KSD từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2014, hầu như đường
RSI của KDC đều trên mức 50. Bước sang tháng 11, đường RSI đã xuống dưới mức
50. Tuy trong vài phiên gần đây, RSI đang có dấu hiệu hướng lên nhưng vẫn nằm dưới
mức 50 khá xa. Nhà đầu tư chưa nên mua KDC vào thời điểm này.
Các ngưỡng hỗ trợ/kháng cự đáng chú ý xác định theo Fibonacci (dùng cho trung
và dài hạn):
- Ngưỡng kháng cự 0.00% : 64,65
17
- Ngưỡng hỗ trợ/kháng cự 61.8% : 56,31
- Ngưỡng hỗ trợ/kháng cự 100.0% : 51,15
- Ngưỡng hỗ trợ 127.2% : 47,48
- Ngưỡng hỗ trợ 161.8% : 42.81
2.3.3. Phân tích các chỉ báo chậm
Đường trung bình (Moving Averages)
Ta phân tích 3 đường trung bình MC 15 (màu đỏ), MC 45 (xanh dương) và đường
trung bình dài hạn MC 100 (xanh lá). Xét về lâu dài, đường trung bình dài hạn cho
thấy xu hướng về giá của KDC đang trên đà tăng từ đầu năm 2014 đến nay.
MACD - CHỈ SỐ BIẾN ĐỘNG CHÊNH LỆCH HỘI TỤ TRUNG BÌNH TRƯỢT
18
Đầu tháng 11/2014, đã có một tín hiệu bán rất rõ khi đường MACD cắt và nằm dưới
đường tín hiệu của MACD, KDC đã giảm điểm liên tiếp. Cho đến tận cuối tháng 11,
tuy chu kỳ giảm điểm đã kết thúc, nhưng vẫn chưa xuất hiện dấu hiện “Buy signal” trở
lại.
2.3.4. Chỉ báo biến động Bollinger Bands
Ngoài việc xác định quan hệ giữa các mức giá và độ bất ổn định, đường Bollinger

Bands có thể kết hợp với biến động giá và các công cụ khác để đưa ra tín hiệu và dự
báo các biến động quan trọng.
Dải Bollinger Bands của KDC đã cho tín hiệu khá đúng khi cuối tháng 7, đường giá
leo ra khỏi dải Bollinger Bands phía dưới, cho tín hiệu mua. Vào đầu tháng 11, đường
19
giá lại leo ra khỏi dải Bollinger Bands phía trên, cho tín hiệu bán. Hiện nay, dải
Bollinger Bands vẫn tiếp tục mở rộng cho thấy xu hướng giảm giá vẫn còn tiếp tục.
Nhà đầu tư ngắn hạn nên cân nhắc khi quyết định mua KDC.
3. MÃ CHỨNG KHOÁN VNM
3.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY
3.1.1. Tổng quan về ngành sữa
Trong những năm trở lại đây, sữa là một trong những ngành đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh nhất trong ngành thực phẩm ở Việt Nam, với mức tăng trưởng doanh thu trung
bình trong giai đoạn 2010 - 2013 đạt 21%/năm (EMI 2013). Với một đất nước đang
phát triển có tốc độ đô thị hóa và tăng dân số cao như ở Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ
sữa sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
Nằm trong xu thế chung của các nước đang phát triển trên thế giới, nhu cầu về các sản
phẩm sữa ở Việt Nam như một nguồn bổ sung dinh dưỡng thiết yếu ngày càng tăng
lên. Có thể thấy qua sự gia tăng doanh số từ sữa của các hãng sản xuất tại Việt Nam,
biểu hiện qua tổng doanh thu các mặt hàng sữa tăng ổn định qua các năm. Điều này
cho thấy rằng khủng hoảng kinh tế trong 2 năm này không ảnh hưởng nhiều đến tình
hình tiêu thụ sữa tại Việt Nam. Hiện nay, tiêu dùng các sản phẩm sữa tập trung ở các
thành phố lớn, với 10% dân số cả nước tại Hà Nội và HCM tiêu thụ 78% các sản phẩm
sữa. Năm 2013, bình quân mức tiêu thụ hàng năm hiện đạt 18 lít/người/năm, vẫn còn
thấp so với các nước trong khu vực như Thái Lan (35 lít/ người/ năm), Trung Quốc (31
lít/ người/ năm) hay Nhật Bản (51.4 lít/người/năm); do đó, theo xu hướng của các
nước này, mức tiêu thụ tại Việt Nam sẽ tăng lên cùng với GDP. Cùng với nhu cầu về
các sản phẩm sữa ngày càng tăng lên tại Việt Nam, thị trường sữa hiện có sự tham gia
của nhiều hãng sữa, cả trong nước và nước ngoài, với nhiều sản phẩm phong phú.
3.1.2. Các lĩnh vực kinh doanh

Những hoạt động chính tạo ra doanh thu và lợi nhuận của Công ty trong năm 2013 như
sau:
+ Chế biến, sản xuất và kinh doanh bánh, sữa đậu nành, sữa tươi, nước giải khát, sữa
hộp, sữa bột, bột dinh dưỡng và các sản phẩm từ sữa khác;
20
+ Chăn nuôi: chăn nuôi bò sữa, cung cấp giống vật nuôi và kỹ thuật nuôi; các hoạt
động trồng trọt;
+ Cho thuê bất động sản;
+ Cung cấp các dịch vụ phòng khám đa khoa; Trong đó, hoạt động chăn nuôi nhằm
mục đích chính là cung cấp sữa tươi nguyên liệu đầu vào cho sản xuất các sản phẩm từ
sữa của Công ty.
3.1.3. Vị thế của Vinamilk
Theo kết quả bình chọn, Vinamilk là 1 trong 100 thương hiệu mạnh nhất Việt Nam
liên tục trong hơn 37 năm qua kể từ khi thành lập vào năm 1976. Trong năm 2014,
Vinamilk cũng đã vinh dự khi được tạp chí Forbes Việt Nam vinh danh là một trong
50 công ty niêm yết tốt nhất Việt Nam.
Thị phần hiện tại của công ty là hơn 50% trong ngành sữa Việt Nam. Tốc độ tăng
trưởng tổng doanh số, lợi nhuận trước thuế và vốn chủ sở hữu bình quân trong 3 năm
gần nhất lần lượt là 31%, 31% và 28%. Vinamilk là thương hiệu thực phẩm số 1 của
Việt Nam chiếm thị phần hàng đầu, đạt tốc độ tăng trưởng trên 30%/năm, được người
tiêu dùng tín nhiệm và liên tiếp được bình chọn là sản phẩm đứng đầu tốp 10 hàng
Việt Nam chất lượng cao 8 năm liền 1997 - 2004. Cho đến nay, Vinamilk đứng ở vị trí
thứ 53 trong số các nhà sản xuất sữa lớn nhất thế giới, các sản phẩm của công ty hiện
có mặt ở 23 quốc gia. Tại Việt Nam, Vinamilk được biết đến như công ty sữa hàng
đầu. Công ty hiện đang nắm giữ phần lớn thị phần ở các dòng sản phẩm như sữa chua
(90%), sữa đặc (80%), sữa nước (50%). Trong năm 2013, Vinamilk đã phá vỡ kỷ lục
với 4 tỷ sản phẩm sữa được tiêu thụ, tương đương với 27,300 tỷ đồng. Giám đốc điều
hành của Vinamilk đưa ra kế hoạch đạt doanh thu tương đương 3 tỷ đô la Mỹ, đồng
thời hướng tới vị trí top 50 nhà sản xuất sữa lớn nhất thế giới vào năm 2017.
Công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh vào năm

2006. Công ty có giá trị vốn hóa trên thị trường vào thời điểm 31/12/2013 khoảng 5.3
tỷ Đô la Mỹ và đứng thứ 2 về giá trị vốn hóa lớn nhất trên TTCK Việt Nam.
3.1.4. Khả năng sinh lợi của ngành
Giá sữa bán lẻ của Việt Nam cao hơn so với giá sữa trung bình thế giới. Mức giá sữa
bán lẻ cho người tiêu dùng tại Việt Nam hiện ở mức khoảng 1,1 USD/lít, rất cao so
21
với mức thu nhập bình quân đầu người. Giá sữa trong nước luôn duy trì ở mức cao,
đặc biệt là các loại sữa nhập ngoại, mặc dù giá sữa thế giới giảm. Nhìn chung ngành
sản xuất sữa tại Việt Nam có mức sinh lời khá cao, tuy nhiên mức sinh lời giữa các
nhóm sản phẩm có sự khác biệt khá lớn. Ngành sữa tại Việt Nam là một ngành có triển
vọng phát triển tốt trong tương lai. Với sự đa dạng hóa sản phẩm, với những kỳ vọng
về thị trường tiêu thụ, sự phát triển của nguyên liệu đầu vào thì thị trường sữa tại Việt
Nam hứa hẹn sẽ có tăng trưởng ổn định trong thời gian tới.
3.2. PHÂN TÍCH CƠ BẢN
3.2.1. Hoạt động kinh doanh
Cơ cấu doanh thu
Vinamilk chuyên sản xuất kinh doanh các loại đồ uống, trong đó các dòng sản
phẩm chủ lực là: Sữa nước, sữa đặc, sữa bột, sữa chua và một số sản phẩm khác.
Biểu đồ: Cơ cấu doanh thu 9 tháng/2013 (Nguồn: VNM)
Theo công ty chứng khoán HSC ước tính thì trong 9 tháng đầu năm 2013,
Vinamilk chiếm 48.4% thị trường sữa Việt Nam, sữa nước đóng góp 34.9% doanh thu
của Công ty; sữa bột chiếm 26.2%; sữa chua chiếm 19.9%; sữa đặc chiếm 16.9%, còn
lại là các sản phẩm khác.
Sữa nước và sữa bột là hai dòng sản phẩm mang lại doanh thu cao nhất cho
Vinamilk. Trong khi đó, sữa đặc và sữa chua có doanh thu thấp hơn nhưng lại chiếm
dến 80% thị phần cao hơn sữa nước và sữa bột. Điều này cho thấy, VNM đang bị cạnh
tranh gay gắt trên thị trường sữa nước và sữa bột. Nguyên nhân là do người Việt Nam
có xu hướng chuộng sản phẩm nhập khẩu, ngày càng quan tâm sữa ngoại hơn.
Cơ cấu chi phí hoạt động kinh doanh
22

Biểu đồ thể hiện cơ cấu chi phí VNM và HNM theo yếu tố sản xuất kinh doanh
năm 2013 (Nguồn: hsx.vn)
Vinamilk là DN sản xuất nên giá vốn hàng bán (chủ yếu là nguyên vật liệu)
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của Vinamilk. Do đó, biến động giá cả nguyên
vật liệu bên ngoài sẽ tác động rất lớn đến chi phí của DN. Tiếp theo sau là chi phí bán
hàng và cuối cùng là chi phí quản lý DN. Cơ cấu chi phí của Vinamilk và Hanoimilk
phù hợp với cơ cấu chi phí của ngành sản suất kinh doanh.
3.2.2. Phân tích các chỉ số sinh lời (ROS, ROA, ROE)
Dùng phương pháp Dupont và so sánh với DN cùng ngành là Công ty Cổ phần
Sữa Hà Nội (HNM)
Bảng các chỉ số sinh lời của VNM qua các năm
(Nguồn />23
Chỉ số sinh lời
(VNM)
2009 2010 2011 2012 2013
ROS (%) 22.39% 22.95% 19.50% 21.91% 20.8%
Vòng quay tài
sản (lần)
1.47 1.64 1.64 1.51 1.46%
ROA (%) 32.89% 37.55% 32.01% 32.99% 30.4%
ROE (%) 36.8% 50.15% 41.27% 41.61% 36.89%
Biểu đồ thể hiện các chỉ số sinh lời của VNM qua các năm
Bảng các chỉ số sinh lời của HNM qua các năm
Chỉ số sinh
lời (HNM)
2009 2010 2011 2012 2013
ROS (%) -10.78% -7.04% 0.58% 0.54% 1.27%
Vòng quay
tài sản (lần)
1.65 1.43 1.26 1.04 1.078

ROA (%) -17.7% -10.10% 0.73% 0.57% 1.37%
ROE (%) -29.06% -15.18% 1.19% 0.92% 2.26%
(Nguồn: />Biểu đồ thể hiện các chỉ số sinh lời của HNM qua các năm
(Nguồn: )
Vinamilk có khả năng sinh lời cao, nhưng trong ba năm gần đây ROA, ROE,
ROS có xu hướng giảm nhẹ nhưng ảnh hưởng không đáng kể, dao động lên xuống
không nhiều.
24
Cụ thể là ROA bằng 32.89% trong năm 2009 và giảm nhẹ xuống còn 30.4%
trong năm 2013. ROA là một chỉ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên
mỗi đồng tài sản của DN. Chỉ số này giảm cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của DN
vẫn chưa được tốt, tuy vậy nhưng so với các DN cùng ngành thì đây không phải là một
con số thấp.
ROE bằng 36.8% trong năm 2009 và trong năm 2013 tăng lên 36.89%. ROE là
một chỉ số tài chính dùng để đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn cổ phần
(cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu của DN tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận). Chỉ tiêu này
trong năm 2013 tăng so với năm 2009 tuy không nhiều nhưng cũng cho thấy hiệu quả
sử dụng vốn của DN có xu hướng tốt.
Tương tự ROS của VNM năm 2009 là 22.39% và giảm xuống còn 20.8% trong
năm 2013. ROS là một chỉ số tài chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của DN. Chỉ
tiêu này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Chỉ tiêu này
đều lớn hơn 0 trong các năm 2009 – 2013 cho thấy trong giai đoạn này DN làm ăn
luôn có lãi. Tuy vậy nhưng chỉ số này có sự biến động tăng giảm liên tục trong các
năm từ 2009 – 2013, điều này cho thấy tình hình sinh lợi của DN không ổn định qua
các năm.
Mặc dù các chỉ số tài chính (ROA, ROE, ROS) của VNM tăng trưởng chưa ổn
định và vẫn còn có xu hướng giảm nhưng các chỉ số này tốt hơn nhiều so với
Hanoimilk. Trong 2 năm 2009 và 2010, các chỉ số sinh lời của HNM đều nằm ở mức
âm, đến năm 2011 trở về sau thì các chỉ số này mới thoát được mức âm nhưng độ lớn
vẫn còn rất thấp. Trong khoảng thời gian gần đây thì đa số các DN cùng ngành đều có

các chỉ tiêu này giảm qua các năm. Nguyên nhân là do nền kinh tế thị trường đang gặp
khó khăn, trì trệ, lượng cung cầu giảm sút.
3.2.3. Phân tích chỉ số định giá (EPS, P/E)
Chỉ tiêu tỉ suất sinh lời của vốn cổ phần (EPS)
Năm 2009 2010 2011 2012
2013
EPS (đồng)
10,423 10,254 11,518 10,471
8,411
Đây là chỉ tiêu quan trọng và các nhà đầu tư thường quan tâm đến, là phần lợi nhuận
mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên thị
25

×