Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

khái lược lịch sử Đảng cộng sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.5 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Đảng cộng sản Việt Nam do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Hơn
80 năm qua Đảng đã lãnh nhân dân ta đấu tranh vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đã làm nên những mốc son lịch sử trong quá trình lãnh đạo cách mạng
của nước ta . Khi mới tròn 15 tuổi Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng
tháng tám 1945 thành công xoá bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ( nay là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam);
Đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Đảng ra đời có ý nghĩa lịch sử và thời đại ra sao? Và
lãnh đạo cách mạng Việt Nam như thế nào ? Hôm nay chúng ta nghiên chủ đề 1 Khái
quát lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Cụ thể các nội dung sau.
NỘI DUNG
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆTT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶT QUYẾT ĐỊNH CỦA
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Ra đời ngày 3 tháng 02 năm 1930, là một bước ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt
Nam; là sự kết hợp của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cuộc đấu
tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Là kết quả của quá
trình lựa chọn con đường cứu nước; là sự chuẩn bị tích cực về chính trị, tư tưởng và tổ
chức của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc; của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng
đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân tộc ta; phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
1.Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Sau 30 năm vũ trang xâm lược (1858 – 1884) Thực dân Pháp đã thiết lập hệ
thống cai trị ở Đông Dương hết sức tàn bạo; kết hợp phương thức bóc lột tư bản và
phong kiến làm cho xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
a. Chính trị:
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị
Chúng thiết lập bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương để đàn áp nhân
dân làm cho dân Việt Nam không có chút quyền tự do, dân chủ nào. Mọi quyền hành
nằm trong tay người Pháp,( từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam kỳ, Khâm sứ trung


kỳ, Thống sứ Bắc kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát tòa án … vua
quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn làm tay sai cho chúng.
- Thực dân Pháp dùng chính sách chia để trị.
Chúng chia nước ta thành 3 kỳ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mỗi kỳ thành lập một
chế độ cai trị riêng. Chúng lập liên bang Đông Dương thuộc Pháp thành 3 sứ: Cao
Miên, Ai Lao và An Nam. Lúc này người dân đặt dưới sự kiểm soát ngặt nghèo của
thực dân pháp, đi lại giữa các vùng phải làm giấy tờ như xuất cảnh ra nước ngoài, tụ
họp 2 người trở lên coi như là bất hợp pháp, Mỗi xứ chúng dùng một chính sách cai trị
riêng nhằm chia rẽ mối đoàn kết nhân dân 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam
nói riêng và mục đích cuối cùng là xóa bỏ nước ta trên bản đồ thế giới.
b. Kinh tế:
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế trong các ngành,
nông nghiệp,công nghiệp, giao thông, vận tải tài chính, muối, rượu, thuốc phiện, đặc
biệt là đối với ngành nông nghiệp: Pháp ra sức cướp ruộng đất của nông dân làm đồn
điền trồng lúa, cà phê, cao su “ Cao su đi dễ khó về , khi đi trai tráng khi về bủng beo
Cao su xanh tốt lạ đời, mỗi cây bón một xác người công nhân…
đến năm 1930 pháp chiếm hơn 80.000 ha, bằng 1/6 đất trồng trọt của Việt Nam. Do đó
nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế Pháp, ( nông dân mất tư liệu
sản xuất, thất nghiệp phải bán sức lao động để kiếm sống)
- Thực dân Pháp kết hợp phương thức bóc lột tư bản với phương thức bóc lột phong
kiến làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên kiệt quệ đời sống của nhân dân lao
động lầm than khổ cực
- Thực dân Pháp bóc lột nguồn lao động, bóc lột giá trị thặng dư, độc quyền khai
thác tài nguyên, khai thác mỏ, giao thông, đồn điền, xuất nhập khẩu thu lợi nhuận,.
Chỉ phát triển một số nhà máy nhỏ sản xuất các mặt hàng cần thiết, cho vay nặng lãi,
lập ra hàng trăm thuế vô lý và vô nhân đạo.
“Trăm thứ thuế kể chi cho xiết, khiếp thuế xia mới thiệt lạ lùng
Thuế cho thập thất cửu phong, thuế cho xơ xác khốn cùng chưa thôi”
Thực dân Pháp đã bóc lột đến tận xương tuỷ người dân lao động Việt Nam làm cho nền
kinh tế nước ta nước ta xơ xác tiêu điều, nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa ( 50% nông dân

không còn đất sản xuất. Thợ thủ công phá sản, trí thức thất nghiệp). Nền kinh tế Việt Nam
kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế pháp .
c.Văn hóa: Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị.
- Ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ vào Việt Nam, kích động văn hóa
đồi trụy, gây tâm lý tự ty, vong bản khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
phong bại tục “ văn hóa thực dân” mọi hoạt động yêu nước của nhân dân đều bị cấm.
- Đầu độc nhân dân bằng rượu, thuốc phiện … các tệ nạn xã hội, tuyên truyền tư
tưởng khai hóa văn minh Nước mẹ đại Pháp nhằm tạo tâm lý phục Pháp sợ Pháp
- Nhà tù nhiều hơn trường học. Dẫn đến kết quả( 90% dân số mù chữ)
Những chính sách trên của thực dân Pháp làm cho xã hội Việt Nam thay đổi từ
một xã hội phong kiến độc lập trở thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến
d. Xã hội
- Cơ cấu xã hội có những biến đổi sâu sắc:
Bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân đã xuất hiện một số giai cấp
mới. Đặc biệt là giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản thành thị và giai cấp tư sản.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân pháp, có những đặc điểm chung như giai cấp công nhân
trên thế giới ngoài ra còn có đặc điểm riêng.
* Phải chịu 3 tầng áp bức bóc lột ( Đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ)
* Phần lớn xuất thân từ nông dân nên gần gũi với gia cấp nông dân
* Giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất
không phân tán lực lượng và sức mạnh.
* Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có truyền thống văn hóa tốt đẹp, truyền thống
yêu nước chống giặc ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa của thời đại mới
để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình (đây là cơ sở cho việc truyền bá chủ nghĩa
Mác- Lênin sau này)
- Tính chất xã hội biến đổi sâu sắc từ một xã hội phong kiến độc lập trở thành một
nước thuộc địa nữa phong kiến. (đặc trưng của xã hội thuộc địa nữa phong kiến là sự
cấu kết giữa đế quốc với bọn địa chủ phong kiến để áp bức bóc lột nhân dân)
2

- Mâu thuẫn xã hội:Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nổi
lên 2 mâu thuẫn cơ bản chủ yếu đó là:
+ Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai.
+ Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với địa chủ, phong kiến.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt
với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
Tóm lại : Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, với chính
sách độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, nô dịch về văn hóa làm cho đời
sông của nhân dân ta vô cùng cực khổ.
Trước tình hình đó đòi hỏi, phải giải quyết những mâu thuẫn trên thì mới đưa xã
hội Việt Nam phát triển được. Để đáp ứng nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân
dân là độc lập dân tộc và người cày có ruộng nhiều phong trào cứu nước xuất hiện .
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi đảng ra đời
a. Các trào lưu yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
Ngày 01- 9 -1858 Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta. Triều đình phong kiến Việt Nam ( nhà Nguyễn ) đã từng bước
đầu hàng giặc. Bất chấp chủ trương đầu hàng giặc của triều đình phong kiến nhân dân cả
nước đã vùng lên chống thực dân pháp xâm lược. Hễ phong trào này bị dập tắt, thì phong
trào khác lại nổi dậy. Thật xứng đáng lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực
trước giờ xử tử “ Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.
Đồng chí hãy nêu một số phong trào cứu nước theo khuynh hướng phong kiến ?
+ Phong trào Cần Vương (1885 – 1896).
Tôn Thất Thuyết lãnh đạo một bộ phận sĩ phu yêu nước và nhân đứng lên chống
thực dân pháp. Phong trào Cần vương nhanh chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung
kỳ; Bắc kỳ, và một số địa phương ở Nam Kỳ. Điển hình như cuộc khởi nghĩa Phan
Đình Phùng tại Hương Khê Hà Tĩnh kéo dài đến năm 1896.
+ Phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885 – 1913) ở Bắc Giang do Hoàng
Hoa Thám lãnh đạo. Đây là cuộc đấu tranh anh dũng của quân và nhân ta kéo dài gần 30 năm,
đã ghi một mốc son lịch sử đấu tranh chống thực dân Pháp trong lịch sử cận hiện đại Việt

Nam.
b.Trào lưu yêu nước theo ý thức hệ tư sản (có 2 khuynh hướng khác nhau)
. Đồng chí cho biết các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư
sản?
+ Phan Bội Châu (1905 – 1912) chủ trương xuất dương cầu viện Nhật để đánh Pháp,
giành độc lập dân tộc chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương võ trang bạo
động đánh đuổi giặc Pháp thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam. Ông có cảm tình với
nước Nga xô Viết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vọng vào Nguyễn Ái Quốc. Cụ
đã sai lầm về con đường và phương pháp, do vậy cuối đời cụ phải thốt lên rằng: Than
Ôi “Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại không một lần thành công”.
+ Phan Chu Trinh: (1906 – 1908) khuynh hướng cải lương.
Cụ hướng theo con đường nghị viện hy vọng dựa vào Pháp để canh tân đất
nước đánh đổ chế độ phong kiến phát triển theo TBCN sau đó đòi Pháp trao trả độc
lập cho dân tộc. Nhưng cuối cùng bị thất bại (Lẫn lộn bạn thù ); Con đường cứu nước
của Phan Chu Trinh là đường lối cải lương phản đối bạo động (bạo động tắc tử) và
muốn dựa vào Pháp để đánh chế độ phong kiến. Con đường cứu nước của Phan Chu
Trinh đã thất bại, đúng như nhận xét của Trần Dân Tiên, dựa vào Chính Phủ Pháp để
tiến hành cải cách chẳng khác gì “ Xin giặc rủ lòng thương”
3
Lòng yêu nước và gương hoạt động của hai cụ đã cổ vũ nhân dân ta qua nhiều thế
hệ. Nhưng hai cụ chưa tiếp cận xu thế của thời đại mới chưa tìm ra con đường cứu
nước mới cứu nước cứu dân, con đường giành độc lập triệt để cho nhân dân lao động
làm chủ đất nước, lấy sức ta mà giải phóng cho ta.
c. Trào lưu yêu nước do Nguyễn Thái Học và Phạm Tuấn Tài lãnh đạo (1926 - 1930)
Gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng(25/12/1927) đến
năm 1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng đây là tổ chức chính trị tiêu biểu nhất cho khuynh
hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản, tiểu tư sản địa chủ và cả hạ sỹ quan
Việt Nam trong quân đội Pháp chủ trương bạo động ám sát cá nhân với tư tưởng chỉ đạo
“không thành công cũng thành nhân” đã dốc hết lực lượng, tổ chức bạo động với cuộc khởi
nghĩa Yên Bái nhưng cuối cùng cũng thất bại.

Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái chứng tỏ rằng phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản cũng không đáp ứng được yêu cầu khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Như vậy, khởi nghĩa Yên Bái thất bại, đánh dấu sự tan rã của xu hướng cách mạng
dân chủ tư sản và cũng xác nhận sự bất lực của tư tưởng tư sản trong việc xác lập con
đường cách mạng ở Việt Nam.
Phong trào yêu nước của giai cấp công nhân cũng diễn ra sôi nổi, tiêu biểu cuộc
đấu tranh của 600 thợ nhuộm ở chợ Lớn (11.1922) công nhân nhà máy xi măng Hải
Phòng (1923) nhà máy dệt Nam định (1925) xí nghiệp Ba Son (1925) nhưng chủ yếu
là họ đấu tranh kinh tế với những hình thức như bãi công, bỏ việc, đập phá máy móc.
Các cuộc đấu tranh tự phát đòi tăng lương, giảm giờ làm .Vì chưa được trang bị lý luận cách
mạng. Do chưa ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình.
Tóm lại : Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX mọi con đường cứu nước đều bị thất bại
các phong trào yêu nước đều bị thực dân pháp nhấn chìm trong bể máu vì sao vậy?
d. Nguyên nhân thất bại của các phong trào.
- Hạn chế bởi lập trường giai cấp do vậy không nhận thức đúng mâu thuẫn của xã
hội Việt Nam, chưa xác định rõ đối tượng của cách mạng.
Phan Bội Châu dựa vào nhật để đánh pháp“Đuổi hổ cửa trước, rước beo vào cửa
sau”.(Không hiểu được bản chất của chủ nghĩa đế quốc, ông cho rằng nước Nhật máu
đỏ, da vàng, đồng chủng đồng văn thì sẽ giúp ta đánh Pháp)
Phan Chu Trinh “Mong giặc rủ lòng thương là điều nghịch lý”, (dựa vào Pháp
để canh tân đất nước)
- Các phong trào diễn ra tương đối độc lập, không liên kết được với nhau.
- Do không có đường lối cách mạng phù hợp, đáp ứng nguyện vọng của quần
chúng nhân dân.
Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, chủ trương khi giành độc
lập dân tộc sẽ tiếp tục xây dựng đất nước theo chế độ phong kiến, còn 2 cụ Phan và
Nguyễn Thái Học lại chủ trương đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chính
vì vậy không đáp ứng nguyện vọng của quần chúng lúc này được sống độc lập tự do,
cơm no, áo mặc, để đáp ứng nguyện vọng đó chỉ có xã hội cộng sản

- Không thấy được lực lượng to lớn của công nhân và nông dân.
Trong thời đại mới, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách
mạng cũng thay đổi. Con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã hội, lực lượng cách
mạng, phương pháp cách mạng, cũng phải thay đổi. Nhưng các phong trào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, đã không nhận thức được lực lượng cách to lớn quyết định đến
thành bại của cách mạng là quần chúng công nông. Luôn đề cao vai trò của cá nhân.
4
Do vậy, không đề ra chủ trương tập hợp công nông, không đề ra được mục tiêu giải
quyết lợi ích sống còn của công nông.
- Không có phương pháp cách mạng phù hợp các phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã không nhận thức được lực lượng cách mạng.
- Do thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo: Đối với giai cấp công nhân, mặc dù đã
hình thành và đang trong giai đoạn phát triển nhưng chưa đảm đương được sứ mệnh
lịch sử của mình chưa được trang bị lí luận cách mạng, chưa tổ chức ra được chính
đảng của mình.
- Đường lối cứu nước không phù hợp với xu thế thời đại
Sau thắng lợi của cáh mạng tháng Mười Nga mọi cuộc giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải theo cách mạng vô sản nhưng các sĩ phu yêu nước lại theo tư tưởng
phong kiến, dân chủ tư sản trở nên lỗi thời
Như vậy các trào lưu yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế XX đều thất bại mà
nguyên nhân chủ yếu là do thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo và không có một
đường đối đúng cách mạng đúng. VKĐH Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định “
Các phong trào cứu nước từ lập trường Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản,
qua khảo nghiệm lần lượt bị thất bại” CMVN vẫn khủng hoảng bế tắc về đường lối
cứu nước. Thực chất là thiếu giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Vào thời điểm lịch sử đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc Người Việt Nam giàu lòng
yêu nước tuy rất khâm phục tinh thần yêu nước của những người lãnh đạo phong trào
Cần Vương, tinh thần dân tộc của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh nhưng không đi theo con đường của các nhà yêu nước mà các bậc tiền bối đã đi.
Người quyết tâm đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc.

3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng cộng sản
a. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
- Sơ lược vể tiểu sử của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc:
+ Hoàn cảnh gia đình: Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước
giàu nhiệt huyết cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Lúc nhỏ lấy tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành lớn
lên Nguyễn Ái Quốc giữa lúc nước mất nhà tan, sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp,
giải phóng dân tộc (ở trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi được nghe 3 chữ Pháp, tự do, bình
đẳng bác ái và từ thực tế ấy tôi muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn xem
những gì ẩn chứa đằng sau những chữ ấy … tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”
rồi trở về giúp đồng bào). Rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối,
nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ. Vượt qua tầm hạn chế của
những sĩ phu yêu nước đương thời.
+ Ngày 05/6/ 911 tại Bến cảng Nhà Rồng Nguyễn Tất Thành với tên là Văn Ba ra
đi tìm đường cứu nước mới, xem họ làm thế nào để về giúp đồng bào mình.
(Lên đường sang các nước phương Tây, nơi ẩn chứa những từ đẹp đẽ như bình
đẳng, bác ái, tự do mà Người đã được thấy ở sách báo tân thư, nơi có khoa học kỹ
thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, với một nguyện vọng thiết tha là xem
họ làm như thế nào để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nô lệ.)
Nguyễn Ái Quốc bôn ba nhiều nước trên thế giới như: Pháp, Mỹ, Anh, Đức…
làm đủ nghề để kiếm sống, hoà mình vào phong trào của quần chúng. Chính quá trình
lao động và đấu tranh trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc đã
giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã
đến các nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ; nghiên cứu lý luận và khảo sát thực
5
tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới như cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789,
cách mạng Nga 1917. Qua thực tiễn Nguyễn Ái Quốc đã rút ra được 3 kết luận quan
trọng, đánh dấu từng bước chuyển biến tư tưởng quan điểm của Người từ CNYN sang
lập trường quan điểm giai cấp, từ một người yêu nước trở thành người cộng sản. Quá

trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn:
- Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc (1911- 1920)
Với yêu nước nồng nàn thấu hiểu nổi khổ của người dân mất nước người đã đi về
phương tây để tìm ra chân lý của thời đại tìm ra con đường cứu nước cứu dân “Tôi
muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước. sau khi xem họ làm thế nào tôi trở
về giúp đồng bào ta”. Hành trang đi chỉ là lòng yêu nước thương dân và chỉ có một
nguyện vọng và ham muốn tột bậc làm sao cho nước nhà được độc lập, dân dân được
ấm no, hạnh phúc ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành; Trước lúc ra đi
Người có rủ một người bạn tên là Lê đi cùng Anh Lê hỏi chúng ta lấy tiền đâu mà đi ?
Người đã giơ 2 bàn tay của mình và nói tiền đây chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống
và để đi (Hồ Chí Minh con đường vạn dặm Mai Văn Bộ)
+ Giai đoạn 1: Từ năm 1911- 1916
Từ ngày 05/6/1911, trên tàu La- tút- trêvin một tàu lái buôn của pháp cập bến
Mác-xây, làm một người phụ bếp có tên Ba, Người đã đến Paris thủ đô nước Pháp, khi
đến pháp người chứng kiến cảnh Người ăn mày; người già không nơi nương tựa và có
cả gái điếm nữa Người tự hỏi “ tại sao Pháp không khai hóa đồng bào của họ mà đi
khai hóa đồng bào ta” trong quá trình lao động và học tập người có dịp đi các nước
châu Phi, và cuối năm 1913 thì Người từ Mỹ sang Anh, trở về Pháp.
Từ thực tiễn của ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc mà Người đã được chứng
kiến ở nhiều nước trên thế giới trên nhiều châu lục, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “rằng
dù màu da có khác nhau trên đời này chỉ có hai giống người, giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Và Người đã đưa ra kết luận quan trọng đầu tiên là: “Ở đâu
Chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao
động cũng bị áp bức bóc lột dã man. Bởi vậy giai cấp công nhân và nhân dân lao động
ở tất cả các nước đều là bạn, còn Chủ nghĩa đế quốc, Chủ nghĩa thực dân ở đâu cũng là
kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động”.
Với kết luận trên, Nguyễn Ái Quốc đã đặt cơ sở cho việc xác định đúng bạn - thù (khẳng
định giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp là bạn, bọn thực dân Pháp là thù); đặt cơ
sở đúng về đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, gắn cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa.

+ Giai đoạn 2: từ 1917-1919:
Cuối năm 1917 Nguyễn Ái Quốc từ nước Anh trở về Pháp Người dành một thời gian
để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập nghiên cứu Cách mạng tư
sản Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1789) đồng thời tham gia đấu tranh trong hàng ngũ
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc đủ các màu da. Người nhận thấy các cuộc
cách mạng tư sản Mỹ và Pháp là những cuộc cách mạng “không đến nơi” vì quần chúng
nhân dân vẫn đói khổ.
* Cuối năm 1917, Người đã lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước. Người giữ
chức vụ Tổng thư kí và nhanh chóng trở thành linh hồn của Việt kiều yêu nước tại Pháp.
* Cách mạng tháng 10/1917 Nga thành công mở ra một thời kỳ lịch sử của xã hội loài
người thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng.
* Năm 1919, nhân danh những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc
gửi tới hội nghị Vécxây Bản yêu sách Tám điểm đòi quyền tự do dân chủ và bình đẳng
6
cho dân tộc, Vào đầu năm 1919 các nước thắng trận họp hội nghị hòa bình ở Vécxây -
(Pháp) để chia lại thị trường thế giới. Tổng thống Mỹ Uyn- xơn đến hội nghị với kế
hoạch 14 điểm rêu rao quyền dân tộc tự quyết. Nguyễn Ái Quốc thay mặt hội những
người An Nam yêu nước ở pháp gửi tới hội nghị Vécxây yêu sách của nhân dân dân
An Nam Tám điểm đòi thực dân Pháp- chủ nghĩa đế quốc phải công nhận quyền bình
đẳng giữa các dân tộc:
Qua sự kiện này, Người rút ra được kết luận quan trọng là: “Những lời tuyên bố tự
do dân chủ của bọn đế quốc chỉ là trò bịp bợm; các dân tộc bị áp bức muốn được độc
lập tự do thực sự, trước hết phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình
giải phóng cho mình. (HCM, TT, T1. Nxb CTQG, H 2000, tr. 416). Sự kiện đó được
báo chí tiến bộ Pháp công bố rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang dội . Đây là đòn
tấn công trực diện đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc quật thẳng vào bọn trùm đế quốc, là
người Việt Nam đầu tiên nói lên tiếng nói của chính nghĩa với những khát vọng cháy
bỏng của các dân tộc bị áp bức, có tiếng vang lớn trong nhân dân Việt Nam- nhân dân
Pháp và các nước thuộc địa của Pháp.

Kết luận trên đã vạch trần bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc, nhận rõ bộ
mặt thật của kẻ thù, nêu cao cảnh giác trong đấu tranh cách mạng.
Khẳng định tính chủ động cách mạng của các dân tộc thuộc địa, tinh thần độc lập
tự chủ của các dân tộc bị áp bức (đem sức mình để giải phóng cho mình)
Như vậy, những kết luận quan trọng trên, chính là cơ sở vững chắc để Nguyễn Ái
Quốc tiếp thu Luận cương của Lênin sau này.
+ Giai đoạn 3: từ cuối năm 1919 đến năm 1920
* Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin.
Đây là một sự kiện quan trọng, một bước ngoặt lớn làm chuyển biến tư tưởng
chính trị của Nguyễn ái Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, con
đường cách mạng vô sản ở Luận cương của Lênin. Một chân lý của thời đại để tìm ra
con đường cứu nước mới cho dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Khi kể về
cuộc gặp gỡ lịch sử đó năm 1951 Người viết trong tác phẩm con đường tôi tới chủ
nghĩa Lênin: “Đề cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng
biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên; ngồi một mình trong buồng mà tôi muốn nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ,
đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta (HCM, TT,
T10. Nxb CTQG, H 1996, tr.127).
Luận cương của Lênin đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang
trăn trở tìm hiểu giúp người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân
tộc nhận rõ lập trường của Lê nin và Quốc tế thứ 3 và nó đã ảnh hưởng quyết định đến
lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng
sản, mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
* Tháng 12/1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (Tours), Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế 3, và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Trở
thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc
đời hoạt động của Người. Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản và cũng vào
thời điểm này Nguyễn Ái Quốc đã có sự lựa chọn đúng đắn, dứt khoát về con đường
cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Người đưa ra kết luận thứ 3, vô cùng quan trọng:

“Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, con đường CMVS
Trả lời cho câu hỏi của nữ đ /c Rôdơ. Vì sao lại bỏ phiếu cho QT3? Nguyễn Ái Quốc
nói: “Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều
7
điểm khác nữa. Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ Tam QT nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp
bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị QT không hề nhắc đến vận mạng các
thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ Tam quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu.
(Trần dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch).
Người đã khẳng định dứt khoát con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam là con
đường CMVS, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với
chủ nghĩa quốc tế vô sản; mở đường đưa chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam tạo ra
bước ngoặt trong nhận thức tư tưởng của phong trào cách mạng.
Đây chính là chân lí của thời đại mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thấy được qua
mười năm tìm tòi nghiên cứu (1911-1920), vượt qua bao gian khổ để khảo sát thực tiển
có một không hai và từ thực tiễn những kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế
giới. Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp Chủ nghĩa Mác- Lênin, chiếc cẩm nang thần kì của
thời đại cẩm nang cứu nước, cứu dân mà bấy lâu nay dân tộc ta hằng khao khát.
Như vậy, trong quá trình tìm đường cứu nước (1911- 1920), Nguyễn Ái Quốc đã
rút ra được 3 kết luận quan trọng trên, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam, đưa cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu
nước, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Và đưa Nguyễn Ái Quốc từ người yêu
nước trở thành người cộng sản.
- Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác–Lê nin và chuẩn bị thành lập
Đảng (1921–1927 )
Từ năm 1921, sau khi đã tìm thấy chủ nghĩa Mác- Lênin con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp nghiên cứu học tập bổ sung và hoàn thiện đường lối cứu nước vừa tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,

Nguyễn Ái Quốc nhiệm vụ trước mắt là trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ,
đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập. Người khẳng định: Cách
mệnh muốn thành công phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mạng mới thành công.
Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Về Chính trị:
Thực chất là chuẩn bị về chính trị là chuẩn bị về đường lối cách mạng việt
Nam,những vấn đề này được Người trình bày trong tác phẩm Đường kách mệnh
* Cách mạng Việt Nam: Theo con đường cách mạng tháng Mười Nga, con đường
cách mạng vô sản.
> Đó là cuộc cách mạng triệt để, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do thực sự
> Đây chính là điểm khác nhau căn bản giữa con đường cứu nước của Nguyễn Ái
Quốc và con đường cứu nước trước đó
Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới: từ
CMTS Mỹ (1776), CMTS Pháp (1789), công xã Pari (1971) đến cách mạng tháng
Mười Nga (1917). Người đã phân tích, so sánh và cho rằng CM Mỹ và CM Pháp là
những cuộc cách mạng chưa đến nơi, chỉ có cách mạng Nga là cách mạng đến nơi.
Đó là cuộc cách mạng triệt để, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do thực sự chứ không phải thứ bình đẳng giả dối như Pháp khoe khoang bên An Nam.
CM Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công nông các nước và
dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mạng đạp đổ tất cả ĐQCN và tư bản trên thế giới.
8
Như vậy chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để vì nó mang lại lợi ích cho đại
đa số dân chúng. Cách mệnh rồi thì quyền giao lại cho dân chúng số nhiều không để
trong tay bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc. Đây là con đường cách mạng Việt Nam sẽ hướng theo.
* Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là CNXH. Cách mạng
Việt nam trải qua hai giai đoạn: giai đoạn đầu là cách mạng giải phóng dân tộc, giai
đoạn tiếp theo là giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn có mối quan hệ

biện chứng với nhau.
> Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng GPDT trong thời đại mới.
> Yêu cầu khách quan phải đánh đuổi đế quốc để giành ĐLDT một cách thực sự.
> Cách mạng GPDT diễn ra ở một nước thộc địa nửa phong kiến vì vậy nó
không những có mục tiêu đánh đuổi đế quốc, mà còn đánh phong kiến, tay sai, phản
động. Phải theo con đường cách mạng tháng Mười Nga.
* Lực lượng cách mạng: Công nông là gốc của cách mạng học trò nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông
Nguyễn Ái Quốc nêu lên rằng: vì áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị
áp bức càng nặng thì lòng cách mạng càng bền, chí cách mạng càng quyết.
Công nông tại sao lại là lực lượng chính của cách mạng: Vì công nông bị áp bức
nặng hơn; công nông là đông nhất cho nên có sức mạnh hơn hết, vì công nông tay
không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới,
cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy nên công nông là gốc cách mệnh tức là động lực
chính của cách mạng). Còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức,
song không cực khổ bằng công nông. Ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công
nông. “Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng, chứ không phải việc của 1-2 người,
cách mệnh trước hết: phải làm cho dân giác ngộ phải giảng lí luận cho dân hiểu, phải
bày sách lược cho dân.
Giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất, là
giai cấp đứng ở trung tâm thời đại, có sứ mệnh đào mồ chôn CNTB nên giữ vai trò
lãnh đạo.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã xác định lực lượng của cách mạng Việt Nam là toàn
dân tộc, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Phải biết vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách
mạng thế giới cho phù hợp với điều kiện lịch sử của dân tộc mình.
* Phương pháp cách mạng phải sử dụng bạo lực cách mạng. Cách mạng muốn
thắng lợi phải dùng sức mạnh của quần chúng, khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền,
phải là lực lượng tiến hành là quần chúng nhân dân. Cách mạng phải đoàn kết giai cấp
dùng bạo lực cách mạng của quần chúng. Phê phán cải lương, …
Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin có 2 phương pháp để giành chính quyền

đó là phương pháp hoà bình và phương pháp bạo lực. Trong đó, phương pháp hoà bình
là rất quý và hiếm, còn phương pháp bạo lực là qui luật phổ biến của mọi cuộc cách
mạng. “ Bạo lực là bà đỡ cho một xã hội mới đang thai nghen trong lòng xã hội cũ”
Bạo lực là sức mạnh của quần chúng cách mạng dùng để đánh đổ chính quyền của
bọn thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân, trấn áp bọn phản cách mạng, bạo
lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp (chính trị và quân sự) rất lớn đó là công cụ để đập
tan một chế độ xã hội đã bị lỗi thời, thúc đẩy sự phát triển, chuyển biến cách mạng
dùng bạo lực để chống bạo lực phản cách mạng.
Phải dùng phương pháp bạo lực vì Thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương
chúng không bao giờ rời bỏ địa vị thống trị của chúng và lợi ích kinh tế của chúng để
trả lại ĐLTD cho Việt Nam
9
Với bản chất hiếu chiến và tham lam, thực dân Pháp chúng câu kết chặt chẽ với
phong kiến để đàn áp nhân dân Đông Dương. Chúng sử dụng bạo lực, nên chúng ta
cũng phải dùng bạo lực để chống lại chúng .Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã chọn phương
pháp cách mạng là bạo lực của quần chúng.
Theo Nguyễn Ái Quốc: Phương pháp cách mạng rất quan trọng, phải biết cách làm
thì mới chóng, biết cách làm biết đồng tâm mới làm được. Người khẳng định: Dân khí
mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi.
Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những thiếu sót của những người đi trước như ám sát
cá nhân xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức hoặc làm cho dân ỷ lại mà quên
tính tự cường ( phải có sách lược mưu chước, kế hoạch biết lúc nào nên làm lúc nào
chưa nên làm).
Người phê phán ám sát cá nhân: “ám sát là làm liều kết quả ít, vì giết thằng này
còn thằng khác, giết sao cho hết? Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để
đánh đổ cả giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua,
9, 10 anh quan mà được.
Thực tiễn chứng minh Đảng đã vận dụng phương pháp bạo lực cách mạng trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thu nhiều thắng lợi vẻ vang trong chiến thắng
2 kẻ thù xâm lược)

* Đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Ai làm cách mạng thế giới là đồng chí của Việt Nam” Trong tác phẩm Đường Kách
Mệnh, Nguyễn Ái Quốc gới thiệu tóm tắt các tổ chức Việt Nam cần phải có quan hệ:
QTCS, Phụ nữ quốc tế, công nhân quốc tế đỏ,….
Và đặc biệt trong khi làm cách mạng chúng ta phải đoàn kết, liên minh và tranh
thủ sự giúp đỡ của cách mạng Nga, giai cấp vô sản Pháp và phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa trong khi đề cao đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế.
Nguyễn Ái Quốc luôn nhấn mạnh tinh thần tự lực tự cường, ý thức độc lập tự chủ:
“Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải giúp mình đã”.
Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và
cách mạng thuộc địa: Cách mệnh thuộc địa có thể chủ động giành thắng lợi không ngồi
chờ chính quốc, ngược lại Việt Nam cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp làm cách mệnh cũng dễ. Đây cũng là bài học đoàn kết
quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ, tự lực tự cường của cách mạng nước ta từ khi có
Đảng lãnh đạo.
* Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng
Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững con
thuyền mới chạy. Trong Đảng phải có chủ nghĩa làm nòng cốt ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo. Đảng có chủ nghĩa như người có trí khôn, tàu có bàn chỉ nam .
Thực tiễn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 82 năm qua đã chứng
minh vai trò quyết định to lớn của đảng trong sự nghiệp cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể đặc
điểm của cách mạng Việt Nam. Những nội dung trên là tư tưởng cốt lõi con đường cứu
nước của Nguyễn Ái Quốc để xác định đường lối đúng cho cách mạng Việt Nam.
+ Về tư tưởng
Lênin “ Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng chỉ
Đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong” ( Lê nin TT tập 16, Nhà xuất bản Tiến bộ M 1978 , tr30)
Sau khi tiếp thu được lý luận Mác – Lênin và trở thành người Đảng viên Đảng cộng
sản Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam. Qua các

10
sách báo do người viết, như báo Đông Dương, Người cùng khổ, tác phẩm Bản án chế độ
thực dân pháp, truyện ngắn Lời than vãn của Bà Trưng trắc, vở kịch “Con rồng Tre”
* Mục Đích : Nhằm chuẩn bị nền tảng tư tưởng cho đảng
> Nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam thức tỉnh, giác ngộ quần
chúng và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc, “ Hỡi Đông dương
đáng thương hại. Người sẽ chết mất thôi nếu đám thanh niên già cỗi của người không
dám hồi sinh”
> Làm cho chủ nghĩa Mác Lênin giữ vai trò chủ đạo trong hệ tư tưởng của xã hội
Việt Nam. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất nhất chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin. (HCM; toàn tập,
Nxb. CTQG, HN, 2002, t10, tr 268).
> Tố cáo tội ác của thực dân Pháp,
> Liên kết cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở các
nước đế quốc vạch ra phương hướng hành động của nhân dân các nước thuộc địa kêu
gọi nhân dân Việt Nam và nhân dân ở các nước thuộc địa phải tự đứng dậy giải
phóng cho mình.
“Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động chỉ có theo lý luận
cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm của cách mệnh tiên
phong”. Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin. (HCM; toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t10, tr 268).
> Tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, cách mạng tháng Mười Nga, công cuộc
xây dựng CNXH ở Liên Xô, về Quốc tế Cộng sản.
> Người tích cực đấu tranh với những quan điểm tư tưởng sai trái, như tư tưởng
phong kiến, tư sản, bạo động, ám sát cá nhân.
> Phương thức truyền bá CN Mác- Lênin của Nguyễn Ái Quốc rất sáng tạo phong
phú đa dạng, dễ học, dễ nhớ, dễ hiểu.

Nguyễn Ái Quốc không truyền bá lí luận một cách khuôn sáo, câu chữ mà truyền
bá tinh thần và phương pháp học thuyết ấy làm cho ai cũng có thể hiểu và làm theo.
Căn cứ vào đối tượng tuyên truyền là dân tộc Việt Nam lúc này có đến hơn 95% dân
số mù chữ, bị thực dân cấm đoán nên Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng những ngôn từ dễ
hiểu, với nhiều thể loại, bằng những việc làm cụ thể hàng ngày để tuyên truyền CM
Mác- Lênin.
Các bài báo và các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc bằng nhiều con đường khác
nhau, những tài liệu đó được bí mật chuyển về trong nước để góp phần giác ngộ cách
mạng cho quần chúng nhân dân. Cụ thể:
> Tháng 4 và 5/1921, Nguyễn Ái Quốc viết 2 bài báo quan trọng lấy tên là Đông
Dương đăng trên tạp chí Cộng sản.
Tháng 7/1921, Nguyễn Ái Quốc lập ra hội liên hiệp thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc
đã ra tờ báo: Người cùng khổ, tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân ở thuộc địa, đấu
tranh đòi quyền công dân và quyền tự do dân chủ, giới thiệu cách mạng tháng Mười
Nga và tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin ở tờ báo này, Nguyễn Ái Quốc vừa làm
chủ nhiệm kiêm chủ bút, vừa là quản lí, người phát hành, người bán báo.
> Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
Tác phẩm giác ngộ cho nhân dân thuộc địa thấy rõ chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù
chung của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động ở các nước tư bản và các dân tộc
11
thuộc địa bằng những số liệu lịch sử cụ thể, Nguyễn Ái Quốc đã minh chứng chế độ
thực dân Pháp là chế độ ăn cướp chế độ hãm hiếp đàn bà và chế độ giết người, tệ tham
nhũng trong bộ máy cai trị, các quan cai trị đều là những ông vua con tố cáo việc đầu
độc dân bản xứ
Ở tác phẩm này những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Nguyễn Ái Quốc về chiến
lược, sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu được xác định. Nguyễn Ái Quốc nêu
rõ mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cáh mạng giải phóng ở các thuộc địa thông
qua hình tượng con đỉa hai vòi, con chim hai cánh, thông qua hình tượng con đỉa hai
vòi: “CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và
một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật

ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi
còn lại kia vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra. (HCM: TT, Nxb
CTQG, HN, t2, tr. 120).
> 6/1925; theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, tổng bộ Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên, để phổ biến chủ nghĩa Mác- Lênin
và giác ngộ tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
> Năm 1927, Người viết tác phẩm Đường Kách mệnh, nội dung thể hiện rõ đường
lối cơ bản của cách mạng nước ta.
Khi nhận xét các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc Giáo sư Nhật bản SiGô Si Ba Ta
“ Các tác phẩm ấy đã phát triển thành lý luận không theo uyên bác xa xôi mà viết bằng
những lời lẽ đơn giản, những câu ngắn gọn những giá trị lý luận cách mạng của Hồ
Chí Minh giống như những viên ngọc quý được khảm trong các tác phẩm của người”
(Thế giới ca ngợi Hồ chí Minh Nxb sự thật H1976, tr246)
Ngoài ra Người còn viết kịch: Lời than vãn của bà Trưng Trắc; Con rồng tre nhằm
tố cáo vua Khải Định hèn hạ bạc nhược…để tuyên truyền cách mạng tháng Mười Nga,
Nguyễn Ái Quốc còn làm thơ, hay tuyên truyền dưới dạng nhật kí (Nhật kí chìm tàu,
để ca ngợi chế độ xã hội Liên xô tốt đẹp, tăng thêm niềm tin cho quần chúng vào nước
Nga Xô viết, vào CNCS).
Như vậy, để chuẩn bị tư tưởng cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Nguyễn Ái
Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào yêu nước và phong
trào công nhân Việt Nam. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin được xác định là
quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải chiến thắng mọi hệ tư tưởng khác trong xã hội
Việt Nam.
+Về Tổ chức
Thực chất của chuẩn bị tổ chức là chuẩn bị về cơ cấu, hệ thống nguyên tắc điều lệ
cán bộ cho sự ra đời cho một chính Đảng của gia cấp công nhân.
* Người tích cực thành lập các tổ chức để truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác Lênin và đào
tạo đội ngũ cán bộ trung kiên .
Nguyễn Ái Quốc vạch ra những nguyên tắc, hình thức tổ chức mà Người đã tổng
kết kinh nghiệm cách mạng thế giới. Phải tổ chức, phát huy sức mạnh quần chúng,

thông qua công tác vận động của Đảng
* Tháng 6 năm 1925 thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, gồm
những thanh niên yêu nước hướng họ đi theo con đường CSCN. Mở lớp đào tạo cán
bộ, do Người trực tiếp phụ trách, giảng dạy phần lớn các thanh niên được huấn luyện
trở về nước để truyền bá chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng của người vào công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác .
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên có chức năng, nhiệm vụ là để đào tạo một
đội ngũ cán bộ cốt cán cho Đảng, cho cách mạng Việt Nam
12
Cụ thể: Trong hai năm (1925-1926), Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở lớp, huấn
luyện được 200 cán bộ. Trong đó, Người lựa chọn một số đồng chí ưu tú gửi đi học ở
trường đại học Phương Đông và trường quân sự ở Liên Xô. Phần lớn các thanh niên
trở về nước để truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng của Người vào công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. (Võ Nguyên Giáp đi học trường
quân sự ở Hoàng Phố, Trần Phú đi học ở trường đại học Phương Đông)
* Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có cương lĩnh, điều lệ rõ ràng.
* Hội có hệ thống chặt chẽ từ TW đến cơ sở; ở TW thì có tổng hội, ở cơ sở có chi
hội với số lượng hội viên đông đảo.
Tính đến năm 1929, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có 1.700 hội viên chính
thức, kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người.
* Năm 1928 Thực hiện chủ trương “Vô sản hoá” đưa Hội viên vào nhà máy, hầm
mỏ, vào phong trào quần chúng để tuyên truyền lý luận Mác – Lê nin, đồng thời rèn
luyện đảng viên. Chủ trương vô sản hoá là chủ trương thực hiện bốn cùng cùng ăn,
cùng ở, cùng lao động và cùng đấu tranh với quần chúng công nông.
* Đưa hội viên vào hầm mỏ nhà máy để truyền bá Chủ nghĩa Mác – Lênin vào
giai cấp công nhân.
Trong phong trào vô sản hoá, những trí thức tiểu tư sản đi vào các nhà máy xí
nghiệp cùng lao động với công nhân; như Nguyễn Phong Sắc đi làm công nhân nhà
máy xe lửa Tràng Thi, Khuất Duy Tiến và Ngô Duy Ngụ làm công nhân nhà máy điện

Nam Định, Ngô Gia Tự làm công nhân khuân vác ở Sài Gòn. Một số đồng chí đi
xuống lao động ở vùng mỏ như Nguyễn Văn Cừ làm công nhân khuân vác ở mỏ than
Mạo Khê, Lê Thanh Nghị làm ở mỏ than Cọc Năm, Đặng Châu Tuệ làm ở mỏ than
Cẩm Phả, nhiều đồng chí khác đi làm ở các mỏ than Vàng Danh, Uông Bí. Các đồng
chí Trần Tử Bình, Nguyễn Mạnh Hồng đi lao động ở đồn điền Phú Riềng.
* Nhờ vô sản hoá khoảng cách giữa những người lao khổ và những người trí thức
tiểu tư sản được xoá bỏ. Sự tiếp xúc gần gũi là điều kiện thuận lợi để gieo mầm cách
mạng, trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và lí luận cách mạng giải phóng dân
tộc của Nguyễn ái Quốc một cách phổ cập trong quần chúng.
* Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, năm 1928 có 300 hội viên; năm 1929 lên
tới 1700 hội viên kể cả hội viên dự bị gần 3000 người, nhiều trung tâm kinh tế, chính
trị trong cả nước trở thành lực lượng chính trị yêu nước nhất cả nước.
Phong trào vô sản hoá đã thúc đẩy nhanh phong trào đấu tranh của công nhân từ
đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, từ giác ngộ dân tộc tới giác ngộ giai cấp; Vô
sản hoá là một cuộc thử lửa, đào tạo cán bộ một cách nghiêm khắc, có tác dụng sàng
lọc đội ngũ cán bộ qua thực tiễn; đây chính là biện pháp rèn luyện và sàng lọc đội ngũ
đảng viên sau này
Việc truyền bá giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân đấu tranh đã dấy
lên một phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ dặc biệt là phong
trào công nhân .
* Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ trong những năm
1919 – 1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công; Từ năm 1926 – 1929 phong trào công nhân
ngày càng phát triển với sự ra đời và hoạt động của hội Việt Nam cách mạng thanh
niên; trong năm 1928 – 1929 nổ ra hơn 40 cuộc đấu tranh khắp các vùng trên cả nước.
Các cuộc đấu tranh đó kết hợp khẩu hiệu kinh tế với khẩu hiệu chính trị vượt ra ngoài
phạm vi một nhà máy, đồn điền bước đầu có sự liên kết nhiều ngành nhiều địa phương.
Điều đó chứng tỏ trình độ giác ngộ của công nhân đã nâng lên rõ rệt tuy chưa đều
13
khắp. Phong trào công công nhân đang phát triển mạnh mẽ, có sự quy tụ phong trào
yêu nước nói chung.

Tóm lại: Thông qua việc chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc
đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta, dẫn đến
sự ra đời của các tổ chức cộng sản
b. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản Đảng.
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng cách mạng. Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đã sớm nắm bắt được nhu cầu lịch sử của giai cấp
công nhân và của dân tộc
+ Lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin được truyền bá sâu rộng vào phong trào cách
mạng Việt Nam trở thành hệ tư tưởng thống trị toàn bộ xã hội, đánh bại các trào lưu tư
tưởng khác.
+ Phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ từ tự phát đến tự giác, quy mô ngày
càng rộng khắp, chất lượng ngày càng cao.
Lúc này Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử dẫn tới ba tổ chức cộng sản ra đời.
Đại hội đại biểu của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tháng 5 năm 1929
không thành công, các đại biểu bỏ ra về thành lập các tổ chức cộng sản
+ Ba tổ chức cộng sản ra đời.
* Bắc Kỳ thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929)
* Nam Kỳ thành lập An Nam Cộng sản Đảng (10/1929)
* Trung Kỳ thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (01/1930). Trong vòng
6 tháng 3 tổ chức cộng sản lần lượt ra đời chứng tỏ những điều kiện thành lập Đảng
cộng sản ở nước ta đã chín muồi
Ba tổ chức cộng sản đều có mục đích, tôn chỉ rõ ràng nêu rõ đường lối cách
mạng dân chủ tư sản do giai cấp công nhân lãnh đạo tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ba tổ chức cộng sản ra đời phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử và
đi đúng quỹ đạo của thời đại.
+ Hạn chế: Các tổ chức chưa thấy rõ hiện tượng phân tán của phong trào sẽ dẫn tới
nguy cơ gì? Tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, lôi kéo đảng viên, gây mất đoàn kết …

nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng lớn đến phân liệt về chính trị, tư tưởng.
Vì lợi ích của dân tộc và nguyên tắc tổ chức của chính Đảng Mác – Lê nin
không cho phép phân tán lực lượng. Tổ chức thành lập một chính Đảng là nhu cầu bức
thiết của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ .
- Hội nghị thành lập Đảng và chính cương sách lược vắn tắt.
+ Hội nghị thành lập Đảng
Quốc tế cộng sản gửi thư giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc hợp
nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. Nêu rõ “ Nhiệm vụ quan trọng nhất
và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một Đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng có tính chất
quần chúng ở Đông Dương Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở
Đông Dương”
* Thời gian: Mùa xuân 1930, từ ngày 06 tháng 01 đến 07/ 2/ 1930 bán đảo
Cửu Long, Hương Cảng Trung Quốc.
* Thành phần tham gia: Dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (có 07
đồng chí): Đông Dương Cộng sản Đảng: có 02 đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh
14
Đình Cửu),. An Nam Cộng sản Đảng: có 02 đồng chí (Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn
Thiệu) Đại biểu nước ngồi: 02. Đơng Dương cộng sản liên đồn khơng kịp tới dự.
* Hội nghị thơng qua: Chính cương sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là điều lệ đầu tiên của
Đảng.
+ Kết quả: Hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một Đảng duy nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đến ngày 24/2/1930 thơng qua quyết nghị chấp nhận Đơng Dương Cộng sản
liên đồn ra nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
+Ý nghĩa: Hội nghị thành lập Đảng 03/02/1930 có ý nghĩa như một đại hội (ra được
cương lĩnh). Hội nghị đã đem lại cho giai cấp cơng nhân và dân tộc Việt Nam, một đảng
Mác- Lênin chân chính, một đội tiên phong thống nhất, có đường lối cách mạng đúng đắn,
làm cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng và hành động cho các lực lượng u nước Việt

Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước.
+ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
(6 nội dung cơ bản thể hiên nội dung đường lối của cách mạng Việt Nam)
* Mục tiêu của cách mạng Việt Nam: là làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để tiến tới xã hội cộng sản.
* Nhiệm vụ của cách mạng cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa
là :
> Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
nam hồn tồn độc lập, dựng ra chính phủ cơng nơng binh và tổ chức qn đội cơng nơng.
> Về kinh tế : tịch thu tồn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho chính
phủ cơng nơng binh; mở mang cơng nghiệp và nơng nghiệp, miễn thuế cho dân cày
nghèo.
> Về văn hóa xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ
thơng giáo dục theo hướng cơng nơng hóa
Thực chất của phương hướng chiến lược trên là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đó là con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vơ sản, khác hẳn với
con đường cứu nước của những nhà u nước đương thời.
* Lực lượng cách mạng, trên cơ sở lấy giai cấp cơng nhân là lực lượng chính
do giai cấp cơng nhân lãnh đạo, mở rộng đồn kết với các giai cấp các tầng lớp và tồn
thể dân tộc.
* Phương pháp cách mạng: Sử dụng sức mạnh tổng hợp của quần chúng để lật
đổ ách thống trị của đế quốc, tay sai lập nên chính phủ cơng nơng
* Mối quan hệ của cách mạng: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới.
* Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của vơ sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đại hội XI
khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích

của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” tr.130
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng nó đã xác định đúng
đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Đảng và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam
phù hợp với thời đại mới. Cương lĩnh đã giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ dân tộc
15
và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trên lập trường
giai cấp công nhân. Cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con
đường cách mạng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .
16
-Ý nghĩa Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước trong những năm
cuối thế kỷXIX đầu thế kỷ XX
+ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối đúng là điều kiện cơ bản có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam từ đó về sau.
+ Khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam.
+ Là hạt nhân quy tụ các giai cấp, tầng lớp nhân dân tạo lên sức mạnh tổng hợp
của cả dân tộc để chiến thắng kẻ thù.
+ Đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo chung của cách mạng thế giới.
+ Góp phần vào kho tàng lý luận Mác- Lê nin về xây dựng một chính đảng ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Hồ Chí Minh viết: Việc thành lập Đảng ta là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng nước ta, nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
c. Kinh nghiệm của quá trình vận động thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
- Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tổng kết thực tiễn, kết hợp tinh hoa của nhân loại
với tinh hoa của dân tộc là những yếu tố giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu
nước đúng đắn, đặt tiền lệ cho truyền thống độc lập, tự chủ sáng tạo của Đảng về sau.
- Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản tiền bối có phương pháp truyền bá

chủ nghĩa Mác – Lênin đúng đắn sáng tạo vào cả phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam.
- Đảng cộng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác
– Lênin với phong trào công nhân với phong trào yêu nước Việt Nam
- Đảng cộng sản Việt Nam sớm xác định được đường lối cách mạng đúng là nhân
tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Sự đoàn kết thống nhất của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự
đoàn kết thống nhất phong trào cách mạng cả nước
II. NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành
chính quyền – Cách mạng Tháng Tám 1945
Ngay khi vừa ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã
quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây
dụng nên lực lượng yêu nước to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân pháp và
bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc
- Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng trãi qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh,
qua ba cao trào cách mạng lớn
+ Cao trào 1930 – 1931:
+ Cao trào 1936 – 1939
+ Cao trào 1939 - 1945
- Đảng ta lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công. Nhân
dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và đánh đổ chế độ
phong kiến tay sai tồn tại trên đất nước ta gần một thế kỷ .
- Ngày 02- 9 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra đất nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà, lập nên nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, lập nên Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
17
Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân dân, tiến
lên chủ nghĩa xã hội.

- Khi đánh giá về ý nghĩa lịch sử Hồ Chí Minh khẳng định:
“ Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai
cấp giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng:
“Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nữa
thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”( HCM: TT, Nxb.CTQG,H, 2002, t6, tr.159 )
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và tiến
hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược(1945 – 1954 )
a. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)
- Khi mới ra đời vận mệnh đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, nước Việt Nam dân
chủ Cộng hoà đã đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm
- Đảng đề ra chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng.
+Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện chính sách mềm dẻo, lợi
dụng mâu thuẫn trong đội ngũ kẻ thù để giành thời gian cũng cố lực lượng chuẩn bị
cho kháng chiến
+ Động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một cũng cố, giữ
vững chính quyền và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân pháp
xâm lược.
b. Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 – 1954)
- Thực dân pháp không từ bỏ giã tâm quyết cướp nước ta một lần nữa ngày 18
tháng 12 năm 1946, đại diện chính phủ Pháp cắt đứt mọi liên hệ với đại diện chính phủ
ta. Cuộc chiến tranh xâm lược lan ra cả nước.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến, Người nói: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ …Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp
cứu nước Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn

đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng
lợi nhất định về dân tọc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến
thắng lợi muôn năm”.
3. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa (từ năm 1975 đến nay)
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 10 năm (1975-1985) chúng ta giành được
nhiều thành tựu quan trọng song còn nhiều khó khăn nhất là khó khăn về kinh tế.
- Đảng lãnh đạo đường lối đổi mới từ năm 1986-1996
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go,
Đại hội VIII của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày 01/7/1996) đã nhận định: “Công cuộc
đổi mới trong 10 năm qua đã thu được thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.
Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản”.
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Trong năm
năm 1996-2000 toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua những khó khăn, thách
thức, đạt được những thành tựu quan trọng.
18
- Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, 5 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế xã hội 2001-2010, Đại hội X đã bổ sung, phát triển nhiều vấn đề lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đặt ra nhiệm vụ tổng
kết 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991, 10 năm thực hiện chiến lược 2001-2010.
- Đại hội XI của Đảng đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm
1991, 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 và nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết Đại hội XI đã rút ra một số
kinh nghiệm đó là:
- Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào phải kiên trì thực hiện đường
lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển

bền vững.
- Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng
thành và xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của
Đảng, đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế….
KẾT LUẬN
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của lịch sử
Việt Nam trong đầu thế kỷ XX; là kết quả của quá trình đấu tranh dân tộc và giai cấp ở
Việt Nam; là kết quả của công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - chuẩn bị đầy
đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là thắng lợi của hệ tư tưởng Mác - Lê nin đối với
trào lưu tư tưởng khác. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp lý
luận Mác - Lênin, phong trào công nhân, và phong trào yêu nước. Sự kết hợp đó là một
trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng, đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
Ngày 10 tháng 4 năm 2013
GIẢNG VIÊN
Nguyễn Sơn
19


20

×