BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thanh Dung
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HÀ BÍCH LIÊN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Ban Chủ
nhiệm khoa Lịch sử và các thầy cô trong khoa Lịch sử trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hà Bích Liên đã tận tình
hướng dẫn trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, những người thân
yêu, bạn hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ trong những ngày
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng được mọi người nói tới, nhắc tới và
nghĩ tới bằng nhiều tình cảm khác nhau. Là vùng đất miền Tây Nam Bộ, nơi có sông Tiền, sông Hậu
và các chi lưu nhỏ của sông Mê Kông chảy ra biển mà nhân dân ta từ xưa quan niệm là chín con rồng
(Cửu Long) phun nước để tưới vùng đất đai này. Đây là vùng đất của lúa gạo, tôm, cá, miền đất của
cây trái, mưa thuận gi
ó hoà và đất của những anh hùng trong quá trình mở đất và giữ đất.
Về phương diện dân cư, đồng bằng sông Cửu Long là hỗn hợp dân cư từ nhiều nguồn địa phương
khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ phát triển xã hội và văn hoá giữa các khu vực
trong vùng cũng như lối sống, phong tục tập quán, phương thức canh tác, phong cách làm ăn không
hoàn toàn như nhau.
Về phương diện dân tộc, đồng bằng sông Cửu Long ngay từ buổi đầu lịch sử khai phá và hìn
h
thành vùng đất này đã có hỗn hợp giữa tộc người Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Trong đó tộc người Việt và
văn hoá Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản bên cạnh sự hoà hợp với văn hoá tộc người Chăm,
Khmer và văn hoá của các cư dân địa phương ở các vùng ven biển Nam Trung Hoa. Tính chất bao
trùm trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long là sự hoà hợp và phát triển những yếu tố văn hoá và
dân tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng của văn hoá của các dân tộc người anh em
khác
vẫn tồn tại sâu đậm trong nông thôn nhiều vùng đặc biệt ở An Giang. Thể hiện rõ nét nhất là sự hoà
hợp giữa ba tộc người Việt, Khmer, Hoa về hiện tượng nói ba thứ tiếng, sự vay mượn qua lại những
yếu tố văn hoá và phong tục tập quán của người Việt, người Khmer, người Hoa.
Chúng ta có thể nhận thấy đư
ợc sự hoà hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình giao lưu xích
lại gần nhau giữa các dân tộc ở vùng này là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật bắt nguồn từ lịch sử
di dân và định hình ở vùng đất này.
An Giang là một trong 13 tỉnh thành của đồng bằng sông Cửu Long. An Giang là tỉnh nông
nghiệp nằm ở Tây N
am Tổ Quốc. Nơi con sông Mê Kông đổ vào đồng bằng Nam Bộ bằng hai dòng
sông Tiền và sông Hậu - với tên gọi chung là sông Cửu Long. Vừa có đồng bằng vừa có núi non cùng
với hệ thống kênh rạch khá chằng chịt, dân số khoảng 2.300.000 người vào năm 2005, An Giang là
tỉnh đa dân tộc : người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm …các dân tộc anh em đều định cư khá lâu đời trên
mảnh đất này với truyền thống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và tạo nơi đây
một bản sắc văn hoá riêng
rất phong phú và đa dạng.
Cùng với lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ, người Chăm đã định cư và sinh sống ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long nói chung, An Giang nói riêng. Với dân số trên một vạn người, chiếm số lượng
đông nhất trong cộng đồng Chăm ở Nam Bộ.
Tuy có chung nguồn gốc với người Chăm Nam Trung Bộ, nhưng trải qua quá trình định cư lâu
dài tại vùng đất An Giang, họ có một vị trí riêng, bản sắc riêng rất độc đáo trong nền văn hoá Việt
Nam, một sắc thái riêng trong ứng xử giao tiếp với tự nhiên, xã hội và bản thân, trong sinh hoạt kinh tế,
tổ chức xã hội tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ … Bản sắc
đó đã hoà quyện và phát triển the
o dòng lịch sử đấu tranh hào hùng của cộng đồng các dân tộc anh em
ở An Giang. Cộng đồng người Chăm ở An Giang cũng góp phần không nhỏ cho bức tranh tươi đẹp của
vùng đất mới này ngày hôm nay.
Từ thực tế sinh hoạt đời sống của cộng đồng cư dân người Chăm ở An Giang trong tiến trình lịch
sử và những thay đổi của nét sinh hoạt đó qua những biến động của thời gian cộng đồng Chăm đã có
thích ứng và chuyển biến cùng với nhịp phát triển của xã hội. Xuất phát từ những yêu cầu của thực
tiễn, tôi đã chọn đề tài “THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG KINH TẾ –XÃ HỘI – VĂN HOÁ CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG TỪ SAU NĂM 1975 ĐẾN NAY ” làm đề tài luận văn.
Cộng đồng người Chăm Hồi Giáo ở đồng bằng s
ông Cửu Long tập trung cư trú ở An Giang. Về
đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cư dân ở đây trong buổi đầu định cư, dưới chế độ thực dân cũ và
mới, sau giải phóng với sự giúp đỡ của chính quyền cách mạng đã từng bước giải quyết góp phần ổn
định và nâng cao đời sống của người Chăm được Đảng và Nhà nước ta quan tâm sâu sắc thông qua các
chính sách chăm lo
hỗ trợ cho cộng đồng Chăm về mọi mặt.
Với một cái nhìn toàn diện luận văn sẽ góp phần tạo nên bức tranh đặc thù về kinh tế, xã hội, văn
hoá của cộng đồng Chăm ở An Giang nói riêng và ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Trong quá trình cộng cư, các tộc người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm đã không ngừng học hỏi, giao
lưu, đoàn kết, đùm bọc cùng nhau phát triển sẽ là một ý nghĩa quan trọng cho công việc xâ
y dựng nông
thôn mới ở miền biên giới tỉnh An Giang.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như tên đề tài luận văn, đối tượng nghiên cứu là cộng đồng người Chăm ở An Giang trên bình
diện tổng thể, xét trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hoá trong quá trình định cư, khai phá bảo vệ
vùng đất mới này cũng như những đóng góp của người Chăm
trong xây dựng phát triển đất nước. Thời
điểm lịch sử được giới hạn là sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) đến nay.
Với phạm vi nghiên cứu trên, luận văn đề cập đến những vấn đề cụ thể sau:
- Sự hình thành và phát triển cộng đồng cư dân Chăm ở An Giang, những luồng di cư đông đảo
của người Chăm từ Campuchia về Việt Nam tạo nên một cộng đồng cư dân đông đúc.
-
Từ việc nghiên cứu thực trạng đời sống của cộng đồng người Chăm ở An Giang trong quá khứ
và hiện tại. Luận văn sẽ dựng lại bức tranh tổng quan về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng
đồng người Chăm ở An Giang.
- Trên cơ sở đó luận văn đề cập đến những khuynh hướng biến đổi
trong đời sống kinh tế, xã hội,
văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang trước yêu cầu phát triển của xã hội. Sự biến mất của
những tập tục lạc hậu và việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc
Chăm.
Từ đó, tác giả đề xuất những chính sách đối với chính quyền địa phương và các cấp nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Chăm có thể phát huy vai trò của họ, đóng góp vào sự phát
triển kinh tế của vùng.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thư tịch cổ Trung Hoa và các bộ sử trước đây
của Việt Nam đã có những ghi chép về dân cư và
các vương quốc Champa - Vương quốc cổ của tổ tiên người Chăm ngày nay.
Tuy nhiên phải đến nửa cuối thế kỷ XIX trong sự phát triển chung của các ngành khoa học, người
Chăm và các nền văn hoá của họ mới được nghiên cứu với tư cách là đối tượng của nhiều ngà
nh khoa
học xã hội khác nhau. Nền văn hoá ấy đã hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước và đến
nay việc nghiên cứu văn hoá Chăm ít nhiều mang tính chất quốc tế. Năm 1852, lần đầu tiên một bài
khảo sát ngôn ngữ học của J.Crawful về từ vựng Chăm đồng thời mở đầu cho việc nghiên cứu về
người Chăm và văn hoá Chăm theo chiều hướng mới. Phải đến t
hập niên 80, hoạt động nghiên cứu về
người Chăm mới thực sự được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực và không ngừng tiến triển cho đến ngày
nay.
Ở người Chăm, tôn giáo chi phối hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội của họ. Mỗi người
Chăm sống trong cộng đồng của họ đều theo một tôn giáo nhất định và tạo nên 3 nhóm tín đồ (Chăm
Jat, Chăm Ban
i, Chăm Islam) khiến cho sự kết tộc người diễn ra dưới tác động của quan hệ tôn giáo,
có thể nói ở người Chăm vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề tôn giáo.
Từ năm 1975, hoạt động nghiên cứu về người Chăm và văn hoá Chăm của các ngành khoa học xã
hội Việt Nam ngày càng được đẩy mạnh nhất là Dân tộc học và Khảo cổ học. Trong các hội thảo đó, số
tham luận liên quan đến người Chăm của các tác giả Mạc Đường, Mad M
od chiếm một tỉ lệ đáng kể
được tập trung trong tập kỷ yếu “ Những vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long”. Mặt khác với
kỷ yếu “Mấy đặc điểm văn hoá đồng bằng sông Cửu Long” với các tham luận của tác giả Văn Dương
Thành, Văn Đìn
h Hy đã khái quát khá sâu sắc về nét sinh hoạt trong đời sống vật chất, văn hoá văn
nghệ của đồng bào Chăm theo đạo Islam ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, tác giả Mad Mod
một lần nữa đã đóng góp vào hội nghị khoa học xã hội lần thứ nhất về đồng bằng sông Cửu Long một
tham luận liên quan đến nhóm Chăm Hồi giáo ở đồng bằng sông Cửu Long với những nét
khái quát về
đặc điểm kinh tế xã hội của nhóm cộng đồng này.
Đến nay, thì đã có thêm nhiều chuyên khảo được xuất bản như văn hoá cổ Champa, lịch sử vương
quốc Champa và các bài viết đăng tải trên các tạp chí và các công trình tổng hợp khác của các tác giả
Phan An, Phạm Xuân Biên, Phan Văn Dốp. Qua đó các mặt sản xuất truyền thống, cơ cấu tổ chức xã
hội, đời sống tinh thần của người Chăm đã đư
ợc trính bày. Đáng chú ý là đã có hai luận án Phó tiến sĩ
khoa học lịch sử nghiên cứu các hình thức văn hoá vật chất của người Chăm đã được bảo vệ là Phan
Thị Yến Tuyết và Thành Phần. Ngoài ra còn phải kể đến nhiều luận án tốt nghiệp Đại học chọn đề tài
nghiên cứu về người Chăm và văn hoá Chăm.
Trong suốt quá trình kể trên nhiều vấn đề có liên quan đến người Chăm đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu như tín ngưỡng và tôn giáo, hôn nhân và gia đình, nghề thủ công truyền
thống của người Chăm
, sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần … Điều này phải kể đến công
trình nghiên cứu của các tiến sĩ và phó tiến sĩ khoa học lịch sử như Trần Ngọc Khánh, Phan Văn Dốp,
Võ Công Nguyện …Trong loạt bài đăng trên các tạp chí Dân Tộc, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á …
của các tác giả Bá Trung Phụ, Phạm T
hị Vinh, Trần Nam Tiến, Châu Tấn Lực … phần nào tái hiện lại
những nét đẹp truyền thống nghi lễ cưới dân tộc Chăm, nét y phục Chăm và nghi lễ tôn giáo... Nhìn
chung, các tác giả đã có sự đóng góp rất quan trọng làm phong phú bức tranh đời sống kinh tế, xã hội
văn hoá của cộng đồng người Chăm ở Việt Nam.
Người Chăm ở An Giang là một bộ phận của dân tộc Chăm đã tách khỏi cộng đồng của
mình ở
Trung Bộ và cùng cộng cư với người Việt, người Hoa, người Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long.Công trình mang tính chất dân tộc học đầu tiên về người Chăm được Alubussìere viết năm 1880
“Rapportsur Les chams et les Malais de L’arrondis Sement” đã đề cập đến nếp sống của người Chăm
(và người Mã Lai) ở Châu Đốc dưới tác động của đạo Islam. Sau này trong một chuyên khảo về cộng
đồng Hồi giáo ở Đông Dương (thuộc Pháp) M.Ner đã nêu một số nét cơ bản về ki
nh tế, xã hội, giáo
dục, tôn giáo của các làng Chăm Châu Đốc, tác giả cũng giới thiệu về những ngoại kiều theo Hồi giáo
ở Sài Gòn và người Chăm Mã Lai theo Hồi giáo ở Campuchia. Có thể nói, đó là những công trình
nghiên cứu về tôn giáo của người Chăm dựa trên “khảo sát thực địa” cho chúng ta biết về tình trạng
tôn giáo của người Chăm ở nửa đầu thế kỷ XX.
Từ những năm
50 đến năm 1975 các tác giả trong nước như Bố Thuận, Nghiêm Thẩm,
Dohamide, Nguyễn văn Luận, … rất quan tâm đến cộng đồng người Chăm ở Nam Bộ (Châu Đốc, Tây
Ninh, Sài Gòn), các bài viết về các mặt phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo đã được đăng tải trên
các tập chí Bách Khoa, Tập san Sử - Địa, Văn hoá Nguyệt San được xuất bản tại Sài Gòn trước năm
1975 đặc biệt Bách Khoa số từ 135 đến số 147 (từ tháng 8 năm
1962 đến tháng 2 năm 1963). Tuy
nhiên, những chuyên khảo liên quan đến người Chăm ở Nam Bộ cụ thể ở An Giang do các tác giả Việt
Nam viết được xuất bản dưới dạng sách hãy còn hiếm hoi. Tuy nhiên, chúng ta được biết đến công
trình của Nguyễn Văn Luận đã giới thiệu một cách toàn diện về người Chăm ở Nam Bộ trong nếp sinh
hoạt, tập tục gia đình và đời sống tôn giáo của họ qua
nghiên cứu “Người Chăm Hồi giáo miền Tây
Nam phần Việt Nam”. Cùng nghiên cứu nhóm cư dân địa phương người Chăm ở Nam Bộ, phải nói
đến Mad Mod và nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu dưới nhiều khía cạnh nghiên cứu khác nhau
của ngành Dân tộc học. Với bài viết “ Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long” của Phan Văn Dốp,
Nguyễn Việt Cường đã phần nà
o giới thiệu sơ lược nét hoạt động buôn bán trao đổi, nghề dệt thủ công,
đánh cá nước ngọt và nông nghiệp người Chăm ở An Giang. Cũng những nét sinh hoạt đời sống văn
hoá vật chất như nhà ở, trang phục, lễ hội... được Phan Thị Yến Tuyết cũng đã đề cập khá rõ nét qua
luận án “Văn hoá vật chất của các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long”. Bên cạnh đó, chúng ta phải
kể đến công trình nghiên cứu rất có giá trị của Lâm Tâm “ Một số tập tục người Chăm ở An Gia
ng”, do
Chi hội Văn nghệ dân gian và Hội văn nghệ Châu Đốc xuất bản năm 1993. Một thuận lợi của Lâm
Tâm sinh ra và lớn lên ở nơi có nhiều đồng bào Chăm sinh sống, nên khá am hiểu về người Chăm. Ông
có điều kiện nghiên cứu và đã nhiều năm đi thực tế và biên soạn thành một công trình về đời sống
người Chăm ở An Giang. Với tác phẩm
này, nguồn gốc, đặc điểm, tập tục, sinh hoạt văn hoá và tín
ngưỡng của người Chăm ở An Giang được tác giả khái quát một cách toàn diện. Tuy chưa sâu nhưng
đóng vai trò quan trọng mà nhiều đời dân tộc Chăm ở An Giang mơ ước nay đã thành hiện thực với
món quà tinh thần quí báu mà Chi hội văn nghệ dân gian Việt Nam Tỉnh An Giang khi xuất bản tác
phẩm này. Nghiên cứu về người Chăm ở An Giang tuy chưa có nhiều tài liệu đề cập một
cách sâu sắc
và bao quát một cách toàn diện mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần. Thông qua việc tham khảo các tập
chí Dân tộc học, tạp chí Văn hoá dân tộc, tạp chí Xưa và Nay đăng tải các bài nghiên cứu có nội dung
liên quan đến đề tài đặc biệt là các công trình nghiên cứu nêu trên của các tác giả đã giúp cho bản thân
tác giả luận văn có một cái nhìn toàn diện về mọi mặt trong đời sống của cộng đồng Chăm ở An Giang.
4. N
guồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn sử liệu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài : “Thực Trạng Đời Sống Kinh Tế - Xã Hội - Văn Hoá của cộng
đồng người Chăm ở An Giang” tác giả đã tiếp cận các nguồn tài liệu:
1. Nguồn tài liệu từ các bộ thông sử Việt Nam các sách chuyên khảo mà tác giả khai thác từ tác
phẩm Đại Nam Thực Lục, Gia Định Thà
nh Thông Chí, Đại Nam Nhất Thống Chí, Việt Sử Xứ Đàng
Trong, Văn hoá và dân cư đồng bằng sông Cửu Long, … có những ghi chép về quá trình mở mang
vùng đất cực Nam tổ quốc việc bang giao giữa Việt Nam với các nước láng giềng lịch sử di dân của
các cư dân đến vùng đất mới này có liên quan đến đề tài luận văn này.
2. Các tác phẩm, bài nghiên cứu của các sử gia Việt Nam hiện đại đề cập đến lịch sử vùng đất
Nam Bộ, phác hoạ những nét sinh hoạt cơ bản trong đời sống của cộng đồng Chăm ở Tr
ung Bộ cũng
như cộng đồng Chăm ở An Giang.
3. Các tạp chí trong nước, luận văn, luận án có liên quan đến đề tài.
4. Nguồn sử liệu truyền miệng : Từ các giáo cả (Hakêm) ở các thánh đường Hồi giáo ở An Giang,
tác giả luận văn thu thập những nguồn tài liệu quý giá
về dân tộc Chăm như nét sinh hoạt trong đời
sống, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng Hồi giáo An Giang được ghi nhận và sử dụng trong
luận văn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: đặt cộng đồng người Chăm ở An Giang trong mối quan hệ
giữa các dân tộc người cùng sinh sống ở vùng đất này : Kinh, Khmer, Hoa. Cùng quá trình lịch sử đời
sống của cộng đồng Chăm có đặc trưng như thế nào và có sự hoà hợp, thích ứng với vùng đất và con
người ở đây.
2. Phương pháp chuyên ngành: ngoài phương pháp lịch sử, phương pháp logic, tác giả còn
dùng phương pháp phân tích, phương pháp so sánh để làm rõ mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử,
nhằm làm n
êu bật nội dung cốt lõi, bản chất của sự vật, sự việc, cố gắng trình bày các luận điểm trên
cơ sở đáng giá nhận xét các sự kiện lịch sử như nó đã từng diễn ra.
3. Phương pháp liên ngành: Bên cạnh phương pháp chuyên ngành thì phương pháp liên ngành
cũng được chú trọng trong việc khai thác các nguồn tư liệu. Tác giả đã sử dụng các phương pháp liên
ngà
nh sau :
- Phương pháp khảo sát điền dã: Trên cơ sở bám sát tài liệu, việc quan sát thực tế, tiếp xúc với
các di tích lịch sử cụ thể là các thánh đường Hồi giáo Chăm, các Palây, Puk để tìm hiểu về nét sinh
hoạt tôn giáo, tín ngưỡng về phong tục tập quán, cách sinh sống của cộng đồng Chăm ….
- Phương pháp điều tra phỏng vấn: Thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn cá
c giáo cả (HaKêm)
có vai trò chủ chốt trong cộng đồng Chăm An Giang để thu thập những nguồn tư liệu làm phong phú
thêm nội dung có liên quan.
- Phương pháp thống kê : Từ việc khảo sát bằng phiếu câu hỏi đối với cộng đồng người Chăm
ở An Giang, tác giả tập hợp các số liệu thống kê, để làm tư liệu minh họa cho luận văn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở tập hợp, c
họn lựa và xử lý về căn bản một khối lượng tài liệu tương đối đầy đủ, có
xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau, luận văn sẽ mô tả lại một cách chân thực bức tranh tổng thể quá
trình hình thành và phát triển cộng đồng Chăm ở An Giang, thực trạng đời sống kinh tế, xã hội, văn
hoá của cư dân trong vùng để khắc họa đặc trưng riêng của cộng đồng Chăm ở đây cụ thể thời kỳ từ
sau năm
1975 đến nay.
Từ thực trạng đó, luận văn còn đi sâu phân tích làm rõ sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, xã
hội, văn hoá của đồng bào Chăm An Giang qua quá trình lịch sử dân tộc. Từ đó, chúng ta có một cái
nhìn toàn diện vai trò của cộng đồng Chăm trong sự phát triển của vùng cũng như của đất nước ta.
Qua t
hực trạng đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng người Chăm ở An Giang được
phác họa sẽ tạo cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị đối với chính quyền các cấp trong việc xây dựng và
nâng cao đời sống kinh tế, xã hội, phát huy và bảo tồn các di sản văn hoá của cộng đồng người Chăm ở
An Giang trong thời gian tới.
Cuối cùng, nội dung của luận văn có thể là nguồn tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và
nghiên cứu trong việc nhận diện các dân tộc ở Việt Nam.
6. Bố cục luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
Chương 1 : Lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng người Chăm ở An Giang.
Chương 2 : Bức tranh tổng quan về đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá của cộng đồng người Chăm
ở An Giang.
Chương 3 : Chính sách đối với cộng đồng người Chăm ở An Giang - Những đề xuất và kiến nghị.
Chương 1 : LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
CHĂM Ở AN GIANG
1.1.Vài nét về nguồn gốc hình t
hành Cộng đồng người Chăm ở An Giang
1.1.1. Những biến cố lịch sử dẫn đến việc di cư của người Chăm
Champa là một từ Phạn ngữ, vốn là tên của một loài có hương thơm dịu mát mà ở Việt Nam gọi
là hoa đại hoặc bông sứ, có tên khoa học là Plumeríaruba L.CU.acutifolia. Champa cũng còn là một địa
danh cổ của một vùng đất ở miền đông bắc Ấn Độ.
Ở Việt Nam, Champa lại là tên một quốc gia cổ được thấy khắc ghi đầu tiên trên bia ký Phạn ngữ
vào thế kỷ thứ VI. Đó là bia của Sambhuvarman.Trong Tân Đường thư, nước Champa ấy đư
ợc Âu
Dương Tu - Tổng Kỳ phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm Bà khi nói về nước Hoàn Vương, đồng thời cho
biết Chiêm Bà nguyên xưa là nước Lâm Ấp. Chính nhờ những điều ghi trên đây của Âu Dương Tu -
Tổng Kỳ mà chúng ta được biết tên Champa được đặt làm tên nước. Trên đất nước ta cũng đã sớm
định hình một quốc gia Champa trong lịch sử.
Champa đích thực là hậu sinh của Lâm Ấp và theo Thuỷ Kinh Chú, Tấn thư, nước Lâm Ấp “được
khởi lập và
o cuối thời Hậu Hán” [2, tr.14 ].Vị vua khai sáng là ra nước này được sử cũ gọi là Khu Liên
- thủ lĩnh của cộng đồng cư dân bản địa.
Qua Tấn thư còn cho biết “vua sau không có người kế tự, cháu ngoại là Phạm Hùng lên thay” [2,
tr.14]. Sự kiện này có lẽ, đã diễn ra vào vào khoảng năm 270 sau công nguyên.Và đây cũng có thể coi
là thời điểm cụ thể, rõ ràng mà nước Lâm Ấp với một nền văn hoá bản địa tiền Cham
pa dần chuyển
mình thành một quốc gia Champa.
Trong huyền thoại truyền đời của đồng bào Chăm ngày nay lại nhớ về nguồn gốc hình thành nên
nước Champa từ hai dòng thị tộc khác nhau trên hai vùng lãnh thổ kế cận. Bộ lạc Cau (bi ký Phạn ngữ
ghi là Kràmuka vamsá) và bộ lạc Dừa (Narikela Vamasá). Huyền thoại có nói “ Cả hai dòng bộ lạc
Cau và Dừa đánh nhau, tranh giành ưu thế trong nhiều thế kỷ và sau những cuộc chiến tranh đẫm má
u
thì lại thuận hoà với nhau. Dòng Cau làm bá chủ trong Nam (xứ Panduranga), còn dòng Dừa thì ngự trị
miền Bắc (xứ Indrapura) của nước Champa.
Huyền thoại dân gian nói trên như gợi mở một hướng tìm về phía Nam, nơi xứ Panduraanga cái
nôi thứ hai của đất nước và văn hoá Champa.Tuy nhiên, cho đến ngày nay, trên miền đất cực Nam
Trung Bộ này, vẫn chưa tìm thấy những di tích văn hoá Champa sơ kỳ từ thế kỷ VIII về trước. Riêng
tại Võ Cạnh nay t
huộc xã Vĩnh Trung phía Nam thành phố Nha Trang, xưa là xứ Kauthara đã phát hiện
một tấm bia đá có khắc văn Phạn ngữ. Bia được định niên đại vào khoảng cuối thế kỷ thứ II hoặc III
sau công nguyên có nội dung ghi lại sự tích một triều vua đầu của một quốc gia cổ mà vị vua khai sáng
có tôn hiệu là Sri Mara.
Quốc gia này có mối quan hệ ra sao với Phù Nam, với Lâm Ấp - Champa vẫn chưa được làm
sáng tỏ. Song qua sự xuất hiện của bia Võ Cạnh ở đất Nha Trang - Khánh Hoà ngày nay cũng đã xác
định miền đất được gọi là Nam Champa này và miền Bắc Champa (Lâm Ấp) vào cuối thế kỷ thứ II, III
sau công nguyên lúc đó cũng ở vào giai đoạn cuối cùng của sự phát triển văn hoá bản địa tiền Champa.
Như vậy, xét về không gian, thời gian xuất hiện của văn hoá bản địa tiền C
hampa nó sẽ bao quát cả
một dãy đồng bằng ven biển Nam Việt Nam, khoảng thế kỷ II, III sau công nguyên. Ở đó là các vùng
cửa sông, cửa biển được nối liền với những dãy đồng bằng phì nhiêu, giàu tài nguyên như Thu Bồn -
Quãng Nam (vốn là xứ Amaravati - Indrapuara - Sinhapura), Trà Khúc - Quảng Ngãi (xứ Vijaya), Nha
Trang - Khánh Hoà (xứ Kauthara), Phan Rang - Ninh Thuận (xứ Panduranga), … chắc là những miền
mà văn hoá Chăm sớm hình thành với những trung tâm cư dân của các thị cảng trù phú thuở ấy.
Như vậy, lã
nh thổ Champa xưa(Chiêm Thành) trải dài trên bờ biển miền Trung là nơi cập bến của
những tàu, thuyền trên đường Đông - Tây, từ Ấn Độ đến Trung Quốc và ngược lại. Nơi đây cũng được
biết đến bởi nhiều vật phẩm quý, đồ gốm, đồ bằng vàng, hương liệu, trầm hương, …Với vị thế thuận
lợi, từ thế kỷ thứ X - XV, Champa trở thành đầu mối một trung tâm thương mại liên vùng.
Cũng
theo chính sử của Trung Quốc ghi lại, nước Chiêm Thành vốn xưa là nước Lâm Ấp, dựng
nước vào khoảng năm 137 ở trên đất của huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam đời Hán, từ núi Ải Vân ở
bắc đến núi Đại Lĩnh ở nam. Sau đó, nước Lâm Ấp phát triển ra bắc, chiếm hết cả đất quận N
hật Nam
của nhà Hán, đến thời nhà Đường thì biên giới phía bắc của Lâm Ấp ra đến Hoành Sơn. Ở miền Nam
họ lần lượt chiếm được đất Khánh Hoà, đất Phan Rang và đất Bình Thuận. Theo sách Tân Đường thư,
đến thời Đường là nước Hoàn Vương, nhưng từ đầu thế kỷ IX, sau khi nước ấy bị An Nam đô hộ của
nhà Đường là Trương Châu đánh phá phải “dời nước vào Chiêm Thành”[1, tr.23], tức là phải bỏ những
đất ở phía bắc Ải Vâ
n cho nhà Đường mà rút về miền Chiêm Thành, tức miền Quảng Nam, sử sách
Trung Quốc cũng gọi nước ấy là nước Chiêm Thành. Đến thế kỷ thứ X nhà Đường suy vong thì Chiêm
Thành khôi phục lại được đất đai ở phía Bắc Ải Vân cho đến Hoành Sơn.
Do đó, chúng ta có thể đoán rằng, từ nửa sau thế kỷ thứ IX trở đi nước Chiêm Thành giao hảo với
nhà Đường, khi nhà Đường đã bắt đầu suy yếu, C
hiêm Thành đã dời đô từ miền Phan Rang trở lại
miền Quảng Nam, để khỏi bị Chân Lạp uy hiếp do bấy giờ Chân Lạp đã thay thế Phù Nam và làm bá
chủ ở phương Nam. Tận dụng thời cơ Trung Hoa có loạn vào cuối đời Đường, Chiêm Thành từng
bước vươn ra phía Bắc cho đến Hoành Sơn và cả miền đất Nhật Nam cũ.
Năm
982, khi vua Lê Đại Hành đánh chiếm Chiêm Thành thì biên giới phía Bắc của Chiêm
Thành là Hoành Sơn và kinh đô là thành Indrapura thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay. Năm 989, họ Chế
được tôn làm vua đóng đô ở Vijaya, tức Phật Thệ địa điểm thành Chà Bàn ở Bình Định ngày nay.
Từ các nguồn lịch sử liệu, ngày nay người ta được biết đến Vương quốc Champa hình thành và
phát triển trên dải ven biển miền Trung Việt Nam và một phần cao nguyên Trường Sơn. Đây là một
vùng khô cằn rải rác có vài bì
nh nguyên hẹp trải từ chân dãy Trường Sơn tới biển Nam hải. Trong quá
trình mở rộng tìm kiếm miền đất phì nhiêu, cư dân Chàm (tên gọi trước đây của người Chăm) đã có
những cuộc giao chiến với người dân Đại Việt ở phía Bắc thậm chí cướp phá những “buôn, sóc” của
người Khmer ở phía Tây Nam [1, tr.24].
Mặt khác, người Mã Lai cũng thường gây chiến với Champa (Chiêm Thành) nhiều lần. Cuộc
chiến năm 787 của người Mã Lai với Chiêm Thành, họ đã thiêu hủy mất ngôi đền thờ
CriBradadhipaticVara gần núi Đá trắng ở Phan Rang. Tuy vậy, mối liên hệ về chủng tộc, ngôn ngữ và
tín ngưỡng đã làm
cho người Chàm và Mã Lai xích lại gần nhau.
Lịch sử bang giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành thì cuộc chiến tranh giữa vua Lê Đại Hành với
Chiêm Thành là cuộc chiến tranh đầu tiên của nước Chiêm Thành với Đại Việt. Năm 980, khi Lê Hoàn
lên ngôi vẫn đóng đô ở Hoa Lư. Việc khẩn cấp nhất của Lê Hoàn phải đối phó với nhà Tống, sau khi
đánh bại được quân Tống, để giữ vững nền tự chủ Lê H
oàn lại tiếp tục đối phó với quân Chiêm Thành
ở phía Nam.
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã sai hai sứ giả sang thông hiếu với vua Chiêm nhưng sứ giả bị vua
Chiêm bắt giữ. Chính vì muốn tự vệ, năm 982, Lê Hoàn đã phát quân đi đánh Chiêm Thành, tiến vào
đến tận đất Quảng Nam, chiếm được kinh đô nước Chiêm, san bằng thành trì.Vua Chiêm bỏ chạy. Sau
cuộc bại trận ấy, vua C
hiêm xưng thần và xin triều cống, và cũng từ đó về sau nước Chiêm cũng suy yếu
dần.
Cuối đời Lê, nhân dân bị bóc lột và bị ức chế ngày càng nhiều, họ đã nổi dậy bạo động chống nhà
Lê. Chán ghét hành động bạo ngược của Lê Long Đỉnh (con kế vị của Lê Hoàn), Sư Vạn Hạnh từng
làm cố vấn cho Lê Hoàn đã đặt ra câu sấm đoán trước sự diệt vong của nhà Lê và sự hưng khởi của nhà
Lý để khuyên Lý Công Uẩn cướp ngôi.Với tài khéo thu được cảm tình của tất cả quân lính ở dưới tay
mình cũng như được sự kính phục của tầng lớp quan lại trong triều. Cho nên, khi Lê Long Đỉnh chết
năm 1009, Lý Công Uẩn được đăng cơ lên làm vua, mọi người đều theo.
Nhà Lý kế tục công cuộc kiến thiết đất nước để hoàn thành các thiết chế của Nhà nước phong
kiến tự chủ. Lãnh thổ m
à nhà Lý kế thừa là phần nữa về phía bắc của nước Việt Nam hiện tại : biên
giới mặt bắc thì gần đúng với biên giới Việt - Trung ngày nay, biên giới mặt nam là dãy Hoành Sơn,
tiếp giáp với nước Chiêm Thành, biên giới phía tây thì tương đương với đường phân thuỷ giữa lưu vực
sông Mê Kông và các lưu vực sông Đà, sông Cả, sông Lam, tiếp giáp với các bộ tộc Lào, biên giới
phía đông l
à biển. Nhà Lý đã từng bước xây dựng hoàn thiện các thiết chế quản lý nhà nước phong
kiến vừa mới định đô.
Để củng cố thống nhất và đặt cơ sở vững chắc cho Nhà nước phong kiến tự chủ, nhà Lý vừa dùng
chính sách nhu viễn để thu phục, vừa dùng chính sách chinh phạt để uy hiếp.Trong chính sách nhu
viễn, nhà Lý đã đem các công chúa gả cho một số tù trưởng có thanh thế nhất, lấy tinh thần gia tộc để
ràng buộc họ. Tù trưởng Động G
iáp ở Lạng Châu là Giáp Thừa Quý lấy con gái Lý Công Uẩn, rồi đổi
là họ Thân, lãnh chức Châu mục Lạng Châu. Phật Mã thì gả Kim Thành công chúa cho Châu mục
Phong Châu là Lê Thuận Tôn, người Mường, … Nhờ chính sách khôn khéo ấy, phần nhiều các bộ lạc
miền núi đã quy phục triều đình. Tuy nhiên ở phía nam, các vua Chiêm đã từng bị Lê Hoàn đánh bại
nặng nề, nhưng thỉnh thoảng các vua Chiêm vẫn cho quân sang đánh phá vùng duyên hải và miền biên
cảnh phía nam nước ta. Để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, nhà Lý đã nhiều lần dụng binh đối với Chiêm
Thành.Thất bại, Chiêm Thành lại thần phục nhà Tống để dựa thế báo t
hù. Trong khi, nhà Tống đang
lăm le xâm lược nước ta ở miền bắc thì họ lại ngầm khiến Chiêm Thành là thuộc quốc uy hiếp nước ta
ở phía nam. Trước tình thế đó, nhà Lý buộc phải dụng binh với Chiêm Thành để phòng hậu hoạn.
Năm 1061, Chế Củ lên ngôi, sửa sang vũ khí, không chịu triều cống nhà Lý mà lại triều cống nhà
Tống để dựa thế nhà Tống chuẩn bị chống nước ta. Bất bì
nh trước hành động của Chiêm Thành, Nhật
Tôn sai Lý Thường Kiệt làm Đại tướng quân đi tiên phong từ đường biển tiến đến cửa Nhật Lệ, đánh
tan quân Chiêm ở đó và làm bàn đạp đánh vào cửa Thi Nại, tiến thẳng vào kinh đô. Nghe tin bại trận,
Chế Củ đem vợ con bỏ chạy vào Nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi theo Chế Củ đến tận biên giới
Chân Lạp. Để chuộc lấy tự do C
hế Củ phải cắt nhường đất ba châu : Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh
(thuộc Quảng Bình, Quảng Trị) dâng cho nhà Lý. Nhà Lý lấy đất ấy, cho đóng binh để trấn áp dân bản
xứ và cho di dân người Việt vào đó sinh sống. Tuy nhiên, Chiêm Thành cũng nhiều lần cho quân sang
đánh phá vùng biên ải nước ta. Mấy chục năm sau, năm 1104, vua Chiêm là Chế Ma Na đem quân ra
đánh để lấy lại ba châu nhưng kết quả không thành. Kết quả những cuộc dụng binh của nhà Lý đã mở
thêm bờ cõi nước Đại Việt từ Hoành Sơn đến Q
uảng Trị. Từ đó, Chiêm Thành cũng bắt đầu bước vào
thời kỳ suy yếu.
Các đời vua Chiêm Thành tiếp theo, thường nhân cơ hội thấy binh thế nước Nam suy yếu thường
đem quân sang đánh ĐạiViệt để báo thù. Năm 1368, 1376, quân Chiêm thường đem quân sang đánh
Đại Việt, làm cho vua tôi nhà Trần có không ít những phen hú vía.
Việc thu phục và mở rộng bờ cõi về phía nam
của Đại việt không phải lúc nào cũng thực hiện
bằng con đường chiến tranh.Trước hành động sách nhiễu của quân Nguyên vừa muốn chinh phục Đại
Việt, vừa dùng thủ đoạn dụ hàng đối với Chiêm Thành nhằm duy trì sự chiếm đóng và mở rộng lãnh
thổ của quân Nguyên ở phía nam. Trước tình thế đó, việc tăng cường sức mạnh đoàn kết, thống nhất
Đại Việt và
Chiêm Thành sẽ tạo sức mạnh kháng chiến cho cả hai dân tộc trong cuộc chiến chống quân
Nguyên. Dưới thời vua Harijit - Chế Mân - Jaya Sinhavar man IV, quan hệ tốt đẹp giữa Đại Việt và
Chiêm Thành tiếp tục khôi phục và phát triển. Quan hệ trở nên thân thiết đến mức Thượng hoàng Trần
Nhân Tông đã hứa gả con gái - công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Harijit - Chế Mân -
Jaya Sinhavar man IV. Ngược lại, đáp lại tình giao hảo đó, Chế Mân đã có sính lễ rất hậu của nhà t
rai
không chỉ có “vàng bạc, hương liệu mà hai châu Ô, Lý đến năm sau được sáp nhập vào bản đồ Đại
Việt đổi tên là châu Thuận, châu Hoá, hiện nay là Quảng Trị và Thừa Thiên.
Quan hệ tốt đẹp giữa Đại Việt và Chiêm Thành được củng cố và tăng cường trong những năm
chống ngoại xâm và thời gian tiếp theo, dưới hai triều Jaya Sinhavar man III, IV. Sau đó, do những tác
động của điều kiện mới quan hệ giữa hai quốc gia có những lúc trở nên phức tạp.
Khoảng năm 1360, ở Chiêm Thành xuất hiện một vị vua khác trị vì, theo Việt Sử gọi là Chế Bồng
Nga. Dù sao, sự trì vì của ông trong suốt 30 năm là những năm mà qu
an hệ giữa Chiêm Thành và Đại
Việt có những xung đột không nhỏ. Chế Bồng Nga lên ngôi đã kích động dân Chiêm Thành chống Đại
Việt. Lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần, Chế Bồng Nga ra sức thổi bùng lên sự kỳ thị dân tộc phá vỡ
mối quan hệ hoà hiếu giữa Đại Việt và Chiêm Thành.Trong 30 năm có ít nhất 15 lần đánh lớn, có hai
lần quân Chiêm Thành đánh tận vào kinh thành Thăng Long. Hành động đá
nh phá liên tục đã dẫn đến
thực lực của mỗi quốc gia đều bị hao tổn không nhỏ. Lúc bấy giờ, nhà Trần có một vị tướng có khả
năng chỉ huy các cuộc chống cự rất có hiệu quả, đó chính là Hồ Quý Ly.
Năm Nhâm Ngọ - 1402, Hồ Quý Ly đem quân đánh Champa, quốc vương Jaya Sinhavarman Đệ
Ngũ thất trận phải dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy. Mặt khác, triều đình bấy giờ cũng tăng cường bắt
những người dâ
n không có ruộng đi vào khai khẩn những vùng đất ấy, hệ quả không ít người Chiêm
Thành bỏ đất mà đi. Năm 1403, nhà Hồ muốn lấy đất Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch và SaLyNha về phía
Nam, những đất đã nhường năm trước, bèn sai Phạm Nguyên Khôi và Đỗ Mãn đem thuỷ bộ cả thảy 20
vạn quân sang đánh Chiêm Thành. Quân nhà Hồ vào vây thành Đồ Bà
n hơn một tháng trời mà đánh
thành không đổ. Lần này nhà Hồ không thu được kết quả như mong muốn.
Như vậy, từ thế kỷ thứ X trở đi, sau nhiều lần chiến bại trong những cuộc giao chiến với Đại
Việt, vương quốc Champa phải lùi về phía Nam. Cụ thể nhất là vào những năm :
- Năm 982, đời Lê Đại Hành, kinh thành Indrapura (thuộc Quảng Nam) của người Chăm bị tiêu
hủy. Sa
u đó cư dân Chăm rời kinh đô vào Vijaya (Chà Bàn hay Phật Thệ) miền Bình Định năm 1000.
- Năm 1069, vua Lý Thành Tông thân chinh cầm quân vào đánh Champa, bắt được quốc vương
Pudravarman Đệ Tam (Chế Củ). Sau vua Champa phải dâng 3 Châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chánh
(thuộc Quảng Bình, Quảng Trị) để chuộc lấy tự do.
- Năm 1402, Hồ Quý Ly đem quân đánh Champa, quốc vương Jaya Sinhavarman Đệ Ngũ thất
trận phải dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy.
-
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh Champa ở Vijaya, quốc vương
Bàn La Trà Toàn bị bắt, lãnh thổ Champa sau đó bị chia làm 3 nước nhỏ Chiêm Thành, Hóa Anh và
Nam Phan.
Sau cuộc đại bại đó “dân Chàm đã trốn chạy khỏi ách cai trị của người Việt. Họ trốn lên miền núi
với người Thượng, sang Campuchia, bỏ xứ mà đi sang Sumatra. Chỉ có đàn bà, những kẻ hèn nhát và
người già cả cùng con nít ở lại thôi” [28, tr.28].
Dấu vết cuộc định cư của người Chăm ở Ca
mpuchia hiện nay còn khá nhiều. Chẳng hạn, địa danh
Kompongcham (miền ven sông người Chàm ở) hay chiếc cầu đá rất mỹ thuật mang tên Spéan Cham
(cầu người Chàm). Còn nhiều địa danh nữa chứng tỏ người Chàm đã cư ngụ trên mảnh đất trước đây
của người Khmer đã lập nên đế quốc rộng lớn của họ [28, tr.29].
Sang thế kỷ XVI, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông cho vào trấn thủ đất Thuận Hoá đã
có ý lập một giang sơn riêng chống lại họ Trịnh. Bởi vậy, năm 1611, “Nguyễn Hoàng vào đánh Chiêm
Thành, lấy đất lập phủ Phú Yê
n, chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hoà” [16, tr.29].
Các chúa Nguyễn sau này cũng tiếp tục công việc thôn tính Chiêm Thành. Năm 1653, chúa
Nguyễn Phúc Tần chiếm miền Kauthara, đổi lãnh địa này thành dinh Thái Khang. Năm 1692, vua
Champa là Bà Tranh quật khởi cho quân sang cướp phá vùng Diên Khánh, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai
Nguyễn Hữu Cảnh đánh dẹp, bắt được Bà Tranh cùng các thân thuộc. Sau lại đặt phủ Bình Thuận, lấy
đất Phan Rang, Phan Rí làm huyện Yên Phúc, Hoà Đa. Lúc này triều đình đã có ý muốn đồng hoá dân
tộc Chàm nên có lệnh bắt họ phải mặc quần
áo theo lối người Việt. Chính sách ấy đã khiến cả hoàng
tộc Chăm bỏ trốn sang Campuchia cùng với 5000 thần dân.Họ đến yết kiến với quốc vương
Cheychetta Đệ tứ, xin cư ngụ trên lãnh thổ Khmer [28, tr. 30].
Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi thống nhất giang sơn, nhà Nguyễn đã áp dụng chính sách cai trị
ngày càng chặt chẽ đối với người Chăm. Đến năm 1822, Đại Việt dưới triều vua Minh Mạng, một vị
vua Chăm là P
ôChơnChan đã rời bỏ ngai vàng chạy sang Campuchia.
Đến năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi lên khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn, có nhiều người Chăm
ở đạo quân Quang Hóa (Tây Ninh) đã tham gia lực lượng nghĩa binh của Lê Văn Khôi. Bên cạnh đó,
Lê Văn Khôi còn phối hợp với các đầu mục của người Chăm ở Bình Thuận nổi dậy. Do đó, Lê Văn
Khôi đã chiếm vùng Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang một cách dễ dàng. Năm
1835, khởi nghĩa bị quan
quân dẹp tan, rất nhiều người Chăm sợ triều đình bắt tội nên trốn chạy vào những vùng hẻo lánh hoặc
sang Campuchia.
1.1.2. Những cuộc di cư của người Chăm đến An Giang
Có thể nói, do những biến cố đó, mà từ khá sớm đã có một bộ phận người Chăm bỏ quê hương đi
tìm những vùng đất khác yên ổn hơn để sinh sống. V
ùng đất Nam Bộ tuy không phải là điểm dừng
chân duy nhất của người chăm nhưng vào đầu những năm của thế kỷ XVII, với ưu điểm của vùng đất
mới còn hoang vu đặc biệt là vùng đất Đông Nam Bộ cao, khô ráo tiện cho việc làm rẫy. Điều này, phù
hợp với thói quen trong cư trú và sinh hoạt của người Chăm. Theo tác giả Như Hiên Nguyễn Ngọc
Hiền đã khái quát đặc điểm cư trú của người Chăm như sau: “Từ sơ khởi đến t
hế kỷ XVII, vùng hiểm
địa này cũng là nơi sương lam chướng khí, ta quen gọi nơi ấy là Đàng Thổ gồm các địa danh sau này
mang tên Đồng Nai, Bà Rịa, Sài Côn, Bến Nghé, đầu tiên cũng loáng thoáng một vài sắc tộc Khmer,
Chăm”. “Người Chăm có đặc điểm dạn dĩ, ưa sống thành từng nhóm biệt lập đồng chủng mà thôi. Hẳn
thâm tâm họ đã chán cảnh đụng độ, nê
n hay lánh mình” [34, tr. 432].
Theo sách Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh : Năm 1679, khi Nặc Nôn đem quân từ Sài
Gòn về đánh Nặc Thu, một bộ phận người Chăm cũng tham gia trong đoàn quân đi đánh Nặc Thu của
Nặc Nôn. Xét quá trình di cư của người Chăm trong giai đoạn này đến vùng đất Đông Nam Bộ từ thế
kỷ XVII hoặc có thể sớm hơn là có cơ sở.
Theo số liệu điều tra năm 1999, cư dân Chăm ở Đồng Nai hiện nay có khoảng 2.307 người. Đó là
chưa kể đến một bộ phận người Chăm ở Campuchia hoặc gần biên giới Việt Nam - Campuchia vì tránh
sự khủng bố của chính quyền Lonnol, hoặc lá
nh nạn chiến tranh, họ cũng đã đến định cư ở vùng Đông
Nam Bộ.
Căn cứ vào các nguồn sử liệu tìm được ở miền Trung Việt Nam, người ta đã xác định được rằng
vào những năm đầu công nguyên, nơi đây đã từng tồn tại một quốc gia cổ đại, trong đó người Chăm là
một trong những dân tộc chủ thể. Cũng như các dân tộc khác ở Đông Nam
Á, người Chăm chịu ảnh
hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Độ cụ thể là Ấn Độ giáo và Phật giáo. Mặt khác, người Chăm cũng tiếp
thu nền văn minh Ả Rập qua Hồi giáo. Tuy nhiên, việc du nhập đạo Hồi vào trong cộng đồng dân tộc
Chăm vẫn chưa được làm sáng rõ. Người ta, chỉ cảm nhận được một điều, khi đến đây
Hồi giáo đã có
nhiều sắc thái riêng tạo nên một yếu tố văn hoá bản địa, bởi quá trình du nhập không liên tục của Hồi
giáo, cùng với sự tách biệt khu vực cư trú của tín đồ Hồi giáo khiến họ khó tiếp xúc với thế giới bên
ngoài.
Theo truyền thuyết, thì vào đầu thế kỷ XI, vua Vương quốc Champa “Pô Suloah” đã hành hương
đến thánh địa Mecca. Theo một số tài liệu cổ của Trung Quốc cũng nói rằng vào t
hế kỷ X - XI người
Chăm đã chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Thế nhưng chưa có một minh chứng cụ thể nào khẳng định vào
thời kỳ này, người Chăm bị chi phối sâu sắc của đạo Hồi. Vì vậy, vấn đề thời gian và con đường du
nhập của đạo Hồi vào Việt Nam vẫn còn đang tranh cãi. Tuy nhiên, người ta có thể khẳng định Hồi
giáo đã đến Đông Na
m Á nhờ vào các thương nhân Ả Rập, Ấn Độ, Ba Tư, Trung Quốc. Họ là những
tín đồ Hồi giáo và đã đến buôn bán và truyền đạo ở các nước Đông Nam Á hải đảo từ thế kỷ XIV -
XV, hoặc sớm hơn nữa qua con đường biển hoặc con đường “tơ lụa”. Tuy quan điểm về niên đại và
quá trình du nhập của Hồi giáo vào người Chăm chưa thống nhất, nhưng có lẽ trước khi
vương quốc
Champa cổ đại suy vong thì đã có một bộ phận không nhỏ người Chăm đã theo Hồi giáo, khi bị vương
triều Đại Việt nhất là vào thời Lê Thánh Tông và nhà Nguyễn sau này tấn công, vương quốc Champa
đã tan rã hoàn toàn. Lúc đó, người Chăm đã chạy lên vùng người Thượng ở Tây Nguyên, sang
Campuchia và một số sang tận Malaixia, Inđônêxia. Có lẽ, không chịu nỗi cảnh bị o ép của chính
quyền phong kiến địa p
hương, họ quay trở lại Việt Nam và sinh cơ lập nghiệp ở các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long. Do tiếp xúc buôn bán và giao lưu văn hoá, số người Chăm ở khu vực này đã chịu ảnh
hưởng của người Mã Lai về nhiều mặt, trong đó có Hồi giáo. Do vậy, tôn giáo này có điều kiện được
củng cố và phát triển trong cộng đồng Chăm. Nhiều sách báo Hồi giáo trong đó kinh Coran, sách
Sunna đã được đưa và
o Việt Nam. Trước khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều người Chăm đã
sang Malaixia để học về Hồi giáo và từ đó họ hướng về thánh địa Mecca. Vì thế đồng bào Chăm Hồi
giáo ở các tỉnh phía Nam lại có mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng Hồi giáo thế giới. Trong khi đó, số
người Chăm sống ở miền Trung trên đất Ninh - Bình Thuận không có mối liên hệ chặt chẽ với trung
tâm Hồi giáo nên ít nhiều Hồi giáo ở đây chịu ảnh hưởng của một xu hướng khác, việc thực hiện các
giáo luật Hồi giáo không quy định nghiêm ngặt như tín đồ Hồi giáo ở các tỉnh Nam Bộ. Điều này có
thể dễ hiểu hơn do ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ đến mọi mặt trong đời sống người Chăm. Hơn nữa,
người Chăm Hồi giáo ở miền Tr
ung sống bên cạnh người Chăm Bàlamôn và người Việt nên trong một
chừng mực nào đó, họ cũng chịu sự ảnh hưởng của các tôn giáo này.
Trở lại vấn đề hình thành cộng đồng người Chăm ở An Giang, chúng ta có thể khẳng định, từ thời
cổ trung đại, trên dãy đất miền Trung Việt Nam
ngày nay chính là địa bàn cư trú của người Chăm, họ
đã từng xây dựng nên một quốc gia hùng mạnh - Vương quốc Champa (Chiêm Thành) vẫn còn lưu
trong sử sách cho đến ngày hôm nay. Cũng như các quốc gia khác trên thế giới thời cổ trung đại,
Vương quốc Champa trải qua nhiều biến cố, người Champa phải lưu tán nhiều nơi trên lãnh thổ Việt
Nam ngày nay và cả những quốc gia khác trong khu vực.
Điều này đã lí giải được phần nào sự hiện diện của người Chăm ở những vùng rất xa chính quốc
của họ như ở đảo Hải Nam, MaLaixia, Thái Lan, Campuchia đi tìm vùng đất
khác yên ổn hơn để sinh
cơ lập nghiệp. Vậy người Chăm đã di cư đến sinh sống ở An Giang vào thời điểm nào ?
Có 2 nguồn di dân được xác định:
Đến đầu thế kỷ XIX, sau khi thống nhất giang sơn, nhà Nguyễn đã áp dụng chính sách cai trị
ngà
y càng chặt chẽ đối với dân Chàm. Đến nỗi vào đầu thời Minh Mạng (1822 - 1823) vua Champa
cuối cùng là PoChơnChan đóng đô ở Phan Rang bỏ ngai vàng cùng tướng, tùy tùng, binh lính và gia
đình vượt Trường Sơn trốn sang Campuchia.
Năm 1833, khi Lê Văn Khôi nổi dậy chống lại nhà Nguyễn, nhờ được dân Chàm ủng hộ nên dễ
dàng chiếm các miền Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết. Nhưng không bao lâu cuộc nổi dậy của Lê Văn
Khôi bị quan quân triều Nguyễn dẹp tan và vua Minh Mạng đã thẳng tay tàn sát dân C
hàm. Trước hành
động đó, cư dân Chàm lại tiếp tục trốn đi nơi khác như Campuchia, Mã Lai, … Tuy nhiên, trong những
năm của thế kỷ XVII, XVIII, tình hình Chân Lạp có những phức tạp, chiến tranh xảy ra liên miên, đời
sống người dân nhất là những lưu dân vốn gặp khó khăn lại khó khăn hơn bởi chiến tranh, phân biệt
đối xử. Trong bối cảnh ấy, người Chăm dễ dàng tìm đến với chúa Nguyễn khi có điều kiện. Nhưng
cũng vì những điều kiện cụ thể mà họ không thể trở về cố hương với cộng đồng gốc của mìn
h mà định
cư rải rác ở nhiều nơi thuộc vùng đất Nam Bộ Việt Nam ngày nay.
Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Quý Dậu (1753),
Nặc Nguyên ở Chân Lạp hay uy hiếp người Chăm
. Lúc này, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Khoát sai
Cai đội Thiện Chính làm Thống Suất, Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu đem quân đánh Chân Lạp.
Năm 1755, Thiện Chính rút quân về đồn Mỹ Tho, người Chăm theo khá đông, dọc đường bị quân
Chân Lạp tập kích, Thiện Chính vì chằm rừng cách trở nên không thể cứu được, Nguyễn Cư Trinh đem
quân bản bộ đến cứu, sau đó hơn 5000 người Chăm về chân núi Bà Đen và định cư ở đó.
Cũng theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, sau khi bị Nguyễn Cư Trinh đánh bại, Nặc Nguyên chạy
sang Hà Tiên cầu cứu Mạc Thiên Tứ, xin dâng hai phủ Tầm Bông và Lôi Lạp để chuộc tội. Mạc Thiên
Tứ tâu lên, lúc đầu chúa Nguyễn không chịu, nhưng sau thì chấp thuận theo lời tâu của Nguyễn Cư
Trinh “ Nay đất cũ từ Hưng Phước chỉ có hai ngày đường mà dân ở chưa yên, quân giữ chưa khắp,
huống chi từ Sài Gòn tới Tầm Bôn
đến 6 ngày đường, quân để đóng giữ thật sợ không đủ. Thần thấy
người Côn Man giỏi bộ chiến, Chân Lạp cũng đã khiếp sợ, nếu cho họ ở đất ấy để ngăn giữ, lấy người
Man đánh người Man cũng là đắc sách”[34, tr.343]. Như vậy, cho đến thời điểm này, đã có một bộ
phận khá đông người Chăm về với Chúa N
guyễn, được định cư ở vùng đất mới Nam Bộ, dân số người
Chăm không ngừng tăng trong thời gian tiếp sau đó để thực hiện chủ trương của Chúa Nguyễn như đã
nêu.
Vào năm 1841, Nam Bộ có cuộc khởi nghĩa Lâm Sâm ở Trà Vinh, lúc bấy giờ vua Thiệu Trị
xuống chiếu Trương Minh Giảng đang ở Chân Lạp (Campuchia) rút quân về. Những người Chăm và
người Mã Lai được tuyển vào quân đội triều Nguyễn cùng gia quyến của họ đã rút theo đoàn quân của
Trương Mi
nh Giảng, Khâm sai đại thần Lê Văn Đức, phó khâm sai Doãn Uẩn của triều Nguyễn cũng
theo về. Sau đó, họ cư trú cùng gia đình dọc sông Hậu và Khánh Bình (An Phú) cho đến ngày nay.
Năm 1858 ở Chân Lạp, Tuôn Sết It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều đình phong kiến.
Cuộc khởi nghĩa đã thu hút khá đông người Chăm, người Mã Lai tham gia. Đến khi c
uộc khởi nghĩa
thất bại, rất nhiều người Chăm, người Mã Lai chạy về Nam Bộ để lánh nạn và tìm sự che chở dưới
triều Nguyễn.Tất cả đều được thu nhận và cho định cư sinh sống ở vùng đất An Giang, phân bố cư trú
trong bảy làng : Châu Giang, Katambong, Phũm Soài, La Ma, Koh Koi, Koh Kia và Sa Bâu. Đây được
xem là đợt di dân đông đảo nhất của người Chăm từ Campuchia về An Giang.
Do tác động của điều kiện lịch sử diễn ra từ nửa sau thế kỷ XVII
I, tạo nên những đợt di dân của
người Chăm sau bao năm phiêu bạt đã trở về vùng đất Nam Bộ Việt Nam cư trú. Như vậy, chúng ta có
thể nhận thấy chiến tranh không phải lý do duy nhất dẫn đến người Chăm phải ly hương, mà còn vì
tiếng gọi khẩn hoang của nhà Nguyễn (triều Nguyễn), mà một bộ phận người C
hăm ở miền Trung đã
đi vào Nam. Thật vậy, sau khi Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh Chúa Nguyễn lập phủ Gia Định (1698) đã
chiêu mộ dân ở các địa phương miền Trung Việt Nam cho vào đây khai phá ruộng đất. Cũng vấn đề
này trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim có ghi như sau : “…loạn lạc mãi, dân sự đói khổ,
ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ ”[36, tr.434], nên nhà Nguyễn đã cử Trịnh Hoài Đức, Lê
Qua
ng Định, Ngô Tùng Châu, …cả thảy 12 người làm Điền tuần quan, mộ dân ở các nơi đến làm
ruộng. Ngoài ra, còn phải kể đến một bộ phận người Chăm làm thương nhân, muốn thử thời vận và đi
tìm vào vùng đất mới phương Nam để buôn bán, lập nghiệp. Đây cũng là một trong những hoạt động
khá phát triển của người Chăm ở miền Trung trước đâ
y mà trung tâm hoạt động thương mại của họ thuở
xưa chính là cảng Đà Nẵng.
Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói chung và ở An Giang nói riêng được hình thành từ hai
nguồn chủ yếu, từ Trung Bộ chuyển cư thẳng vào vùng đất mới phía Nam và một phần khác không nhỏ
từ Chân Lạp trở về. Buổi đầu, có thể do chính sách của nhà Nguyễn, người Chăm đã tập trung cư trú
đông nhất ở Tây Ninh và An Giang và rải rác còn lại ở hầu khắp các địa phương thuộc Nam Bộ ngày
nay.
Chúng ta có thể nhận thấy, từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, một bộ phận người Chăm đã rời bỏ quê
hương sang sống ở C
ampuchia, Thái Lan, Mã Lai do những nguyên nhân lịch sử. Phần đông người
Chăm chạy sang Campuchia, họ tập trung cư trú ở Lovek. Trong những thế kỷ này tình hình
Campuchia khá phức tạp, chiến tranh xảy ra thường xuyên, đã ảnh hưởng không ít đến đời sống của
những người dân lưu tán gặp rất nhiều khó khăn bởi chiến tranh và sự phâ
n biệt đối xử. Trước tình
cảnh đó, tạo điều kiện cho những lưu dân người Chăm dễ dàng tìm về với Chúa Nguyễn. Năm 1858, ở
Chân Lạp, Tuôn Set It lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống lại triều đình phong kiến Ang Dương. Cuộc
khởi nghĩa thu hút đông đảo người Chăm và người Mã Lai tham gia. Khi khởi nghĩa không thành, rất
nhiều người Chăm, người Mã Lai để lánh nạn, họ chạy về Nam Bộ Việt Nam tìm sự che chở của triều
Nguyễn đã định cư ở tả ngạn sông Tiền, c
ù lao Katambong và ở Châu Đốc dọc theo bờ sông Hậu.
Thêm vào đó, với chính sách “tận dân vi binh” triều đình Nguyễn đã thu dụng những người Chăm
và Mã Lai để lập đồn điền và phòng giữ miền biên giới. Họ tập trung và lập thà
nh bảy làng: Châu
Giang, Katambong, Phũm Soài, LaMa, KaKôi, KaCôKi, và SaBâu với tổng số dân lên đến khoảng
5000 người, chia làm 9 đội, dưới sự quản lý của một viên Hiệp quản ở Châu Giang [59, tr.42].
Theo gia phả của ông Hakêm Idareh (65 tuổi) ở Châu Giang thì ông tổ 6 đời của cụ là Haji
Abmed từ đảo Tranganu (Mã Lai) di cư sang Thái Lan, Campuchia, rồi mới di cư về An Giang. Lúc
đầu sống ở Kohkoi (Cồn Quan Thuế) ở xã Nhơn Hội (An Phú), sau mới chuyển về cư trú ở Châu
Giang (Phú Tân) đến nay.
The
o cụ Du Số (82 tuổi), phó cả thánh đường MuBaRak ở Châu Giang cũng cho biết, số người về
sớm nhất ở Châu Giang có bốn gia đình, trong đó có ông tổ của cụ tên : Ad Doromal (đời 1), Ad Doloh
(đời 2), Sam Su (đời 3), Ma Nơ (đời 4), Du Số (đời 5, tức đời ông ta), Mariam (đời 6), Halimal (đời 7).
Cụ tổ ông cùng với cụ Haji Abmed đến Châu Giang cùng một lượt với nhau. Và theo Hồi giáo, khi nào
có từ ba hộ gia đình trở lên có thể cất thánh đường nhỏ để làm lễ.
Cũng theo ông Ha
kêm Haji Musa ở Katambong, xã Khánh Hoà ( Châu Phú) cho biết, số người về
sớm ở địa phương trên đây có khoảng 20 gia đình, tính đến nay cũng được năm, sáu đời. Như gia đình
của ông Cô Cô Sêm (đời 1), Haji Issahak (đời 2), Hakêm Mách, Haji Tumal (đời 3), Katia, Kho Tiyah (đời
4), Haji Salès (đời 5), …
Có thể nói, do những biến cố mà từ khá sớm đã có một bộ phận người Chăm bỏ quê hương đi tìm
vùng đất khác yên ổn hơn để sinh sống. Riêng vùng đất Nam Bộ, tiếp giáp với vương quốc Champa
vào đầu thế kỷ XVII còn là vùng đất hoa
ng vu, nên một số người Chăm đã đến đây cư ngụ để lánh nạn
chiến tranh, hoặc theo tiếng gọi khẩn hoang của nhà Nguyễn. Như vậy, cư dân Chăm ở Nam Bộ nói
chung và ở An Giang nói riêng được hình thành từ hai nguồn chủ yếu, từ Trung Bộ chuyển cư thẳng
vào vùng đất phía Nam và phần đông khác từ Chân Lạp trở về. Buổi đầu họ tập trung cư trú rất đông ở
An Giang, Tây Ninh, và rải rác ở các địa phương thuộc Nam Bộ. Tuy nhiên, do yêu cầu lập nghiệp và
ảnh hưởng của chiến t
ranh, bom đạn dưới thời kỳ Pháp thuộc và ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
mới ở miền Nam, nhiều nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có khá đông người
Chăm nhất là người Chăm ở An Giang đã bỏ quê lên Sài Gòn hy vọng tìm nơi có cuộc sống yên ổn
hơn hoặc đi phá hoang, sống về nghề ruộng rẫy ở tỉnh Bà Rịa, Đồng Nai, rải rác cũng có một số ít sống
trong các thị trấn, thị xã.
Do điều kiện lịch sử, người Chăm ở An Gia
ng có mối quan hệ với Hồi giáo MaLaixia, Indônêxia,
… Từ đó, mở rộng quan hệ với cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Chính vì
thế, cộng đồng người Chăm ở An Giang nói riêng và Nam Bộ nói chung chịu ảnh hưởng của người Mã
Lai nhiều hơn về tiếng nói, tín ngưỡng, … s
o với những người đồng tộc của họ ở Ninh Thuận, Bình
Thuận. Tuy vậy, người Chăm Hồi giáo ở An Giang và người Chăm BàLaMôn ở Ninh Thuận, Bình
Thuận vẫn là một dân tộc chung trong lịch sử. Họ có chung một nguồn gốc, một tiếng nói một nền văn
hóa Chăm cổ truyền và biết rõ về tính cộng đồng nguồn gốc này.
Trải qua quá trình định cư lâu dài tại vùng đất An Giang, cộng đồng người Chăm đã tạo nên một
vị trí riêng, bản sắc riêng rất độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam
góp phần không nhỏ cho bức tranh
tươi đẹp của vùng đất mới này ngày hôm nay.
1.1.3. Tên gọi và tên tự gọi của Cộng đồng Chăm
Trước đây
đồng bào Chăm có nhiều tên gọi và tên tự gọi như: Chàm, Chà, Chà Và, Chà Và Ku,
Chiêm Thành, Gia Va, Mã Lai, Khơme Islam, Champa. Đồng bào từ gọi: Chăm, Chăm BàNi, Chăm
Islam, Chăm Chuk, Chăm Kaphir, Chăm Jet.
Nội dung của từng tên gọi được giải thích như sau:
- Tên Chàm: có thể bắt nguồn từ người Kinh nghe đồng bào tự xưng là Chăm, tên gọi là
Champa được Pháp dùng trong Công văn, giấy tờ, nên lâu dần biến âm thành Chàm. Tên gọi này được
dùng phổ biến trong người Chăm.
- Tên Chà: Trong ngôn ngữ người Chăm có danh từ “Ja” và “Chà” có nghĩa là “thằng”. Đây là
danh từ xưng hô giữa người lớn với người nhỏ hơn mình. Ví dụ như : Chà Cốp, Chà Ê, Chà Mách, …
có nghĩa là thằng Cốp, thằng Ê, thằng Mách, … người Kinh cũng thường gọi: người Chà, xóm Chà,
làng Chà để chỉ xóm xã người Chăm.
- Tên Chà Và: Cũng có thể người Kinh phiên âm từ tiếng “JaVa” là thủ đô của nước Inđônêxia
thành Chà Và. Người Cam
puchia trước kia cũng gọi JaVa là Cavia, rồi Việt Kiều cũng gọi luôn là Chà
Và. Do không phân biệt người dân tộc nào, nên một số đồng bào ở thành phố Hồ Chí Minh gọi người
Ấn Độ, người Mã Lai là Chà Và. Người Chăm rất thành kiến với tên gọi Chà Và, theo họ là tên gọi “kỳ
thị dân tộc”.
- Tên Chà Và Ku: Trong 8 ấp Chăm, 4 ấp có người Chăm (Chà Và Cu) đồng nhất là ở Châu
Giang với Chòm Soài trên, Chòm Soài dưới có 269 hộ. Ở Châu Phong, Đa Phước, Katambong có
khoảng 38 hộ.
Chà Và có nghĩa “người Chăm”, “Ku” là danh từ của người Chăm gọi người Khmer. Chà Và Ku
có nghĩa là đàn ông Chăm lấy vợ là người Khmer.Thực tế, người đà
n ông Chăm không chỉ có vợ là
người Khmer mà còn có vợ là người dân tộc khác như : Mã Lai, Inđônêxia, …
- Tên Mã Lai: người Mã Lai và người Inđônêxia trước kia cũng thường tới lui làm ăn, buôn bán
với người Chăm ở Châu Giang, Châu Phong một thời gian rồi đi. Thực tế qua mấy đợt điều tra dân số
ở nước ta, trong tỉnh An Giang không có người Mã Lai, Inđônêxia, JaVa nào đăng ký cả. Cũng có thể
thấy những người này sống trong thôn xóm Chăm, mặc xà rông, đội nón Kapeak giống người Chăm,
nên có người nhầm gọi họ là người Chăm. Sau 1975, miền Nam
được hoàn toàn giải phóng, một số
người Chăm đã tự xưng gốc người Mã Lai, xin xuất cảnh về quê hương để làm ăn. Mặc dù có nhiều
người Chăm biết tiếng Mã Lai do học, lên lớp cao cũng học chữ Mã Lai. Với số ít có nguồn gốc lâu
đời, nhưng xét không đủ bằng chứng nên chính quyền đã bác đơn.
- Tên Chiêm Thành: Thường các cụ Hán nho hay một số viết sách báo gọi người Chăm ở Nam
Trung Bộ là Chiêm Thành, có nghĩa là người dân của nước Chiêm Thành xưa.
- Tên Khmer Islam: có nghĩa là người Khmer theo Hồi giáo. Trong giấy tờ hành chính, vương
quốc Campuchia đều dùng tên này, còn trong nhân dân, vẫn thường gọi Chăm hay Chàm.
Tóm lại, đồng bào Chăm đều thống nhất, tự gọi mình là Chăm, dân tộc Chăm, kể cả những người
mang tên gọi Chiêm Thành, cũng như những người theo đạo Bà La Môn giáo. Trong các tên gọi trên,
đồng bà
o Chăm thành kiến nhất là tên gọi Chà hoặc Chà Và.
Trong tự điển Chăm - Việt - Pháp của Trung tâm văn hóa Chăm ở Phan Rang xuất bản năm
1971, giải thích danh từ Chăm là Chàm, Champa là Chiêm Thành, đồng thời cũng là tên của loài hoa
Sứ.
Dù tên gọi là Chăm, dân tộc Chăm hay Chàm hoặc Chiêm Thành đều bắt nguồn từ một loài hoa
rừng, đẹp về màu sắc, ngát về hương của núi rừng Trung Bộ: “Hoa Sứ”. Hoa này cũng đư
ợc ca tụng
bằng bài hát tuyệt vời “Hoa Champa”.
Trong tên tự gọi riêng, đồng bào Chăm ở Nam Trung Bộ còn dựa vào đặc điểm tôn giáo cũng như
ma chay. Chẳng hạn người Chăm Hồi Giáo còn tự xưng là Chăm Islam (Chăm con giáo chủ Olloh) và
Chăm Bà ni (người Chăm chết thì đem chôn). Người Chăm Jet (Chăm chính thống) và Chăm Chuk
(khi có người chết thì đem thiêu xác).
Người Chăm Hồi giáo cũng còn gọi những người Chăm
theo tôn giáo khác là “Kaphis”, có nghĩa
là “dị giáo”.
Trong tên gọi của người Chăm, chúng ta cũng thường nghe khá nhiều tên gọi và tên tự gọi khác
nhau : Chăm Hroi, Hroi, Aroi, Chăm Đắc rây, Chăm Hơ Đặn, Chăm Đèo, … Đây chính là tên gọi của
đồng bào Chăm ở Bình Định và Phú Yên. Họ cư trú ở Vân Canh (Bình Định) , Sơn Hoà, Đồng Xuân
(Phú Yên) .Về nguồn gốc của người Chăm ở Bình Định, Phú Yên một điều chúng ta không thể phủ
nhận, họ chính là một bộ phận không thể tách khỏi cộng đồng Chăm ở Việt Nam. Cũng giống như
người Chăm sống ở An Giang, Tây Ni
nh, người Chăm ở Bình Định và Phú Yên có một mối quan hệ
mật thiết về nguồn gốc, có lẽ do nhiều nguyên nhân tác động như chiến tranh mà họ chạy lên vùng núi
cao sinh sống. Do tách biệt khỏi cộng đồng, sống gần gũi ảnh hưởng các cư dân khác nên người Chăm
ở Bình Định, Phú Yên có nét khác biệt hơn so với cộng đồng.
Trong quá trình tồn tại, phát triển của m
ình, sự tác động của các cư dân trong quá trình cộng cư
với người Bana, người Êđê, sau là người Kinh, người Chăm ở Bình Định, Phú Yên có thể trong đời
sống văn hoá có những biểu hiện không giống người Chăm ở Ninh Thuận hay An Giang. Đó chính là
kết quả của sự đan xen văn hoá đặc thù đối với các tộc người sống gần gũi ở đây. Nhưng không vì thế
chúng ta lại phủ nhận người Chăm ở Bình Định, P
hú Yên không phải là một bộ phận trong cộng đồng
người Chăm ở Việt Nam. Vấn đề ở đây, chúng ta muốn làm rõ hơn bức tranh sinh động, tổng thể về
văn hoá của người Chăm trên lãnh thổ Việt Nam.
Với mỗi tên gọi của đồng bào và những cách giải thích và tiếp cận khác nhau sẽ giúp chúng ta c
ó
cái nhìn toàn diện hơn trong việc tìm hiểu và tiếp xúc với văn hoá và cộng đồng của người Chăm ở
từng vùng miền cũng như cộng đồng người Chăm ở Việt Nam.
Theo quyết định của Tổng Cục Thống Kê do ông Tổng Cục trưởng Hoàng Trình ký tại Hà Nội
ngày 2 tháng 3 năm 1979, thì “tất cả những tên gọi: Chàm, Chiêm Thành, Chăm Hroi… ở Thuận Hải,
An Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Nghĩa Bình, Phú Khánh đều thống nhất gọi là Chăm”[63, tr. 315].
1.1.4. Dân số và sự phân bố dân cư của Cộng
đồng người Chăm ở An Giang
1.1.4.1. Tình hình dân số của Cộng đồng
người Chăm ở An Giang
Tỉnh An Giang nằm về phía Tây Nam Tổ quốc ta nơi con sông Mê Kông đổ vào đồng bằng
Nam Bộ bằng hai dòng sông Tiền và sông Hậu - với tên gọi chung là sông Cửu Long.
Hai nhánh sông Cửu Long từ miền biên giới Việt - Miên chảy xuống đến thành Châu Đốc hợp lại
thành dòng Hậu Giang. Đứng bên bờ thị xã Châu Đốc, nhìn bên kia bờ, người ta có thể thấy đằng sau
những hàng cây xanh, những căn nhà sàn ngói đỏ cất sa
n sát vào nhau, căn nào cũng có chiếc thang cây,
nằm gần kề bên đường.
Đó là xã Châu Giang gồm toàn người Chăm. Từ đó, đi ven theo tả ngạn Hậu Giang cách chừng 4
cây số, có một con rạch nhỏ tẻ vào người trong bờ đất gọi là Katambong, tên một thôn ấp nằm trong xã
Khánh Hoà, cũng toàn người Chăm.
Ngược dòng Cửu Long về miền biên giới, người ta sẽ thấy ở hai đầu bờ kênh Vĩnh An, thôn
Phũm Soài thuộc xã Châu Phong, trở ngược lên các xã biên giới có người Chăm cư trú như Vĩnh
Trường, Khánh An, Khánh Bình, Hà Bao, là những xóm nhà người Chăm thường tập trung ven bờ
sông hoặc các con rạch.
Là một tỉnh nông nghiệp vừa có đồng bằng vừa có núi non cùng với hệ thống kênh rạch khá
chằng chịt. An Giang có bốn dân tộc: người Kinh chiếm đại bộ phận, người Khmer tập trung ở Bảy
Núi, người Hoa ở rải rác các thị xã, thị trấn, người Chăm tập trung ở các huyện cù lao An Phú, Phú
Tân, Châu Phú, …
Dân cư ở An Giang sống thành tuyến dọc theo kê
nh, rạch, bờ sông, đường lộ. Người Chăm ở An
Giang chiếm số lượng cao nhất trong cả cộng đồng người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Labussìere, vào năm 1880, ở Châu Đốc (thuộc tỉnh An Giang ngày nay), có khoảng 13.200
người Chăm nếu tính trung bình mỗi gia đình có 12 người. Năm 1936, người Chăm Hồi giáo ở Châu
Đốc là 6.000 người (Tây Ninh có 1.000 người). Năm 1964 có khoảng 10.000 người Chăm ở Châu Đốc
(Tây Ninh có 1.760 người). Sau ngà
y miền Nam hoàn toàn giải phóng, Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang
và theo thống kê năm 1976 có 8.656 người Chăm cả tỉnh, đến năm 1979 có 11.995 người Chăm.
Như vậy, tính theo ước lượng của Labussìere, dân số của người Chăm ở An Giang đã giảm đi
trong suốt một thế kỷ qua. Sự biến động lớn về tình hình dân số của người Chăm ở đây có thể do điều
kiện lịch sử ít nhiều tác động như sự kiện Phá
p trở lại xâm lược Việt Nam năm 1945, một bộ phận
người Chăm đã bỏ Châu Đốc đi lánh nạn, ở lại Sài Gòn lập nghiệp hoặc sang Campuchia sinh sống.
Thêm vào đó năm 1966, Châu Đốc bị lụt lớn nhiều làng người Chăm bị thiệt hại, họ lên Sài Gòn tìm
việc và định cư ổn định sau đó chuyển cả gia đình theo.
Đặc biệt sau năm
1975 dân số người Chăm ở An Giang đã tăng trở lại từ tháng 2-1976 đến tháng
10-1979 lên 3.339 người khoảng 38, 58% so với năm 1976.
Vấn đề này được lý giải như sau: Một là, khi hòa bình lập lại, nhiều người Chăm ở thành phố Hồ
Chí Minh đã trở về An Giang. Hai là, người Chăm ở Campuchia sống không nổi dưới sự đàn áp của
bọn Pôn Pốt - Iêng Xary có thể đã trốn về Việt Nam và trú ngụ cùng họ hàng ở Châ
u Đốc.
Theo số liệu thống kê của huyện Phú Châu năm 1983 tổng số người Chăm là 7.093 người, trong
đó nữ là 3.478, từ 0 tuổi đến 16 tuổi là 2.248 người. Dựa theo số liệu dân số của người Chăm ở huyện
Phú Châu (là huyện có đông người Chăm nhất ở An Giang) năm 1983 thì bình quân mỗi hộ gia đình
người Chăm là 6 người.
Đến tháng 4 năm 1999 người Chăm ở An
Giang là 13.420 với 2.039 hộ (5904 người nam, 7516
người nữ) chiếm tỷ lệ 0, 61% dân số toàn tỉnh. Đến nay người Chăm ở An Giang theo số liệu tập hợp
của Ban Dân Tộc tỉnh An Giang là 13.722 nhân khẩu, khoảng 2.810 hộ, 7404 nữ, 6.318 nam sống chủ
yếu tập trung ở các ấp (Puk) hay liên ấp, xem kẽ trong những xã (Palây) của người Kinh ở các huyện
An Phú, Phú Tân, Tân Châu, Châu Phú, Châu Thành, thành phố Long Xuyên [18, tr. 25].
Tóm lại, tình hình dân số người Chăm ở An Giang có những biến động lớn ở thời kỳ trước 1975.
Sau 1975 nhìn chung dân tộc người Chăm ở An Giang có sự ổn định hơn. Tuy nhiê
n tỷ lệ trong cơ cấu
dân số của người Chăm ở An Giang hiện nay là 54% so với năm 1976 là 52, 51%, năm 1979 là 53,
75%.
1.1.4.2. Tình hình phân bố dân cư của Cộng
đồng người Chăm ở An Giang
- Ấp Đồng Cô Ky (Xã Quốc Thái, An Phú):
Tiếng Chăm gọi “KohKôKia”, có nghĩa “Cồn Cây Sao”. Sau này, kết hợp với ấp Đồng Đức thành
xã Đồng Cô Ky (thời Pháp) dưới chế độ ta mới đổi tên lại thành xã Quốc Thái. Còn ấp Đồng Đức cắt
về xã Phú Hữu. Ở đây có khoảng 137 hộ với 876 nhân khẩu nam 464, nữ 412, đồng bào Chăm ở Quốc
Thái chủ yếu làm
nông nghiệp và buôn bán.
- Ấp La Ma hay Cù Lao Ba (thuộc xã Vĩnh Trường, huyện An Phú):
Tiếng Chăm gọi “Koh plao ba” có nghĩa là “Ba Cù Lao”. Vùng này trước kia có thể do người
Kinh về cư trú trước, người Chăm đến sau, nên phiên âm Cù Lao Ba ra Koh plao ba. Vì “Cù lao” theo
tiếng Kinh có nghĩa là “Cồn”, “Ba” chỉ số lượng là 3 cái tức 3 cái Cồn. Cộng đồng Chăm ở Vĩnh
Trường khoảng 472 hộ, 2.037 nhân khẩu, 797 nam, 1.240 nữ. Nghề nghiệp trước đây của cư dân Chăm
vùng này đánh cá là chủ yếu, hiện na
y họ nghỉ đánh cá và chuyển sang buôn bán lẻ.
- Ấp Phước Thành (thuộc xã Đa Phước huyện An Phú):
Tiếng Chăm gọi “KohKapoak” có nghĩa là “Cồn tơ tằm”. Cộng đồng Chăm ở đây khoảng 278 hộ
với 1.652 nhân khẩu, 592 nam, 613 nữ. Cộng đồng Chăm ở đây chủ yếu làm nông nghiệp và buôn bán.
- Ấp Phũm Soài (thuộc xã Châu Phong huyện Phú Châu):
Tiếng Chăm gọi “Puk Pa ok” có nghĩa là ấp Chòm Soài hay Hàng Soài. Nay vì dân số phát triển
nên c
hia ra xóm Hàng Soài Trên và xóm Hàng Soài Dưới (Puk Pa ngok, Puk Pa ok là).
Ấp Phũm Soài là nơi sinh sống từ xa xưa của dân tộc Chăm. Dân số hiện nay của toàn ấp là 434
hộ với 2.270 nhân khẩu chiếm 12, 34% số hộ và 13, 42% nhân khẩu của toàn xã. Trong số các hộ dân
tộc Chăm ở đây có 40% sống bằng nghề dệt thủ công truyền thống, 30% buôn bán nhỏ, 20% sống bằng
nghề nông nghiệp với hơn 20 ha đất sản xuất nông nghiệp. Như vậy, đa số các hộ gia đình người Chăm
ở đây
sống bằng nghề thủ công và buôn bán nhỏ. Ấp Phũm Soài có 8 xóm đan xen với nhóm người
Kinh.
- Ấp Châu Giang (thuộc xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân):
Tên Khmer gọi “Moọt Chusk” có nghĩa là “mỏ con heo”. Người Chăm cũng gọi theo là “Moọt
churk” dùng chỉ địa phương Châu Đốc nói chung chứ không riêng cho Châu Giang. Cũng có ý kiến
cho rằng : Châu Giang xưa kia có tên gọi là “KohKôi”. KohKôi ở xã Nhơn Hội nghĩa là “Cồn quan
thuế” nhưng KohKôi ở đây có nghĩa người ở K
ohKôi, di cư xuống ở đây. Hiện tượng này cũng giống
như ở xã Ba Chúc huyện Tri Tôn, có xóm Bình Di (cách chợ 200 mét) tức là người ở Bình Di (xã
Khánh Bình, huyện An Phú) di cư xuống ở đấy. Nhưng tên gọi này cũng không nghe phổ biến. Có giả
thuyết cho rằng Châu Giang đúng là tên gọi xưa của nó. Vì thời nhà Nguyễn để dễ nắm lí lịch, danh
sách thu thuế nên quan lại nhà Nguyễn đều ghé
p người Chăm lấy họ “Châu” hay Chau. Châu Giang
được hiểu theo nghĩa “ người họ Châu” ở dọc theo sông. Đồng bào Chăm ở đây có khoảng 495 hộ với
2.241 nhân khẩu, khoảng 1.104 nam, 1.137 nữ.Cư dân Chăm ở Châu Giang sống bằng nghề nông
nghiệp, buôn bán và dệt vải là chính.
- Ấp Khánh An (thuộc xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú):
Tiếng Chăm gọi “Koh tam bong” (Katambong) có nghĩa là “Cồn cây gậy ”. Tiếng Khmer và
Chăm gọi Cồn là Koh. “Tam bong” là tiếng Khmer. Có thể, người Khmer đến cư trú trước người Chăm
nên danh từ Katambong dùng để chỉ địa phương này. Nay đổi thành ấp K
hánh An. Nghề nghiệp chủ
yếu của cư dân Chăm ở đây là dệt vải. Ở đây có khoảng 231 hộ với 1.125 nhân khẩu, nam 535, nữ 590.
Nghề nghiệp của cư dân Chăm ở Khánh Hòa làm nông nghiệp và buôn bán.
- Ấp Sa Bâu (thuộc xã Khánh Bình huyện An Phú):
Tiếng Chăm gọi “PreKSahau” có nghĩa Rạch cỏ tranh (cỏ tranh lợp nhà). Người Chăm sống tập
trung khoảng 110 hộ với 639 nhân khẩu, 399 nam
và 340 nữ. Nghề nghiệp của Cộng đồng Chăm ở đây
làm nông nghiệp và buôn bán.
- Ấp KaKôi (thuộc xã Nhơn Hội huyện An Phú):
Tiếng Chăm gọi “KohKôi” có nghĩa “Cồn Quan Thuế” (Cồn có trạm thu thuế). Có khoảng 137
hộ với 1.200 nhân khẩu Chăm sống ở Nhơn Hội, nam 665, nữ 535. Người Chăm có nghề nghiệp làm
ruộng và buôn bán nhỏ.
Ngoài ra, cũng có một số người Chăm ở xã Khánh Bình và xã Nhơn Hội huyện An P
hú di cư đến
xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành (An Giang) từ năm 1979 sống về nghề ruộng rẫy và buôn bán nhỏ.
Dân số cư trú ở địa phương tính đến nay đã được trên dưới một trăm hộ và gần 800 nhân khẩu, 403
nam và 392 nữ.
Bên cạnh đó ở thành phố Long Xuyên có khoảng 20 hộ và 120 nhân khẩu của người Chăm sinh
sống, nam có 48 người và nữ khoảng 72, với nghề dịch vụ và buôn bán.
Thời chế độ Sài G
òn, người Chăm ở Châu Giang và Phũm Soài có di cư lên Sài Gòn trên bốn
ngàn người sinh sống bằng nghề buôn bán hàng rong hay làm thuê. Trong khoảng thời gian này, cũng
có trên dưới ba ngàn người ở địa phương trên đi phá hoang, sống bằng nghề làm ruộng rẫy ở tỉnh Bà
Rịa, Đồng Nai rải rác cũng có một số ít sống trong các thị xã và thị trấn.
1.1.5. Truyền thống đấu tranh cách mạng của Cộng đồng người Chăm ở An Gian
g trong
lịch sử kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
Trong truyền thống lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam nói chung, dân tộc Chăm cũng là một
dân tộc có truyền thống đấu tranh từ ngàn xưa khi quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, người
Chăm đã cùng người Việt sát cánh cùng các dân tộc khác đứng bên bảo vệ bờ cõi. Lúc bấy giờ ngoài
nhân dân lao động Chăm, còn có thái tử Harifit - sau là vua SimhaVarman III tức Chế Man cũng góp
sức đấu tranh. Ở vùng Trị Thiê
n xưa kia dân tộc Chăm đã tổ chức kháng chiến đánh bại quân Toa Đô.