Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.28 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Việt Nam là đất nước có nhiều tôn giáo, các tôn giáo có nguồn gốc, lịch sử, đặc
trưng và quá trình phát triển khác nhau, nhưng có nhiều điểm tương đồng. Điểm chung
đáng quý nhất của các tôn giáo ở Việt Nam là sự tôn trọng và chung sống hài hòa giữa các
tôn giáo trong một đất nước đa dân tộc, đa tín ngưỡng.
Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn của lịch sử, do tác động và ảnh hưởng từ nhiều mặt
của đời sống xã hội, hoạt động tôn giáo đã bộc lộ theo những chiều hướng khác nhau.
Cùng với các tôn giáo hoạt động thuần túy tôn giáo, còn có tôn giáo bị chính trị lợi dụng
đã từng nảy sinh không ít phức tạp, làm ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống xã hội ở nước ta.
Từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm
chăm lo tới đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, thực hiện đoàn kết tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc để cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước.
Sau năm 1975, kết thúc cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc
lập dân tộc nhưng Việt Nam phải giải quyết rất nhiều những vấn đề do hậu quả chiến
tranh để lại, trong đó có vấn đề tôn giáo. Tiếp đến trong bối cảnh quốc tế hóa, dân chủ
được đề cao, các thế lực thù địch với Chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng chiêu bài tự do tôn
giáo, lôi kéo, xúi giục, kích động một số phần tử cực đoan trong nước và nước ngoài, tổ
chức những hoạt động xuyên tạc, chống đối chính quyền, dựng nên các sự kiện liên quan
tới tôn giáo, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền về tôn giáo, tạo ra những trở ngại làm
ảnh hưởng tới công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặt Việt Nam đứng
trước hàng loạt vấn đề mâu thuẫn liên quan tới tôn giáo cần giải quyết. Đó là mâu thuẫn
giữa việc đáp ứng nhu cầu tự do tôn giáo của người có đạo thực hiện hoạt động tôn giáo
bình thường với việc ngăn chặn sự xâm lấn của các trào lưu tôn giáo cực đoan, tôn giáo bị
chính trị phản động lợi dụng. Ở góc độ văn hóa, đạo đức, mâu thuẫn của việc giữ gìn bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa, giá trị đạo đức của dân tộc trong các truyền thống tôn
giáo với trào lưu của các tôn giáo mới mang theo văn hóa và đạo đức phi truyền thống
được sự hậu thuẫn khá tinh vi của các lực lượng lợi dụng dân chủ và cơ chế thị
trường Giải quyết được những vấn đề ấy trong tôn giáo bên cạnh công tác vận động
quần chúng tín đồ, chức sắc các tôn giáo thì công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt
Nam có vai trò đặc biệt quan trọng. Song công tác này còn nhiều bất cập. Về lý luận, nhận


thức ảnh hưởng của tôn giáo đối với xã hội còn các luồng ý kiến khác biệt, điều kiện thực
hiện quản lý nhà nước về tôn giáo còn nhiều hạn chế. Từ hệ thống lý luận làm cơ sở cho
quản lý nhà nước về tôn giáo cho tới cơ sở cho quản lý tôn giáo như: việc xác định chủ thể
quản lý, nội dung, phương pháp, cách thức quản lý, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng
bộ, chủ thể quản lý với bộ máy còn thiếu tính chuyên nghiệp, đang đặt ra cho quản lý
nhà nước về tôn giáo nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết, vừa cấp thiết trước mắt, vừa
mang tính chiến lược lâu dài.
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về tôn giáo nói
riêng đang là một trong những yêu cầu cấp thiết, quan trọng của sự nghiệp bảo vệ và phát
triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong hiện tại và lâu dài. Việc nghiên cứu tôn
giáo, đề ra chủ trương, chính sách đối với tôn giáo đã được nhiều nhà lý luận - chính trị
quan tâm. Song trong lĩnh vực quản lý nhà nước về tôn giáo, do tính nhạy cảm, do đặc thù
phức tạp và đa dạng của các tôn giáo mà ít người đi sâu vào nghiên cứu quản lý nhà nước
về tôn giáo ở Việt Nam. Trước thực trạng ấy, việc tập trung nghiên cứu quản lý nhà nước
về tôn giáo ở Việt Nam, từ đó đưa ra giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về tôn giáo là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho lý luận và thực tiễn.
1
Từ các lý do trên, nghiên cứu sinh chọn vấn đề: “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở
Việt Nam từ năm 1975 đến nay”, làm để tài nghiên cứu cho luận án Tiến sĩ chuyên
ngành Tôn giáo học, với mong muốn góp phần giải quyết một số khía cạnh của lý luận và
đòi hỏi của thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án. Mục đích nghiên cứu, nhằm làm rõ thực
trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về tôn giáo (QLNN về
TG) ở Việt Nam; từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của QLNN
về TG giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ của luận án:Thứ nhất, hệ thống hóa quan điểm của Đảng và sự pháp điển
hóa quan điểm ấy đối với QLNN về TG. Thứ hai, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
QLNN về TG ở Việt Nam. Thứ ba, đánh giá, phân tích thực trạng kết quả QLNN về TG ở
Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Thứ tư, khái quát về những vấn đề đặt ra, dự báo và
khuyến nghị đối với QLNN về TG ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận án. Về đối tượng, luận án nghiên cứu
QLNN về TG ở Việt Nam theo chuyên ngành tôn giáo học, luận án nghiên cứu sâu về chủ
thể quản lý và các yếu tố để thực hiện quản lý mà không đi sâu về đối tượng quản lý.
Về phạm vi, chủ thể quản lý, bao gồm cơ quan nhà nước các cấp thực hiện QLNN
về TG, thông qua chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo, trong
những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1975 cho đến nay (năm 2013).
4. Phương pháp nghiên cứu của Luận án
Luận án vận dụng những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành Tôn
giáo học và các phương pháp nghiên cứu liên ngành, như Quản lý học, Luật học, Chính trị
học, Sử học… và vận dụng các phương pháp cụ thể: khảo sát, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, v.v Đối với đề tài do tính nhạy cảm của tôn giáo và những quy định trong
việc sử dụng tài liệu, vì vậy trong luận án một số tài liệu nghiên cứu sinh chỉ nêu tư tưởng
mà không trích dẫn đầy đủ.
5. Đóng góp mới của Luận án. Luận án đánh giá và khái quát về kết quả QLNN về
TG ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến nay. Luận án đưa ra khuyến nghị có tính giải
pháp, nhằm góp phần đưa QLNN về TG giai đoạn tới có hiệu quả hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, luận án góp phần làm rõ tính tất yếu và yêu cầu đổi mới QLNN về TG,
trong quan hệ giữa Nhà nước XHCNvới tôn giáo ở Việt Nam .
Về thực tiễn, từ đánh giá kết quả QLNN về TG thời gian qua, chỉ ra vấn đề cần quan
tâm, đưa ra dự báo và khuyến nghị nhằm góp phần thúc đẩy QLNN về TG ở Việt Nam
đạt hiệu quả hơn.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho môn học Tôn giáo và QLNN về TG, phục
vụ công tác quản lý, nghiên cứu tôn giáo học và một số lĩnh vực liên quan tới tôn giáo.
7. Kết cấu của Luận án. Ngoài lời mở đầu, kết luận, , luận án gồm 04 chương và
12 tiết
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan tài liệu
2
1.1.1. Tài liệu kinh điển của Chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo và quan hệ Nhà
nước với tôn giáo. Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả đã sử dụng những tài liệu
của chủ nghĩa Mác - Lênin viết về tôn giáo ở những nội dung: nguồn gốc, bản chất tôn
giáo, ứng xử và giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH,… đây là
những tài liệu quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá về mối quan hệ giữa
chính trị, Nhà nước với tôn giáo. Tài liệu gồm các tác phẩm kinh điển, các công trình
khảo luận, sưu tầm giới thiệu quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo.
1.1.2. Tài liệu của Hồ Chí Minh về tôn giáo và ứng xử của Nhà nước với tôn giáo.
Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ sau nhiều di sản quý giá, trong số đó có tư tưởng về tôn
giáo. Với tư cách là học trò của C. Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu mà còn
vận dụng sáng tạo tư tưởng, lý luận tôn giáo của chủ nghĩa C. Mác - Lênin vào giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, đồng thời còn bổ sung vào tư tưởng, lý luận ấy những tư
tưởng mới qua thực tiễn cách mạng và xử lý vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam.
1.1.3. Tài liệu do các cơ quan Đảng, Nhà nước ban hành liên quan tới chính sách
tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, làm cơ sở cho
xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ Nhà nước với tôn giáo,
đó là:
1.1.3.1.Tài liệu là các văn bản của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ trương đối với
tôn giáo qua các giai đoạn cách mạng. Từ khi thành lập Đảng cho tới nay Đảng ta đã có
nhiều chủ trương về tôn giáo và công tác tôn giáo. Đây là căn cứ để xác định và đánh giá
quan hệ chính trị, Nhà nước với tôn giáo ở Việt Nam trong khoảng thời gian mà luận án
nghiên cứu.
1.1.3.2. Tài liệu là các văn bản pháp quy về tôn giáo và QLNN về TG. Theo báo cáo
8 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, tới tháng 12/2012, cấp trung ương ban hành 145 văn bản pháp quy về tôn giáo,
tới thời điểm tháng 12/2012 còn 85 văn bản có hiệu lực thi hành. Tới nay (2013) số văn
bản pháp quy về tôn giáo khá nhiều, đó là căn cứ để xác định và đánh giá quan hệ Nhà
nước với tôn giáo ở Việt Nam trong khoang thời gian luận án nghiên cứu.

1.1.4. Tài liệu của các nhà nghiên cứu về tôn giáo, chính sách, pháp luật tôn giáo và
công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều tác giả hoặc tập thể đã có
công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá, biên khảo về chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đối với tôn giáo ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Đó là những tài liệu
tra cứu, đối chiếu để làm rõ hơn những vấn đề mà luận án quan tâm thực hiện
1.1.5. Tài liệu của các tổ chức tôn giáo, các chức sắc, tín đồ tôn giáo. Các văn bản
quy định về nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tôn giáo như: Hiến chương, Điều lệ,
Nội quy, Quy định, Nghị quyết và các báo cáo tổng kết hoạt động thường niên của các tổ
chức tôn giáo hoặc báo cáo các sự kiện lớn của tôn giáo. Ngoài ra còn những tài liệu do
người của tôn giáo viết về tôn giáo của chính họ hay họ viết về tôn giáo khác là những tài
liệu luận án tham khảo để hiểu hơn về tôn giáo và quan hệ tôn giáo với Nhà nước, giúp
cho việc đánh giá QLNN về TG sát thực hơn.
1.1.6. Tư liệu thực tế qua điền dã. Đó là các cuộc phỏng vấn sâu các chức sắc tôn
giáo, các nhà quản lý, để biết ý kiến của các chức sắc các tôn giáo, các nhà quản lý, trả
lời. Từ đó có thêm cơ sở để đánh giá những vấn đề luận án quan tâm.
1.1.7. Tài liệu quốc tế, luật pháp, mô hình quản lý nhà nước về tôn giáo ở một số
nước trên thế giới. Trong xu thế hội nhập toàn cầu, đây là những tài liệu quan trọng để đối
chiếu, so sánh quan hệ Nhà nước với tôn giáo của Việt Nam với một số nước khác. Trong
đó, những tài liệu quốc tế rất quan trọng là các văn bản như: Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền (1948); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966); Tuyên
ngôn Viena và chương trình hành động (1993); Đối với các nước có: Luật liên bang
3
Nga về tự do tín ngưỡng và hiệp hội tôn giáo (1997); Thỏa ước năm 1801 giữa Tòa thánh
và chính phủ Pháp; Luật tách rời nhà thờ và nhà nước của Cộng hòa Pháp (1905); Bộ
luật chống tà giáo của Cộng hòa Pháp (2001); Bộ luật duy trì hòa hợp tôn giáo của
Singapor (1991); Viết về vấn đề luận án quan tâm:
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những công trình bàn về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này giúp cho việc đánh giá chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước được sâu sát, chính xác.

1.2.2. Những công trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thực hiện chính sách tôn
giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
Đã tổng kết những vấn đề cơ bản về lý luận tôn giáo, đánh giá khái quát vấn đề lý
luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam. Với những phân tích về chính sách tôn giáo của
Việt Nam hiện nay, đồng thời có sự so sánh với thực tiễn tôn giáo ở một số nước trên thế
giới Đã chỉ rõ việc vận dụng quan điểm Mác - Lênin vào thực hiện công tác tôn giáo ở
Việt Nam, từ đó chỉ ra những vấn đề công tác tôn giáo trong thời gian tới cần quan tâm,
Là những tài liệu rất giá trị khi nghiên cứu về quan hệ Nhà nước với các tôn giáo ở Việt
Nam.
1.2.3. Những công trình nghiên cứu pháp luật về tôn giáo, kinh nghiệm quản lý nhà
nước về tôn giáo của các nước.
Từ góc độ tôn giáo học, một số cơ quan nghiên cứu hoặc các học giả đã bàn đến tôn
giáo, pháp luật về tôn giáo ở nước ngoài, làm cơ sở so sánh đối chiếu với chính sách, pháp
luật tôn giáo ở Việt Nam.
1.2.4. Những vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
1.2.4.1. Những vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, kết quả và những
tồn tại cần quan tâm. Trong vấn đề lý luận cơ bản, đã có nhiều nghiên cứu khá công phu
của các tác giả đi trước, thuộc các giai đoạn khác nhau. Song trong lĩnh vực QLNN về TG
ở Việt Nam chưa có công trình nào đi sâu vào nội dung cụ thể của QLNN về TG ở Việt
Nam. Phần đề xuất giải pháp, các công trình nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, trong đó có một số giải pháp liên quan tới QLNN về
TG. Song do chưa đánh giá được thực chất QLNN về TG và chưa làm rõ những vấn đề
đặt ra hiện nay trên lĩnh vực QLNN về TG, do vậy giải pháp đưa ra nhằm giải quyết
những vấn đề QLNN về TG ở Việt Nam hiện nay chưa thật sát và thiếu đồng bộ.
1.2.4.2. Vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Luận án hệ thống hóa quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và việc pháp điển hóa quan điểm ấy đối với QLNN về
TG. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của QLNN về TG ở Việt Nam. Đánh giá, phân tích
thực trạng kết quả QLNN về TG ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Phát hiện những vấn
đề đặt ra, dự báo và khuyến nghị đối với QLNN về TG ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.3. Một số khái niệm được sử dụng trong luận án

Tôn giáo: hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng
bái những lực lượng siêu nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số
phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ, tôn giáo nảy sinh rất sớm từ trong
xã hội nguyên thủy.
Tôn giáo “ religion”, có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên, trên một cách
thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu
nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người, đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng,
thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh,
cũng như đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó.
4
Tổ chức tôn giáo: là tổ chức của những người cùng chung một tôn giáo, có Hiến
chương, Điều lệ,… nêu rõ tôn chỉ mục đích được nhà nước phê duyệt, có đăng ký hoạt
động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định, có trụ sở giao dịch của tổ chức, có tên gọi
không trùng tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận.
Tín đồ: là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
Nhà tu hành: là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo
lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
Chức sắc tôn giáo: là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Thông thường
chức sắc tôn giáo vừa là người giữ chức vụ, vừa là người giữ phẩm sắc trong tôn giáo.
Tự do tôn giáo: tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo thường được coi là một nguyên
tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực
hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm này thường
được thừa nhận là có bao gồm cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do không theo một
tôn giáo nào. Tại nhiều quốc gia, tự do tín ngưỡng được nhiều người coi là một quyền cơ
bản của con người. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền định nghĩa tự do tín ngưỡng như
sau: Mỗi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm, và tín ngưỡng; quyền này bao gồm tự
do thay đổi tín ngưỡng, và tự do thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình một cách cá
nhân hoặc công khai trong việc rao giảng, thực hành, thờ phụng, và tu tập.
Tại một quốc gia có quốc giáo, tự do tín ngưỡng thường được hiểu là chính phủ cho
phép thực hành các hoạt động của các tôn giáo khác với quốc giáo, và không đàn áp các

tín đồ thuộc các tôn giáo khác.
Quyền tự do tôn giáo: nếu xét theo ngữ nghĩa và hiểu theo nghĩa đơn giản, “tự do
tôn giáo” là sự bảo đảm tính độc lập của tôn giáo đối với các thiết chế quyền lực, bảo đảm
tôn giáo thoát ly mọi sự cấm đoán, hạn chế, ràng buộc. Nếu nhìn nhận dưới góc độ triết
học thì khái niệm tự do phải được xem xét trong mối quan hệ với tất yếu.
Điều 1 và 2 tại Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004) chỉ rõ: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”.
Quản lý nhà nước: là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan nhà nước (lập
pháp, hành pháp và tư pháp) để thực thi quyền lực Nhà nước, thông qua các văn bản quy
phạm pháp luật.
Quản lý nhà nước về tôn giáo:Nghĩa rộng, là quá trình dùng quyền lực nhà nước
(quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp
luật để tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn
giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể
của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các
cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban Nhân dân các cấp) để điều chỉnh
các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo
diễn ra theo quy định của pháp luật.
Như vậy, QLNN về TG là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân, hướng các hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ
và phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước quy định bằng
pháp luật các hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giữa các công dân, các
tổ chức xã hội trước pháp luật, hình thành khung pháp lý, làm cơ sở để các tôn giáo thực
hiện hoạt động của mình trong khuôn khổ pháp luật.
5
Chủ thể quản lý nhà nước ở Việt Nam: theo Hiến pháp năm 1992, ở Việt Nam có

các loại cơ quan nhà nước sau đây:
1) Các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương);
2) Các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang
Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, các UBND cấp tỉnh, huyện, xã và các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND;
3) Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự, các tòa án nhân
dân địa phương, tòa án đặc biệt và các tòa án khác do luật định);
4) Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát quân sự,
viện kiểm sát nhân dân địa phương).
Chủ tịch nước là một chức vụ nhà nước, một cơ quan đặc biệt thể hiện sự thống nhất
của quyền lực, có những hoạt động thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nên
không xếp vào bất kỳ một loại cơ quan nào.
Theo nghĩa hẹp, chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm các
cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp gồm: Chính phủ, UBND các cấp ngoài ra có
các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền quản lý như BTGCP,
Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và môi trường,
Khách thể quản lý tôn giáo ở Việt Nam: là các tổ chức tôn giáo, chức sắc, người tu
hành, tín đồ, với những hoạt động cụ thể thuộc phạm vi quản lý điều chỉnh của pháp luật.
Chính sách tôn giáo: chính sách tôn giáo là thuật ngữ để chỉ cơ sở cho QLNN về
TG. Trong lịch sử Việt Nam, cho tới những năm đầu thế kỷ XX, vẫn chưa có “chính sách
tôn giáo” đầy đủ theo nghĩa hiện đại. Nghĩa là quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức tôn
giáo chưa được định chế bằng luật pháp.
Ở Việt Nam hiện nay, chính sách tôn giáo được thể hiện ở chủ trương, đường lối của
Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước đối với công tác tôn giáo và QLNN về TG.
Chương 2
CƠ SỞ CHO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO
Ở VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lý luận. Có nhiều quan điểm khác nhau đối với QLNN về TG. Có quan
điểm cho rằng, hoạt động tôn giáo là công việc nội bộ của những người có đạo, tôn giáo là

hoạt động tự quản nên không cần Nhà nước phải quản lý, điều chỉnh, nếu có QLNN về
TG thì không còn tự do tôn giáo.
Song thực tiễn ngày nay cho thấy, hầu khắp các nước trên thế giới, ở đâu có hoạt
động tôn giáo, ở đó cần có QLNN về TG. Nếu không có QLNN về TG, dễ dẫn đến các
tôn giáo hoạt động tự phát, chèn ép, công kích lẫn nhau, làm ảnh hưởng tới sự phát triển
lành mạnh và ổn định của xã hội. Ngoài ra trong tính phức tạp của chính trị, xã hội hiện
nay, tôn giáo thường bị chính trị, kinh tế lợi dụng, chi phối, … Vì vậy nếu không có quản
lý tôn giáo, tôn giáo dễ bị lợi dụng làm công cụ để tác động tới an ninh quốc gia, trật tự xã
hội Do đó, QLNN về TG là yêu cầu khách quan của các quốc gia, sự khác biệt có chăng
ở chỗ mỗi quốc gia lựa chọn cách thức QLNN về TG có khác nhau. Đối với Việt Nam từ
khi có Đảng cộng sản lãnh đạo, ứng xử với tôn giáo được dựa trên những cơ sở lý luận
khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực tiễn và kinh
nghiệm được đúc kết qua quá trình quản lý xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là hệ tư tưởng căn bản, là ngọn đèn
pha chiếu sáng cho con đường cách mạng Việt Nam.
6
2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo. Chỉ rõ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội của tôn giáo và phương pháp ứng xử với tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH,
với những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc, tôn giáo là một hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng
tầng. Chính con người sinh ra tôn giáo và tôn giáo quay lại chi phối con người. Thứ hai,
tôn giáo là một phạm trù lịch sử, cùng với tiến trình lịch sử của con người, tôn giáo được
sinh ra, tồn tại và mất đi khi nền tảng cho sự tồn tại của nó không còn. Thứ ba, ứng xử
với tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH là phải hiểu tôn giáo và ứng xử đúng với
bản chất của tôn giáo. Không thể sử dụng bạo lực để đàn áp tôn giáo, mà chỉ có thể sử
dụng phương cách giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục để toàn thể nhân dân, cả những
người theo đạo và những người không theo đạo.
Giải quyết vấn đề tôn giáo trong CNXH, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong khi đưa ra quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị là
“Giải phóng tôn giáo ra khỏi chính trị”, đã nhận thấy, việc đó không thể đạt đến sự thành

công nhanh chóng, mà phải là một quá trình lâu dài, bền bỉ với phương thức tổ chức chính
trị thực tiễn khoa học và nghệ thuật. Quan hệ Nhà nước với tôn giáo, Lênin đã chỉ rõ : “
Nhà nước không được dính đến tôn giáo, các đoàn thể tôn giáo không được dính đến
chính quyền nhà nước, bất kỳ ai cũng hoàn toàn được tự do theo tôn giáo mình thích,
hoặc không thừa nhận một tôn giáo nào, nghĩa là được làm người vô thần, như bất cứ
người XHCN nào cũng thường là người vô thần”.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tôn
giáo
Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm mác - xít về tôn giáo trong hoàn
cảnh xã hội Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đất nước độc lập - tôn giáo được
tự do, dân giàu, nước mạnh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc
điểm Việt Nam:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo là quyền căn bản của con
người và chỉ ra rằng, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn
gắn bó chặt chẽ với nhau.
Thứ hai, tự do tín ngưỡng tôn giáo phải gắn liền với độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “Nước không được độc lập, thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta
phải làm cho nước độc lập đã ”.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo là xây dựng đoàn kết tôn
giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, độc lập dân tộc
và CNXH. Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Hồ Chủ tịch, thể hiện tính nhất quán, lâu
dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ mềm dẻo, khéo léo trong việc giải
quyết các vấn đề tôn giáo.
Trọng tâm tư tưởng về tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết lương
- giáo. Cơ sở của đoàn kết lương - giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự "đồng
nhất" với nhau vì mục tiêu độc lập tự do của dân tộc. Hồ Chủ tịch cho rằng, đồng bào
lương và giáo đều là người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp chung, sự nghiệp lớn, lâu dài. Vì thế lương - giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết thì sự
nghiệp lớn của dân tộc mới giành được thành công. Qua các bức thư gửi cho đồng bào các
tôn giáo và các chức sắc tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn đề cao cái chung của mọi người,

không kể lương hay giáo căn bản nhất là lòng yêu nước. Còn cái riêng, cái dị biệt về đức
tin, lối sống: Đồng bào giáo thì có tình cảm kính Chúa, đồng bào lương thì ngưỡng mộ
Đức Phật chỉ là sự khác biệt nhỏ, không căn bản. Chúng ta cần phải bỏ qua cái dị biệt nhỏ,
giữ lại cái tương đồng lớn.
7
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác vận động đối với các chức sắc tôn giáo và
đồng bào tôn giáo là việc làm quan trọng. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan tâm đối
với các chức sắc tôn giáo và dành tình cảm tốt nhất để tranh thủ họ, song cũng có thái độ
xử sự dứt khoát, kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo, làm hại đạo, làm hại dân.
Đối với kẻ lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc,
Người chỉ rõ: Chính phủ sẽ nghiêm trị những kẻ lừa bịp, cưỡng bức đồng bào phải bỏ quê
hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn.
Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, đã đưa ra những những nguyên tắc cơ bản để giải quyết
vấn đề tôn giáo:
Một là, Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo.
Ba là, Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Bốn là, Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo
có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn.
Năm là, Vấn đề theo đạo và truyền đạo, mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại
gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Tuân thủ những nguyên tắc
cơ bản để giải quyết vấn đề tôn giáo đó là thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng cộng
sản Việt Nam với tôn giáo.
2.2. Cơ sở thực tiễn

2.2.1. Ứng xử với tôn giáo của một số nước trên thế giới
Trong lĩnh vực tôn giáo, khi Việt Nam đã cam kết tham gia và thực hiện một số văn
bản quốc tế về quyền con người, quan tâm tới tôn giáo không chỉ giới hạn trong nước, mà
cần phải quan tâm tới việc ứng xử với tôn giáo của các quốc gia khác. Ngoài việc học tập
kinh nghiệm còn nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo trong nước phù hợp với quy định quốc
tế, đồng thời giữ gìn nét riêng về chủ quyền của Việt Nam. Do đặc điểm riêng của mỗi
quốc gia, quan hệ ứng xử của Nhà nước với tôn giáo của từng nước có khác nhau.
Chính sách tôn giáo của Mỹ: Mỹ là nước đa tôn giáo, song nước Mỹ không có
Luật tôn giáo, những vấn đề liên quan tới tôn giáo được quy định ở Bộ Luật dân sự, tôn
giáo được xem như các tổ chức, hiệp hội xã hội khác. Chính phủ không có cơ quan quản
lý tôn giáo, trong Chính phủ không có đại diện của tổ chức tôn giáo; Quốc hội không dành
ghế cho tổ chức tôn giáo; Tư pháp không quy định riêng về tôn giáo; Tài chính quốc gia
không có khoản chi cho tôn giáo.
Chính sách tôn giáo của Pháp, năm 1801, Tòa thánh La mã và Nhà nước Pháp đã
đưa ra Công ước giữa Đức Giáo hoàng Pie VII và chính phủ Pháp. Chính phủ nước Cộng
hòa thừa nhận đạo Công giáo, tông tòa La mã được tự do truyền bá trên đất Pháp. Năm
1905, nước Pháp có Luật về tách rời Nhà thờ và nhà nước Cộng hòa Pháp, Tách quyền
lực chính trị ra khỏi tôn giáo; tách giáo dục công cộng ra khỏi tôn giáo; đưa tôn giáo là
việc của cá nhân. Năm 2001, nước Pháp có Bộ Luật chống tà giáo.
Chính sách tôn giáo ở Nga, từ 1991, luật pháp tôn giáo ở Nga được điều chỉnh:
Công nhận vai trò đặc biệt của Chính thống giáo trong lịch sử và trong phát triển văn hóa
tinh thần của con người. Từ năm 2010: 12.000 trường phổ thông được dạy về giáo lý, đạo
đức tôn giáo, thời gian học 2 giờ/tuần (256.000 học sinh). Từ năm 2012 giáo lý, đạo đức
tôn giáo trở thành một môn học hoàn chỉnh, bắt buộc.
8
Chính sách tôn giáo ở Trung Quốc, tôn giáo tồn tại lâu dài trong CNXH. Hiến
pháp ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước không quản lý nội bộ tôn giáo,
chỉ quản lý hoạt động tôn giáo liên quan đến xã hội. Lợi ích kinh tế căn bản của người có
và không có tôn giáo phù hợp nhau.
Kiên trì nguyên tắc độc lập tự chủ, các tổ chức tôn giáo quốc tế không được can

thiệp vào tổ chức tôn giáo ở Trung Quốc.
Chính sách tôn giáo Nhật Bản, nội dung cơ bản trong chính sách tôn giáo Nhật
Bản là nguyên tắc tách biệt chính trị với tôn giáo được Hiến pháp ghi nhận. Mọi người
đều được tự do tín ngưỡng. Tổ chức tôn giáo không được hưởng đặc quyền từ Nhà nước,
không được sử dụng quyền lực chính trị.
Chính sách tôn giáo của Indonesia, dân số theo Islam giáo tới 87% nhưng Islam
giáo không phải là quốc giáo, để đoàn kết tôn giáo, dân tộc. Tổng thống tham dự các ngày
lễ trọng của mọi tôn giáo. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho tôn giáo dựa vào số lượng tín đồ.
Không can thiệp vào nội bộ tôn giáo; cấm kỳ thị tôn giáo; tôn giáo tự do hoạt động theo
Hiến chương, Điều lệ. Tôn giáo vi phạm pháp luật đều xử lý như các tổ chức, cá nhân
khác mà không ai xem đó là xử tôn giáo. Tôn giáo có trường đào tạo nhân lực xã hội. Các
trường giảng dạy về tôn giáo, tôn giáo là thành tố của văn hóa, là đối tượng của khoa học,
cần khai thác.
Chính sách tôn giáo của Singapore, là đất nước đa nguyên về tôn giáo và dân tộc,
dân tộc được yên ổn, đoàn kết phụ thuộc vào việc xử lý thoả đáng vấn đề tôn giáo. Kiên
trì tách biệt giữa chính trị và tôn giáo là nguyên tắc cơ bản chế định chính sách tôn giáo.
Giải quyết vấn đề tôn giáo là cơ quan phát triển cộng đồng, thuộc Bộ Phát triển Cộng
đồng - Thanh niên và Thể thao.
Về mối quan hệ giữa Nhà nước với tôn giáo trong thời đại hiện nay các nhà nghiên
cứu đã khái quát một số biểu hiện chung:
1) Xuất hiện nhiều tổ chức tôn giáo mang tính toàn cầu, thông qua nhiều phương
thức tìm cách tham gia vào hoạt động chính trị với ý tưởng thay đổi thế giới theo hướng
mà họ cho là tốt hơn.
2) Ở các quốc gia đa tôn giáo, các giáo hội tôn giáo đều bình đẳng trong quan hệ với
chính trị, pháp luật.
3) Một số nước vốn có chế độ giáo hội nhà nước, hay quốc giáo, tại đó đang có sự
hợp nhất, nhất định giữa tôn giáo với chính trị.
4) Quan hệ tôn giáo với chính trị được thế giới quan tâm bởi một số các tổ chức tôn
giáo đang bị chính trị lợi dụng để thực hiện những hoạt động cực đoan làm ảnh hưởng tới
an ninh, an toàn của nhiều nước. Hoạt động khủng bố của một số phần tử cực đoan trong

tôn giáo đang trở thành lo ngại cho nhiều quốc gia.
5) Tôn giáo vẫn được xem là công cụ của một số thế lực chính trị, dùng để tấn công,
lật đổ nền chính trị của các phe phái chính trị đối lập, thậm chí, của các nước khác mà họ
không thiện cảm.
Mối quan hệ giữa tôn giáo với chính trị trong lịch sử xã hội loài người diễn ra hết
sức phong phú và phức tạp, diễn ra như một quá trình gắn bó hữu cơ lúc ban đầu, đến
xung đột, chống đối, quy định lẫn nhau ở thời kỳ sau, để rồi quyền lực giáo hội suy giảm
dần dưới thời kỳ cận, hiện đại. Khi xem xét QLNN về TG ở các nước để vận dụng vào
Việt Nam, chúng ta cần phải kết hợp cả 3 tính quy định: phổ biến, đặc thù và đơn nhất
trong QLNN về TG. Bởi vì, nếu tuyệt đối hóa tính phổ biến thì Việt Nam đánh mất tính
độc lập sáng tạo, mất bản sắc truyền thống; còn nếu tuyệt đối hóa đặc thù và đơn nhất thì
chúng ta sẽ “không giống ai”, trở nên xa lạ, thiểu số với thế giới đương đại.
9
2.2.2. Ứng xử với tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong lịch sử. Việt Nam quốc gia
đa dân tộc và đa tôn giáo, trong suốt tiến trình lịch sử, các tôn giáo luôn hoà đồng, khoan
dung với tín ngưỡng bản địa, thể hiện sự uyển chuyển của Nhà nước qua các thời kỳ trong
chính sách đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ độc lập chủ quyền và xây
dựng đất nước. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã có
quan điểm, đường lối tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; tách tôn giáo khỏi ảnh
hưởng và sự lợi dụng của chính trị đế quốc thực dân; đoàn kết lương - giáo, đoàn kết giữa
các tôn giáo khác nhau, nhằm phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo để thực hiện
độc lập tự do và phát triển của dân tộc. Vì thế, đồng bào các tôn giáo ở nước ta cũng đã
tham gia tích cực vào sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
2.3. Nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ Nhà nước và tôn giáo ở Việt Nam.
2.3.1. Đối tượng của quản lý (tôn giáo). Hiện tại Việt Nam có 13 tôn giáo với 37 tổ
chức tôn giáo, 01 pháp môn tu hành đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt
động, trong đó có 6 tôn giáo ngoại nhập và 7 tôn giáo nội sinh. Với gần 24 triệu tín đồ
(chiếm khoảng 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, nhà tu hành, 250.000 chức việc.
Tín đồ các tôn giáo phần đông là nhân dân lao động, gắn bó với quê hương đất nước. Sau
chiến tranh một bộ phận tín đồ chức sắc các tôn giáo di tản ra nước ngoài, bởi vậy nhiều

chức sắc, tín đồ tôn giáo trong nước có quan hệ với người thân ở nước ngoài. Ở nước
ngoài, số đông người sau thời gian hiểu về chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về tôn giáo, họ hướng về đất nước, cùng đồng bào trong nước chung tay xây dựng
quê hương. Số ít do lôi kéo, kích động của các phần tử xấu đã quay lưng lại với dân tộc,
chống phá tiến trình xây dựng CNXH của Việt Nam, gây nhiều khó khăn cho QLNN về
TG trong nhiều năm đã qua.
Việt Nam trong thời gian mấy thập kỷ gần đây số lượng tín đồ và số lượng các tổ
chức tôn giáo tăng rất nhanh, nhất là đạo Tin lành ở khu vực miền núi Tây Bắc và Tây
Nguyên. Bên cạnh các tôn giáo, Việt Nam có hệ thống tín ngưỡng dân gian rất phong phú,
như thờ Tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Anh hùng dân tộc, thờ Mẫu,… thu hút đông đảo
người dân tham gia. Mỗi năm có trên 8.000 lễ hội lớn nhỏ.
2.3.2.Nhân tố tích cực. Thứ nhất, có Nhà nước chuyên chính vô sản với hệ thống lý
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Thứ hai, QLNN về TG là một bộ phận trong quản lý xã hội, hệ thống quản lý
xã hội đã được xây dựng phát triển qua thử thách của cách mạng. Thứ ba, QLNN về TG
được đông đảo nhân dân ủng hộ. Thứ tư, Đoàn kết tôn giáo là một trong những nhiệm vụ
quan trọng góp phần xây dựng đại đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam. Thứ năm, Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đang tạo nhiều điều kiện
thuận lợi cho việc hiện đại hóa các phương tiện, kỹ thuật quản lý. Việt Nam đã khá tiến
bộ, tích cực trong tiến trình hội nhập quốc tế.
2.3.3.Nhân tố hạn chế. Thứ nhất, Nghị quyết của Đảng đã chỉ ra những hạn chế,
yếu kém của Đảng và Nhà nước trong tổ chức, quản lý quá trình xây dựng xã hội mới.
Thứ hai, mặt trái của sự phát triển khoa học kỹ thuật, giúp cho tôn giáo lan truyền nhanh
với tốc độ khó kiểm soát đã mang theo không ít hệ lụy cho bảo tồn văn hóa truyền thống
của nhiều quốc gia. Thứ ba, quan hệ quốc tế mở rộng đã tạo nên nhiều cơ hội cho làn sóng
tôn giáo mới, đạo lạ, làm xói mòn lối sống, văn hóa truyền thống.
Tiểu kết chương 2
Chương hai nhằm làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và nhân tố ảnh hưởng đến
QLNN về TG ở Việt Nam. Thực tiễn quan hệ Nhà nước với tôn giáo của các nước trên
thế giới, kinh nghiệm ứng xử của Nhà nước với tôn giáo qua các triều đại ở Việt Nam là

10
bài học sâu sắc cho ứng xử của Nhà nước với tôn giáo ở Việt Nam hiện tại và tương lai để
xây dựng và thực hiện QLNN về TG hiệu quả.
Trong quan hệ Nhà nước với tôn giáo luôn xuất hiện những nhân tố thuận lợi và hạn
chế. Để nhân tố thuận lợi quyết định, cần nắm vững lý luận và thực tiễn, khéo léo chuyển
hóa những nhân tố hạn chế thành nhân tố thuận lợi là điều hết sức cần thiết và quan trọng,
điều đó phụ thuộc vào sự linh hoạt và nhạy bén trong chính trị và quản lý Nhà nước. Thực
hiện được điều ấy QLNN về TG sẽ hiệu quả hơn.
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM TỪ NĂM
1975 ĐẾN NAY
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho tới nay, QLNN về TG ở
Việt Nam đã có lịch sử gần 60 năm. Nghiên cứu của luận án đối với QLNN về TG từ năm
1975 đến nay được xem xét ở hai thời kỳ và có chia ra các giai đoạn ngắn:
- Từ năm 1975 đến năm 1990, thời gian tính từ khi đất nước thống nhất cho tới
trước khi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI ban hành Nghị quyết
số 24/NQ - TW (1990), Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới .
- Từ năm 1990 đến nay, là thời kỳ đất nước đổi mới, QLNN về TG chia thành hai
giai đoan:
. Từ năm 1990 đến năm 2003, QLNN về TG được tính từ khi ban hành Nghị quyết
số 24/NQ - TW (1990) cho tới khi Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, ra Nghị
quyết số 25/NQ – TW (2003), Về công tác tôn giáo.
. Từ năm 2004 đến nay, từ khi ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004
tới năm 20013.
3.1. Quản lý nhà nước về tôn giáo từ năm 1975 đến năm 1990
Tiền đề cho QLNN về TG trước năm 1975, Nghị định số 566/TTg ngày 02/8/1955
của Thủ tướng Chính phủ, thành lập Ban tôn giáo Trung ương, cơ quan chuyên trách
QLNN về TG là một đơn vị trong Ban Nội chính của Chính phủ và trực thuộc Thủ tướng
phủ, có chức năng giúp Thủ tướng phủ và chính quyền các cấp triển khai thực hiện các
chủ trương, chính sách về tôn giáo. Làm đầu mối liên hệ với các ngành chức năng, vận

động đồng bào tôn giáo đấu tranh chống cưỡng ép tín đồ tôn giáo ở miền Bắc di cư vào
miền Nam. Vận động chức sắc tín đồ tôn giáo tham gia kiến thiết đất nước sau chiến tranh
ở miền Bắc, đấu tranh với đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đòi thi hành Hiệp định
Giơ ne vơ ở miền Nam và giành độc lập, thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này hai tổ
chức tôn giáo được thành lập: Hội thánh Tin lành miền Bắc (1955) và Hội Phật giáo thống
nhất Việt Nam (1958).
3.1.1. Thành tựu quản lý nhà nước về tôn giáo từ năm 1975 đến 1990.
Năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết 297/NQ - CP (11/11/1977), Về hoạt
động tôn giáo. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về QLNN về TG trong điều
kiện đất nước thống nhất. (năm 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam được thành lập,
năm 1981 thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam).
Năm 1981, để đáp ứng hoạt động tăng dần của các tôn giáo sau khi đất nước thống
nhất, ngày 01/10/1981, Ban Bí thư (khoá V) ban hành Nghị quyết 40 - NQ/TW, Về công
tác đối với các tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết đề cập khá toàn diện chủ trương
của Đảng đối với các tôn giáo, với nội dung tạo nhiều điều kiện để đồng bào có đạo được
tự do sinh hoạt tôn giáo, đồng thời phải cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù lợi dụng tôn
giáo chống phá thành quả cách mạng ở Việt Nam.
11
Năm 1985, thực hiện tinh thần của Nghị quyết số 40 - NQ/TW (1981) của Ban Bí
thư, Về công tác đối với các tôn giáo trong tình hình mới. Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Nghị định 85/HĐBT, ngày 27/3/1985, thành lập Ban Tôn giáo của Chính phủ, cơ quan
giúp việc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về công tác tôn giáo.
3.1.2. Hạn chế, tư tưởng nóng vội trong cải tạo tôn giáo, biểu hiện ở mục tiêu Nghị
quyết số 40/NQ/TW đặt ra “…giúp cho quần chúng dần dần thoát khỏi mê tín tôn giáo”.
Tư tưởng này đã làm cho không ít cán bộ, ngộ nhận về việc tôn giáo sớm mất dần trong
CNXH. Trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội ở miền Nam sau năm 1975, do thiếu phương
pháp và nóng vội đã làm cho một số chức sắc, tín đồ tôn giáo do chưa hiểu chế độ mới
XHCN hoặc mặc cảm với sự ứng xử trong cải tạo xã hội đã bỏ ra nước ngoài.
Nguyên nhân hạn chế: Từ năm 1975 - 1990, đối với công tác tôn giáo mặc dù
QLNN về TG đã có thời gian tương đối dài, nhưng do hoàn cảnh cách mạng, nên việc tập

trung cho công tác tôn giáo chưa nhiều, nhận thức về tôn giáo chưa sâu sát, chưa hiểu hết
tính phức tạp của tôn giáo, còn nặng tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Cả
nước vừa giành lại độc lập sau cuộc chiến tranh kéo dài, công việc khắc phục hậu quả sau
chiến tranh còn khá nhiều vấn đề. Mặt khác đất nước ta vừa chiến thắng đế quốc Mỹ, kẻ
xâm lược mạnh nhất thế giới, ý chí cách mạng và tư tưởng chiến thắng các thế lực đối lập
còn rất mạnh mẽ, do vậy mà tư tưởng tôn giáo sớm mất dần trong quá trình xây dựng
CNXH như là việc đương nhiên.
Sau năm 1975, xã hội, tôn giáo trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi với hoạt
động tôn giáo ngày càng phức tạp, trong nước các thế lực thù địch với CNXH không
ngừng lợi dụng tôn giáo với âm mưu và hành động phá hoại tiến trình xây dựng CNXH ở
Việt Nam. Trên thế giới, Các thế lực chống phá CNXH không ngừng lợi dụng tôn giáo để
thực hiện các âm mưu: tạo sự mâu thuẫn trong tôn giáo nhằm gây mất đoàn kết nội bộ
trong lòng các nước XHCN, thúc đẩy “cách mạng” nhằm lật đổ chế độ XHCN.
Ở Việt Nam hoạt động tôn giáo có xu hướng sôi động dần. Sau giải phóng miền
Nam, theo thời gian không khí chiến thắng dần lắng xuống, cuộc sống của người dân với
bề bộn công việc và những lo toan, bất trắc vẫn diễn ra hàng ngày. Trong giai đoạn đầu
của cuộc sống hòa bình, khát khao mơ ước về cuộc sống ấm no, hạnh phúc chưa trở thành
hiện thực, thì tôn giáo có cơ hội trở về đặt con người trước niềm tin tâm linh. Trong nước
các tôn giáo cũ bắt đầu hoạt động trở lại và bắt nhịp với xu hướng sôi động của tôn giáo
quốc tế. Cùng với sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, việc lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ khối
đoàn kết dân tộc hòng thực hiện âm mưu phá hoại hòa bình ở Việt Nam, làm sụp đổ thần
tượng CNXH ở châu Á vẫn luôn nằm trong âm mưu và hành động của các thế lực thù
địch với CNXH
3.2. Quản lý nhà nước về tôn giáo từ năm 1990 đến nay.
Từ 1990 đến 2003, sau năm 1990, cả nước bước vào công cuộc đổi mới, như
phương châm Đại hội Đảng toàn quốc khóa VII, năm 1991 đã nêu “ Đại hội trí tuệ - đổi
mới, dân chủ, kỷ cương - Đoàn kết ”. Trong việc đổi mới về nhận thức với tôn giáo, Đảng
đã có nhiều chủ trương:
Năm 1990, Nghị quyết số 24-NQ/TW (16/10/1990), đã khẳng định: “Tôn giáo là
một vấn đề còn tồn tại lâu dài, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.


Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
nhân dân, thực hiện đoàn kết lương - giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”.
Từ 1990 đến 2003 có 13 văn kiện của Đảng được ban hành liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo, thể hiện rõ nhất, tiến bộ nhất quan điểm của Đảng về tôn giáo là Nghị
quyết số 25-NQ/TW(2003).
12
Nghị quyết số 25-NQ/TW (12/3/2003) ngoài kế thừa những tiến bộ của các Nghị
quyết trước, đã có những nhận thức mới về tôn giáo rõ ràng, cụ thể hơn và đặc biệt thấy
rõ: tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta,
Mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh là điểm tương đồng
để gắn đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
So sánh với trước 1990, Nghị quyết số 40- NQ/TW (1981) chủ trương tập trung cải
tạo tôn giáo, xây dựng đất nước sau chiến tranh, chống địch lợi dụng tôn giáo với quan
niệm tôn giáo sớm mất dần trong tiến trình xây dựng CNXH. Từ Nghị quyết 40-NQ/TW
(1981) tới Nghị quyết số 25-NQ/TW (2003) là một “ bước tiến vĩ đại của Đảng ta trong
đổi mới nhận thức về tôn giáo”. [Phạm Gia Khiêm, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng
Chính phủ]
Thành tựu trong tham mưu xây dựng văn bản pháp quy. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng
đã tạo điều kiện cho những văn bản pháp quy, quy định hoạt động tôn giáo ở Việt Nam
ngày một cởi mở hơn ra đời.
Năm 1991, Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Quy định về các hoạt động tôn giáo, nhằm giải quyết
những vấn đề bức xúc trong sinh hoạt tôn giáo, nâng hiệu quả QLNN về TG cao hơn so
với giai đoạn trước đó. Cùng nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác với nội dung trực
tiếp điều chỉnh hoạt động tôn giáo còn có các văn bản quy phạm pháp luật như: Bộ luật
Dân sự; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự; Luật Tổ chức

Quốc hội; Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức Hội đồng nhân; dân và Ủy ban nhân
dân 2003; Luật Xây dựng được ban hành.
Từ 2004 đến nay, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành ngày 18/6/2004,
đây là văn bản pháp quy về tôn giáo cao nhất (dưới luật), quy định khá chi tiết riêng về
hoạt động tôn giáo, đã mở ra một thời kỳ mới cho các hoạt động tôn giáo chủ động và
thông thoáng hơn, QLNN về TG đi vào chuyên môn hiệu quả hơn.
Xây dựng, củng cố bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo,từ năm 1955 cho đến
2009 cơ quan QLNN về TG các cấp đã được củng cố nhiều lần, theo chiều hướng phát
triển về biên chế, tăng thêm chức năng, nhiệm vụ cho QLNN về TG, cụ thể:
(1) Năm 1955, thành lập Ban tôn giáo trung ương, đơn vị trong Ban Nội chính của
Chính phủ và trực thuộc Thủ tướng phủ, cơ quan tương đương cấp vụ. Làm đầu mối liên
hệ với các tôn giáo, chủ yếu thực hiện chức năng vận động
(2) Năm 1964, Ban Tôn giáo trung ương đổi tên thành Ban Tôn giáo Phủ Thủ
tướng, trực thuộc Thủ tướng phủ, sau lần điều chỉnh thứ nhất cơ quan tương đương một
vụ với hai phòng chuyên môn. Làm đầu mối liên hệ với các cơ quan, thực hiện chức năng
quản lý, nhiệm vụ chính vẫn là vận động các tôn giáo.
(3) Năm 1985, thành lập Ban tôn giáo của Chính phủ, cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng giúp việc cho Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về công tác tôn giáo.
(4) Năm 1993, Ban tôn giáo của Chính phủ, có 06 đơn vị trực thuộc là cấp vụ và
tương đương. Ban Tôn giáo của Chính phủ là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng
quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo trong cả nước; là đầu mối phối hợp giữa các
ngành về công tác tôn giáo, và liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
(5) Năm 1998, Ban Tôn giáo của Chính phủ, có 09 đơn vị trực thuộc là cấp vụ và
tương đương. Tách một số vụ chuyên môn. Tăng thêm công tác bồi dưỡng nghiệp vụ làm
QLNN về TG tôn giáo.
(6) Năm 2003, đổi tên thành Ban Tôn giáo Chính phủ, là cơ quan thuộc Chính phủ,
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo trong phạm
vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy định của
pháp luật. Với 17 nhiệm vụ và tổ chức của Ban gồm 13 đơn vị trực thuộc:
13

(7) Năm 2009, Ban Tôn giáo Chính phủ, là cơ quan trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức
năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo trong
phạm vi cả nước và thực hiện các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy định của
pháp luật. Với 19 nhiệm vụ được quy định và Cơ cấu tổ chức gồm 14 đơn vị trực thuộc:
Trong đó 10 đơn vị hành chính và 04 đơn vị sự nghiệp
Ở cấp Trung ương bộ máy thực hiện nhiệm vụ QLNN về TG được tăng cường dần.
Tuy nhiên thời điểm 2004 tới 2009 trước khi thực hiện sáp nhập ngành quản lý về trực
thuộc ngành Nội vụ, hệ thống QLNN về TG hoạt động tương đối hiệu quả từ trung ương
tới cơ sở. Sau khi có quyết định sáp nhập ngành quản lý nhà nước về ngành Nội vụ bộ
máy QLNN về TG các cấp có sự thay đổi, giảm đáng kể về số cán bộ.
Quản lý nhà nước về tôn giáo, nội dung QLNN về TG được thể hiện trên nhiều mặt,
với những kết quả cao được tôn giáo ủng hộ, được thế giới đánh giá ghi nhận.
Tổ chức tôn giáo. Trước năm 2004, Việt Nam có 6 tôn giáo với 16 tổ chức tôn giáo
được công nhận. Sau 8 năm thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (từ 2004 tới 2012)
đã công nhận thêm 7 tôn giáo với 21 tổ chức và 01 pháp môn. Hiện tại có 13 tôn giáo, 37
tổ chức tôn giáo và 01 pháp môn tu học, đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký
hoạt động. 39 dòng tu; 04 hội đoàn Công giáo; hơn 2000 xứ họ đạo Công giáo, Chi hội
thánh Tin lành, chùa Phật giáo, họ đạo Cao Đài;… hơn 1.500 điểm nhóm Tin lành được
đăng ký sinh hoạt. 10.818 con dấu đã cấp cho các tổ chức tôn giáo.
Chức sắc tôn giáo, năm 2005, chức sắc, nhà tu hành cả nước có 64.079 vị (không
thống kê chức việc), đến năm 2012, đã tăng lên đến trên 83.000 chức sắc, nhà tu hành;
250.000 chức việc.
Đào tạo của các trường tôn giáo, từ năm 2004 tới 2012 các tôn giáo đã thành lập
thêm một số cơ sở đào tạo: Phật giáo thành lập thêm 01 Học Viện Phật giáo Nam tông
Khmer, 02 trường Cao đẳng và 02 trường trung cấp Phật học ( nâng tổng số lên 04 Học
viên, 2 trường, 6 lớp cao đẳng và 32 trường trung cấp); Công giáo thành lập thêm cơ sở II
Đại chủng viện Thánh Giuse Hà Nội và Đại chủng viện Thánh Giuse Xuân Lộc (nâng
tổng số lên 07 Đại chủng viện và 01 phân hiệu); Tổng Hội thánh Tin lành miền Bắc thành
lập Viện Thánh kinh thần học tại Hà nội. Ngoài các chương trình đào tạo theo nội dung
các trường tôn giáo, các cơ quan chức năng của nhà nước đã tổ chức tuyên truyền phổ

biến Pháp luật cho hơn 20.000 lượt chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.
Xây dựng trùng tu, cơ sở thờ tự, năm 2005, cả nước có 23.464 cơ sở thờ tự tôn giáo
(Phật giáo 16.672; Công giáo 6003; Islam giáo 77; Tin lành 270; Cao Đài 1.335; Phật giáo
Hòa Hảo 522; Tịnh độ Cư sỹ 201; Tứ ân Hiếu nghĩa 76); năm 2012 đã có gần 25.000 cơ
sở thờ tự, tăng trên 1.640 cơ sở sau 7 năm. Trong vòng 8 năm có gần 20.000 cơ sở tôn
giáo xây dựng và tu sửa. Nhà nước đã giao hàng trăm ha đất cho các tổ chức tôn giáo để
sử dụng mục đích tôn giáo.
Báo chí, xuất bản các ấn phẩm tôn giáo, liên quan tới tôn giáo, năm 2010, cả nước có
13 báo, tạp chí, bản tin và 01 nhà xuất bản về tôn giáo (trong đó có 02 tạp chí và 01 nhà
xuất bản của Nhà nước: Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo và Tạp chí Công tác tôn giáo, Nhà
xuất bản tôn giáo). Năm 2013, tăng lên 15 báo, tạp chí và thêm kênh truyền thông văn hóa
tôn giáo AVG. Các trang Websiter của các tôn giáo ngày càng nhiều.
Nhà xuất bản Tôn giáo, từ năm 1999 - 2004, đã xuất bản 719 ấn phẩm tôn giáo,
với 4,2 triệu bản in. Năm 2011, đã cấp phép xuất bản cho 1.004 đầu sách, in hơn 2,5 triệu
bản; đạo Tin Lành đã in Kinh thánh bằng chữ Mông La tinh, Islam giáo in kinh Cô ran
song ngữ Việt Nam - Ả rập. Từ 2006 đến 2012 Nhà xuất bản tôn giáo đã cấp phép cho
5.843 tác phẩm, trong đó 4.725 đầu sách với 14.535.464 bản in, 1.118 đĩa MP3,VCD, CD,
DVD, ảnh, lịch, cờ tôn giáo với số lượng 2.546.201 bản bằng nhiều ngôn ngữ như Việt,
14
Anh, Pháp, Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na.In ấn kinh sách, đồ dùng tôn giáo đúng quy
định pháp luật.
Hoạt động quốc tế của các tôn giáo, công tác đối ngoại tôn giáo ngày càng mở
rộng, nâng cao vị thế của các tôn giáo Việt Nam trên trường quốc tế, bạn bè thế giới biết
và đến Việt Nam ngày càng đông. Nhà nước đã hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các
tổ chức, chức sắc, tín đồ tôn giáo tham gia các hoạt động đối ngoại. Từ năm 2005 tới năm
2012 đã cấp phép cho trên 1.000 lượt chức sắc, nhà tu hành ra nước ngoài tham gia các
khóa đào tạo về tôn giáo và các hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo; Quan hệ của các
tôn giáo Việt Nam với các tổ chức tôn giáo nước ngoài ngày càng gia tăng. Như Phật giáo
quan hệ với Tổ chức Phật giáo châu Á vì hoà bình, Liên đoàn Thân hữu Phật giáo Thế
giới, Phật giáo các nước. Công giáo ở Việt Nam quan hệ với Toà thánh Vatican, Giáo hội

Công giáo Pháp, Mỹ; Tin lành Việt Nam với Tin lành Hàn Quốc, Bắc Âu. Islam giáo Việt
Nam quan hệ với Islam giáo Đông Nam Á, Liên hiệp Islam giáo thế giới Trong 8 năm
(2004 – 2012) đã có 1.178 lượt chức sắc nhà tu hành ra nước ngoài tham gia các khóa đào
tạo về tôn giáo, 175 đoàn khách quốc tế vào trong nước hoạt động tôn giáo với số lượng
nhiều trăm lượt người.
Hoạt động từ thiện xã hội, của các tôn giáo ở Việt Nam được khuyến khích như:
việc khám chữa bệnh miễn phí, nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật, chăm sóc người già, bệnh
tật, bệnh nhân phong, bệnh AIDS; chăm sóc nuôi dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; trợ
cấp học bổng cho học sinh nghèo hiếu học; trợ cấp lương giáo viên các lớp học tình
thương; xây dựng cầu, đường; tham gia xã hội hóa giáo dục, y tế, xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở, chống tệ nạn xã hội… được các tôn giáo hưởng ứng tích cực. Hiện tại có hơn
300 cơ sở giáo dục mẫu giáo, hơn 300 cơ sở khám chữa bệnh miễn phí do các tôn giáo tổ
chức, trên 100 cơ sở chăm sóc người già, trẻ mồ côi, người neo đơn. Riêng Phật giáo mỗi
năm vận động cho hoạt động này hơn 200 tỷ đồng, trong 10 năm 2002 – 2012 huy động
trên 2.000 tỷ đồng.
Hạn chế trong QLNN về TG, tính chuyên nghiệp trong QLNN về TG chưa cao nên
còn nhiều hạn chế trong thực hiện nội dung quản lý, chưa phát huy tốt tính tích cực, tiềm
năng của tôn giáo đóng góp cho xây dựng xã hội. Lúng túng trong quản lý và ứng xử với
các hiện tượng đạo la, tôn giáo mới, người nước ngoài sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam.
Thống kê, phân tích tôn giáo không đầy đủ, ít mang tính hệ thống. Giải quyết vấn đề tôn
giáo nặng tính sự vụ chưa đi vào chiến lược xây dựng ổn định trong hoạt động của các tôn
giáo…
Nguyên nhân thành tựu, QLNN về TG có được nhiều những thành tựu là do:
Thứ nhất, trước hết có nguyên nhân từ chính đòi hỏi của thực tiễn hoạt động tôn
giáo. Giải quyết tốt nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của nhân dân là tạo niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra nhiều bài học
trong ứng xử với tôn giáo và nhận thức rõ về việc cần thiết phải điều chỉnh chính sách đối
với tôn giáo, vừa để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo trong nước vừa để phù hợp với
các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Thứ ba, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước luôn được đông đảo nhân
dân nhất là đồng bào các tôn giáo ủng hộ. Sự ủng hộ ấy đã tạo nên sự đồng thuận cao
trong giải quyết các vấn đề tôn giáo có kết quả.
3.3. Những vấn đề đặt ra cho QLNN về TG ở Việt Nam.
Thực trạng QLNN về TG trong giai đoạn 1975 - 2013 đang đặt ra cho lý luận và
thực tiễn một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nhận thức về tôn giáo. Là quốc gia đa tôn giáo, nhiều tôn giáo có từ xa
xưa nhưng hiểu về tôn giáo của nhân dân nói chung và cán bộ nói riêng còn khá khiêm
15
tốn. Vì ít hiểu tôn giáo nên ứng xử với tôn giáo không phù hợp, trong lĩnh vực QLNN về
TG còn có nhiều hạn chế. Hiểu về tôn giáo không đúng, không đầy đủ thì không thể có
ứng xử đúng với tôn giáo, không tham mưu xây dựng pháp luật phù hợp với hoạt động
tôn giáo, không chủ động trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Vì lẽ đó trước hoạt động sôi
động của các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là hiện tượng tôn giáo mới, đạo lạ QLNN về TG
lúng túng, bị động.
Thứ hai, vấn đề bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo.
Đối với văn bản pháp quy liên quan tới QLNN về TG, quản lý hoạt động tôn giáo được
quy định trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004), ngoài ra còn được quy định ở 84
văn bản pháp luật khác nên khi thực hiện gặp nhiều khó khăn. Nhiều nội dung của pháp
luật về các lĩnh vực như: cơ sở vật chất, nhà, đất của tôn giáo; đào tạo chức sắc tôn giáo,
nhà tu hành; hoạt động nhân đạo, từ thiện; mở trường lớp;… chưa hướng dẫn chi tiết,
thếu cụ thể khiến việc triển khai thực hiện chưa đồng nhất làm cho QLNN về TG gặp khó
khăn.
Thứ ba, tính chuyên nghiệp và tính hiệu quả trong QLNN về TG. Kết quả đánh giá
QLNN về TG ở Việt Nam từ năm 1975 đến 2013 cho thấy tính chuyên nghiệp trong
QLNN về TG chưa cao. Đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN về TG chưa ngang tầm với
nhiệm vụ được giao. Chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Điều đó đang đặt ra cho
QLNN về TG trong thời gian tới phải nhận thức đúng về QLNN về TG và có điều chỉnh
cho phù hợp.
Thứ tư, vấn đề vị trí của cơ quan chuyên trách QLNN về TG trong bộ máy nhà nước

và trong hệ thống chính trị. Hiện nay vị trí cơ quan chuyên trách QLNN về TG đã bộc lộ
những bất cập, đang là vấn đề đặt ra cần quan tâm. Cơ quan chuyên trách tôn giáo trực
thuộc ngành Nội vụ như hiện tại với sự điều chỉnh chức năng và làm rõ cơ chế quan hệ,
hay đặt ở một ngành khác mang tính độc lập hơn để hiệu quả QLNN về TG cao hơn là vấn
đề cần được giải quyết. Trong gần 6 năm nhập QLNN về TG vào ngành Nội vụ, thực hiện
được việc giảm đầu mối hành chính. Tuy nhiên không giảm biên chế và hiệu quả công việc
chưa có chuyển biến tích cực thậm chí còn kém hơn thời gian trước đó vì những bất cập
trong trực thuộc hành chính.
Tiểu kết chương 3
QLNN về TG ở Việt Nam là một chuyên ngành quản lý xã hội, đồng thời là một
phần của công tác tôn giáo do Đảng lãnh đạo, luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Điều đó được thể hiện trong quan hệ của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo mà cụ thể
nhất là qua kết quả QLNN về TG ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay. Từng giai đoạn
QLNN về TG đạt được những thành tự nhất đinh, càng về sau càng hiệu quả. Tuy nhiên
còn không ít hạn chế do QLNN về TG ở Việt Nam tính chuyên nghiệp chưa cao.
Trong gần 60 năm ( 1955- 2013), cơ quan QLNN về TG đã có 7 lần thay đổi cơ
cấu, chức năng, nhiệm vụ, mỗi lần thay đổi là một lần phát triển về bộ máy cơ quan
chuyên trách và tăng cường chức năng QLNN về TG. Song mặt trái của sự thay đổi ấy là
làm cho hệ thống QLNN về TG xáo trộn, thiếu ổn định.
QLNN về TG ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay đã thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ, từng bước giải quyết đáp ứng nhu cầu tôn giáo của nhân dân. Tạo điều kiện để
đời sống tôn giáo của tín đồ, chức sắc các tôn giáo được cải thiện theo hướng cởi mở
thông thoáng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được đảm bảo. Các tổ chức tôn
giáo được Nhà nước công nhận nhiều hơn, hoạt động tôn giáo phong phú, đa dạng hơn.
Sự quan tâm đúng mức đã khuyến khích, động viên các tôn giáo tích cực hơn trong các
phong trào thi đua yêu nước. Thành tựu đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh
giá cao. Những thành tựu đạt được trong QLNN về TG đã góp phần tích cực vào ổn định
16
chính trị, phát triển xã hội. Tuy nhiên trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, hoạt động
của các tôn giáo vẫn tiềm ẩn nhiều phức tạp.

QLNN về TG trong thời gian qua có nhiều thành tựu song còn bộc lộ không ít
những hạn chế. Trong đó, cơ chế, chính sách và năng lực cán bộ chuyên môn là hai lĩnh
vực mấu chốt của mọi vấn đề, trực tiếp quyết định toàn bộ tính hiệu quả và chất lượng của
QLNN về TG.
Chương 4
DỰ BÁO TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
4.1. Dự báo tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Trên cơ sở phân tích tình hình tôn giáo thời gian qua cùng với thực tế chuyển biến
kinh tế, chính trị - xã hội trong nước và quốc tế, tác giả luận án khái quát một số xu hướng
của tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới.
4.1.1. Xu hướng phát triển đa dạng về hình thức và giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo
ở Việt Nam
Nhận diện tôn giáo theo dự báo này để hiểu tính phức tạp, đa dạng của tôn giáo. Qua
đó có sự điều chỉnh hoạt động tôn giáo thông qua QLNN về TG sao cho quần chúng có
tín ngưỡng biết lựa chọn các hoạt động tôn giáo tích cực và tránh những hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo tiêu cực.
4.1.2. Xu hướng thế tục hóa và hiện đại hóa tôn giáo
Thế tục hóa là quá trình thích nghi của tổ chức giáo hội tôn giáo với những điều kiện
đang thay đổi của đời sống xã hội. Thế tục hóa được các tôn giáo thực hiện dưới nhiều
mặt khác nhau, luận án quan tâm dự báo thế tục hóa của tôn giáo ở hai mặt sau:
Thứ nhất, thế tục hóa tôn giáo, là việc giảm bớt tính thiêng thần thánh trong tôn giáo
để tôn giáo gần gũi hơn với đời sống thế tục, dễ đến được với nhiều đối tượng tín đồ trong
xã hội là một trong những mục tiêu quan trọng của các giáo hội tôn giáo.
Thứ hai, thế tục hóa tôn giáo là việc tôn giáo tham gia nhiều hơn vào những hoạt
động xã hội, tiến vào thế giới hữu hình, trở lại với hiện thực cuộc sống và giải quyết
những vấn đề của thế gian.
Nhận diện tôn giáo theo dự báo này chúng ta sẽ hiểu tính năng động thích ứng của
tôn giáo trong hoàn cảnh mới, để có sự ứng xử và quản lý tôn giáo cho phù hợp, khuyến
khích tính tích cực của tôn giáo, hạn chế tiêu cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội.

4.1.3. Xu hướng đề cao tín ngưỡng truyền thống và văn hóa dân tộc
Những đối lập của tôn giáo với tín ngưỡng, văn hóa truyền thống đã tạo nên sự xung
đột giữa tôn giáo mới với tín ngưỡng và văn hóa truyền thống. Trước sự sống còn của bản
sắc văn hóa dân tộc, các quốc gia có tôn giáo mới xuất hiện nhưng không tương thích,
không bao dung nền văn hóa bản địa, phá vỡ việc bảo tồn văn hóa truyền thống thì các tôn
giáo mới gặp không ít trở ngại. Trước hết từ chính sự cản trở để bảo tồn nền văn hóa
truyền thống trong nhân dân sau đó mới đến chính quyền Nhà nước. Để giải quyết mâu
thuẫn ấy, các tôn giáo, đặc biệt là tôn giáo mới đã có sự điều chỉnh để thích nghi và phát
triển, đó là chấp nhận tín ngưỡng, văn hóa bản địa, điều chỉnh tôn giáo để hài hòa với tín
ngưỡng, văn hóa đã có.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự dung hợp tín ngưỡng, văn hóa bản địa
luôn được các giáo hội tôn giáo quan tâm điều chỉnh. Nhưng trong tính tương quan thì sức
công phá của tôn giáo đối với tín ngưỡng, văn hóa truyền thống ở mức độ tinh vi và quy
17
mô lớn hơn nhiều so với các thời kỳ lịch sử trước đây. Điều đó đặt ra cho QLNN về TG
những dự liệu để có chiến lược bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
4.1.4. Xu hướng lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị - kinh tế
Các thế lực thù địch sẽ tiếp tục dùng mọi thủ đoạn, công khai hoặc bí mật hậu thuẫn,
tiếp tay cho bọn phản động trong các dân tộc, tôn giáo để tổ chức hoạt động chống phá,
nhằm làm mất ổn định chính trị - xã hội ở nhiều nước và khu vực trong đó có Việt Nam.
Qua kích động xúi giục người nhẹ dạ trong tôn giáo nhằm gây mất đoàn kết trong nội bộ
tôn giáo, chúng âm mưu phá hoại sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện xóa bỏ chế
độ XHCN ở Việt Nam.
Trong mấy thập kỷ gần đây ở Việt Nam, Tin lành và một số đạo lạ, du nhập vào
cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên và một số địa phương đã tạo ra những
phức tạp ở nhiều địa phương. Tôn giáo này trong quá trình truyền đạo vào Việt Nam luôn
có sự quan tâm hậu thuẫn của các thế lực chính trị và kinh tế mạnh từ nước ngoài. không
thể nói EU và Mỹ “vô tư” khi luôn quan tâm tới “nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam”.
4.2. Khuyến nghị đối với quản lý nhà nước về tôn giáo
4.2.1. Điều chỉnh nhận thức về tôn giáo

Để nâng cao hiệu quả QLNN về TG, thì đều chỉnh nhận thức về tôn giáo đối với cán
bộ đảng viên nói chung và người làm công tác tôn giáo nói riêng là vấn đề quan trọng, cấp
thiết hiện nay. Do nhận thức phiến diện về tôn giáo, nhìn tôn giáo ở góc độ đối lập bởi triết
lý duy tâm tôn giáo trái với quan điểm duy vật, nền tảng của tư tưởng mác xít. Sự định
kiến ngay từ đầu đã đặt ra hướng tiếp cận thiếu khoa học với tôn giáo. Bởi thế, trong một
thời gian khá dài chúng ta tìm hiểu về tôn giáo và đặt ra chính sách tôn giáo, thường thiên
về tìm hiểu mặt trái của tôn giáo. Chính điều đó đã dẫn tới việc nhìn nhận và hiểu biết
thiên lệch về tôn giáo. Ứng xử với tôn giáo chủ yếu qua việc đối phó với tính tiêu cực hạn
chế mà chưa đi sâu khai thác, khuyến khích tính tích cực của tôn giáo. Điều đó đã làm cho
khoảng cách trong quan hệ của tôn giáo với Nhà nước ít được cải thiện, mặt tích cực của
tôn giáo ít được phát huy. Tạo nên khoảng cách trong quan hệ Nhà nước với tôn giáo, do
vậy trong nước, nội lực từ tôn giáo ít được phát huy; ngoài nước, kẻ thù lợi dụng quan hệ
Nhà nước với tôn giáo có vấn đề để chống phá tiến trình xây dựng đất nước Việt Nam.
4.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo.
Để quản lý tốt hoạt động tôn giáo cần thực hiện vai trò của nhà nước pháp quyền,
QLNN về TG bằng pháp luật. Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận quan
trọng trong hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Trước sự phát triển mạnh mẽ và
nhanh chóng của các tôn giáo ở Việt Nam cũng như tính chất nhạy cảm, phức tạp của nó
đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đó là điều kiện quan trọng nhất nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về TG.
Hiện đang có một số quan điểm khác nhau trong việc xây dựng pháp luật tôn giáo ở
Việt Nam. Quan điểm thứ nhất, cho rằng: đối với tôn giáo, hệ thống pháp luật của Việt
Nam còn quá lỏng, nên nhiều vi phạm trong hoạt động tôn giáo đã diễn ra nhưng Nhà
nước không xử lý được, bởi vậy cần thiết phải xây dựng bộ Luật tín ngưỡng, tôn giáo để
làm cơ sở cho QLNN về TG có hiệu quả hơn. Quan điểm thứ hai, cho rằng không nên
xây dựng bộ Luật tín ngưỡng, tôn giáo, bởi vì nếu có riêng bộ Luật tín ngưỡng, tôn giáo sẽ
càng khẳng định sự phân biệt về ứng xử đối với tôn giáo, điều mà Việt Nam đã và đang bị
các thế lực thiếu thiện chí khai thác để chống ta về tự do nhân quyền. Mặt khác cần thấy rõ
đối với lĩnh vực QLNN về TG Việt Nam chưa chuẩn bị tốt cho việc ra bộ Luật tín
ngưỡng, tôn giáo ở nhiều khía cạnh, trong khuôn khổ luận án xin đưa ra một số khía cạnh

như sau: thứ nhất, chưa chuẩn bị được đội ngũ cán bộ trực tiếp làm QLNN về TG, có tính
chuyên nghiệp cao, có trình độ chuyên môn thành thạo, theo cách thường gọi là những
“chuyên gia” đủ để thực hiện QLNN về TG theo luật. Chúng ta có nhiều nhà nghiên cứu
18
lý luận về tôn giáo rất sâu, rộng, nhưng những người QLNN về TG có kinh nghiệm, hiểu
lý luận và thực hành thành thạo thì rất ít. Trong khi đó xây dựng pháp luật về tôn giáo
phần chuyên môn tôn giáo do những người có thực tiễn đề xuất xây dựng là rất quan
trọng. Không có chuyên gia sâu về thực tiễn thì khó để đề xuất đúng. Bởi vậy việc tham
mưu xây dựng bộ Luật tín ngưỡng, tôn giáo sẽ rất hạn chế nếu không đồng thời hoặc phải
đi trước một bước là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý chuyên nghiệp, giỏi về chuyên
môn. Và nếu đòi hỏi làm sớm, làm nhanh, để có luật thì khi ra được luật cũng rất khó giải
quyết theo luật, vì nó không đồng bộ, khi đó sẽ tạo ra sự thiếu tin tưởng vào luật. Thứ hai,
bộ máy hành chính hiện tại còn khá nhiều hạn chế trong quản lý, nhất là quản lý đối với
tôn giáo một lĩnh vực có đặc thù riêng, rất nhạy cảm và luôn được quốc tế quan tâm. Nếu
chưa nâng khả năng quản lý nhà nước lên ngang tầm với đòi hỏi của luật mà đã đưa ra bộ
Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì việc ra đời luật này chỉ là hình thức không có lợi cho QLNN
về TG ở nước ta. Thứ ba, QLNN về TG ở Việt Nam đang chủ yếu là vận động và dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nếu không có sự thay đổi về phương pháp quản lý đối với lĩnh vực
này hoặc thay đổi thiếu triệt để thì hiệu lực của thực hiện QLNN về TG theo luật cũng rất
thấp.
Tuy nhiên, dù có xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo riêng hay ẩn những quy định
cho hoạt động tôn giáo vào các bộ luật khác. Theo chúng tôi, để QLNN về TG hiệu quả,
cần sớm có điều khoản chế tài, không chỉ quy định cho tổ chức và cá nhân tôn giáo, mà
phải có chế tài quy định xử lý đối với tổ chức, cá nhân quản lý hoặc gián tiếp QLNN về
TG, không thực hiện đúng chức trách, làm ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của tổ chức, cá
nhân tôn giáo và cộng đồng, gây thiệt hại về vật chất, uy tín cho quốc gia, dân tộc. Để làm
được việc đó phải có chính sách tuyển chọn, đào tạo đội ngũ cán bộ hiểu và làm QLNN về
TG đúng pháp luật tôn giáo, việc này cần làm đồng bộ với việc xây dựng và ban hành các
văn bản pháp luật. Như vậy đúng ra trong quá trình soạn thảo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo (2004) đã phải chuẩn bị một đội ngũ cán bộ mới nắm vững pháp luật để triển khai xử

lý pháp lệnh có hiệu quả.
4.2.3. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong QLNN về TG
Cơ quan QLNN về TG ở Việt Nam đã có quá trình thực hiện nhiệm vụ gần 60 năm,
kể từ khi thực hiện Nghị định số 566/TTg ngày 02/8/1955 của Thủ tướng Chính phủ, về
việc thành lập Ban tôn giáo trung ương, cơ quan chuyên trách QLNN về TG là một đơn vị
trong Ban Nội chính của Chính phủ và trực thuộc Thủ tướng phủ,. Tuy nhiên từ đó cho tới
nay đội ngũ QLNN về TG tính chuyên nghiệp chưa cao, thể hiện qua một số lĩnh vực
QLNN về TG đã được phân tích trong nội dung của luận án.
Nâng cao tính chuyên nghiệp cho QLNN về TG thực chất là để công tác QLNN về
TG có hiệu quả và tiết kiệm cho xã hội. trong nội dung này luận án xin đề xuất hai sự thay
đổi mang tính căn bản:
Thứ nhất, nâng cao tính chuyên môn trong QLNN về TG.
Thứ hai, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ QLNN về TG tinh thông nghề nghiệp,
gắn bó với chuyên môn.
4.2.4. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về tôn giáo
Những hạn chế trong công tác QLNN về TG thời kỳ vừa qua có nguyên nhân bởi
phương thức quản lý chưa phù hợp trong hoàn cảnh mới. Trước yêu cầu của thực tiễn
đang đặt ra cho QLNN về TG phải đổi mới phương thức quản lý. Cơ sở cho việc đổi mới
phương thức quản lý tôn giáo là lý luận đã được phân tích và thực tiễn yêu cầu cần đổi
mới đang đặt ra:
Thứ nhất, QLNN về TG theo hướng chủ động, là một trong những yếu tố quan
trong để thay đổi phương thức quản lý. Trước tới nay QLNN về TG thường bị động, chạy
19
theo, giải quyết sự vụ, nguyên do chưa có Pháp luật quy định đầy đủ và chặt chẽ đối với
hoạt động của tôn giáo.
Thứ hai, đổi mới phương thức QLNN về TG theo hướng tăng cường quản lý tổ
chức giáo hội các tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo có bộ máy hành chính đạo, có các quy
định như Điều lệ, Hiến chương, Nội quy, , có chức sắc, chức việc. Thông qua pháp luật
điều chỉnh đối với tổ chức giáo hội các tôn giáo, điều chỉnh các quy định của tổ chức giáo
hội nhằm nâng cao trách nhiệm tự quản trong nội bộ của tổ chức giáo hội tôn giáo.

Thứ ba, QLNN về TG từ cơ sở. Mọi diễn biến về tôn giáo diễn ra ở cơ sở nhưng cơ
sở gần như không có cán bộ chuyên trách về tôn giáo mà chủ yếu là kiêm nhiệm. Tăng
cường trách nhiệm cho địa phương và giao trách nhiệm cho cán bộ QLNN về TG ở cơ sở
nhiều hơn theo phương châm phòng, chống không để các điểm nóng về tôn giáo xảy ra,
những vấn đề nãy sinh được giải quyết ngay từ cơ sở, vấn đề sẽ đơn giản hơn, ít tốn kém
hơn.
4.2.5.Tăng cường truyền thông, đối thoại về tôn giáo
Tình trạng một bộ phận không nhỏ nhân dân và cán bộ không hiểu chủ trương của
Đảng, pháp luật Nhà nước về tôn giáo, không nắm được tình hình tôn giáo từ đó làm cho
QLNN về TG phức tạp hơn. Để khắc phục tình trạng ấy, cần tăng cường truyền thông về
tôn giáo cho nhân dân và cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo.
Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền đối ngoại tôn giáo, hướng dẫn các tôn
giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Để thực hiện tốt truyền thông tôn giáo, ngoài chủ trương đúng, cần có đội ngũ chuyên
môn giỏi, hiểu sâu về tôn giáo, hiểu sâu về pháp luật, có nghiệp vụ và được đầu tư về vật
chất, phương tiện cho hoạt động này.
4.2.6. Điều chỉnh quan hệ Nhà nước đối với tôn giáo
Công tác xã hội, công tác từ thiện là nhu cầu và là tâm nguyện của chức sắc, tín đồ
các tôn giáo đã được trình bày, phản ánh với Đảng và Nhà nước từ lâu. Nhu cầu đó nếu
được cụ thể hóa bằng các chính sách, pháp luật sẽ góp phần phát huy nội lực của các tầng
lớp nhân dân, của các tôn giáo tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần giảm tải
sức ép và gánh nặng về nguồn lực đầu tư, tài chính và quản lý cho các cơ quan Nhà nước,
dành ngân sách Nhà nước để đầu tư cho phát triển, cho đào tạo nguồn lực con người, cho
cải cách chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức,…
Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện một số quy định trong hệ thống
pháp luật tôn giáo để giải quyết về vấn đề này. Theo đó cần xem xét, từng bước đưa các
trường, lớp đào tạo của tôn giáo vào hệ thống giáo dục quốc dân như nhiều nước trên thế
giới đã làm để phát huy những giá trị tích cực và đóng góp của tôn giáo trong lĩnh vực đào
tạo nhân lực, giáo dục đạo đức, văn hóa, đồng thời tăng cường sự quản lý nhà nước đối
với công tác đào tạo, giáo dục trong các trường tôn giáo, thông qua cơ quan quản lý nhà

nước về giáo dục
Khía cạnh khác, trong điều chỉnh quan hệ Nhà nước với tôn giáo, cần tăng cường
đối thoại của tôn giáo với Nhà nước. Để các tổ chức tôn giáo được tham gia nhiều hơn
nữa ý kiến phản biện xã hội, góp phần xây dựng đất nước.
Hiện nay, nước ta đang chủ động hội nhập quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập
WTO, nên ngày càng có nhiều tổ chức và cá nhân nước ngoài đến làm ăn, sinh sống, học
tập, du lịch dài ngày ở Việt Nam, trong số đó có nhiều người theo tôn giáo. Bảo đảm nhu
cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng cho người nước ngoài ở Việt Nam cũng là
một nhân tố góp phần thúc đẩy việc thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, tri
thức, phương pháp quản lý và phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng đối ngoại nhân dân của
Việt Nam.
20
Tiểu kết chương 4
Quản lý nhà nước về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay đang đứng trước nhiều điều
kiện thuận lợi nhưng cũng không ít thử thách. Trước nhu cầu phát triển, các tôn giáo luôn
tìm cách điều chỉnh để thích nghi. Các hoạt động bất hợp pháp giảm dần nhưng sẽ đẩy
mạnh việc công khai sự hậu thuẫn tài chính, từ bên ngoài và sự móc nối với các đối
tượng cơ hội chính trị của một số giáo sĩ cực đoan có thể phức tạp hơn.
Các thế lực xấu lợi dụng nhân quyền, dân chủ, tôn giáo để thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa bình” chống phá nhà nước XHCN Việt Nam là mục đích các nước đối lập với
CNXH xúi giục những nhân vật tôn giáo cực đoan chống lại Nhà nước, vu cáo tự do tôn
giáo, kích động, xúi dục tôn giáo, gây mất đoàn kết trong các tôn giáo là công cụ hiểu hiệu
để chống Việt Nam.
QLNN về TG vẫn đang là cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng, diễn ra quyết liệt và
lâu dài, liên quan tới nhiều mặt của đời sống xã hội. Để thực hiện tốt QLNN về TG cần
thực hiện đồng bộ các khuyến nghị mà đề tài luận án đã đề ra nhằm bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và các hoạt động tôn giáo bình thường của quần chúng nhân dân, góp
phần xây dựng khối đoàn kết toàn dân, nhằm ổn định chính trị, phát huy sức mạnh đoàn
kết tôn giáo cùng đồng bào cả nước xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
KẾT LUẬN

Qua đánh giá, phân tích QLNN về TG ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, rút ra một
số kết luận:
1. Tự do tôn giáo là một trong những quyền cơ bản nhất của con người được nhiều
quốc gia quan tâm. Thực tiễn trong nước và quốc tế cho thấy QLNN về TG là một tất yếu,
nếu không có QLNN về TG, các tôn giáo sẽ hoạt động tự phát, tranh giành, lấn lướt nhau,
làm ảnh hưởng tới tự do tôn giáo và sự đoàn kết thống nhất để phát triển của mỗi quốc gia.
Các nước có tôn giáo trên thế giới đều thực hiện QLNN về TG. Các nước có điều kiện
kinh tế - xã hội và đặc trưng tôn giáo khác nhau đã lựa chọn nội dung và phương pháp
QLNN về TG khác nhau. Cơ sở cho QLNN về TG ở Việt Nam là lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, thực tiễn, kinh nghiệm ứng
xử với tôn giáo của Việt Nam và thế giới. QLNN về TG trong xu thế hội nhập quốc tế
chúng ta tôn trọng cái chung để không bị cô lập tách biệt, song cần có cái riêng để giữ bản
sắc của dân tộc.
2. QLNN về TG ở Việt Nam là một phần của quản lý xã hội, đồng thời là một bộ
phận của Công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, do Đảng lãnh đạo. Đảng, Nhà nước
Việt Nam luôn quan tâm tới QLNN về TG, trong gần 60 năm hoạt động, cơ quan chuyên
trách QLNN về TG, đã 7 lần điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ. Về chức năng, nhiệm vụ, số
lượng biên chế cán bộ, mỗi lần thay đổi đều có sự phát triển hơn. QLNN về TG trong thời
21
gian qua, đã được hướng dẫn, giúp đỡ các tôn giáo thực hiện tự do tôn giáo trong khuôn
khổ pháp luật. Tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay phát triển cả về số lượng và tổ
chức tôn giáo. Từ 02 tổ chức tôn giáo được công nhận năm (1955) và (1958), đến nay đã
có 13 tôn giáo với 37 tổ chức và 01 pháp môn, Tự do tôn giáo ngày càng mở rộng không
chỉ trong nước mà cả quốc tế. Chức sắc tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam tích cực ủng hộ
Nhà nước, thực hiện tốt nhiều phong trào thi đưa yêu nước, góp phần ổn định chính trị,
phát triển đất nước theo phương châm “ Tốt đời, đẹp đạo”.
Tuy nhiên QLNN về TG còn những hạn chế do tính chuyên nghiệp trong QLNN về
TG thấp, lúng túng cả về lý luận và thực tiễn quản lý trong giải quyết nhiều vấn đề về tôn
giáo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, QLNN về TG ở Việt Nam đang có nhiều thuận lợi
song cũng không ít thử thách.

3. Để thực hiện tốt QLNN về TG trong thời gian tới, cần phải có sự điều chỉnh, thay
đổi, chủ động trong công tác này, thông qua những giải pháp đồng bộ làm thay đổi về căn
bản để nâng cao tính chuyên nghiệp trong QLNN về TG, trong đó quan trọng nhất là yếu
tố con người: nhận thức, năng lực, phẩm chất, Về lý luận cần phải nắm vững những xu
hướng phát triển, ứng xử với tôn giáo ở Việt Nam và thế giới. Tôn giáo ở Việt Nam sẽ có
chuyển đổi theo nhiều xu hướng mới và khác nhau, do các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội, quy định. Luận án đã đưa ra đề xuất kiến nghị nhằm giải quyết vấn đề tôn giáo do
thực tiễn đặt ra và để thực hiện QLNN về TG hiệu quả, nhằm thực hiện tốt hơn nữa mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với tôn giáo, để phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo
đồng thời hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với đời sống xã hội. Thực hiện tốt
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy sức mạnh toàn dân cùng nhau thực hiện
công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam XHCN giàu đẹp.
CÁC BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ
1, Phật giáo giữa lòng dân tộc, Tạp chí công tác tôn giáo số I,(8/2005).
2, Quan tâm tới cán bộ làm công tác tôn giáo, Tạp chí công tác tôn giáo số IV –V, (1
-2/2006).
3, Vài nét về Phật giáo Lào và Campuchia, Tạp chí công tác tôn giáo số VI,
(3/2006).
4, Vài nét về Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam (đồng tác giả), Tạp chí công tác tôn
giáo số IX, (9/2006).
5, Giáo hội Phật giáo Việt Nam 25 năm trưởng thành cùng dân tộc, Tạp chí công
tác tôn giáo số X, (11/2006).
6, Nhìn lại vụ việc xảy ra tại Tu viện Bát Nhã (bút danh Hữu Tâm), Tạp chí Công
an nhân dân, chủ đề An ninh xã hội, (12/2009).
7, Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Phật giáo, Tạp chí công tác tôn giáo số IX,
(9/2010).
8, Tăng cường cơ sở pháp lý và các thiết chế kiểm tra giám sát đảm bảo cho quá
trình xã hội hóa ngày càng sâu rộng đối với công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Phật giáo Việt Nam,tham gia Đề tài cấp nhà nước của Bộ Văn hóa – Thông tin “Bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo Việt nam trong quá trình phát triển kinh tế xã

hội và hội nhập quốc tế”, (12/2010).
9, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam với xã hội hóa chăm sóc sức khỏe người nghèo,
Tạp chí công tác tôn giáo số I+II, (2/2011).
22
10. Phật giáo Bình Dương điểm sáng trong hoạt động Phật giáo năm 2010, Tạp chí
công tác tôn giáo số III, (3/2011).
11. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, , tạp chí Quốc phòng
toàn dân (7/2011). Tạp chí công tác tôn giáo số VIII, (8/2011).
12. Thành tựu 30 năm Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tạp chí công tác tôn giáo số X,
(10/2011).
12. Tăng Phúc tự ngôi chùa đẹp ở Hà nội, Tạp chí công tác tôn giáo số XI,
(11/2011).
13. Phật giáo Thanh Hóa truyền thống và hiện tại (Bút danh Hữu Tâm), Tạp chí
công tác tôn giáo số XI, (11/2011).
14, Vị trí ngôi chùa Vĩnh Nghiêm trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tạp chí công
tác tôn giáo số IX, (9/2012).
15, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tiếp nối truyền thống hộ Quốc - an dân, Tạp chí
công tác tôn giáo số XI, (11/2012).
16, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, Một số vấn đề trong công
tác quản lý nhà nước đối với Phật giáo 30 năm qua, Kỷ yếu Hội thảo “30 năm hoạt động
của GHPGVN, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước”,
(12/2012).
17, Phật giáo Việt Nam truyền thống và thành tựu 30 năm qua, Kỷ yếu Hội thảo “30
năm hoạt động của GHPGVN, những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý
nhà nước”, (12/2012).
18. Phát huy những giá trị tư tưởng của Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông,
Phật hoàng Trần Nhân Tông - Con người và sự nghiệp, Nxb KHXH,2013
23

×