Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

QUÁ TRÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH ĐỒNG NAI (1986 – 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 116 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------------




Nguyễn Thị Thu Hằng






QUÁ TRÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TẠI TỈNH ĐỒNG NAI (1986 – 2005)




Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54





LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ VĂN ĐẠT










TP. Hồ Chí Minh – 2010
THƯ
VIỆN
LỜI CẢM ƠN


Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc TS. Lê Văn Đạt, người đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm cùng các thầy cô khoa Lịch sử và Phòng Khoa học Công
nghệ và Sau đại học, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và các giáo viên trường THPT Bàu Hàm, Trảng Bom, Đồng
Nai, nơi tôi đang công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo và nhân viên các phòng, ban của Ủy ba
n Nhân dân tỉnh Đồng
Nai, Sở Kế hoạch và Đầu tư Đồng Nai, Ban Quản lý khu công nghiệp Đồng Nai, Cục Thống kê Đồng Nai

đã giúp tôi tiếp cận nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên và tạo
mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.




T
ác giả


Nguyễn Thị Thu Hằng





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tài liệu và số liệu trích dẫn trong luận
văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.



Tác giả


Nguyễn Thị Thu Hằng



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


TT Chữ viết Chữ viết tắt
01 Công ty phát triển khu công nghiệp Biên Hòa SONADEZI
02 Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
03 Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN
04 Tổng sản phẩm quốc nội GDP
05 Châu Âu EU
06 Héc ta Ha
07 Kilôwat KW
08 Kilômét Km
09 Kilôwat/giờ Kwh
10 Số tấn đăng ký GRT
11 Trọng tải tĩnh DWT
12 Trang tr
13 Khu công nghiệp KCN
14 Doanh nghiệp DN
15 Trách nhiệm hữu hạn TNHH
16 Thành phố Hồ Chí Minh TP.HCM







MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tại các nước đang phát triển, vốn đầu tư là yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Vốn đầu tư được huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế.
Đầu tư t
rực tiếp nước ngoài là một loại hình hoạt động kinh tế quốc tế, ra đời và phát triển có tính
tất yếu, lâu dài cùng với xu thế toàn cầu hóa về kinh tế. FDI là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển, cho việc khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước góp phần giải quyết công
ăn việc làm cho người lao động; đồng thời tạo nguồn t
hu cho ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế. Bên cạnh đó,
FDI
còn có vai trò trong chuyển giao công nghệ. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản
xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao
động. FDI đã và đang đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế
giới.
Nhận thức rõ vai trò của F
DI, cho nên trong quá trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế, chính sách
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta. Ở Việt Nam, trong gần hai thập kỷ qua, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần
quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao của đất nước.
Là một đỉnh của tứ giác kinh tế động lực trong vùng phá
t triển kinh tế trọng điểm phía Nam (Thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu), tỉnh Đồng Nai có nhiều tiềm năng, thế
mạnh để phát triển một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên là một lợi
thế lớn của tỉnh Đồng Nai trong xây dựng, phát triển khu công nghiệp và
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước; lại sớm đánh giá đúng
và phát huy thế mạnh của địa phương, Đồng Nai đã đạt được những thành tựu nổi bật về thu hút vốn đầu

tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua. Đồng Nai trở thành một trong những địa p
hương luôn dẫn
đầu cả nước về xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, kỹ năng quản lý…đã và
đang có vai trò ngày càng lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội tại Đồng Nai.
Do đó, việc nghiên cứu về quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong 20 năm
qua ở Đồng Nai
để trên cơ sở đó tìm ra phương hướng, giải pháp khắc phục những hạn chế và tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
thu hút vốn đầu tư nước ngoài có hiệu quả trong thời gian tới là một vấn đề cấp bách, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn. Nhìn lại chặng đường 20 năm đã qua với những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn
chế còn tồn tại trong việc thu hút đầu tư nước ngoài sẽ là căn cứ khoa học để các Sở, Ban, Ngành và lãnh
đạo tỉnh Đồng Nai có những điều chỉnh hợp lí hơn cho sự phát triển của Đồng Nai trong tương lai. Việc
hoàn thành đề tài cũng giúp tôi rèn luyện công tác nghiên cứu khoa học và vận dụng vào c
ông tác giảng
dạy lịch sử của địa phương sau này. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào
các khu công nghiệp tại tỉnh Đồng Nai (1986 – 2005)” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam.
2. Lịch sử vấn đề:
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều thuận lợi để phá t triển
công nghiệp, trong đó mô hình khu công nghiệp là mô hình phát triển kinh tế trọng điểm của địa phương
và là địa điểm
quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế đó đặt ra nhiều yêu
cầu cần giải quyết để hoàn thiện công tác xây dựng, quản lý, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của các
khu công nghiệp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài vào các khu công nghiệp đa
ng được nhiều cơ quan, nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Liên quan đến đề tài có nhiều công trình nghiên cứu đề cập dưới các dạng khác nhau, có thể chia
thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Những công trình nghiên cứu của các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà quản lý các cấp
* Cuốn Tiềm năng Việt Nam thế kỉ XXI của Phan Văn Khải, Vũ Khoan, Võ Hồng Phúc, Nhà xuất bản

thế giới ấn hành năm 2001. Các tác giả đã khái quát những tiềm năng phát triển công nghiệp, khu công nghiệp
của các địa phương, các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Trên cơ sở đó, định hướng ưu ti
ên thu hút đầu
tư của mỗi vùng.
* Cuốn Tổng kết quá trình xây dựng, phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai (1991 – 2004) của Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng
Nai ấn hành năm 2005. Cuốn sách bao gồm
báo cáo tổng kết quá trình xây dựng các khu công nghiệp, thu
hút đầu tư trên địa bàn tỉnh và báo cáo chuyên đề của các Sở, Ban, Ngành, Ủy ban Nhân dân các địa
phương trong tỉnh. Cuốn sách phác họa bức tranh tổng quát về các khu công nghiệp trong vùng phát triển
kinh tế trọng điểm phía Nam, khẳng định những kết quả đạt được, chỉ ra những vấn đề cần quan tâm trong
quá trình phát triển khu công nghiệp, đề xuất một số giải pháp nâng ca
o hiệu quả thu hút đầu tư nước
ngoài, xây dựng khu công nghiệp.
* Cuốn 10 năm hình thành và phát triển của Ban quản lý khu công nghiệp Đồng Nai (1995 –
2005). Tác phẩm khái quát những thành tựu nổi bật của Ban quản lý trong 10 năm xây dựng và phát triển;
đánh giá thành công của Ban quản lý trong thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các khu công
nghiệp ở địa phương; chỉ rõ phương hướng, mục tiêu xây dựng ban quản lý vững mạnh, có khả năng quản
lý tốt nhất các khu công nghiệp trong tình hình mới.
* Cuốn Đồng Nai – 30 năm xây dựng và phát triển của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Nhà
xuất bản Đồng Nai ấn hành năm 2005. Tác phẩm đã thống kê, tổng hợp một cách khái quát chặng đường xây
dựng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống như: kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, giáo dục,
y tế… mà Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trong 30 năm từ năm 1975 đến năm 2005.
* C
uốn Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam của Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Nhà xuất bản
Giáo dục ấn hành năm 2001. Cuốn sách đã trình bày tổng quan về đặc điểm tổ chức lãnh thổ công nghiệp
của Việt Nam, các hình thức tổ chức ki
nh tế lãnh thổ của Việt Nam, khẳng định khu công nghiệp là hình
thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đặc biệt cần được xây dựng, chỉ ra cơ sở khoa học của đổi mới tư duy
về cơ cấu kinh tế vùng miền của Đảng ta.

* Cuốn Những giải pháp chính trị kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài

vào Việt Nam của Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996.
* Cuốn Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam – cơ sở pháp lý, hiện trạng, cơ hội, triển vọng của Nguyễn
Anh Tuấn, Phan Hữu Thắng, Nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 1994.
Nhóm 2: Các bài viết tiêu biểu về công tác xây dựng, quản lý các khu công nghiệp và hoạt động thu hút
đầu tư nước ngoài, gồm có:
* V
õ Văn Một (2004), “Đồng Nai trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, Số tháng 5 – 2004, tr.18 – 21.
* Đặng Thị Kim Nguyên (2004), “Một số giải pháp phát triển khu công nghiệp tại Đồng Nai”, Tạp
chí Kinh tế và Dự báo, số tháng 5 – 2004, tr.23 – 26.
* Lê Hoàng Quân (2004), “Đồng Nai chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số 16 (8 – 2004), tr.53 – 56.
* Trần Ngọc Hưng (2006), “Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư vào các khu công

nghiệp”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Số 2 (2 – 2006), tr.25 – 27.
Các tác giả đã nêu thực trạng công tác xúc tiến, vận động đầu tư thời gian qua, đưa ra những giải pháp
nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư vào khu công nghiệp trong năm 2006.
….
Nhóm 3: Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ IV,V,VI,VII,VIII của Tỉnh ủy Đồng
Nai; các báo cáo thường niên về công tác xây dựng, phát triển khu công nghiệp và tình hình thu hút vốn
đầu tư nước ngoài của Ủy Ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai, Ban quản lý khu công nghiệp và các Sở, Ban,
Ngành khác của tỉnh Đồng Nai từ năm 1986 đến năm 2005 như: Sở Kế hoạch
và Đầu tư, Sở Tài nguyên
và môi trường, Cục Thống kê Đồng Nai, Sở Khoa học và công nghệ, Sở Công thương Đồng Nai…
Nhìn chung, những công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về vấn đề xây dựng phát triển
khu công nghiệp và thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung cũng như các báo cáo về vấn đề này
của các Sở, Ban, Ngành chức năng của tỉnh Đồng Nai nói riêng, ở nhiều góc độ khác nhau đã chỉ rõ thực
trạng và khẳng định yêu cầu khách quan, cấp thiết phải xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, đẩy

mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đề xuất những giải pháp tăng cường thu hút đầu tư, nâng ca
o hiệu
quả xây dựng, phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2005.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp ở
tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ đổi mới (giai đoạn 1986 – 2005).
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian, đề tài nghiên cứu quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại tỉnh Đồng Nai tron
g
khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 2005. Luận văn lấy mốc thời gian năm 1986 vì đây là năm diễn ra
Đại hội Đảng lần thứ VI (12 – 1986) – Đại hội của đổi mới - sự kiện đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Và năm 2005 là năm tổng kết những t
hành tựu, hạn
chế đã đạt được qua 20 năm tiến hành đổi mới ở địa phương.
Về nội dung, mặc dù hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài ở tỉnh Đồng Nai được tiến hành trên các
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…nhưng luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trong lĩnh vực
công nghiệp – lĩnh vực đầu tư quan trọng nhất - cụ thể là ở các khu công nghiệp trong toà
n tỉnh.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của đề tài
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của
Đảng về xây dựng, phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp giữa phương pháp lôgíc với

lịch sử. Cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp chuyên ngành như: phân t
ích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, phỏng vấn, điền dã…
* Nguồn tài liệu:
Để hoàn thành đề tài, tôi sử dụng nguồn tài liệu thành văn và nguồn tài liệu trên các trang web điện
tử của các Sở, Ban, Ngành của địa phương.
- Nguồn tài liệu thành văn: Các Nghị quyết, Chỉ thị, tài liệu của Đảng, Nhà nước, Tỉnh ủy, Ủy ban
Nhân dân tỉnh Đồng Nai, các Sở, Ban, Ngành của tỉnh Đồng Nai; các công trình nghiên cứu của tập thể, cá
nhân đã công bố; các tư liệu trên báo chí, tạp chí...
- Nguồn tài liệu qua các trang web:
www.dongnai.gov.vn.com
www.dongnai-industry.gov.vn(Sở Công thương)
www.dpidongnai.gov.vn (Sở Kế hoạch và Đầu tư)
www.dost–dongnai.gov.vn (Sở K
hoa học và công nghệ)
www.diza.vn (Ban quản lý các khu công nghiệp Đồng Nai)
www.gdt.gov.vn (Cục thuế Đồng Nai)
www.tnmtdongnai.gov.vn (Sở Tà
i nguyên và môi trường)
5. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Đồng Nai trong 20 năm
đầu đổi mới (1986 – 2005). Trên cơ sở đó, đánh giá những thành tựu đã đạt được cũng như những mặt còn
tồn tại để từ đó đề ra những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thu hút vốn
đầu tư nước ngoài tại địa phương.
6. Những
đóng góp của đề tài
Trước hết, qua nghiên cứu, tìm hiểu về quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công
nghiệp ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn 1986 – 2005 góp phần khẳng định chủ trương, sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng bộ chính quyền địa phương trong công cuộc đổi mới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tổng kết quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên

địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ 1986 đến 2005.

Trên cơ sở đánh giá những thành tựu cũng như những mặt hạn chế của hoạt động thu hút vốn đầu
tư nước ngoài ở Đồng Nai, luận văn đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thu hút vốn
đầu tư trong thời gian tới ở địa phương.
Quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn nà
y gắn liền với quá trình xây dựng, quy
hoạch và phát triển các khu công nghiệp ở Đồng Nai. Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo thiết thực cho
việc nghiên cứu về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai trong thời kỳ đổi mới.


7. Cấu trúc của đề tài

Luận văn gồm phần Mở đầu, phần Nội dung gồm 3 chương và phần Kết luận. Trong đó, phần Nội
dung được cấu trúc như sau:

Chương 1 – Những tiềm năng của tỉnh Đồng Nai trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Chương 2 – Quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong 10
năm đầu đổi mới (1986 – 1995)
Chương 3 – Quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996 – 2005)




















Chương 1:

NHỮNG TIỀM NĂNG CỦA TỈNH ĐỒNG NAI TRONG
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

2.1 Một số vấn đề chung về “đầu tư nước ngoài” và “khu công nghiệp”
1.1.1 Đầu tư nước ngoài
1.1.1.1 Khái niệm
Tổ chức Thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá
nhâ
n hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay
công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi
một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. P
hương diện quản lý là
thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, tài sản mà nhà đầu tư quản lý
ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công
ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". [40, tr. 467]

1.1.
1.2 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Luật đầu tư nước ngoà
i tại Việt Nam ra đời tháng 12 – 1987, kể từ đó đến năm 2005 đã trải qua 5
lần sửa đổi và luật thừa nhận có 4 hình thức FDI cơ bản:
a. Hợp đồng hợp t
ác kinh doanh (A business cooperation contract)
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm
và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành
lập pháp nhân.[40, tr. 470]
b. Doanh nghiệp liên doanh (A Joint Venture enterprise
)
Là doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn hai bên hoặc nhiều bên Việt Nam và nước
ngoài. Doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, mang tư cách pháp nhân
Việt Nam. [40, tr.470]
c. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Enterprise with one hundred percent Foreign owned
capital)
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài lập tại Việt Nam, tự tổ chức
quản lí và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của m
ình.[40, tr.470]
d. Hình thức doanh nghiệp cổ phần
Doanh nghiệp cổ phần là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần, trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ; được tổ chức hoạt
động theo hình thức công ty cổ phần…được hưởng các đảm bảo của nhà nước Việt Nam và ưu đãi theo
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
.[40, tr. 472]
1.1.1.3 Vai trò của đầu tư nước ngoài
Trước hết, đầu tư nước ngoài là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế.
Các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng thu ngân sách, cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam. Các dự án đầu tư nước ngoài cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt

Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các dự án này cũng đóng góp qua
n trọng trong việc nâng
cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam, tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư nước ngoài còn góp phần giải
quyết công ăn việc làm, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động; thúc đẩy sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa nền ki
nh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế
giới.
So
với những hình thức đầu tư nước ngoài khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm cơ
bản là: FDI không để lại gánh nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư về chính trị, kinh tế như hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước
ngoài khác như vay thương mại, phát hành trái
phiếu ra nước ngoài... Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi
ro cho nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp.
Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1997 đã cho thấy, những nước chịu tác
động nặng nề của khủng hoảng thường là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Nên
FDI m
ang tính ổn định hơn so với những khoản đầu tư khác.
1.1.
2 Khu công nghiệp:
1.1.2.1 Khái niệm
Ở Việt Nam, Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ban hành kèm theo
Nghị định số 36/CP (4 – 1997) của Chính phủ xác định khái niệm về khu công nghiệp như sau:
Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyê
n sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Tùy theo mục đích, tính chất có thể
phân chia khu công nghiệp thành các loại hình cơ bản: khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghiệp
thông thường, đặc khu kinh tế.

1.1.2.2 Đặc điểm, vai trò của khu công nghiệp
* Đặc điểm cơ bản của khu công nghiệp
Thứ nhất, khu công nghiệp có môi trường đầu tư thông thoáng hơn các vùng khác. Khu công
nghiệp được nhà nước dành cho những ưu đãi trong chính sách thuế, tài chính, thủ tục hải quan, hành
chính, giá thuê đất…Thông qua những ưu đãi đó nhằm thu hút càng nhiều càng tốt các nhà đầu tư nước
ngoài vào làm ăn.
Thứ hai, trong các khu công nghiệp chủ yếu là hoạt động kinh tế hướng ngoại, bao gồm sản xuất
công nghiệp, chế biến phục vụ xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu và ki
nh doanh các dịch vụ.
Thứ ba, các khu công nghiệp thường nằm ở các vị trí thuận lợi về giao thông, có điều kiện phát
triển sản xuất – thương mại, được ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng.
Thứ tư, khu công nghiệp là khu vực tập trung tương đối nhiều xí nghiệp trong một khu vực có ranh
giới rõ ràng, có hàng rào ngăn cách với xung quanh. Các xí nghiệp trong khu công nghiệp c
ó điều kiện
thuận lợi để tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Thứ năm, khu công nghiệp được nhà nước cho phép thành lập, nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
Thứ sáu, khu công nghiệp có ban quản lí chung, thống nhất, thực hiện chức năng quản lí nhà nước,
tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp công nghiệp hoạt động đạt hiệu xuất tối đa.
Thứ bảy, khu công nghiệp thường có giới hạn địa lí hẹp, khoảng vài chục đến vài trăm hecta, hoạt
động chí
nh trong khu công nghiệp là sản xuất công nghiệp.
Đến hết năm 2005, tỉnh Đồng Nai mới xây dựng loại hình của khu công nghiệp là khu công nghiệp
thông thường. Bởi vậy, quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp ở Đồng Nai
trong những năm 1986 – 2005 là tìm hiểu loại hình khu công nghiệp nà
y.
* Vai trò của khu công nghiệp
Khu công nghiệp có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển.
Đối với các nước đang phát triển, sự gia tăng số lượng vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Các khu công nghiệp ra đời góp phần qua
n

trọng tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Ở các khu công nghiệp,
nhà nước sẽ có điều kiện cải tiến và hoàn thiện hệ thống chính sách, tạo nên hành lang pháp lý thuận lợi
nhất, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại đảm bảo tốt nhất cho hoạt động kinh doanh. Vai
trò to lớn đó giúp khu công nghiệp trở t
hành những điểm trũng thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài
nước.
Khu công nghiệp là nơi tiếp cận, nắm bắt, đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động. Tốc độ phát
triển công nghệ trên phạm vi toàn cầu ngành càng nhanh, trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất ngày
càng sâu rộng, khoa học công nghệ đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
Bởi vậy, quốc gia nà
o tiếp cận được những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất thì quốc gia đó có
điều kiện vượt lên. Nhờ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ, các doanh nghiệp giảm chi phí sản
xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế
giới.
Xây dựng các khu công nghiệp góp phần tạo nên nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng lao động.
Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp có ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội to lớn, góp phần giữ vững ổn
định chính trị của đất nước. Làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, người lao động được tiếp
cận với tác phong làm việc khẩn trương, phương pháp quản lý khoa học, được tiếp cận những thành tựu
khoa học kỹ thuật mới. Qua đó, người lao động được rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, có kỷ luật,
có kỹ thuật, từng bước nâng cao kỹ năng nghề nghiệp.
Sự phát triển mạnh mẽ các khu công nghiệp sẽ góp phần qua
n trọng tạo sự cân bằng ngoại thương. Đây

là một trong những nhân tố trọng yếu của kinh tế vĩ mô. Số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa và kim
ngạch xuất khẩu vừa phản ánh sức cạnh tranh vừa phản ánh năng lực hội nhập và khả năng cân bằng ngoại
thương của nền kinh tế.
Các khu công nghiệp, khu chế xuất góp phần thúc đẩy đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Để tạo m
ôi
trường đầu tư thông thoáng, Nhà nước thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Thực hiện cơ chế này sẽ tạo
nên mũi đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư. Cơ chế “một cửa, tại chỗ” không chỉ tạo nên sức hấp

dẫn của các khu công nghiệp, khu chế xuất mà còn tạo nên sức lan tỏa, tác động làm thay đổi cơ chế quản
lý của toàn bộ nền kinh tế.
Khu
công nghiệp đóng vai trò như là “mũi đột phá” là động lực thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Mô hình khu công nghiệp ra đời đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế tăng tỷ trọng công nghiệp phục vụ xuất khẩu, góp phần điều chỉnh, sắp xếp lại sản xuất công nghiệp,
bảo vệ môi trường sinh thái. Khu công nghiệp là nơi tốt nhất để tiếp thu, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất. Các khu công nghiệp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế nông t
hôn, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng. Với tư cách là hạt
nhân hình thành những đô thị mới, khu công nghiệp góp phần to lớn cải tạo, xây dựng mới các đô thị, phát
triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mở rộng hệ thống dịch vụ công cộng.

1.2 Những tiềm năng và lợi thế của tỉnh Đồng Nai trong phát triển khu công nghiệp, thu hút vốn
đầu tư nước ngoài
1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam – trọng điểm đầu tư của
Chính phủ (gồm thành phố Hồ C
hí Minh và các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Tây
Ninh, Bình Phước, Long An). Tỉnh Đồng Nai là một trong bốn tỉnh thuộc tứ giác kinh tế động lực (thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu). Tỉnh Đồng Nai giáp các tỉnh: Lâm Đồng,
Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống giao
thông đường bộ, đường thủy và đường sắt của tỉnh Đồng Nai rất thuận tiện cho việc phát triển kinh tế.
Tỉnh Đồng Nai có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gắn kết vùng Đông Nam Bộ
với Tây Nguyên và miền Trung.
Tỉnh Đồng Nai bao gồm 11 đơn vị hành chính: thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh và 9
huyện: Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Thống Nhất, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Định Quán,
Tân Phú.
Tỉnh Đồng Nai là vùng tiếp c
huyển đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Bảo Lộc (Lâm

Đồng). Địa hình đa dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, chia làm 3 vùng: vùng có địa
hình đồi núi thấp có độ cao thay đổi từ 200 m đến 700 m chiếm 8% diện tích; vùng có địa hình lượn sóng
độ cao thay đổi từ 20 m đến 200 m chiếm 80% diện tích; vùng có địa hình đồng bằng độ cao nhỏ hơn 20
m chiếm 12% diện tích.[62]
Đồng Nai thuộc vùng khí hậu cận xích đạo gồm h
ai mùa: mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 hàng
năm, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm. Số giờ nắng trong năm bình quân từ 2000 đến 2376
giờ. Nhiệt độ trung bình trong năm là 20
o
đến 27
o
C. Độ ẩm không khí trung bình trong năm từ 8 đến
85%. Đồng Nai có mật độ sông suối dày. Toàn tỉnh có khoảng 40 sông, suối lớn nhỏ. Đáng kể nhất là các
sông: Đồng Nai, La Ngà, Thị Vải, Đồng Tranh, Buông… Ngoài ra, tỉnh Đồng Nai còn có các hồ chứa
nước lớn, đáng kể như hồ Trị An
có diện tích 323 km
2
dung tích khoảng 2,8 tỷ m
3
. Hiện tại các công
trình thủy lợi, thủy điện trong tỉnh đã giữ lại được 2,9 tỷ m
3
nước để phục vụ cho sản xuất, còn lại 17,1 tỷ
m
3
nước đổ ra biển theo các sông. Nguồn nước mặt của tỉnh Đồng Nai chủ yếu được cung cấp bởi sông
Sài Gòn, sông Đồng Nai, là những c
on sông có lưu lượng lớn. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên
Lang Biang và hợp lưu bởi nhiều con sông nhỏ khác, lưu lượng bình quân dao động từ 200 đến 500 m
3

/s,
lưu lượng cao nhất mùa mưa lên đến 10.000 m
3
/s.[62]
Nguồn nước ngầm của tỉnh Đồng Nai có lưu lượng lớn, phân bố trên 3 vùng: vùng phía Bắc tỉnh,
nước ngầm ở độ sâu 5 - 20 m với lưu lượng 40 - 50 m
3
/h; vùng phía Tây tỉnh và dọc theo sông Đồng Nai
ở độ sâu 20 m với lưu lượng 30 - 40 m
3
/h; vùng phía Đông – Đông Nam
ở độ sâu 20 - 40 m với lưu lượng
3 - 6 m
3
/h. Chất lượng nước, phần lớn thuộc loại sạch, nhạt độ PH từ 4,5 đến 8,5. Nguồn nước ngầm có
thể khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, mỗi ngày có thể khai thác trên 20.000m
3
. Tổng
trữ lượng tiềm năng hơn 3 triệu m
3
/ngày. Hiện nay, tại các đô thị và khu công nghiệp đang sử dụng trên
70.
000 m
3
/ngày đêm từ các nhà máy khai thác nước mặt và nước ngầm của tỉnh.[62]
Đồng Nai có quỹ đất rộng 5.866,4 km
2
bao gồm 10 nhóm đất chính. Trong đó loại đất xám chiếm
40,05% diện tích tự nhiên, thuận lợi cho việc phát triển công nghiệp và xây dựng. Đất đỏ chiếm 19,27%
diện tích tự nhiên, thích hợp cho trồng các loại cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao.

Ngoài ra, tỉnh Đồng Nai có 246.000 km
2
đất phù sa cổ (Fluvilols), đất Gley và đất cát (Aré mosolls) ở
thành phố Biên Hòa và các huyện: Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu, Thống Nhất. Đây là loại đất có
độ chịu lực cao (trung bình 25 kg/1cm
2
) rất phù hợp cho phát triển các công trình xây dựng lớn, các khu
công nghiệp.[68]
Nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản của tỉnh Đồng Nai rất phong phú. Rừng có trên 150.000
ha, hàng năm khai thác khoảng 30.000 m
3
gỗ, 75.000 steres củi phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Đến na
y tỉnh
Đồng Nai đã phát hiện 214 mỏ, điểm quặng, điểm khoáng có tiềm năng và triển vọng khác nhau thuộc 5 nhóm
gồm: than bùn, kim loại, đá quý, nước khoáng. Trong đó, nguồn vật liệu xây dựng (đá, cát, sét, laterit, puzolan,
kermzit) và nước ngầm là các loại khoáng sản có tiềm năng lớn và quan trọng nhất trong tỉnh. Thế mạnh lớn
nhất của tỉnh Đồng Nai là vật liệu xâ
y dựng và nguồn nước. Về đất, cát, đá xây dựng và sản xuất vật liệu xây
dựng, tỉnh Đồng Nai là một trung tâm sản xuất với sản lượng cung cấp cho 50% nhu cầu của thành phố Hồ
Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long. Các mỏ đá của Đồng Nai có trữ lượng lớn gần nửa tỷ m
3
phân bố
đều khắp các huyện, đủ đáp ứng nhu cầu xâ
y dựng kết cấu hạ tầng và phát triển công nghiệp. Sét gạch ngói
phân bổ ở nhiều vùng trong tỉnh, có thể khai thác hàng triệu m
3
/năm. Cát xây dựng tập trung chủ yếu ở lòng
sông Đồng Nai với trữ lượng khá lớn và hàng năm lại được bổ sung từ thượng nguồn. Theo kết quả thăm dò
cát sông Đồng Nai năm 1996 và năm 1999, trữ lượng cát từ dưới đập Trị An về hạ nguồn có khoảng 40 triệu
m

3
và hà
ng năm được bổ sung từ thượng nguồn trên 300.000 m
3
.[68]
1.2.2 Về lịch sử, văn hóa – du lịch
Đồng Nai với lịch sử hơn 300 năm hình thành và phát triển là một vùng đất mở. Nơi đây đã chứng
kiến sự hội tụ của nhiều bộ phận cư dân. Vào cuối thế kỉ XVI, Đồng Nai lúc bấy giờ về cơ bản vẫn là
vùng đất hoang dã, chưa được khai phá; chỉ có một số ít cư dân bản xứ gồm
các dân tộc ít người như:
S’tiêng, Châu Ro, Mạ, K’ho, M’nông và một vài buôn sóc của người Khơme sinh sống. Cuộc chiến tranh
khốc liệt và dai dẳng giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam
làm cho dân chúng lầm than, điêu đứng, tạo nên một làn sóng di cư vào Đồng Nai tìm đất sinh sống. Với
phương tiện di chuyển chủ yếu l
à thuyền, ghe, xuồng, những di dân đã theo thủy triều ngược dòng Đồng
Nai hoặc đi dọc theo bờ sông tiến dần vào Đồng Nai. Theo chân những lưu dân người Việt, sự có mặt của
người Hoa tại khu vực này làm phong phú thêm đời sống xã hội và thay đổi cuộc sống nơi đây. Với bảy
bang Hoa kiều, tập quán sinh hoạt, những ngành nghề thủ công và tín ngưỡng của người Hoa được dung
nạp một cách tự nhiên và dung hòa nha
nh chóng như chính sự có mặt của họ ở vùng đất này.
Từ thế kỉ XVII, vùng đất này đã thực sự gắn bó và trải qua những bước thăng trầm cùng lịch sử dân
tộc. Lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm đã để lại trên vùng đất này dấu ấn về nhiều mặt kinh tế
- văn hóa – xã hội rất có giá trị. Là địa bàn tụ cư của nhiều thành phần tộc người nên Đồng Nai có truyền
thống văn hóa dân gian khá phong phú, đặc biệt là văn hóa của đồng bào dân tộc ít người. Đây còn là quê
hương của một số loại nhạc cụ dân gian độc đáo như: đàn đá Bình Đa, sáo trúc, chiêng đồng, thanh la...
Lối hát Tam Pót của dân tộc Mạ, một loại hình hát kể có vần điệu được lưu tr
uyền trong cộng đồng người
Mạ ở huyện Định Quán. Đồng Nai còn nổi tiếng với nghề thủ công truyền thống như làng gốm Tân Vạn
ven sông Đồng Nai của người Việt, nghề đục đá truyền thống tinh xảo của người Hoa sống gần hồ Long
Ẩn…


Đồng Nai là nơi sớm phát triển giai cấp công nhân và công nghiệp của Việt Nam. Ngay từ những
năm đầu của thế kỉ XX, Đồng Nai là một trong những tỉnh sớm hình thành đội ngũ công nhân lao động
trong cả nước. Những năm trước chiến tranh thế giới thứ nhất, số lượng công nhân thuộc các đồn điền cao
su của tư bản Pháp ở Biên Hòa và Bà Rịa đã có gần 2000 người. Từ năm 1920, tư bản Phá
p ồ ạt bỏ vốn
vào việc lập các đồn điền cao su ở Đồng Nai. Năm 1930, số lượng công nhân cao su đã lên đến 15.000
người. Từ năm 1940 đến năm 1945, do tình hình chiến tranh nên số lượng công nhân cao su giảm xuống
còn khoảng 8.000 người [46, tr.16], nhưng đã có sự biến đổi lớn trong đội ngũ công nhân. Bên cạnh việc
trồng, việc sơ chế mủ tại chỗ, đã hình thành lực lượng công nhân cơ khí, hóa chất, vận tải…Có thể nói lực
lượng công nhân ở Đồng Nai đã hình thành từ đầu t
hế kỉ 20, đây là nguồn lực của cách mạng và là vốn
quý trong việc phát triển các khu công nghiệp sau này. “Đất lành chim đậu”, không chỉ trong quá khứ,
hiện nay Đồng Nai vẫn tiếp tục là vùng đất mở. Nơi đây hầu như có mặt đông đảo các thành phần tộc
người Việt Nam sinh sống và nhiều người nước ngoài đến từ khắp các châu lục.


Tuy là vùng đất mới nhưng Đồng Nai có nhiều thế mạnh và điểm xuất phát khá thuận lợi. Ngoài sự
thuận lợi về vị trí địa lý, ưu đãi về điều kiện tự nhiên, Đồng Nai còn là địa phương có nhiều di tích văn
hóa – lịch sử và các điểm du lịch đầy tiềm năng. Dù

không có biển đẹp như Vũng Tàu, Phan Thiết (Bình
Thuận), Nha Trang (Khánh Hòa)…, không có phố cổ như Hội An (Quảng Nam)... nhưng bù lại, Đồng Nai
có rừng đại ngàn (Mã Đà, Nam Cát Tiên), sông nước mênh mông, núi non hùng vĩ, di sản văn hóa phong
phú.

Du lịch Đồng Nai có nhiều ưu thế và tiềm năng để phát triển theo hướng du lịch sinh thái, du lịch văn
hóa lịch sử, lễ hội truyền thống; xây dựng, phát triển một số loại hình du lịch mới: du lịch vườn, du lịch
trên sông, du lịch văn hóa lễ hội..., thực hiện đa dạng hóa sản phẩm du lịch và các loại hình dịch vụ du
lịch để thu hút, hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước

.
Trong đó, du lịch sinh thái của Đồng Nai có
thế mạnh riêng, vừa có nét giống với vùng sông nước miền Tây lại vừa có nét đặc trưng riêng của miền
Đông Nam bộ. Toàn tỉnh có trên 60 điểm du lịch thì các điểm du lịch sinh thái chiếm hơn nửa. Không chỉ
chiếm ưu thế về mặt số lượng, các điểm du lịch sinh thái của Đồng Nai cũng đa dạng, phong phú về mặt
tự nhiên và sinh học. Du khách có thể thưởng thức vị ngọt đặc biệt của trái cây, câu cá, du thuyền ở các
khu du lịch sinh thái vườn: cù lao Ba Xê, khu du lịch Vườn X
oài, Bò Cạp Vàng, làng bưởi Tân Triều, khu
du lịch Suối Tre, khu du lịch Bửu Long, khu du lịch Bò Sữa Long Thành… hay du lịch mạo hiểm, khám
phá thiên nhiên, vui chơi giải trí ở các điểm du lịch như: khu du lịch ven sông Đồng Nai, thác Giang Điền,
Vườn Quốc gia Nam Cát Tiên, rừng Mã Đà, hồ Trị An, núi Chứa Chan, hồ Núi Le, thác Mai- hồ nước
nóng Suối Mơ, đảo Ó… Bên cạnh thế mạnh du lịch sinh thái, Đồng Nai cũng có thế mạnh về du lịch văn
hóa - lịch sử. Du khách có thể tham quan những ngôi đình, chùa cổ có lối kiến trúc nghệ thuật truyền
thống đặc trưng của vùng; tham
quan các di tích chiến tranh, di chỉ khảo cổ, tìm hiểu về những nét văn
hóa độc đáo và lịch sử đấu tranh cách mạng của vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai…qua các điểm du lịch
như: chùa Đại Giác, chùa Ông, đình An Hòa, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, miếu Tổ sư, Văn Miếu Trấn
Biên, chiến khu Đ, địa đạo Nhơn Trạch, mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa, Bảo tàng Đồng Nai; tham
quan các làng nghề thủ công truyền thống đá Bửu Long, gốm Biên
Hòa, thêu – đan – dệt của đồng bào các
dân tộc Chơ Ro, Mạ, S’tiêng, Chăm…
Với những lợi thế sẵn có, du lịch Đồng Nai chủ yếu hướng về tiềm năng văn hoá, lịch sử, sinh thái,
dã ngoại. Nếu kết hợp được giữa truyền thống và hiện đại, thiên nhiên và văn hóa, quản lý và khai thác
theo đúng quy luật phát triển của xã hội thì ngành công nghiệp không khói
ở Đồng Nai sẽ phát triển mạnh
trong tương lai, không chỉ trong phạm vi du lịch nội địa mà cả quốc tế.
1.2.3 Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
Tỉnh Đồng Nai có hệ thống đường giao thông tương đối phát triển. Hệ thống quốc lộ với tổng chiều
dài 244,5 km đã được nâng cấp và mở rộng thành tiêu chuẩn cấp I, II đồng bằng (quốc lộ 51, quốc lộ 1A),
cấp III đồng bằng (

quốc lộ 20, quốc lộ 56). Riêng quốc lộ 1A trên địa bàn đã hoàn thành nâng cấp toàn bộ
102 km, mặt đường rộng từ 12,5 m - 24 m và đưa vào hoạt động có hiệu quả. Quốc lộ 51 đã hoàn thành
toàn bộ 45 km trên địa bàn và cả đoạn tránh một chiều qua thị trấn Long Thành, đạt tiêu chuẩn cấp I đồng
bằng. Đường bộ trong tỉnh có 3.339 km, trong đó gần 700 km đường nhựa. Hệ thống đường phường xã,
đư
ờng các nông, lâm trường, khu công nhiệp tạo nên một mạng lưới liên hoàn đến cơ sở. 100% xã
(phường) có đường ô tô đến trung tâm. Tỉnh Đồng Nai có tuyến đường sắt Bắc – Nam đi qua 87 km. Hệ
thống cảng biển, cảng sông đã được quy hoạch và xây dựng gồm cảng Long Bình Tân trên sông Đồng
Nai, công suất 460.000 tấn/năm; cảng Gò Dầu A, Gò Dầu B trên sông Thị Vải đang khai thác và sẽ nâng
công suất lên 10 triệu tấn/năm. Sản lượng hàng hóa thông qua các cảng đạt 700.
000 tấn, dự kiến sẽ nâng
lên 25-30 triệu tấn/năm.[46]
Tỉnh Đồng Nai có hệ thống cung cấp điện, nước tương đối hiện đại, đồng bộ. Hệ thống trạm biến
áp nguồn và các cụm phát điện tại chỗ gồm: Các trạm nguồn (thủy điện Trị An, trạm Long Bình, Long
Thành), các trạm trung gian (Biên Hòa, Long Bình, Đồng Nai, Hiếu Lâm, Xuân Lộc, Gò Dầu, Tuy Hạ,
Vedan, Vicusa…) trạm
35 kv (Định Quán, Kiệm Tân, Xuân Lộc…) và các cụm diezen (Hòa An,
Amata…). Hiện nay, lưới điện phân phối đã về đến tất cả các huyện trong tỉnh.[46]
Nguồn nước sông Đồng Nai không chỉ cung cấp cho Đồng Nai mà còn cung cấp cho thành phố Hồ
Chí Minh, tỉnh Bình Dương. Các nhà máy nước hiện cung cấp nước cho các cụm khu công nghiệp gồm:
Nhà máy nước Biên Hòa 36.000 m
3
/ngày, Nhà máy nước Thiện Tân 100.000 m
3
/ngày, Nhà máy nước
Nhơn Trạch 15.000 m
3
/ngày. Trong tương lai nhà máy nước Thiện Tân sẽ mở rộng công suất lên
1.000.000 m
3

/ngày, nhà máy nước Nhơn Trạch 200.000 m
3
/ngày, nhà máy nước Gia Ray 2.400 m
3
/ngày,
trạm bơm Hóa An 6.000 m
3
/ngày, nhà máy nước Long Khánh 5.000 m
3
/ngày. Nước máy khai thác đã
tăng từ 12,
7 triệu m
3
(1996) lên 19,1 triệu m
3
(2000) và 41,5 triệu m
3
(2003). [68]
Ngành bưu chính viễn thông của tỉnh phát triển nhanh và đang được hiện đại hóa ngang trình độ
các nước trong khu vực, đáp ứng tốt nhu cầu chất lượng cao. Toàn tỉnh có 79 bưu cục, 47 tổng đài điện tử,
tập trung ở các trung tâm công nghiệp. Dịch vụ thông tin di động đã có: Thông tin di động hệ GSM với 17
trạm phủ sóng tại thành phố Biên Hòa, khu công nghiệp Amata, Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Hố Nai, Loteco,
Sông Mây, Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạc
h 2, Gò Dầu và tại trung tâm các huyện: Long Thành, Nhơn Trạch,
Thống Nhất, thị xã Long Khánh, Định Quán, Xuân Lộc, Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Cẩm Mỹ. Dịch vụ tin
nhắn đã có: Nhắn tin Việt Nam (107, MCC, Phonelink, ABC, EPRO), Internet, VN.Mail, VNN, truyền dữ
liệu tốc độ cao ISDN… với hệ thống truyền dẫn cáp sợi quang đảm bảo chất lượng, nhanh chóng, chính
xác. Dịch vụ bưu chính đã có chuyển phát nhanh EMS, chuyển phát nha
nh tận nơi: DHL Fedex, Airborne,
PCN, UPS, Vinacrgo… Mật độ điện thoại tăng từ mức 1 máy/100 dân năm 1995 lên mức 5 máy/100 dân

năm 2000 và 11,5 máy/100 dân năm 2003 đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc nhất là tại đô thị và các
khu công nghiệp. Hiện nay, 100% phường xã và thị trấn đã có điện thoại và thư báo về kịp trong ngày.[46]
Nhiều xã có bưu điện văn hóa xã được nối mạng Internet. Hạ tầng kỹ thuật, thông tin phục vụ c
ho phát
triển các khu công nghiệp được xây dựng khá hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước.
1.2.4 Tiềm năng về nguồn lực con người
Đối với một quốc gia hay một địa phương, ngoài những yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý, điều kiện
tự nhiên thì nguồn lực con người cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng, tác động đến sự phát triển ki
nh tế
xã hội.
Trong lịch sử hình thành và phát triển, Đồng Nai luôn là vùng đất mở - là nơi hội tụ của nhiều cộng
đồng cư dân cùng nhau đoàn kết chung sống hòa bình, chia ngọt sẻ bùi trong nhiều hoàn cảnh lịch sử khác
nhau để bảo vệ, xây dựng và phát triển vùng đất này.

Chính vì thế, Đồng Nai là tỉnh có dân số đông so với
các địa phương khác trong cả nước với kết cấu dân cư phức tạp. Cộng đồng dân cư gồm trên 40 tộc người
đang sinh sống trên địa bàn tỉnh: Việt, Hoa, S’tiêng, Châu Ro, Mạ, M’nông, K’ho, Khơ me, Chăm…trong
đó người Kinh chiếm 91,5%, người Hoa và các tộc người thiểu số khác chiếm 8,5%. Cho đến năm 2005,
dân số toàn tỉnh Đồng Nai là 2.218.847 người, mật độ dân số là 376 người/km
2
, trong đó hơn 1 triệu
người ở độ tuổi lao động chiếm gần 50% dân số [49, tr.88].
Nguồn lao động phụ thuộc vào mức tăng của dân số và ngược lại nguồn lao động tăng thì dân số
tăng theo. Nguồn lao động ở Đồng Nai được hình thành từ hai nguồn chính: chuyển tuổi và nhập cư.
Trong đó, nhân tố ảnh hưởng lớn đến tốc độ gia
tăng dân số ở Đồng Nai, đó là sự di dân. Từ sau giải
phóng, làn sóng di dân từ khắp các miền đất nước đến Đồng Nai liên tục diễn ra. Từ năm 1986 đến nay,
tổng số nhân khẩu nhập cư chiếm 23,4% dân số toàn tỉnh. Trong giai đoạn 1986 – 1990, 60 tỉnh thành
trong cả nước đều có dân di cư tự do đến Đồng Nai, đông hơn cả là các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam

Định, Hải Dương, Hưng Yê
n, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, tập
trung chủ yếu ở các vùng nông thôn, nghề nghiệp chính là sản xuất nông – lâm nghiệp. Từ năm 1991 đến
2005, tình hình di dân có một số đặc điểm khác biệt so với các giai đoạn trước. Trong giai đoạn này, nền
kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển, cùng với sự phát triển ấy là thành phần kinh tế tư nhân trên
đà hội nhập, thuận lợi
cho lao động tìm kiếm ngành nghề thích hợp. Mặt khác, luật Đầu tư nước ngoài đã
bắt đầu phát huy hiệu quả, các dự án đầu tư nước ngoài vào Đồng Nai, đặc biệt là ở các khu công nghiệp
ngày càng nhiều, thu hút lao động đông đảo khắp mọi miền đất nước về đây tìm kiếm việc làm. Dân nhập
cư tập trung chủ yếu ở các khu vực đô thị, thị trấn (thành phố Biên Hòa, Long Khánh , Long Thành, Trảng
Bom, Nhơn Trạch) và những vùng ven các khu công nghiệp, đa số đều là lao động trẻ. C
hính bộ phận lao
động nhập cư này đã góp phần làm cho nguồn lao động ở Đồng Nai thêm dồi dào.
Đặc điểm của nguồn nhân lực ở Đồng Nai là đội ngũ lao động trẻ chiếm tỉ lệ cao và trình độ ngày
càng được cải thiện. Trình độ học vấn của dân số từ 15 tuổi trở lên tăng khá nhanh. Nếu tỷ lệ biết đọc, biết
viết của độ tuổi này năm
1990 là 91,01% thì đến năm 2005 là 99%. [49, tr.91] Song hành với trình độ biết
chữ khá cao thì trình độ học vấn đạt được ở bậc trung học phổ thông của những người từ 17 tuổi trở lên
cũng cao dần. Đồng Nai đã thực hiện xong công tác xóa mù theo chuẩn quốc gia, phổ cập giáo dục đúng
độ tuổi đạt cao, phổ cập trung học cơ sở đạt chuẩn 100%
xã/ phường, số sinh viên cao đẳng, đại học tăng
nhanh. Mỗi năm tỉnh Đồng Nai có khoảng 20.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông hệ chính quy
và bổ túc. Đây là nguồn cơ bản để đào tạo nhân lực kỹ thuật hàng năm của tỉnh. Bên cạnh đó, từ năm 1999
trở lại đây, lao động nhập cư có trình độ từ cao
đẳng trở lên tập trung về Đồng Nai mỗi năm mỗi đông, đã
liên tục bổ sung làm cho nguồn nhân lực thêm dồi dào. Đến năm 2005, toàn tỉnh có 1 trường đại học dân
lập đào tạo cử nhân và kỹ sư các ngành quản trị doanh nghiệp, kinh tế, xây dựng, điện tử, Đông phương
học, tin học, ngoại ngữ…(trường Đại học Lạc Hồng); 3 trường cao đẳng; 8 trường trung học chuyên
nghiệp đào tạo cá
n bộ kỹ thuật các ngành: kỹ thuật công nghiệp, bưu chính viễn thông., kinh tế, y tế, địa

chính; 10 trường dạy nghề đào tạo công nhân kỹ thuật các nghề: cơ điện, giao thông vận tải, cơ giới, lắp ráp
máy, điện tử, đúc, hàn, may mặc; 47 trung tâm và cơ sở dạy nghề. Hàng năm, tỉnh có khoảng 8000 sinh viên
đại học và 1000 - 1200 sinh viên tốt nghiệp đại học. Hệ đào tạo cao đẳng có khoảng 7000 sinh viên, hàng
năm tốt nghiệp 1200 sinh viên. Hệ đào tạo trung học chuyên nghiệp có 15000 học sinh, hàng năm tốt nghiệp
6000- 8000 học sinh. Các trường đào tạo nghề của tỉnh đã đào tạo trên 40 nghề khác nhau.
Tại những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, thu hút F
DI mạnh mẽ như Đồng Nai thì việc
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ là một tiền đề quan trọng để đẩy mạnh và nâng cao hiệu
quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Tiểu kết chương 1
Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là một tỉnh có lợi thế về vị trí địa lí, điều
kiện tự nhi
ên và xã hội. Phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và thành
phố Hồ Chí Minh, phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp Bình Dương và Bình Phước. Nguồn tài
nguyên thiên nhiên là một tiềm năng lớn của Đồng Nai. Đồng Nai có nguồn tài nguyên đất, nguồn nước,
khoáng sản phong phú đáp ứng tốt nhu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn. Điều kiện địa hình, địa
chất Đồng Nai có nền đất ổn định, rất phù hợp cho việc xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp. Thành
phố Biên Hòa là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp vào l
oại lớn nhất nước. Vị trí Đồng Nai gần các
cảng biển, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, gần thị trường tiêu thụ lớn là thành phố Hồ Chí Minh (một trung
tâm kinh tế - khoa học - văn hóa giáo dục, dân cư có thu nhập cao nhất nước), là cầu nối giao thông giữa
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh miền Đông Nam
Bộ, Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên. Vị
trí địa lý của Đồng Nai đã tạo ra những thuận lợi rất cơ bản để phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển
công nghiệp và là vị trí lý tưởng để các nhà đầu tư lựa chọn địa điểm đầu tư.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn tương đối phát triển. Đồng Nai là đầu mối của
nhiều tuyến giao thông quốc gia. Hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt thuận tiện cho việc đi lại, chuyên
chở hàng hóa trong cả nước. Đồng Nai có sân bay quân sự Biên Hòa, có hệ thống cảng sông, cảng biển phát
triển với năng lực hoạt động khá lớn. Trong tương lai gần, tỉnh Đồng Nai có đường sắt (B

iên Hòa đi Bà Rịa
– Vũng Tàu), sân bay quốc tế Long Thành, cầu Thủ Thiêm đi qua Long Thành, hệ thống cảng Thị Vải, Bến
Đình Sao Mai… lần lượt được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động. Hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn thiện sẽ
giúp Đồng Nai gắn kết với bên ngoài hơn.
Đồng Nai có tiềm năng khá lớn để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái với nhiều cảnh
qua
n thiên nhiên, môi trường hấp dẫn như: du lịch miệt vườn, du lịch trên sông, du lịch leo núi…Đồng
Nai là vùng đất có nền văn minh cổ xưa với nhiều di tí
ch, văn hóa, lịch sử có giá trị đã góp phần làm cho
hoạt động du lịch ở Đồng Nai càng thêm phong phú. Bên cạnh đó, Đồng Nai có nguồn nhân lực khá dồi
dào, phần lớn là lực lượng lao động trẻ với trình độ khá cao từ mọi miền của đất nước hội tụ về đây lập
nghiệp, đáp ứng nguồn nhân lực cho yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp
tỉnh Đồng Nai phát triển vào loại hàng đầu cả nước với những ngành nghề đa dạng, phong phú và đội ngũ
công nhân, cán bộ quản lý đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, có trình độ và kinh nghiệm.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tương đối phát
triển; tiềm năng du lịch dồi dà
o và đội ngũ nhân lực đông đảo đã góp phần làm cho Đồng Nai hội tụ đủ
các điều kiện “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”. Những lợi thế, tiềm năng này đã và đang được tận dụng,
phát huy cao độ trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp nói riêng và trong công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Đồng
Nai nói c
hung.

Chương 2:
QUÁ TRÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH
ĐỒNG NAI TRONG 10 NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI (1986 – 1995)

2.1 Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và chủ trương của tỉnh Đồng Nai về phát triển kinh
tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài (1986 -1995)
2.1.1 Đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước

Sau khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất (1975), cả nước bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây
dựng nền kinh tế. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
nhằm tranh thủ các yếu tố ngoại lực để thúc đẩy
công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm chú ý, biểu hiện qua việc
ban hành “Điều lệ đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(1977). Tuy nhiên vào
thời điểm này đất nước ta có những khó khăn đặc biệt về đối ngoại nên hoạt động đầu tư nước ngoài c
hưa
thể thực hiện được. Trong những năm 1980, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng,
sự vận hành của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp đã cản trở sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam,
mức lạm phát lên tới trên 700% năm 1986. Nhiều xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp
sản xuất cầm chừng, t
hậm chí đóng cửa hoặc giải thể, hàng chục vạn công nhân rời bỏ dây chuyền sản
xuất, đổ vỡ tín dụng liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi gây ảnh hưởng rất xấu tới tình hình kinh tế - xã hội. Trong
khi đó, hàng loạt các ngành có ưu thế như : công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng, gia công lắp
ráp... lại không được Nhà nước quan tâm đúng mức, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và tất cả đều ở trong tì
nh trạng
thiếu vốn trầm trọng.
Đứng trước bối cảnh đất nước như vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, đưa đất nước ta thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Đại hội Đảng lần t
hứ VI đã xác định “nhiệm
vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình
hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo’’ [16, tr.42], “giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác
mọi khả năng tiềm t
àng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất’’ [16, tr.47]. Đảng ta chủ trương chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc hình
thành các khu công nghiệp, huy động nguồn vốn, đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, phát triển các ngành,

các vùng kinh tế trọng điểm. “Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới

nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với
việc công bố luật đầu tư, cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở
nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế nước ngoài vào nước ta đầu tư, kinh doanh.”
[16, tr.85]
Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 8 ngày 31- 12 - 1987 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã
được thông qua. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được soạn thảo dựa trên nội dung cơ bản của Điều lệ
đầu tư năm 1977, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam
và tham khảo kinh nghiệm của các nước khác trên thế
giới. Dựa trên những lĩnh vực kêu gọi đầu tư đã được quy định trong Điều lệ đầu tư năm 1977, Luật Đầu
tư nước ngoài năm 1987 đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù
hợp với hoàn cảnh mới. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định những nguyên tắc và biện phá
p
bảo đảm đầu tư nhằm làm cho nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam, thể hiện ở ngay Điều
1(đoạn 2): “Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá
nhân có đầu tư tại Việt Nam”. Đồng thời Điều 21 cũng khẳng định : “Trong quá trình đầu tư vào Việt
Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện
pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa”. Như vậy, những nguyên
tắc cơ bản nhất đã được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ghi nhận và khẳng định. Điều này vô cùng
qua
n trọng đối với nhà đầu tư, nó đã tạo ra được tâm lý vững vàng cho nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt
Nam. Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định bảo đảm đối đãi công bằng và thoả đáng với
nhà đầu tư (Điều 20); cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền
khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Điều 22); c
ho phép nhân viên người nước ngoài làm việc trong
xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có vốn 100% của nước ngoài hoặc để thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh
doanh được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Điều 23).
Nếu ta ghi nhận Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 là những chế định pháp lý đầu tiên về đầu tư
nước ngoài, thì với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, chúng ta ghi nhận là đạo Luật đầu tiên về đầu tư
nước ngoài trên đất nước Việt Nam. Hơn thế nữa, Luật Đầu tư nước ngoài năm

1987 đã mở đường cho sự
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo đà cho sự phát triển kinh tế trong những giai đoạn khó khăn.

Sau hai năm chỉ đạo đổi mới, bên cạnh những kết quả tích cực và đáng khích lệ bước đầu, còn có
mặt hạn chế do những nguyên nhân khách quan về tình hình chính trị quốc tế và khu vực; đồng thời cũng
do những thiếu sót của ta trong việc thi hành Luật, có một số vấn đề trong bản thân nội dung của Luật
chưa thật phù hợp với sự phát triển của nước ta và cũng chưa phù hợp với đòi hỏi của t
ình hình thực tế.
Đảng ta nhận thấy cần phát triển mạnh hơn nữa kinh tế đối ngoại, tận dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Vì vậy, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá 8 ngày 30/6/1990 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 và tập trung và
o 3 vấn đề lớn sau đây: tư nhân tham gia hợp tác với
nước ngoài; liên doanh nhiều bên; hàng thay thế nhập khẩu. Sau những sửa đổi, bổ sung của Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1990, nhịp độ tăng trưởng của tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tăng rõ rệt. Điều này
chứng tỏ sự sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài đã phần nào tác động đến tâm lý nhà đầu tư, làm cho
nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Việc nhiều nhà đầu tư quan tâm đến thị trường Việt
Nam làm nảy sinh nhiều nhu cầu và đòi hỏi cần phải có một hành lang pháp lý hoàn chỉnh hơn. Luật Đầu
tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 chỉ sửa đổi, bổ sung được 3 vấn đề lớn trong hàng loạt vấn đề còn nổi
cộm và trong quá trình thực hiện Luật sau khi triển kha
i, nhiều vấn đề pháp lý đã phát sinh, phần nào làm
cản trở hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Giai đoạn 1991 – 1995, đất nước ta thực hiện kế hoạch 5 năm
trong bối cảnh quốc tế có những thay
đổi quan trọng: chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu – đồng nghĩa với việc chỗ dựa về nguồn
vốn nước ngoài chủ yếu trước đây đã không còn. Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tác động đến
đất nước ta cả về mặt chính trị và kinh tế, đặt chúng ta đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Văn kiện
Đại hội lần t
hứ VII chỉ rõ: trong những năm 1991 – 1995, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta là đưa đất
nước “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy
lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [17, tr.60].

Tuy nhiên, trong giai đoạn nà
y chúng ta cũng có những thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại, nhất
là sau khi Mỹ bình thường hóa quan hệ với đất nước ta và việc Việt Nam gia nhập tổ chức Asean (1995).
Cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại, quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế cũng ngày một phát triển. Để
tranh thủ các mối quan hệ này, trong nhiệm vụ phát triển kinh tế những năm 1991 – 1995, Đảng ta chỉ
rõ:“Tiếp tục xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược chung của
cả nước. Phát huy thế mạnh của từng v
ùng, từng địa phương, khai thác các nguồn lực tại chỗ, đồng thời
mở rộng quan hệ phân công, hợp tác, liên kết với các vùng khác trong nước và với nước ngoài” [17, tr.65
– 66]. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài xây dựng các khu công nghiệp, Đảng ta chủ trương:“Có chí
nh sách
thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước hết vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức” [17,
tr.64]; tạo một môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài đầu tư, hợp tác kinh doanh:“Xây
dựng thể chế đồng bộ, ổn định, thuận tiện và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh. Thống nhất đầu mối giải
quyết các thủ tục và yêu cầu về đầu tư của người nước ngoài. Bảo đảm những điều kiện thiết yếu về cơ sở
hạ tầng, phương tiện làm việc và sinh hoạt cho người nước ngoài, trước hết là ở cá
c khu chế xuất và
những địa bàn đầu mối trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Tổ chức tốt thông tin kinh tế và chuẩn bị các dự
án gọi vốn đầu tư nước ngoài. Đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng y
êu cầu hoạt động kinh tế đối ngoại theo
cơ chế mới, với các đối tượng mới”. [15, tr.32]
Trong điều kiện có sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực và trên thế giới về thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, chúng ta cần có cơ chế chính sách để thu hút nhiều hơn và sử dụng tốt hơn, c
ó hiệu quả
hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đi đôi với tranh thủ công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại. Cụ thể hóa

×