Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Quản lý việc dạy chữ chăm cho người chăm ở huyện hàm thuận bắc tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 115 trang )


1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




CAO THANH XUÂN





QUẢN LÝ VIỆC DẠY CHỮ CHĂM CHO NGƯỜI CHĂM
Ở HUYỆN HÀM THUẬN BẮC TỈNH BÌNH THUẬN





Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục

Mã số: 60 14 05





LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ THỊ MINH HÀ





Thành phố Hồ Chí Minh - 2007



2

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 thành phần dân tộc khác
nhau. Dân tộc Chăm là một dân tộc thiểu số thuộc cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, hiện sinh sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam, tập trung
nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Chữ Chăm đã có từ lâu
đời, đồng bào Chăm truyền tụng và nâng niu, song ít được phổ biến rộng rãi
trong các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu dành cho lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm nghiên cứu nghi thức hành lễ; hoặc chỉ có một bộ phận người
Chăm dùng để tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm. Với chủ trương
của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và chữ viết của các dân tộc thiểu
số, các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên cho
đến những văn kiện gần đây đều thống nhất một quan điểm: Tôn trọng quyền
tồn tại và phát triển của tiếng nói và chữ viết các dân tộc thiểu số đồng thời hỗ
trợ để tiếng nói và chữ viết của họ phát triển.

Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1960 có ghi: "Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình".
Quyết định của Chính phủ số 53/CP ngày 22/02/1980 có đoạn viết:
"Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn
trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều
được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo chữ La tinh"[
10].
Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, tại điều 4 có viết: “Giáo dục
tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử
dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện
Giáo dục tiểu học[
21].



3
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết:
"Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục,
tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình".
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển tiếng nói
và chữ viết của các dân tộc thiểu số, cụ thể hơn là tiếng nói và chữ viết của
dân tộc Chăm, một số trường tiểu học vùng đồng bào dân tộc Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc đã tiến hành việc dạy tiếng Chăm cho học sinh người Chăm.
Song, nhu cầu học chữ Chăm không chỉ giới hạn ở học sinh tiểu học, mà
nhiều người dân Chăm, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên mong muốn được
học cái chữ của dân tộc mình. Đây là nguyện vọng chính đáng nhằm góp phần
nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, phản ánh tính đúng đắn về chính sách dân tộc của

Đảng và Nhà nước ta.
Là một ngôn ngữ của dân tộc thiểu số có dân số ở mức trung bình trong
tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, tiếng Chăm cùng với nền văn hoá Chăm có
vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành và xây dựng nền văn hoá
Việt Nam và được coi là một môn học trong hệ thống giáo dục tiểu học đối
với học sinh Chăm. Việc phát sóng bằng tiếng Chăm và đưa tiếng Chăm vào
dạy học trong nhà trường đã được bà con dân tộc Chăm phấn khởi đón nhận.
Tiếng Chăm hiện nay là một trong những tiếng dân tộc được phát sóng trên
các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bình Thuận, Đài
Phát thanh - Truyền hình tỉnh Ninh Thuận và tập san Dân tộc và Miền núi do
Thông tấn xã Việt Nam xuất bản bằng tiếng Chăm đã mang đến cho đồng bào
người Chăm nhiều thông tin quí giá[
34]. Song, để tiếp nhận đầy đủ lượng



4
thông tin trên, người dân Chăm càng phải cần có vốn hiểu biết chữ Chăm làm
công cụ truyền tải.
Hiện nay tiếng Chăm có các biến thể khác nhau và các loại hình chữ
viết khác nhau, đó là tiếng Chăm gốc và tiếng Chăm biến thể. Trong giao tiếp
hàng ngày, người Chăm sử dụng tiếng Chăm biến thể, trong khi đó trên 60%
người Chăm (đặc biệt là người ở lứa tuổi dưới 50) nghe không hiểu, hoặc hiểu
rất ít tiếng Chăm cổ đang dùng phát sóng trên các phương tiện phát thanh-
truyền hình[
34]. Như vậy, thực tế phần lớn người Chăm chưa hiểu rõ các nội
dung bài báo được đăng tải trên các tạp chí bằng chữ Chăm hay trên sóng
phát thanh tiếng Chăm, vì một lẽ dễ hiểu là đa số người dân Chăm còn mù
chữ Chăm. Vì mù chữ Chăm và do thường ngày chỉ dùng tiếng địa phương có

nhiều lỗi chính tả, hoặc không còn nhớ từ vựng của tiếng mẹ đẻ mà được thay
thế vào đó bằng nhiều từ tiếng Việt, tiếng nước ngoài, cho nên đa số người
Chăm chưa thể đọc được chữ Chăm trên mặt báo hay chưa nghe và hiểu hết
tiếng Chăm chuẩn được phát thanh trên sóng của đài phát thanh. Điều đó,
chứng tỏ tiếng nói và chữ viết của người Chăm ngày càng mai một, nếu
không có sự bảo tồn kịp thời và đúng mức thì ngôn ngữ Chăm sẽ dần dần bị
mất hết vai trò của mình trong đời sống xã hội người Chăm. Trong khi đó
tiếng Chăm dạy cho học sinh trong nhà trường tiểu học chưa đủ lực để giữ vai
trò bảo tồn, phát triển tiếng nói và chữ viết Chăm. Một trong các giải pháp để
giúp cho các em khỏi quên chữ Chăm sau khi học tiểu học và cũng làm cho
người lớn biết chữ Chăm là phải tiến hành mở các lớp dạy chữ Chăm cho
người lớn (độ tuổi 15 - 45). Thế nhưng đến nay tại tỉnh Bình Thuận, chính
quyền tỉnh Bình Thuận chưa tổ chức việc dạy chữ Chăm cho người Chăm hết
độ tuổi học ở trường tiểu học.
Đề tài nghiên cứu “việc quản lý dạy chữ Chăm cho đồng bào dân tộc
Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận” nhằm đáp ứng tâm tư,



5
nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc Chăm, làm cho người dân
Chăm biết được chữ Chăm, từ đó sẽ thu nhận nhiều thông tin hữu ích trong
cuộc sống, tìm hiểu phong tục tập quán của đồng bào Chăm qua các tài liệu
cổ, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm,
tạo nên sự đoàn kết và thể hiện sự bình đẳng dân tộc giữa cộng đồng các dân
tộc ở Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát nhu cầu học chữ Chăm của người Chăm và tìm hiểu việc tổ
chức dạy chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Từ đó, đề

xuất một số giải pháp thực hiện việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm
ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
3.2. Khách thể nghiên cứu : Người Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45, các trí
thức và các giáo viên người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tiến hành quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm thì sẽ tạo
điều kiện tốt cho người Chăm trong độ tuổi 15 - 45 tham gia học chữ Chăm, ít
nhất ở mức biết đọc và biết viết.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu việc quản lí dạy chữ Chăm cổ cho người học chữ
Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45 trên địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.



6
6.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu học chữ Chăm và việc tổ chức dạy chữ
Chăm cho người Chăm độ tuổi 15 - 45
ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6.3. Đề xuất và thử nghiệm một số giải pháp quản lý việc dạy chữ Chăm
cho người Chăm độ tuổi 15 - 45
ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản qui phạm pháp luật của chính

phủ, các cấp quản lý giáo dục và các tác giả nói về việc dạy tiếng dân tộc
thiểu số. Nghiên cứu các báo cáo của UBND huyện Hàm Thuận Bắc về tình
hình kinh tế - xã hội của huyện; nghiên cứu các tài liệu nói về người Chăm,
ngôn ngữ Chăm.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Điều tra khoảng 300 người dân Chăm có độ tuổi từ 15 - 45, thuộc 3 xã
của huyện Hàm Thuận Bắc có đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống nhằm
tìm hiểu thực trạng học chữ Chăm (Trình độ chữ Chăm, nhu cầu, mục đích
học chữ Chăm). Xác định mức độ và tần số về nhu cầu học tiếng Chăm, hình
thức tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tuổi.
Điều tra (phỏng vấn bằng phiếu) 50 người, gồm một số chức sắc tôn
giáo, lão làng, trưởng thôn, trí thức và giáo viên người Chăm nhằm khẳng
định nhu cầu, mục đích và những đề xuất khác của việc học chữ Chăm.
Điều tra hiệu trưởng ở các trường Tiểu học có dạy tiếng Chăm, các giáo
viên người Chăm và một số cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo
nhằm góp ý, bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp quản lý dạy tiếng Chăm.





7
7.3. Phương pháp thử nghiệm
Trình lên Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận xin phép tổ chức mở lớp
dạy (thử nghiệm) 3 lớp học tiếng Chăm cho người lớn tuổi , mỗi xã một lớp,
nhằm rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy tiếng Chăm và công tác quản lý
việc giảng dạy tiếng Chăm cho người lớn tuổi, tạo khí thế ban đầu cho phong
trào học tiếng Chăm trong huyện.
7.4. Phương pháp toán học thống kê
Dùng để xử lí kết quả nghiên cứu. Sử dụng bảng thống kê để tính tần

số, tỉ lệ phần trăm về: Trình độ chữ Chăm; nhu cầu, mục đích và hình thức
học tập chữ Chăm.
8. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU
8.1. Nghiên cứu lí luận
* Nghiên cứu về tính hợp pháp, sự cần thiết và ý nghĩa của việc quản lý
các lớp học chữ Chăm cho người Chăm (Từ tháng 6/2006 đến tháng 7/2006).
* Nghiên cứu khái niệm công cụ (Từ tháng 7/2006 đến tháng 8/2006).
8.2. Nghiên cứu thực trạng
* Tìm hiểu khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội,
giáo dục và người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 8/2006).
* Khảo sát thực trạng biết chữ Chăm, nhu cầu và mục đích học chữ
Chăm của người Chăm ở độ tuổi 15 - 45 qua khoảng 300 phiếu điều tra
(tháng 8/2006).
* Khảo sát khoảng 50 phiếu phỏng vấn, tìm hiểu nguyện vọng của các
già làng, các chức sắc tôn giáo, các trí thức trong cộng đồng người Chăm về ý
nghĩa và sự cần thiết của việc tổ chức học chữ Chăm cho người Chăm (tháng
8/2006).
* Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên dạy tiếng Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).



8
* Khảo sát thực trạng về công tác quản lý việc dạy chữ Chăm cho
người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
* Xử lý số liệu điều tra (tháng 10/2006 - 12/2006).
* Tổng hợp số liệu, các tư liệu và viết báo cáo kết quả nghiên cứu
(tháng 01/2007 - 8/2007).






























9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Vấn đề dạy chữ (tiếng) dân tộc thiểu số trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chính sách khuyến khích việc
học tiếng dân tộc thiểu số cho cả trẻ em và người lớn tuổi.
Ở Liên hiệp Anh, có dân tộc Wales. Chính phủ Anh cho phép, khuyến
khích việc giảng dạy tiếng Wales. Hằng năm đều tổ chức ngày hội thi tiếng
Wales.
Ở Philipin, “đối với các dân tộc đã có chữ viết như người Mangyan ở
Mindoro, các dân tộc ở Ifugao thì lại tiến hành dạy tiếng dân tộc, tiếng
Philipin và tiếng Anh” [
32].
Mỹ, Trung Quốc, Inđônêxia là các quốc gia đa dân tộc. Tại những quốc
gia này, chính quyền cho phép tổ chức giảng dạy các thứ tiếng của người dân
tộc thiểu số cho học sinh trong trường phổ thông và dạy cho người lớn tuổi
dân tộc thiểu số có nhu cầu học tập.
Theo Marilin Gregerson, một nhà ngôn ngữ học Mỹ, thì người dân tộc
có thể học tiếng phổ thông “dễ dàng nếu trước tiên họ được dạy để đọc cái
ngôn ngữ họ thạo nhất”[32].
F.B. Dawson và Barbara jean Dawson, trong bài viết về sự đóng góp
hiện nay của Viện Ngôn ngữ Mùa hè vào chương trình xóa mù chữ không
chính thức tại Hà Nội: “...dự án thứ hai có mục đích cố vấn cho việc xây dựng
tài liệu đọc cơ bản bằng ngôn ngữ H’Mông để dùng trong một chương trình
thí nghiệm dành cho học sinh bỏ học và người lớn không có cơ hội đi
học”[
32].



10
1.1.2. Vấn đề dạy tiếng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ

Chăm như: “Ngôn ngữ các dân tộc thiểu Việt Nam và chính sách ngôn ngữ”
của Hoàng Tuệ (1984); “Văn học Chăm: Khái luận, văn tuyển” của Insara
(1994); “Ngữ pháp tiếng Chăm” của Bùi Khánh Thế (1996); “Văn hóa - xã
hội Chăm” của Insara (2003)…Qua các công trình này, cho chúng ta thấy các
tác giả đều mong muốn duy trì và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá tốt
đẹp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất là văn hoá Chăm. Song, chưa
có một công trình khoa học nào nói về quản lý việc dạy chữ Chăm cổ cho
người Chăm lớn tuổi.
Từ đây, gợi mở cho chúng ta: Phải chăng cần nghiên cứu về công tác
quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm nhằm góp phần phát triển Văn
hoá Chăm.
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dạy tiếng dân tộc
thiểu số.
* Nghị quyết trung ương năm 1940 nêu: “ Mỗi dân tộc có quyền dùng
tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục của mình”[
12].
* Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Đông dương
ngày 10/5/1941: “Văn hóa của mỗi dân tộc được tự do phát triển, tồn tại;
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc được tự do phát triển, tồn tại và được bảo
đảm”[
13].
* Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại chương I Điều 5 có
nêu: “ Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình”
* Luật giáo dục năm 2005, tại điều 7, mục 2 có ghi:



11

Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng
tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác; việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được
thực hiện theo quy định của Chính phủ[
21].
* Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, điều 4 có ghi: “Các dân
tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với
tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học”[
22].
* Quyết định số 53/CP ngày 22/02/1980 của Hội đồng chính phủ (nay
là Chính phủ) về chủ trương chữ viết đối với các dân tộc thiểu số, nêu:
Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa
là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả
nuớc. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng
đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. cùng với chữ phổ thông, chữ
dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hóa của các
dân tộc (Mục I.2). Bộ Giáo dục có trách nhiệm hướng dẫn các tỉnh
xây dựng kế hoạch dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong các
trường, các lớp phổ thông và bổ túc văn hóa thích hợp với tình hình
thực tế và yêu cầu của từng vùng, từng dân tộc (mục III.1)[
10].
* Thông tư số 01/GD-ĐT ngày 03/02/1997 của Bộ GD-ĐT hướng
dẫn thực việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số nêu:
+ Thực hiện Luật phổ cập GD tiểu học, trước hết triển khai dạy
môn tiếng dân tộc (bao gồm tiếng nói, chữ viết) trong các trường lớp
mẫu giáo, các trường tiểu học, các lớp xóa mù chữ và bổ túc văn hóa




12
tại các vùng dân tộc thiểu số. Đa dạng hóa các hình thức dạy tiếng
dân tộc. Người học có thể lựa chọn việc học tập thích hợp: học ở
trường lớp, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ, học tiếng
dân tộc sau khi đã học xong bậc tiểu học... Mở các lớp xóa mù chữ
cho người lớn tuổi ở các thôn, ấp, làng, bản; các lớp học tiếng dân tộc
buổi chiều, tối... (Phần 1. Một số nguyên tắc chung)[
3].
+ Trước mắt, tiến hành xây dựng chương trình bộ môn tiếng
Chăm, tiếng Khơme, Thái, Tày, Nùng và các thứ tiếng Ê Đê, Gia Rai,
Ba Na, Xê Đăng, K’ho ở các tỉnh Tây nguyên (Phần 2. Một số việc
làm cụ thể trước mắt)[
3].
+ Ngành học giáo dục thường xuyên cần nhanh chóng tạo ra
các điều kiện cần thiết để đưa tiếng dân tộc vào việc xóa mù cho
người dân tộc thiểu số. Trước hết, tiến hành xóa mù chữ dân tộc cho
các đối tượng lớn tuổi không có điều kiện xóa mù chữ bằng chữ quốc
ngữ. Sau xóa mù chữ cần có các tài liệu đọc thêm bằng chữ dân tộc
để củng cố và nâng cao thêm vốn hiểu biết tiếng và chữ mẹ đẻ cho họ
(Phần 2. Một số việc làm cụ thể trước mắt)[
3].
1.1.2.2. Quan điểm của một số tác giả về việc dạy chữ dân tộc thiểu
số và chữ Chăm
* Hoàng Tuệ:
+ Một trạng thái song ngữ ở trình độ thấp, trình độ tự nhiên,
không những không thể phát huy tác dụng tích cực, mà còn ảnh
hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của cộng đồng xã hội nhỏ là từng
dân tộc thiểu số, và cộng đồng lớn là toàn thể dân tộc Việt Nam.... Có

thể nghĩ rằng đáng mong muốn nhất là một trạng thái song ngữ ở
trình độ cao, trình độ văn hóa, tức là trạng thái song ngữ văn học,



13
trong đó người dân tộc thiểu số có ý thức đầy đủ, sâu sắc về tiếng mẹ
đẻ cũng như về tiếng Việt và có khả năng sử dụng tốt tiếng Việt văn
học cũng như tiếng mẹ đẻ, phát triển dần thành ngôn ngữ văn
học[
31].
+ Dạy học chữ và tiếng dân tộc là một việc làm đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc...; Chính quyền Ngô Đình
Diệm thì không cho người thiểu số học tiếng thiểu số, chỉ buộc họ
học tiếng Việt... còn người Pháp soạn chữ Chăm bằng tiếng Latin với
mưu đồ là gây ra và nuôi dưỡng mãi mãi sự đối kháng giữa các dân
tộc thiểu số, đặc biệt ở vùng chiến lược Tây nguyên, với người Kinh.
Cần có chủ trương thỏa đáng đối với ngôn ngữ có chữ viết cổ
truyền... Song, nhìn về quá khứ của sự hội nhập các dân tộc, và nhìn
vào hiện tại của những chênh lệch phát triển giữa các dân tộc, không
thể không thấy là quốc gia Việt Nam đang đứng trước những vấn đề
không đơn giản... Những ngôn ngữ vốn đã có chữ viết cổ, lại có thêm
chữ viết Latin hóa thì tùy tình hình cụ thể của từng dân tộc, có thể
dạy song song vừa chữ cổ, vừa chữ Latin hoặc có thể dạy chữ cổ cho
người lớn tuổi ngoài nhà trường và chữ Latin cho học sinh phổ thông
[
32].
* Bùi Khánh Thế cho rằng:
+ Trong tập hợp các ngôn ngữ Việt Nam, tiếng Chăm là một
ngôn ngữ có hệ thống văn tự lâu đời, có di sản văn học quí (cả văn

học viết và văn học dân gian) và nhất là được sử dụng thường xuyên
trong sinh hoạt chung của nội bộ cộng đồng Chăm cũng như trong
sinh hoạt song ngữ Chăm – Việt tại những khu vực người Việt và
người Chăm sống xen kẽ [
26].



14
+ Giữ gìn và phổ biến các giá trị quý báu của văn hóa truyền
thống Chăm được ghi lại bằng hệ thống văn tự cũ (tiếng cổ), nhằm
giúp cho sự phát triển xã hội hiện tại, gây niềm tự hào chính đáng cho
nhân dân Chăm với tư cách là chủ nhân của một truyền thống văn hóa
lâu dài, đồng thời cũng là thành viên trong một quốc gia đa dạng về
thành phần dân tộc và văn hóa.... Dùng hình thức giáo dục có tính
chất vừa Nhà nước vừa nhân dân để giúp cho lớp người Chăm trẻ tuổi
có sự hiểu biết cần thiết về hệ thống văn tự cổ truyền (tùy nhu cầu và
sự tự nguyện), qua đó mà biết được lịch sử phát triển văn hóa không
chỉ riêng cho dân tộc mình, mà của cả toàn khối cộng đồng dân
tộc[
26].
* Hoàng Văn Ma:
+ Người Chăm, người Hrê, người K’ho có dân số gần như nhau
và cùng hưởng chính sách bình đẳng như nhau. Nhưng tiếng Chăm,
chữ Chăm gắn với văn hóa Chăm Pa, mà ảnh hưởng của nó lan tỏa
sang nhiều dân tộc lân cận....Đối với chúng ta, ... còn nhằm một mục
đích thực tiễn là nghiên cứu tiếng nói chữ viết dân tộc để phục vụ
giảng dạy song ngữ, để nâng cao dân trí và bảo tồn vốn văn hóa dân
tộc.... Hơn nữa, nếu chỉ có các tác phẩm dịch sẽ không có được các
điều kiện chắt lọc được những cái hay từ ngôn ngữ tác phẩm[

18].
+ Khích lệ việc sử dụng tiếng dân tộc vì ngôn ngữ còn thì văn hóa
còn. Đúng vậy, tiếng nói của một dân tộc nào đó là công cụ giao tiếp,
là biểu hiện linh hồn dân tộc, là di sản thiêng liêng của muôn đời để
lại.... Nếu tầng lớp trẻ không được đào tạo về tiếng mẹ đẻ thì nhiều
cái hay, cái gốc sẽ bị lãng quên dần. Kết quả, khi nói tiếng dân tộc thì
pha lẫn tiếng Việt một cách không cần thiết; khi nói tiếng Việt thì lộ
ngay cái giọng miền ngược[
18].



15
+ Như tiếng Chăm, đã mất phương pháp cấu tạo từ phụ tố....
Đối với chữ Chăm, tình hình càng phức tạp hơn. Cách phát âm đối
với một số từ ở ngôn ngữ này có những sắc thái khác nhau nhất định
tùy theo giới, tuổi tác, trình độ hiểu biết văn tự Chăm cổ [
18].
* Insarsa (người Chăm):
+ Muốn văn học và văn học tiếng dân tộc có cơ hội nẩy mầm
và phát triển đủ sâu và rộng thì việc dạy tiếng dân tộc đóng một vai
trò quyết định.... Từ năm 1978, chữ Chăm được dạy rộng khắp trong
các trường tiểu học có con em Chăm học,... nhưng sau đó, vì các em
chưa có sách đọc thêm để nâng cao hay mở rộng vốn từ hay kiến thức
văn học dân tộc nên không ít trường hợp các tài năng không cơ hội
phát triển, hoặc thậm chí chữ thầy trả lại cho thầy....Tiếng nói - chữ
viết Chăm, qua đó tồn tại các văn bản cổ Chăm, là tài sản quý báu
chung của nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam. Giữ gìn nó là giữ gìn
bản sắc dân tộc, để chúng ta mãi là chúng ta, không bị nghiêng đổ
trước cơn bão văn minh vật chất tầm thường đang xâm nhập vào xã

hội mà tất cả thức giả trên thế giới lên tiếng báo động....[15].
* Nguyễn Văn Tỷ, Trưởng Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Ninh
Thuận nêu:
Quá trình nghiên cứu về từ hiện đại của Ban biên soạn sách
tiếng Chăm tỉnh Ninh Thuận, và ngữ liệu trong các văn bản cổ cho
thấy từ vựng Chăm hết sức phong phú, đa dạng và trên cơ sở vốn từ
cổ truyền có điều kiện khả năng phát triển lớp từ vựng mới. Từ năm
1978, nhờ sự hình thành Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Thuận
Hải (nay là Bình Thuận và Ninh Thuận), chữ Chăm cổ (akhar thrah)
đã được biên soạn và in ấn thành sách giáo khoa, và được đưa vào
giảng dạy trong các trường tiểu học có đông con em dân tộc Chăm



16
theo học, cũng như trong các lớp bổ túc văn hóa cho thanh niên và
quần chúng nhân dân Chăm trong tỉnh [
26].
* Phú Văn Hẳn (người Chăm):
Việc dạy và học tiếng Chăm là cần thiết và chính đáng, song
phải thỏa mãn nhu cầu bảo tồn vốn văn hóa dân tộc Chăm, phải
hướng đến kết quả cuối cùng là đọc được các văn bản cổ đang được
lưu giữ rộng rãi trong cộng đồng người Chăm Việt Nam....Nhiều bí
ẩn liên quan đến văn bản cổ của Champa hiện nay sẽ từng bước sáng
tỏ[
31].
* Nông Quốc Chấn:
Một số cán bộ dân tộc còn có thái độ và nhận thức chưa đúng,
coi chữ viết riêng của dân tộc là trở ngại cho sự phát triển của con em
mình!... Mỗi công dân nói thành thạo hai ngữ ngôn, viết và đọc thành

thạo chữ quốc ngữ và chữ dân tộc sẽ là một thuận lợi lớn trong quá
trình nâng cao trình độ văn hóa, khoa học và mở rộng mối quan hệ
giữa các dân tộc[
7].

* Một công trình về Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc
Chăm do nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Ngôn ngữ học (Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) điều tra, khảo sát tại các tỉnh Bình Thuận và Ninh
Thuận- hai nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống, đã nhận xét:
Nên coi chữ Chăm truyền thống là chữ Chăm duy nhất và
thống nhất sử dụng trong toàn dân tộc Chăm ở các tỉnh Bình Thuận
và Ninh Thuận, không cho phép chế tác chữ Chăm Latinh mang tính
tổ chức Nhà nước vì có liên quan đến lợi ích quốc gia, là tính thống
nhất của từng dân tộc gắn liền với tính thống nhất của quốc gia. Trên
các phương tiện truyền thông đại chúng, lấy tiếng Chăm cổ làm cơ sở



17
kết hợp với việc sử dụng cả tiếng Chăm biến thể trong xã hội hiện nay
để phát sóng. Sự điều chỉnh này đảm bảo được mục đích truyền
thông, người Chăm hiểu được tiếng Chăm, đưa tiếng nói của Đảng,
Nhà nước đến với người dân[
34].
Hiện nay, nhu cầu học tiếng Chăm của người Chăm và những
người công tác tại vùng Chăm đang có chiều hướng tăng mạnh; vì thế
cần soạn thảo sách giáo khoa phục vụ các đối tượng học khác nhau
như giáo sinh, người Chăm xoá mù chữ Chăm. Nhà nước ở tầm quốc
gia phải đóng vai trò quyết định đối với vấn đề chữ viết của các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số, không nên trao quyền quyết định cho các địa

phương, vì việc chế tác và sử dụng chữ viết dân tộc thiểu số như hiện
nay, sẽ dẫn đến tình trạng một dân tộc có thể sử dụng các chữ viết
khác nhau do thuộc các địa phận hành chính khác nhau, về lâu dài sẽ
có nguy cơ chia tách dân tộc[
34].
* Hoàng Thị Châu:
Nhu cầu viết tiếng dân tộc thiểu số thành văn bản là có thật, là
cấp thiết của người lớn tuổi. Vậy chữ dân tộc thiểu số trước tiên phải
được phổ cập cho người lớn tuổi, sau đó mới dạy cho trẻ em. Khi đã
có chữ viết, thì việc đầu tiên là xoá nạn mù chữ dân tộc cho người
lớn, và trước tiên là cho cán bộ để họ ghi chép sổ công tác, chuẩn bị
bài nói chuyện trong các cuộc họp với nhân dân, viết bản tin trước khi
phát thanh, ghi chép văn học dân gian, sáng tác tác phẩm của
mình,...[
8].
Chỉ khi nào người lớn nhận thấy chữ viết quả là có ích, không
thể thiếu được trong cộng đồng, họ sẽ tự dạy cho con em họ, yêu cầu
mở lớp dạy chữ và khuyến khích con em đi học. Khi ấy việc tổ chức



18
dạy đại trà tiếng và chữ dân tộc thiểu số cho trẻ em cấp tiểu học mới
có ý nghĩa và duy trì được lâu dài[
8].
Cần có nhiều biện pháp đưa chữ viết vào đời sống như viết các
thông báo, biển treo ở những nơi công cộng bằng song ngữ (tiếng dân
tộc thiểu số và tiếng Việt) nhất là ở các thị xã, thị trấn [
8].
Tóm lại, các quan điểm trên thể hiện rõ:

* Quyền bình đẳng của các ngôn ngữ trong xã hội được thừa nhận bằng
các văn bản pháp luật. Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ các
dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ, văn hóa.
* Ở những cơ sở dạy tiếng dân tộc thiểu số, tiếng dân tộc thiểu số đã và
đang được giảng dạy như một môn học, bình đẳng với các môn học khác
trong hệ thông giáo dục quốc dân, nhằm mục đích giúp người học tiếp thu
nhanh, thuận lợi các kiến thức được truyền đạt bằng tiếng dân tộc và tiếng
phổ thông, góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết và vốn văn học truyền thống
của các dân tộc thiểu số.
* Sự cần thiết phải mở các lớp dạy chữ Chăm cho người Chăm còn mù
chữ Chăm ở các thôn, ấp, làng, xóm... với các loại hình học tập thích hợp: học
ở trường, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ…
Điều đó, khẳng định Đảng và Nhà nước ta đã định hướng, cho phép và
tạo điều kiện để người Chăm được đi học chữ Chăm, thoát khỏi tình trạng mù
chữ Chăm, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, chống lại những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Quan
điểm dạy chữ Chăm cho người Chăm còn được sự đồng thuận, ủng hộ mạnh
mẽ của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, các trí thức người dân tộc, người Chăm
và một số tác giả nước ngoài.



19
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1 Quản lý
Khái niệm “Quản lý” được định nghĩa khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau:
• Theo F.W.Taylor, nhà thực hành quản lý lao động và nghiên cứu quá
trình lao động: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm

và làm cái đó bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”[
28].
• Theo A.Fayon, nhà lý luận quản lý kinh tế: "Quản lý là đưa xí nghiệp
tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực (nhân, tài, vật lực của
nó)”[
28].
• Theo K.Marx: “Quản lý là một chức năng tất yếu của lao động xã hội,
nó gắn chặt với sự phân công và phối hợp”[
28].
Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và
trong lĩnh vực khoa học giáo dục đưa ra các định nghĩa khác nhau:
• “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến tập thể người lao động nói chung (khách thể quản lý), nhằm thực
hiện những mục tiêu dự kiến”[
28].
• Quản lý là tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quản lý) tới khách thể quản lý (người bị quản lý), trong
một tổ chức về mặt chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, … bằng một hệ
thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và biện
pháp cụ thể, … nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục tiêu của tổ
chức, v.v…[
28].
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”[
28]. Hay chúng



20

ta có thể hiểu một cách gọn hơn, quản lý là quá trình tổ chức và điều hành
công việc nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
1.2.2. Dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là sự tương tác giữa người dạy và người
học. Với tư cách là chủ thể:
- Người dạy (chủ thể của hoạt động dạy – giáo viên) giữ vai trò
chủ đạo : quyết định dạy cái gì (mục tiêu), dạy như thế nào
(phương pháp).
- Người học (chủ thể của hoạt động học – học sinh) giữ vai trò
chủ động (chủ thể nhận thức): tự giác, tích cực, sáng tạo trong
học tập[
6].
1.2.3. Quản lý quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức, mọi người đều rõ mục
đích của dạy học là làm cho người học lĩnh hội được những kinh nghiệm xã
hội mà loài người đã tích lũy được qua nhiều thế kỷ. Quá trình dạy học là một
quá trình tâm lý, vì dạy học phải đi trước sự phát triển và quá trình phát triển
không diễn ra như nhau, mà mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo tương
ứng. Mặt khác, quá trình dạy học là một quá trình xã hội, là sự tương tác giữa
người và người, người và xã hội; mục đích dạy học do xã hội đặt ra.
Về nội dung quản lý quá trình dạy học, chúng ta có thể nêu những vấn
đề chính như sau:
* Quản lý việc thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy.
* Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ dạy của giáo viên.
* Quản lý giờ lên lớp của giáo viên.
* Quản lý việc sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ và quá trình giáo dục
của giáo viên.




21
* Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên.
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học.
* Quản lý việc phân công giảng dạy cho giáo viên.
* Quản lý quá trình bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
* Quản lý các phương tiện và điều kiện hỗ trợ hoạt động giảng dạy.
* Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học.
* Quản lý việc đào tạo đội ngũ giáo viên.
* Quản lý việc vận động người học ra lớp học.
* Quản lý việc cấp giấy chứng nhận học lực.
1.2.4. Chữ Chăm
* Hiện nay, người Chăm có các thứ chữ khác nhau tương ứng với hai
vùng cư trú và hai tôn giáo. Người Chăm theo đạo Hồi ở An Giang, từ thế kỷ
XVI học chữ Ả Rập để đọc kinh, họ còn dùng những kí tự này để ghi tiếng
nói Chăm; Người chăm vùng Bình Thuận, Ninh Thuận thì có chữ Chăm cổ, “
những văn bia cổ nhất được ghi bằng thứ chữ này được phát hiện có thời điểm
khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên”[
18].
* Suốt quá trình lịch sử của mình, người Chăm vùng Bình Thuận, Ninh
Thuận đã dùng các thứ chữ sau:
- Akhar thrah (có thể hiểu là chữ thông dụng)
- Akhar yok (có thể hiểu là chữ bí ẩn)
- Akhar atwơr (có thể hiểu là chữ viết tắt – chữ treo)
- Akhar kalimưng ( có thể hiểu là chữ viết tháo - chữ con nhện).
Cả 4 loại chữ trên đều là thứ chữ cổ, song chỉ có loại akhar thrah là
được sử dụng tương đối rộng rãi, thông dụng; 3 loại chữ còn lại đều là biến



22

thể của akhar thrah. Ngoài ra, “còn có akhar hayap là kiểu chữ dùng để viết
trên bia; akhar rik có nghĩa là chữ thánh, chữ cổ thường dùng để viết hoa
trong đầu những văn bản ở thời cận đại"[
26].
* Văn tự akhar thrah lần đầu tiên được các học giả Pháp giới thiệu một
cách có hệ thống và dùng trong tự điển Chăm – Pháp (E.Aymonier, A.
Cabaton), và sau đó được giới thiệu trong chuyên luận bằng tiếng Nga về
ngôn ngữ Indonesia (Arakin V.D). Akhar thrah cũng như tất cả các loại chữ
trên đều bắt nguồn từ một trong những văn tự cổ miền Nam Ấn độ[
26].
* Hệ thống chữ akhar thrah hiện dùng để giảng dạy trong các trường
tiểu học đã được Ban biên soạn chữ Chăm tỉnh Thuận Hải cũ (nay tách thành
hai tỉnh là Bình Thuận và Ninh Thuận) sửa đổi đôi chút trên cơ sở chữ akhar
thrah cổ, hiện gồm 65 kí hiệu, trong đó có 41 chữ cái và 12 chân chữ (phụ lục
1 Bảng chữ cái tiếng Chăm cổ).
* Ngoài ra, còn có chữ Chăm theo kí tự Latin do người Pháp biên soạn.
Trước năm 1975, Viện Chuyên khảo ngữ học mùa hè của Mỹ ở Sài Gòn đã
biên soạn sách học tiếng Chăm theo mẫu tự Latin[
32].
1.2.5. Dạy chữ Chăm
Là làm cho người học biết được hệ thống chữ akhar thrah, hiện dùng để
giảng dạy trong các trường tiểu học, cũng như đang dùng để truyền tải các
thông tin trên tạp chí Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam xuất
bản.
1.2.6. Người lớn tuổi học chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh
Bình Thuận
Người lớn ở đây chủ yếu là đối tượng có độ tuổi từ 15 - 45. Họ có một
số đặc điểm cần lưu ý trong quá trình dạy học:
* Với độ tuổi 15 - 18




23
- Về mặt sinh học: Các em đang trong giai đoạn phát triển mạnh, có
nhiều chuyển biến về tâm lý, dễ bất đồng; trí lực phát triển tốt, rất thuận lợi
cho việc học tập, tiếp thu kiến thức mới.
- Về mặt xã hội: Các em chưa thực sự là người trưởng thành, đang ở
giai đoạn chuẩn bị trưởng thành, có nhu cầu muốn tự lập, muốn tự khẳng định
mình, song còn ham chơi và suy nghĩ chưa thật chín chắn, dễ nản lòng hay bất
mãn khi gặp sự cố, có thể dễ bỏ học. Phần lớn các em trong diện này đang
còn học phổ thông; số còn lại đang học nghề hoặc đã tham gia hoạt động lao
động sản xuất để góp sức với gia đình nuôi sống bản thân mình; việc học chữ
Chăm chỉ là hoạt động thứ yếu.
* Với độ tuổi 18 - 30
- Về mặt sinh học: Đã trưởng thành, phát triển không đáng kể về mặt
sinh học; khả năng học tập, tiếp thu kiến thức vẫn còn tốt.
- Về mặt xã hội: Đã trưởng thành, tự lập, có khả năng tự quyết định
và tự chịu trách nhiệm về bản thân, muốn được người khác tôn trọng. Hầu hết
ở độ tuổi này, họ là lao động chính, rường cột trong gia đình. Nói chung, lao
động sản xuất là hoạt động chủ đạo đối với họ; họ phải vừa làm vừa lo cho
gia đình con cái, còn việc học tập chỉ là thứ yếu, kể cả việc học chữ Chăm.
* Với độ tuổi 30 - 45
- Về mặt sinh học: Không còn phát triển, một số chức năng của cơ thể
suy giảm như: nghe, nhìn, vận động, chú ý, trí nhớ… Do đó, việc học tập, tiếp
thu kiến thức mới gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trí nhớ chủ định của người
lớn tuổi tương đối phát triển hơn. Người lớn có thể tập trung chú ý hằng giờ
nếu thấy vấn đề thiết thực, có ý nghĩa với bản thân họ.
- Về mặt xã hội: Ngoài những mặt giống như ở độ tuổi 18 – 30, họ
còn có nhiều ưu điểm hơn, do họ có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, suy




24
nghĩ và làm việc chín chắn hơn. Ý thức giữ gìn phong tục tập quán và ngôn
ngữ của dân tộc ở độ tuổi này trỗi lên mạnh mẽ hơn. Đây là một đặc điểm rất
thuận lợi cho việc giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi, có thể họ tiếp thu
chậm hơn, nhưng bù lại họ sẽ kiên trì hơn trong việc học.
* Những đặc điểm chung của độ tuổi 15 - 45 khi tham gia học chữ
Chăm, họ có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Tự nguyện, tự giác tham gia học tập. Có chủ định trong việc học
chữ Chăm: học như thế nào? Học để làm gì? Học để khẳng định vai trò của
mình trong gia đình và xã hội.
- Hầu hết đã nghe, đọc và viết khá thành thạo tiếng Việt.
- Đa số có vốn hiểu biết rộng về văn hoá, xã hội; có kinh nghiệm
trong cuộc sống.
- Có sẵn vốn tiếng nói Chăm, do đó dễ phát âm khi học chữ, dễ hiểu
và dễ nhớ từ ngữ tiếng Chăm.
- Xem việc học chữ Chăm chỉ là một hoạt động thứ yếu, không dành
nhiều thời gian cho việc học tập, tư tưởng dễ bị phân tán do phải lo công việc
chính yếu khác.
- Dễ tự ái, do muốn được tôn trọng và bình đẳng. Họ không muốn bị
ra lệnh, ép buộc hay áp đặt.
Do vậy, người giáo viên cần đánh giá đúng mức về tâm lý và năng lực
tiếp thu của người học, không quá nhấn mạnh vào những khó khăn về tuổi tác
mà hạ thấp khả năng tiếp thu của học viên; cần phát huy tính chủ động tích
cực và kinh nghiệm của người học, xem đây là yếu tố có tính quyết định đến
kết quả học tập chữ Chăm của người lớn.





25
1.2.7. Dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Là làm cho người lớn tuổi biết được hệ thống chữ akhar thrah. Về mặt
tâm sinh lý, ở độ tuổi này có sự khác biệt nhiều so với độ tuổi đang học tiểu
học. Do vậy, việc học tập của họ có một số khác biệt so với trẻ em. Hơn nữa,
họ đã có vốn từ ngữ tiếng Chăm khá tốt nên có nhiều thuận lợi trong việc học
chữ Chăm. Cần chú ý một số vấn đề:
* Dạy học tập trung vào việc tạo điều kiện cho người học tự khám phá,
tự xây dựng, kiến tạo nên kiến thức riêng của mình.
* Dạy học tập trung vào việc tổ chức cho người học trao đổi, tham gia
thảo luận, phát huy tính tích cực của các cá nhân trong nhóm.
* Mục đích dạy học không chỉ truyền kiến thức, mà chủ yếu là làm thay
đổi hoặc phát triển các quan niệm đã có của người học, qua đó người học kiến
tạo kiến thức mới, đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách của mình.
* Cần tạo ra môi trường học tập vui vẻ, thoải mái, tin tưởng và tôn trọng
lẫn nhau. Chân tình giúp đỡ và động viên người học kịp thời.
1.2.8. Quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Quản lý việc dạy chữ Chăm là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều
hành và kiểm tra việc dạy chữ Chăm, nhằm làm cho những người Chăm chưa
biết chữ Chăm biết được chữ Chăm cổ (akhar thrah).
1.3. Một số vấn đề lý luận liên quan đến công tác quản lý việc dạy chữ
Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Về nội dung cụ thể của quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm
lớn tuổi, chúng ta có thể nêu những vấn đề chính như sau:
1.3.1. Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao trách nhiệm chính cho Hiệu trưởng
trường Tiểu học đang giảng dạy tiếng Chăm cho học sinh chịu trách nhiệm



×