Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số hóa sinh của người bị gút được hỗ trợ điều trị bằng thảo dược tại khu vực phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 78 trang )



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC


Nguyễn Thị Hằng



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ HÓA SINH CỦA
NGƢỜI BỊ GÚT ĐƢỢC HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BẰNG
THẢO DƢỢC TẠI KHU VỰC PHÍA BẮC



LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG NGHỆ SINH HỌC





THÁI NGUYÊN - 2014







ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC


Nguyễn Thị Hằng


NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ HÓA SINH CỦA
NGƢỜI BỊ GÚT ĐƢỢC HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BẰNG
THẢO DƢỢC TẠI KHU VỰC PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số: 60.42.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG NGHỆ SINH HỌC


Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Lƣơng Thị Hồng Vân
2. TS. Lê Thị Hƣơng Lan



THÁI NGUYÊN - 2014


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài luận văn là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của PGS.TS Lƣơng Thị Hồng Vân và TS Lê Thị Hƣơng Lan. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố bởi các
tác giả khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hằng














Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS.TS Lƣơng Thị Hồng

Vân – Nguyên Phó viện trƣởng Viện khoa học sự sống – Đại học Thái Nguyên,
TS. Lê Thị Hƣơng Lan – Trƣởng khoa sinh hóa bệnh viện Đa Khoa TW Thái
Nguyên đã tận tình chỉ bảo và hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình tôi học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô và các cán bộ của cơ sở đào tạo và
Khoa khoa học sự sống thuộc trƣờng Đại học Khoa Học – Đại học Thái Nguyên.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tập thể cán bộ khoa sinh hóa bệnh viện
Đa Khoa TW Thái Nguyên, Viện Gút Hải Dƣơng. Đặc biệt là TS. Lê Thị Hƣơng
Lan và ông Nguyễn Đình Thắng – Giám đốc Viện Gút Hải Dƣơng cùng tập thể
cán bộ của Viện đã tận tình hƣớng dẫn giúp đỡ và tạo điều kiên tốt nhất để tôi
hoàn thành luận văn này. Tôi luôn trân trọng và biết ơn những sự giúp đỡ quý báu
đó.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn động viên,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.


Tác giả
Nguyễn Thị Hằng





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Nội dung nghiên cứu 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Sơ lƣợc lịch sử bệnh gút 4
1.2. Một số đặc điểm của bệnh gút 5
1.2.1. Khái niệm bệnh gút 5
1.2.2. Đặc điểm của bệnh gút 5
1.3.1. Phân loại theo nguyên nhân 6
1.3.1.1. Gút nguyên phát 6
1.3.1.2. Gút thứ phát 7
1.3.1.3. Gút do các bất thƣờng về enzym 7
1.3.2. Phân loại theo thể lâm sàng 7
1.3.2.1. Gút cấp tính 7
1.3.2.2. Gút mạn tính 9
1.4. Nguyên nhân và cơ chế phát sinh bệnh gút 11
1.4.1. Nguồn gốc của acid uric máu ngoại vi 11
1.4.2. Cơ chế phát sinh bệnh gút 14
1.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút 15
1.6. Mối liên quan giữa rối loạn chuyển hóa lipid và bệnh gút 15
1.7. Một số loại chế phẩm từ thảo dƣợc dùng trong hỗ trợ điều trị bênh gút 17
1. 8. Tình hình nghiên cứu bệnh gút trên thế giới và Việt Nam 19
1.8.1 Trên thế giới 19
1.8.2 Tại Việt Nam 19
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ……21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




iv

2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 21
2.2.1. Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng nghiên cứu 21
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ 21
2.2. Vật liệu thiết bị nghiên cứu 22
2.2.1. Các chế phẩm thảo dƣợc dùng trong nghiên cứu 22
2.2.2. Hóa chất 23
2.2.3. Thiết bị 23
2.3. Địa điểm nghiên cứu 24
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 24
2.6 . Xử lý số liệu 24
2.7. Kỹ thuật tiến hành 24
2.7.1. Kỹ thuật lấy mẫu 24
2.7.2. Kỹ thuật tiến hành phân tích 25
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Kết quả nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học của nhóm đối tƣợng nghiên cứu. 30
3.1.1. Đặc điểm của nhóm ngƣời mắc bệnh gút cấp tính và mạn tính. 30
3.1.2 Một số chỉ số sinh học của ngƣời mắc bênh gút đƣợc nghiên cứu 33
3.1.3. Một số yếu tố nguy cơ và bệnh lý kèm theo của nhóm ngƣời mắc bệnh
gút đƣợc nghiên cứu 36
3.2 Kết quả nghiên cứu chỉ số hóa sinh máu của nhóm đối tƣợng nghiên cứu 40
3.2.1. Kết quả phân tích nồng độ acid uric và glucose máu ở ngƣời bị gút trƣớc và
sau điều trị 40
3.2.2. Kết quả phân tích nồng độ ure và creatinin máu 44
3.2.3. Kết quả phân tích hoạt độ enzym AST và ALT/máu 46
3.2.4. Kết quả phân tích nồng độ các lipid máu của nhóm nghiên cứu 47
3.3. Kết quả các chỉ số hóa sinh nƣớc tiểu của nhóm ngƣời đƣợc nghiên cứu 51
3.5. Kết quả phân tích các chỉ số miễn dịch của nhóm nghiên cứu 56


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



v

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
HA
Huyết áp
Glu
Glucose
Cre
Creatinin
CHO
Cholesterol
HDL-C
High density lipoprotein cholesterol
LDL-C
Low density lipoprotein cholesterol
AST
Aspartate amino transferase
ALT
Alanin amino trasferase
SG

Specific gravity
RBC
Red blood cell
PLT
Platelet
WBC
White blood cell
HBG
Hemoglobine
GRAN
Granulocyte
Lym
Lymphocyte



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



vi




DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tỉ lệ ngƣời mắc bệnh gút theo nhóm tuổi 30
Bảng 3.2. Tỉ lệ ngƣời mắc bệnh gút theo địa bàn cƣ trú 32
Bảng 3.3. Chỉ số huyết áp trung bình trƣớc và sau điều trị 33
Bảng 3.4. Chỉ số trung bình BMI của nhóm ngƣời mắc bệnh gút đƣợc nghiên cứu

35
Bảng 3.5.Yếu tố nguy cơ của ngƣời mắc bệnh gút thuộc nhóm đối tƣợng nghiên
cứu 36
Bảng 3.6. Một số bệnh lý kèm theo của nhóm ngƣời mắc bệnh gút đƣợc nghiên
cứu 38
Bảng 3.7 Nồng độ acid uric máu trung bình trƣớc và sau điều trị 40
Bảng 3.8. Kết quả điều trị bệnh gút của một số tác giả khác…………………46
Bảng 3.9. Nồng độ glucose/ máu trung bình trƣớc và sau điều trị 43
Bảng 3.10. Nồng độ creatinin máu trung bình trƣớc và sau điều trị 44
Bảng 3.12. Hoạt độ enzyme AST trung bình trƣớc và sau điều trị 46
Bảng 3.13. Hoạt độ enzyme ALT trung bình trƣớc và sau điều trị 47
Bảng 3.14. Nồng độ cholesterol trung bình trƣớc và sau điều trị 47
Bảng 3.15. Nồng độ triglyceride trung bình trƣớc và sau điều trị 48
Bảng 3.17. Nồng độ LDL-C trung bình trƣớc và sau điều trị 50
Bảng 3.18. Chỉ số pH nƣớc tiểu trung bình trƣớc và sau điều trị 51
Bảng 3.19. Tỷ trọng nƣớc tiểu trung bình trƣớc và sau điều trị 52
Bảng 3.21. Số lƣợng tiểu cầu trong máu trung bình trƣớc và sau điều trị 54
Bảng 3.22. Chỉ số Hemoglobin trung bình trƣớc và sau điều trị 55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



vii

Bảng 3.24. Số lƣợng bạch cầu trung bình trƣớc và sau điều trị 56
Bảng 3.25. Số lƣợng bạch cầu lympho trung bình trƣớc và sau điều trị 58
Bảng 3.26. Số lƣợng bạch cầu trung tính trung bình trƣớc và sau điều trị 59



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



viii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1 Tinh thể urat trong dịch khớp 8
Hình 1.2 Hình ảnh phẫu thuật hạt tophi từ khủy tay 9
Hình 1.3 Hình ảnh hạt tophi và tổn thƣơng xƣơng khớp 10
Hình 1.5 Quá trình sinh ra H
2
O
2
khi tạo thành acid uric 16
Hình 2.2. Máy li tâm tại Bệnh viện Đa Khoa Tw Thái Nguyên 26
Hình 2.3. Máy xét nghiệm sinh hóa AU 640 tại bệnh viện ĐKTWTN 28
Hình 2.4. Máy xét nghiệm huyết học Celltac E và Celltac F tại Bệnh viện Đa
Khoa TW Thái Nguyên 28
Hình 2.5. Máy đo tốc độ máu lắng Sedy 40 tại Bệnh viện ĐKTWTN 29
Hình 3.1. Tỉ lệ ngƣời mắc bệnh gút theo giới 31
Hình 3.2. Tỉ lệ ngƣời mắc gút theo nghề nghiệp của ngƣời mắc bệnh gút 32









1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gút là bệnh do rối loạn chuyển hóa chất purin, có đặc điểm chính là
tăng acid uric máu. Khi axit uric máu bị bão hòa ở dịch ngoại bào, sẽ gây lắng
đọng các tinh thể monosodium urat ở các mô. Tùy theo vị trí tinh thể urat bị
tích lũy ở mô nào mà bệnh biểu hiện ở mô đó, bệnh biểu hiện ở một hoặc
nhiều triệu chứng nhƣ viêm khớp và cạnh khớp cấp tính hoặc mạn tính,
thƣờng đƣợc gọi là viêm khớp do gút; có hoặc không có hạt tophi mềm; bệnh
thận do gút và sỏi tiết niệu[1].
Bệnh thƣờng gặp ở các nƣớc phát triển, chiếm khoảng 0,02-0,2% dân
số, với 95% là nam giới, ở tuổi trung niên (30-40tuổi). Nữ giới thƣờng gặp ở
lứa tuổi 60-70. Tỷ lệ ngƣời mắc bệnh gút tại Việt Nam là 1,5% các bệnh về
xƣơng khớp đƣợc điều trị nội trú tai khoa xƣơng khớp của bệnh viện Bạch
Mai trong 10 năm (1978-1989). Tỷ lệ này là 6,1% trong giai đoạn từ 1991 đến
1995 và tăng lên đến 10,6% trong giai đoạn từ 1996 đến 2000. Theo thống kê
năm 2000 tại phƣờng Trung Liệt - Hà Nội và tại huyện Tân Trƣờng - Hải
Dƣơng tỷ lệ này đều là 0,14% dân số. Các nƣớc chỉ thấy có 94% bệnh nhân
gút là nam giới, trên 30 tuổi [1]. Đa số các trƣờng hợp này đƣợc phát hiện
muộn và bị chẩn đoán nhầm với một số bệnh xƣơng khớp khác nhƣ: giả gút,
viêm khớp phản ứng, viêm khớp vảy nến và viêm khớp nhiễm khuẩn. Trong
giai đoạn muộn, gút mạn có các biểu hiện tổn thƣơng xƣơng khớp dễ nhầm
lẫn với viêm khớp dạng thấp hay thoái hóa khớp, dẫn đến điều trị không
đúng, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến khả năng vận động, thậm chí đến tính
mạng bệnh nhân [1].
Trên thế giới hiện nay có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút khác
nhau. Tiêu chuẩn chẩn đoán đầu tiên là tiêu chuẩn Rome năm 1963, sau đó là
các tiêu chuẩn Bennet- Wood năm 1968, tiêu chuẩn của ACR (American





2
College of Rheumatology). Các tiêu chuẩn này đã đƣợc áp dụng rộng rãi. Gần
đây nhất, năm 2010 Hein Janssen và cộng sự đã xây dựng quy tắc chẩn đoán
gút cấp với trƣờng hợp viêm một khớp. Cũng trong năm 2010, Pelaez -
Ballestas đã đƣa ra tiêu chuẩn chẩn đoán gút mạn dựa trên lâm sàng và xét
nghiệm.
Tại Việt Nam hiện nay vẫn áp dụng tiêu chuấn chẩn đoán Bennet -
Wood năm 1968. Đây là tiêu chuẩn chẩn đoán dựa trên biểu hiện lâm sàng, dễ
nhớ, dễ áp dụng và theo một số nghiên cứu nó có độ nhậy, độ đặc hiệu cao.
Tuy nhiên, việc áp dụng tiêu chuẩn này còn gặp hạn chế vì dễ bỏ qua bệnh
nhân viêm khớp giai đoạn sớm, nhất là những bệnh nhân viêm khớp lần đầu
tiên. Bên cạnh đó, hiện nay xét nghiệm acid uric máu đã dễ dàng thực hiện ở
nhiều cơ sở y tế, nhƣng tiêu chuẩn này chƣa đủ để đánh giá đƣợc giá trị của
acid uric máu trong chẩn đoán bệnh gút.
Việc phát hiện sớm bệnh gút dựa vào các xét nghiệm sinh hóa để đƣa ra
phƣơng pháp điều trị đúng đắn và có hƣớng dự phòng tích cực cần đƣợc đặt
ra. Nhận thấy nhu cầu thực tiễn cần thiết nói trên, chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài “ Nghiên cứu một số chỉ số hóa của ngƣời bị gút đƣợc hỗ trợ điều
trị bằng thảo dƣợc tại khu vực phía Bắc”,
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định đƣợc một số chỉ số hóa sinh, miễn dịch và huyết học của ngƣời
mắc gút.
- Đánh giá đƣợc tác dụng của nhóm thảo dƣợc dùng trong hỗ trợ điều trị bệnh
nhân gút đang điều trị tại Thái nguyên và Hải Dƣơng.
3. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của ngƣời mắc bệnh gút điều trị tại
bệnh viện Đa Khoa Trung ƣơng Thái Nguyên và viện Gút Hải Dƣơng.





3
- Nghiên cứu một số chỉ số hóa sinh - miễn dịch và huyết học của ngƣời mắc
bệnh gút đƣợc điều trị tại bệnh viện Đa Khoa Trung ƣơng Thái Nguyên và
viện Gút Hải Dƣơng.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng một số chế phẩm thảo dƣợc hỗ trợ điều trị bệnh
gút tại bệnh viện Đa Khoa Trung ƣơng Thái Nguyên và viện Gút Hải Dƣơng.






4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lƣợc lịch sử bệnh gút
Vào thời trung cổ ngƣời ta tin rằng cơ thể con ngƣời có bốn loại dịch
thể ở trong trạng thái cân bằng giữ cho sức khỏe đƣợc ổn định. Khi xảy ra sự
dƣ thừa một trong bốn loại dịch trên tại khớp sẽ dẫn đến đau và viêm. Vì thế,
thuật ngữ bệnh gút bắt nguồn từ tiếng Latin “gutta” nghĩa là Giọt. Những
bằng chứng của bệnh gút đã đƣợc tìm thấy ở những bộ xƣơng của xác ƣớp Ai
Cập vào khoảng hơn 400 năm trƣớc đây.
Bệnh gút đƣợc biết và mô tả từ thời Hy Lạp cổ. Ngay từ thế kỷ thứ IV
trƣớc công nguyên, Hyppocrates đã mô tả rõ một biểu hiện rất đặc trƣng của
bệnh là sƣng tấy, nóng, đỏ và rất đau ở ngón chân cái (Podagra). Ông còn gọi
bệnh gút là "Vua của các bệnh" và "bệnh của các Vua". Năm 1683 Thomas

Sydenhan đã mô tả đầy đủ các triệu chứng của bệnh. Năm 1689 Vannlee
Weuhoek đã quan sát thấy các tinh thể hình kim trong hạt tophi qua kính hiển
vi. Sau này thấy chúng cả trong dịch khớp của bệnh nhân gút, đó chính là các
tinh thể monosodium urat.
Mãi tới năm 1776 Scheele đã tìm thấy acid uric trong sỏi đƣờng tiết
niệu. Năm 1797 Schelle, Bargma và Wollaston đã xác định đƣợc acid uric là
nguyên nhân gây bệnh. Năm 1854 Garod đã chứng minh đƣợc rằng ở bệnh
nhân gút có sự gia tăng nồng độ acid uric trong máu. Năm 1913 Folin và
Denis đã tìm ra phƣơng pháp định lƣợng acid uric. Năm 1961 Mc Carty và
Hollander đã khám phá ra các tinh thể urat có trong dịch khớp ở những bệnh
nhân bị bệnh Gút.
Về phƣơng diện điều trị, vào đầu thế kỷ XIX Colchicin đã đƣợc phát
hiện là có thể làm giảm triệu chứng của bệnh gút. Năm 1951 Gotmanel thấy
sau vài tháng dùng Probenecide, sự phát triển của các hạt tôphi có giảm, các




5
triệu chứng bệnh khớp do gút cũng giảm dần và biến mất. Hơn một thập kỷ
sau, Nivet đã phát hiện ra tác dụng làm hạ acid uric máu của Sulfipyrazon và
Benziodarone. Đến nay việc điều trị bệnh gút ngày càng hoàn thiện hơn, và
ngƣời ta hi vọng trong tƣơng lai sẽ tìm ra phƣơng pháp điều trị gen để cải
thiện tình trạng bệnh gút có hiệu quả và triệt để hơn.
1.2. Một số đặc điểm của bệnh gút
1.2.1. Khái niệm bệnh gút
Gút là bệnh khớp do sự rối loạn chuyển hóa có lắng đọng các tinh thể
monosodium urat trong tổ chức hoặc do sự bão hòa acid uric trong dịch ngoại
bào [3], [11]. Do vậy trên lâm sàng thƣờng có các triệu chứng nhƣ:
- Viêm khớp và cạnh khớp mạn tính.

- Tích lũy tinh thể ở khớp, xƣơng, mô, phần mềm sụn khớp đƣợc gọi là các
hạt tophi.
- Lắng đọng tinh thể ở thận, gây bệnh thận do gút và gây sỏi tiết niệu do acid
uric.
1.2.2. Đặc điểm của bệnh gút
Gút là bệnh thƣờng gặp nhất trong các bệnh về khớp do rối loạn chuyển
hóa các acid nucleic, đặc biệt là chuyển hóa purin. Tỷ lệ mắc bệnh gút tăng
cao trong vài thập niên gần đây ở nƣớc ta cũng nhƣ nhiều nƣớc phát triển trên
thế giới và đang là một vấn đề về sức khỏe cộng đồng đáng quan tâm. Bệnh
thƣờng gặp ở nam giới trung niên, mắc gút nhiều nhất là khoảng 50 tuổi,
nhƣng tỉ lệ mắc bệnh tăng dần ở cả hai giới nam và nữ ở các nhóm tuổi cao
hơn. Tỉ lệ mắc gút là từ 0,7% đến 1,4% ở nam giới và từ 0,5% đến 0,65% ở
nữ giới. Với những ngƣời mắc gút sau 60 tuổi tỉ lệ mắc bệnh của nam và nữ là
gần bằng nhau và nếu những ngƣời mắc gút sau 80 tuổi thì tỉ lệ nữ lại cao hơn
nam [3], [52].




6
Tại những năm 60, 70 của thế kỷ XX bệnh gút còn hiếm gặp, chỉ
khoảng 0,02 đến 0,2% dân số mắc bệnh Gút [8]. Theo một nghiên cứu tại
bang Minnesota, thành phố Rochester (Mỹ) tỷ lệ mắc mới của gút nguyên
phát tăng gấp đôi trong 20 năm (1977-1996) và chiếm 9% ở nam và 6% ở nữ
trong độ tuổi trên 80 tuổi (2002) [37]. Theo một số khảo sát ở Anh và Đức
(2000-2005) bệnh gút chiếm khoảng 1,4% dân số, tần số mắc bệnh gia tăng
theo tuổi với tỷ lệ 2,4% ở nam và 1,6% ở nữ trong độ tuổi từ 65 đến 74 [45].
Ở Canada, theo tác giả Elizabeth Badley và cộng sự (2004) thì tỉ lệ mắc bệnh
gút ở ngƣời trƣởng thành là 3,5% trong đó 95% là nam giới có độ tuổi trung
niên từ 30 đến 40 tuổi.

Hơn 90% ngƣời mắc bệnh gút nguyên phát là nam giới. Ít gặp nữ giới
mắc bệnh ở độ tuổi trƣớc độ tuổi mãn kinh bởi Estrogen đƣợc cho là làm tăng
đào thải acid uric [39]. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của bệnh viện Bạch
Mai trong 10 năm (1978-1989), số ngƣời mắc gút chiếm 1,5% trong tổng số
các ngƣời mắc bệnh cơ xƣơng khớp điều trị nội trú tại khoa Cơ xƣơng khớp
bệnh viện Bạch Mai. Tỷ lệ này đã tăng lên tới 6,1% trong giai đoạn 1991-
1995 và tăng đến 10,6% trong giai đoạn 1996-2000. Ngƣời mắc gút đa số là
nam giới (90-100%) [21] và lứa tuổi mắc bệnh gút ở khoảng xung quanh 50
tuổi. Nghiên cứu dịch tễ do chƣơng trình hƣớng cộng đồng kiểm soát các
bệnh xƣơng khớp của Tổ chức Y tế thế giới và Hội Thấp khớp học Châu Á
Thái Bình Dƣơng (COPCORD) đã tiến hành bƣớc đầu ở một số tỉnh miền
Bắc vào năm 2000 cho thấy tỷ lệ bệnh gút là 0,14% dân số [10].
1.3. Phân loại bệnh gút
1.3.1. Phân loại theo nguyên nhân
1.3.1.1. Gút nguyên phát
Bệnh gút nguyên phát chiếm phần lớn các trƣờng hợp bệnh gút. Nguyên
nhân còn chƣa rõ. Loại này thƣờng có tính chất gia đình. Thể bệnh này có




7
30% số trƣờng hợp do tăng tạo axit uric, 70% do giảm bài tiết acid uric qua
ống thận trong khi việc tạo acid uric bình thƣờng. Gút nguyên phát thƣờng
xuất hiện do ăn quá nhiều thức ăn nhiều chất đạm giàu nhân purin và thƣờng
kèm theo uống nhiều rƣợu, bia. Thƣờng gặp ở nam giới trung niên, nữ giới
sau tuổi mãn kinh, ngƣời béo phì, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, đái tháo
đƣờng, ăn uống nhiều, nhất là nghiện rƣợu, dùng thuốc lợi tiểu [4].
1.3.1.2. Gút thứ phát
Bệnh gút thứ phát ít gặp hơn so với gút nguyên phát chỉ chiếm khoảng

5% trong tổng số ngƣời mắc bệnh gút. Bệnh gút thứ phát biểu hiện bằng các
dấu hiệu viêm khớp cấp tính. Là hậu quả của tăng acid uric do tiêu hủy tế bào
quá mức ví dụ nhƣ trong bệnh bạch cầu tuỷ mạn tính, thiếu máu huyết tán,
bệnh vảy nến diện rộng… hoặc do suy thận [4].
1.3.1.3. Gút do các bất thường về enzym
Bệnh gút do các bất thƣờng về enzyme hiếm gặp, có tính chất di truyền,
thƣờng thấy ở bé trai. Loại bệnh này do thiếu hụt hoàn toàn hoặc một phần
enzym HGPRT (Hypoxanthine Phosphoribosytransferase) hoặc tăng hoạt tính
của enzym PRPP (Phosphoribosyl-pyrophosphat synthetase). Các biểu hiện
thƣờng gặp là các dấu hiệu về thần kinh nhƣ múa vờn, co giật, trí tuệ kém
phát triển đồng thời với các dấu hiệu của bệnh gút mạn tính nhƣ nổi u cục (hạt
tophi), tổn thƣơng thận [4]. Thể gút do các bất thƣờng về enzym nói chung là
bệnh nặng, thƣờng chết trƣớc 20 tuổi.
1.3.2. Phân loại theo thể lâm sàng
1.3.2.1. Gút cấp tính
Cơn bệnh gút điển hình xuất hiện tự phát hoặc khởi phát sau bữa ăn
giàu đạm, sau phẫu thuật, stress,…với các biểu hiện ban đầu nhƣ: rối loạn
thần kinh; đau đầu, trạng thái kích thích mệt mỏi; đau thƣợng vị; táo bón; ợ
hơi; đái nhiều; đái dắt; đặc biệt là các triệu chứng tại chỗ: khó cử động chân




8
dƣới, nổi tĩnh mạch, tê bì ngón chân cái; đau khớp đau dữ dội, bỏng rát,
thƣờng xuyên đau đến cực độ, đau làm bệnh nhân mất ngủ. Cơn đau tăng lên
về đêm, có thể kèm theo sốt 38 – 39
0
C, có thể sốt rét run. Cơn đau từ vài ngày
đến vài tuần giảm dần không để lại di chứng; biểu hiện bên ngoài: khớp bị tổn

thƣơng sƣng, da trên đỏ hồng hoặc đỏ, khớp lớn có thể tràn dịch, khớp nhỏ
phù nề.
Xét nghiệm máu thấy acid uric
máu tăng trên 7mg/l (420µmol/l) đối
với nam giới và trên 6mg/l
(360µmol/l) đối với nữ giới; làm tiêu
bản kính hiển vi dịch khớp thấy
những tinh thể hình kim hai đầu
nhọn.
Hình 1.1 Tinh thể urat trong dịch khớp
(Nguồn: Viện gút Hải Dương)
Cơn bệnh gút không điển hình thấy các biểu hiện tại chỗ chiếm ƣu thế
dễ nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn; Cơn bệnh này có biểu hiện tràn dịch
chiếm ƣu thế: thƣờng ở khớp gối, diễn biến chậm hơn, dễ nhầm với lao khớp;
Biểu hiện toàn thân: cơ thể suy nhƣợc, trong khi hiện tƣợng viêm tại chỗ
không đáng kể dễ nhầm với ung thƣ. Thƣờng viêm nhiều khớp cấp khởi phát
đột ngột, viêm 3 - 4 khớp, thƣờng là ở chi dƣới. Gút cấp tính thƣờng gặp
trong giai đoạn phát triển của bệnh. Ngoài ra còn biểu hiện viêm cạnh khớp
cấp tính: có thể đơn độc hoặc kèm theo cơn gút cấp có triệu chứng khớp điển
hình. Biểu hiện chính là viêm gân do gút, nhất là gân Achille, viêm túi thanh
mạc khủy tay, hoặc hiếm hơn, có thể gặp viêm tĩnh mạch.[4], [2], [32].




9
1.3.2.2. Gút mạn tính
Bệnh gút mạn tính thƣờng tiến triển sau gút cấp tính từ vài năm đến vài
chục năm nhƣng cũng có thể bắt đầu ngay ở thể mạn tính. Gút cấp tính
chuyển thành gút mạn tính khi có một trong các biểu hiện sau: có hạt tôphi,

tổn thƣơng xƣơng, tổn thƣơng thận. Biểu hiện lâm sàng, sinh hóa, chụp X-
quang là sự tích lũy tinh thể urat ở các mô. Gút mạn tính có các biểu hiện
chính sau:
- Các hạt tophi: Hạt tophi có đặc điểm: không đau, rắn, số lƣợng và kích
thƣớc thay đổi. Da phủ trên hạt thƣờng mỏng có thể thấy màu trắng nhạt của
các tinh thể urat trong hạt tôphi. Vị trí thƣờng gặp là vành tai, mỏm khủy,
cạnh các khớp tổn thƣơng hoặc trong các gân cơ, xƣơng.

Hình 1.2 Hình ảnh phẫu thuật hạt tophi từ khủy tay
(Nguồn: Viện gút Hải Dương)
Nguồn gốc của hạt tophi là do tích lũy muối urat kết tủa trong mô liên kết.
Các muối gây kết tủa này tăng dần, sau nhiều năm tạo thành các khối nổi lên
dƣới da. Hạt tophi thƣờng là nguyên nhân gây biến dạng, vô cảm và hạn chế
vận động trong trƣờng hợp tiến triển lâu năm và bệnh nặng.





10
- Tổn thƣơng xƣơng khớp

Hình 1.3 Hình ảnh hạt tophi và tổn thƣơng xƣơng khớp
(Nguồn: Viện Gút Hải dương)
Biểu hiện của tổn thƣơng xƣơng khớp là viêm đa khớp hoặc khớp nhỏ,
nhỡ ở chi dƣới; có biểu hiện viêm bán cấp kèm theo những đợt tiến triển cấp
tính. Viêm đối xứng kèm biến dạng do hủy hoại khớp và hạt tophi. Khi chụp
X-quang thấy hình ảnh bào mòn xƣơng, khuyết xƣơng hình hốc ở xa vị trí
bám của màng hoạt dịch. Có sự tân tạo xƣơng đôi khi có nhiều gai xƣơng.
Ngoài ra có thể thấy hình ảnh sƣng phần mềm cạnh khớp, hẹp khe khớp.

- Tổn thƣơng thận
Tổn thƣơng thận chiếm 20-70% các trƣờng hợp. Tinh thể urat ở nhu mô
thận gây tình trạng viêm thận kẽ, tiếp theo đó là suy thận mạn; lắng đọng ở
đài bể thận tạo thành sỏi dƣới dạng urat. Khi tinh thể urat lắng đọng nhanh có
thể gây bít các ống thận dẫn đến suy thận cấp. Biểu hiện thƣờng thấy: có
những cơn đau quặn thận hay chỉ đái ra máu, các đợt nhiễm trùng đƣờng tiết
niệu. Có thể biểu hiện biến chứng tắc nghẽn trong thận do axit uric lắng đọng
nhanh bít các ống thận hoặc do sỏi thận. Quan sát sỏi thận thấy các tinh thể
urat lắng đọng ở đài bể thận. Sỏi urat có đặc điểm ít cản quang, chụp X-quang




11
thƣờng không thấy, phát hiện đƣợc trên siêu âm hoặc chụp thận có thuốc cản
quang ( chụp UIV).
1.4. Nguyên nhân và cơ chế phát sinh bệnh gút
1.4.1. Nguồn gốc của acid uric máu ngoại vi
Acid uric: là sản phẩm cuối cùng của quá trình thoái giáng các axit
amin có nhân purin ở ngƣời. Nó là một acid yếu, urat là dạng ion chủ
yếu của acid uric ở huyết tƣơng, dịch ngoài tế bào, dịch khớp với 98% là
ở dạng monosodium urat ở pH = 7,4. Các dạng ion của acid uric trong
nƣớc tiểu có mono và sodium, potasiun, ammoniun và calciun urat.
Huyết tƣơng đƣợc bão hòa monosodium urat ở nồng độ 415µmol/l
(6,8mg%) ở 37
0
C. Acid uric dễ hòa tan trong nƣớc tiểu hơn nƣớc, pH
nƣớc tiểu có ảnh hƣởng đến sự hòa tan urat.
Nguồn gốc acid uric: Trong cơ thể acid uric đƣợc tạo thành từ ba
nguồn [27]:

- Từ con đƣờng nội sinh, đây là nguồn cung cấp acid uric chủ yếu, chiếm
khoảng 70-80% tổng lƣợng acid uric, do vậy những rối loạn trong quá trình
tổng hợp purin là nguyên nhân chính gây tăng acid uric tiên phát [35].
- Thoái giáng các chất có nhân purin từ trong cơ thể (các acid nhân AND và
ARN do sự phá hủy tế bào).
- Thoái giáng từ các chất có nhân purin từ thức ăn đƣa vào.









12
Con đƣờng thoái giáng biểu hiện theo sơ đồ sau:
















Hình 1.4. Con đƣờng thoái giáng nucleotide có baze là purin ở ngƣời
Sơ đồ chuyển hóa acid uric (Theo Calkins E – 1992)
Trong cơ thể, 98% acid uric tồn tại dƣới dạng monosodium tự do với
pH=7,4, urat là dạng ion hóa của acid uric, chúng có nhiều trong huyết tƣơng,
dịch ngoại bào và hoạt dịch. Mối liên kết giữa urat và các protein huyết tƣơng
chiếm tỷ lệ nhỏ, chỉ có dƣới 4% ở dạng gắn không đặc hiệu với albumin hoặc
gắn đặc hiệu với globulin.
Lƣợng acid uric trong cơ thể phụ thuộc lƣợng urat đƣợc sản xuất và
lƣợng bị đào thải.
ATP + Ribose -5-Phosphatase
Acid Nucleic
Acid inosinic
Phoshoribosylami
Am PRT
phosphoribosylpyrophoshat
Tổng hợp PRPP
Hypoxanthin
Xanthin oxydase
Xathin
Acid Uric
Xanthin
HGPG
Thu nhận các nhân
Purin tự do
Điều hòa





13
Trong huyết tƣơng monosodium đƣợc bão hòa với nồng độ
416,5µmol/l, ở nhiệt độ cao hơn sẽ tạo khả năng kết tủa các tinh thể urat.
Trong nƣớc tiểu, acid uric đƣợc hòa tan tốt hơn. Các nghiên cứu cho
thấy rằng độ pH nƣớc tiểu có tác động rất lớn tới khả năng hòa tan của acid
uric, pH = 5,0 thì nƣớc tiểu bão hòa với nồng độ acid uric từ 300 - 900µmol/l,
pH = 7,0 thì nồng độ bão hòa sẽ là 9.450-12.000µmol/l, các dạng ion của acid
uric trong nƣớc tiểu bao gồm monosodium, disodium urat, potassium,
ammonium, calcium urat.
Purin nucleotid đƣợc tổng hợp và thoái giáng trong tất cả các mô,
nhƣng urat chỉ đƣợc tạo ra ở các mô có enzym xanthyn oxydase, enzym này
chủ yếu có ở gan và ruột non.
Ở ngƣời bình thƣờng, lƣợng acid uric trong máu dao động, cụ thể: từ
180-420µmol/l (nam giới), 150-360µmol/l (nữ giới) [3], [2].
Ở bệnh nhân gút không đƣợc điều trị, lƣợng aicd uric trong cơ thể lên
rất cao, có thể lên tới 2000-4000µmol/l ở các bệnh nhân không có hạt tophi và
có thể lên tới 30.000µmol/l ở bệnh nhân có hạt tophi.
* Thải trừ acid uric
Hàng ngày acid uric đƣợc thải trừ ra ngoài khoảng 3.900-
4.400µmol/24h có khoảng 2/3 đến 4/3 lƣợng urat đƣợc đào thải qua thận,
lƣợng còn lại đƣợc thoái giáng qua đƣờng tiêu hóa nhờ vi khuẩn đƣờng ruột,
khoảng 1% đƣợc bài tiết qua đƣờng mồ hôi [35], [11].
Ở thận khoảng 89-100% lƣợng urat đƣợc lọc, qua cầu thận sẽ đƣợc tái
hấp thu, 50% urat đó đƣợc bài tiết trở lại ống lƣợn gần, và 40% trong số đó lại
đƣợc tái hấp thu để cuối cùng chỉ có 8-12% lƣợng urat đƣợc lọc ở cầu thận sẽ
đƣợc đào thải ra nƣớc tiểu dƣới dạng acid uric [36]. Ở bệnh nhân gút lƣợng
thải acid uric qua con đƣờng ngoài thận có thể đạt tới 50%.





14
1.4.2. Cơ chế phát sinh bệnh gút
* Sự lắng đọng acid uric
Tăng acid uric máu là nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh gút [3], [11],
tăng acid uric kéo dài, cơ thể sẽ có hàng loạt phản ứng thích nghi nhằm làm
giảm acid uric trong máu bằng cách: tăng bài tiết qua thận, lắng đọng muối
urat trong các tổ chức nhƣ: màng hoạt dịch, da, kẽ thận, gan…dẫn đến sự biến
đổi về hình thái học của tổ chức.
Sự lắng đọng tinh thể acid uric hay muối urat monosodium ở xung
quanh khớp, màng hoạt dịch, sụn, da…tạo thành những hạt urat kết tinh ở
trong mô, dƣới da, gọi là hạt tophi da. Đặc biệt hay có ở vành tai, tinh thể urat
lắng đọng lâu ngày dẫn tới gút. Lắng đọng các tinh thể ở thận gây tổn thƣơng
thận, viêm kẽ thận, xơ hóa cầu thận, xâm nhập tới xƣơng dƣới sụn, gây phá
hủy xƣơng dƣới dạng ổ khuyết xƣơng hình cầu.
* Cơ chế bệnh sinh của bệnh gút
Tăng acid uric máu dẫn đến tăng nồng độ và kết tủa các tinh thể acid
uric hoặc muối của nó ở trong tổ chức và dịch cơ thể, giới hạn hòa tan tối đa
của acid uric trong máu không quá 416µmol/l, khi vƣợt quá nồng độ này acid
uric sẽ bị kết tủa dƣới dạng hình kim ở các tổ chức.
Trong bệnh gút urat lặng đọng ở màng hoạt dịch sẽ gây nên một loạt
các phản ứng sau:
- Hoạt tác các yếu tố hageman tại chỗ từ đó kích thích các tiền chất gây viêm
kininogen và kallicreinogen trở thành kinin và klallicrein gây phản ứng viêm
ở màng hoạt dịch
- Từ phản ứng viêm, các bạch cầu sẽ tập trung tới, bạch cầu sẽ thực bào các vi
tinh thể urat rồi giải phóng ra các men tiêu thể của bạch cầu (lysozin), các
men này cũng là một tác nhân gây viêm mạnh.





15
- Phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa sinh nhiều axit
lactic tại chỗ và làm giảm độ pH, môi trƣờng càng axit thì urat càng lắng đọng
nhiều và kéo dài, biểu hiện viêm liên tục, không ngừng.
1.5. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút
1.5.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định
* Tiêu chuẩn chẩn đoán của Bennet – Wood năm 1968 [2]
(a) Hoặc tìm thấy tinh thể urat trong dịch khớp hay trong các hạt tophi
(b) Hoặc có ít nhất hai trong số các yếu tố sau:
- Tiền sử hoặc hiện tại có ít nhất hai đợt sƣng đau khớp với tính chất khởi
phát đột ngột, sƣng đau dữ dội và khỏi hoàn toàn trong vòng hai tuần.
- Tiền sử hoặc hiện tại có một đợt sƣng đau khớp bàn ngón chân cái với các
tính chất nhƣ trên.
- Có hạt tophi.
- Đáp ứng tốt với colchicin (giảm viêm, giảm đau trong vòng 48 giờ trong tiền
sử hoặc hiện tại).
» Chẩn đoán xác định khi có tiêu chuẩn (a) hoặc hai yếu tố của tiêu chuẩn
(b).
1.5.2. Chẩn đoán phân biệt
- Trong cơn gút cấp, cần phân biệt với một số bệnh nhiễm khuẩn nhƣ: viêm
khớp nhiễm khuẩn, viêm tổ chức dƣới da, thấp tim.
- Gút mạn dễ nhầm với giả gút (viêm khớp do các tinh thể calcium
pyrophosphate), viêm khớp dạng thấp.
1.6. Mối liên quan giữa rối loạn chuyển hóa lipid và bệnh gút
Sự tạo thành acid uric và chuyển hóa lipid có mối liên quan về mặt hóa
sinh. Trong quá trình hình thành acid uric, cứ mỗi một urat đƣợc sinh ra thì

×