TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài: Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây
Giảng viên: TS. Mai Thu Hiền
Nhóm thực hiện: Nguyễn Thị Bắc
Trịnh Thanh Hòa
Nguyễn Thị Kim Liên
Hoàng Thị Hằng Nga
Nguyễn Thị Minh Phương
Đào Thị Trọng
Nguyễn Thị Bích Vân
Lớp: 19A – CH TCNH
Hà Nội, tháng 10 năm 2013
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTW Ngân hàng trung ương
NHTM Ngân hàng thương mại
TGBQLNH Tỷ giá bình quân liên ngân hàng
TGHĐ Tỷ giá hối đoái
XNK Xuất nhập khẩu
OMO Nghiệp vụ thị trường mở
NHNN Ngân hàng nhà nước
LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng có tác động tới nhiều mặt hoạt
động của nền kinh tế. Tỷ giá ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay trở lại tác
động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cán cân thanh toán của
mỗi quốc gia. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ giá thích hợp là
một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp, luôn được Chính phủ các nước và các nhà
kinh tế quan tâm, xem xét.
Sau khi mở cửa nền kinh tế, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế
Việt Nam ngày càng thâm nhập sâu rộng hơn và chịu ảnh hưởng nhiều hơn, trực
tiếp hơn vào kinh tế thế giới. Kinh tế thế giới bắt đầu bước vào khủng hoảng năm
2007, và cho đến nay tuy đã phần nào được cải thiện nhưng vẫn chưa vững chắc,
tăng trưởng chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Điều này tác động không tốt tới tỷ giá của
Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Một câu hỏi đặt ra là Chính
phủ cần điều hành chính sách tỷ giá như thế nào cho hợp lí để có thể thúc đẩy sự
phát triển kinh tế. Nghiên cứu vấn đề này đang là một đề tài mang tính cấp thiết
trong thời gian gần đây. Chính vì vậy, nhóm em chọn đề tài nghiên cứu là : “Chính
sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây”
4
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TỶ GIÁ VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1. Tỷ giá và chính sách tỷ giá
1.1. Khái niệm về tỷ giá
Khối lượng thương mại quốc tế không ngừng tăng lên qua các năm làm cho
các nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Trong xu hướng toàn cầu hoá dần
xoá nhoà các đường biên giới quốc gia và làm cho các dòng tư bản lưu chuyển linh
hoạt hơn. Trong quá trình đó , mỗi quốc gia đều cố gắng đưa đồng nội tệ có thể
chuyển đổi và tìm kiếm một chính sách tỷ giá thích hợp.
Vậy tỷ giá bắt đầu xuất hiện khi có thương mại quốc tế. Nó là mức giá giữa
hai nước mà tại đó họ trao đổi với nhau
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tỷ giá tùy các cách tiếp cận. Dưới đây là
định nghĩa phổ biến nhất: tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá trên một đơn vị
đồng tiền yết giá; đối với một quốc gia cụ thể thì tỷ giá là số đơn vị đồng nội tệ trên
một đơn vị ngoại tệ, nghĩa là đồng ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá còn
đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá. (Theo PGS.TS Nguyễn Văn Tiến-
gtrình Tài chính Quốc tế)
1.2. Phân loại
1.2.1 Theo tính chất thực tế
a) Tỷ giá danh nghĩa
- Tỷ giá danh nghĩa song phương (Bilateral nominal exchange rate): là giá
cả hàng hóa của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà chưa
đề cập đến sức mua hàng hóa dịch vụ giữa chúng. Khi tỷ giá tăng, một đồng tiền yết
giá sẽ đổi được nhiều đồng tiền định giá hơn nên đồng tiền yết giá gọi là tăng giá và
ngược lại khi tỷ giá giảm, một đồng tiền yết giá đổi được ít đồng tiền định giá hơn
nên đồng tiền yết giá gọi là giảm giá.
- Tỷ giá danh nghĩa đa phương (nominal effective exchange rate):
Tại một thời điểm xác định, một đồng tiền có thể là lên giá so với đồng tiền
này nhưng lại là xuống giá so với đồng tiền khác. Vậy làm thế nào để biết được một
đồng tiền là lên giá hay giảm giá đối với tất cả các đồng tiền còn lại từ thời điểm
5
này sang thời điểm khác. Để giải quyết vấn đề này dùng tỷ giá danh nghĩa đa
phương trung bình.(NEER)
Cách tính NEER
i
= ∑e
ij
*w
j
( j =1 > n)
Trong đó:
e: chỉ số tỷ giá danh nghĩa song phương
w: tỷ trọng của tỷ giá song phương
j : số thứ tự của các tỷ giá song phương
i: là kì tính toán
Thực chất: NEER không phải là tỷ giá mà là chỉ số.
b) Tỷ giá thực tế
- Tỷ giá thực tế song phương: Là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi
tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước ngoài. Do đó, nó là chỉ số phản ánh tương
quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
Công thức: e
r
=E *P
*
/P
Trong đó:
e
r :
là tỷ giá thực
E: là tỷ giá danh nghĩa
P
*
: mức giá cả ở nước ngoài bằng ngoại tệ
P: mức giá cả trong nước bằng nội tệ
Thực chất: tỷ giá thực thể hiện sự so sánh mức hàng hóa trong nước và ngướic
ngoài khi cả 2 đều tính bằng nội tệ.
- Tỷ giá thực đa phương (real effective exchange rate- REER)
Là tỷ giá danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong
nước với tất cả các nước còn lại. Do đó, nó phản ánh tương quan giữa nội tệ với tất
cả các đồng tiền còn lại.
1.2.2 Theo cơ chế điều hành
a) Tỷ giá chính thức:
Là tỷ giá do NHTW công bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của
đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được dùng để tính thuế XNK và một số hoạt động
khác nữa liên quan. Ngoài ra, ở Việt Nam tỷ giá chính thức (tỷ giá bình quân liên
6
ngân hàng) còn là cơ sở để các NHTM xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho
phép.
b) Tỷ giá chợ đen:
Là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng do quan hệ cung- cầu
trên thị trường chợ đen quyết định.
1.2.3 Theo tính chất dao động
a) Tỷ giá cố định:
Là tỷ giá do NHTW công bố cố định trong một dao động hẹp. Dưới áp lực
cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định buộc NHTW phải thường xuyên
can thiệp, do đó làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia liên tục thay đổi.
b) Tỷ giá thả nổi tự do:
Là tỷ giá được hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường,
NHTW không hề can thiệp.
c) Tỷ giá thả nổi có điều tiết:
Là tỷ giá được thả nổi nhưng NHTW tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động
theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
1.3. Các nhân tố tác động lên tỷ giá
1.3.1. Những nhân tố tác động lên tỷ giá trong dài hạn
a) Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền:
Tỷ giá thực phản ánh tương quan sức mua của hai đồng tiền thông qua tỷ giá
danh nghĩa đã được điều chỉnh lạm phát giữa hai đồng tiền đó. Tỷ lệ lạm phát
thường ít thay đổi trong ngắn hạn và thường chỉ thay đổi từ từ trong dài hạn vì vậy
tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền phản ánh xu hướng vận động của tỷ giá
trong dài hạn.
Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái
không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong
khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Theo quy luật
cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ
hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá,
cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút,
7
cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh
hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp
làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng
tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn,
cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có
lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các
quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất
giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng.
b) Giá thế giới của hàng hóa xuất nhập khẩu:
Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu tăng hoặc giá thế giới của hàng hóa nhập
khẩu giảm đều có tác động thúc đẩy xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, tác động tích cực
đến cán cân thương mại, khiến cho tỷ giá giảm và làm đồng nội tệ lên giá. Và
ngược lại.
c) Thu nhập thực của người cư trú và người không cư trú:
Nếu thu nhập thực của người cư trú tăng tương đối so với người không cư trú
thì kích thích tăng nhập khẩu ròng, làm tăng cầu ngoại tệ khiến tỷ giá tăng, tức nội
tệ giảm gia. Và ngược lại.
d) Thuế quan và hạn ngạch trong nước hay nước ngoài:
Nếu một quốc gia làm tăng mức thuế quan hoặc áp dụng hạn ngạch đối với
hàng nhập khẩu có tác dụng làm giảm cầu ngoại tệ, khiến tỷ giá giảm, tức nội tệ
tăng giá. Và ngược lại. Các chính sách liên quan đến thuế quan và hạn ngạch của
nhà nước là những yếu tố phải hoạch định trong dài hạn, không thể dễ dàng thay đổi
do đó nó có tác động dài hạn đến nền kinh tế.
e) Năng suất lao động:
Nếu năng suất lao động của một nước tăng nhanh hơn nước khác sẽ làm cho
mức giá cả hàng hóa của nước này có xu hướng giảm có tác dụng làm cho đồng tiền
nước này lên giá.
f) Tâm lí:
Tâm lí sẽ ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng của người dân và đó là yếu tố
khó thay đổi trong thời gian ngắn. Nếu người dân của một nước mà ưa thích dùng
8
hàng ngoại hơn hàng nội thì sẽ kích thích nhập khẩu, làm tăng cầu ngoại tệ, khiến
tăng tỷ giá và nội tệ giảm giá.
Ngoài ra, người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh
ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua
bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi
phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này
giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong
tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi
người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá
ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có
tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt
thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh
chóng.
g) Cán cân thương mại
Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cán cân thương mại của
một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một
nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục
công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá
dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng,
làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập
khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành
động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng
trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng
sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó
chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ
lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt
thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá.
1.3.2. Những nhân tố tác động lên tỷ giá trong ngắn hạn
a) Những cú sốc về kinh tế, chính trị, xã hội, thiên tai
9
Ngày nay, thế giới đang sống trong một môi trường đầy biến động về kinh tế,
chính trị và xã hội, thiên tai Mỗi cú sốc diễn ra, nó ngay lập tức tác động đến tỷ
giá. Các cú sốc xuất hiện với tần suất càng lớn thì tỷ giá biến động càng nhanh và
mạnh. Có thể thấy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho một loạt đồng
tiền của các nước mất giá, thậm chí chỉ cần một tin đồn hay một cuộc bạo lực hay
biểu tình ở một quốc gia nào đó ngay lập tức có những cú sốc tác động đến tỷ giá.
Hay khi giá vàng tăng, các doanh nghiệp sẽ gom USD để mua vàng khiến cho USD
tăng giá mạnh, gây sức ép rất lớn lên tỷ giá.
b) Sự can thiệp của ngân hàng trung ương trên Forex
Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ trên Forex làm tăng cầu ngoại tệ trên
Forex, khiến cho tỷ giá tăng và ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ
làm cho tỷ giá giảm. Đây được coi là một công cụ hữu hiệu giúp ngân hàng trung
ương có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối một cách hiệu quả nhanh nhất để
điều chỉnh tỷ giá theo các mục tiêu của mình.
1.4. Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế
1.4.1. Tỷ giá hối đoái có tác động tới cán cân thương mại quốc
Khi tỷ giá tăng, hạ giá đồng nội tệ, kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu,
làm thặng dư cán cân thương mại, tăng ngoại tệ chảy vào trong nước làm giảm áp
lực tỷ giá. Khi tỷ giá giảm thì ngược lại sẽ làm tăng giá đồng nội tệ, hạn chế xuất
khẩu, giảm lượng ngoại tệ chảy vào trong nước, thâm hụt cán cân thương mại. Mà
cán cân thương mại là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành cán cân vãng
lai và cán cân thanh toán quốc tế. Việc thâm hụt hay thặng dư cán cân thanh toán
quốc tế sẽ có ảnh hưởng lớn đến các yếu tố kinh tế vĩ mô, tác dụng thúc đẩy hoặc
hạn chế tăng trưởng kinh tế.
1.4.2. Tỷ giá hối đoái tác động tới lạm phát
Tỷ giá tác động tới lạm phát thông qua hai con đường. Thứ nhất là hàng hóa
xuất khẩu và hàng tiêu dùng trong nước. Sự phá giá đồng nội tệ có thể làm gia tăng
giá của hàng xuất khẩu hay hàng tiêu dùng trong nước có đầu vào nhập khẩu. Điều
này ảnh hưởng đến cầu và cung hàng hóa tiêu dùng trong nước, cung của hàng hóa
này sẽ giảm trong khi cầu của chúng tăng sẽ tạo áp lực lên lạm phát. Thứ hai là
10
cung tiền: sự mất giá đồng nội tệ sẽ gia tăng cung tiền do giá trị bằng nội tệ của các
tài sản neo theo ngoại tệ tăng cùng với sự phá giá của đồng tiền.
1.4.3. Tỷ giá hối đoái tác động tới đầu tư quốc tế
- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa
vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên
cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư
nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các
nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế
cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng
lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng
luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong
nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi
các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức
độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
1.5. Chính sách tỷ giá
1.5.1. Khái niệm
Chính sách tỷ giá là tập hợp các biện pháp sử dụng tỷ giá như một công cụ để
thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đề ra, là cách thức mà chính phủ hoặc NHTW sử
dụng để tác động vào nội tệ và can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Việc điều hành chính sách tỷ giá là để đạt tới các mục tiêu vĩ mô của nền kinh
tế. Nhưng đồng thời còn phải giúp bảo vệ nền kinh tế trong những tình huống ngắn
hạn nhất định. Chính sách tỷ giá cần hướng tới sự tự chủ trong hoạch định, đấu
tranh với hiện tượng đầu cơ tích trữ, nâng cao uy tín nội tệ. Việc can thiệp dẫn đến
những biến động tỷ giá trên thị trường còn tùy thuộc vào tầm nhìn, đánh giá của các
11
nhà điều hành chính sách khi đánh giá các biến số, các mục tiêu của nền kinh tế.
Khi sử dụng công cụ tỷ giá trong quản lý vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách các
nước đều phải xem xét hai vấn đề khi quyết định cơ chế điều hành tỷ giá: ổn định,
điều chỉnh từng bước hay phá giá, đó là xem xét tác động chính sách tỷ giá trên hai
khía cạnh vĩ mô và vi mô. Xét về khía cạnh vĩ mô, một chính sách tỷ giá cần phải
được nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thiết lập một cái neo rõ ràng và đáng
tin cậy nhằm ổn định mức giá trong nước và ổn định thị trường tài chính. Về khía
cạnh vi mô, chính sách tỷ giá cần phải được nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
duy trì khả năng cạnh tranh quốc tế, gắn với các biến số về tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại: Tùy mỗi quốc gia mà mục tiêu của chính sách tỷ giá có thể khác nhau
nhưng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách kinh tế nói chung, thông thường,
mục tiêu này bao gồm: ổn định giá cả; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc
làm; cân bằng cán cân vãng lai.
1.5.2. Chế độ tỷ giá
Về mặt thuật ngữ, chế độ tỷ giá còn có các tên gọi khác nhau như: cơ chế tỷ
giá, cấu trúc tỷ giá. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và ảnh hưởng của nó lên
hoạt động của nền kinh tế chắc chắn là một trong những đề tài gây nhiều tranh cãi
trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai quan điểm đối nghịch nhau như sau:
Một số nhà nghiên cứu cho rằng không có sự liên hệ giữa việc chọn lựa tỷ giá
hối đoái và hoạt động của nền kinh tế. Chẳng hạn công trình nghiên cứu của Baxter
và Stockman(1989), Flood và Rose (1995) và Gosh et al (1997), kết luận của họ cho
thấy việc lựa chọn tỷ giá ảnh hưởng tương đối nhỏ đến hoạt động của nền kinh tế.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này dựa trên phân loại chính thức tỷ giá hối đoái của
IMF (de jure classification), nên được đánh giá là chưa chuẩn xác bởi vì sự khác
nhau giữa lời nói và hành vi. Do đó, kết quả có thể thay đổi nếu sử dụng cách phân
loại khác.
Một số nhà nghiên cứu khác có quan điểm ngược lại. Họ cho rằng có các
chứng cứ thực nghiệm mạnh mẽ rằng tỷ giá hối đoái thực sự là vấn đề đối với hoạt
động kinh tế. Thí dụ, Levy-Yeyati và Federico Sturzenegger (1999): “Chúng ta
nghiên cứu mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và phát triển kinh tế qua thí dụ của 183
12
nước giai đoạn hậu Bretton Woods, sử dụng cách phân loại tỷ giá hối đoái mới -
phân loại theo thực tế (de facto) dựa trên các hành vi thực tế của các biến số kinh tế
vĩ mô có liên quan. Ngược lại với các nghiên cứu trước đây, chúng ta phát hiện ra
rằng, đối với các quốc gia đang phát triển, tỷ giá hối đoái kém linh hoạt hơn đi đôi
với phát triển thấp hơn, với sản lượng đầu ra biến động lớn hơn. Đối với các quốc
gia công nghiệp hóa, tỷ giá không có ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển”.
Bên cạnh đó, một số nhà kinh tế khác lại phát hiện ra mối liên hệ giữa khủng
hoảng ngân hàng và tỷ giá hối đoái. Ví dụ Ilker và Maria (2000) của Ngân hàng Thế
giới, dựa trên thực nghiệm cũng đã tìm ra mối liên hệ giữa khủng hoảng ngân hàng
và tỷ giá hối đoái, họ đã sử dụng dữ liệu toàn diện gồm cả các nước đã và đang phát
triển trong 2 thập kỷ gần đây. Họ cho rằng áp dụng tỷ giá hối đoái cố định sẽ làm
giảm nguy cơ khủng hoảng ngân hàng ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một
khi khủng hoảng xảy ra các quốc gia có tỷ giá hối đoái cố định chịu tổn thất lớn hơn
các quốc gia có tỷ giá hối đoái linh hoạt.
Những phát hiện gần đây cho thấy một quốc gia càng trưởng thành theo nghĩa
hội nhập vào thị trường vốn quốc tế và phát triển hệ thống tài chính lành mạnh,
càng nên lựa chọn tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Ở các nước đang phát triển, tiếp
cận thấp với thị trường vốn quốc tế nên áp dụng tỷ giá cố định tương đối như neo tỷ
giá. Vì nó giúp đạt được lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn và khả năng xảy ra
khủng hoảng thấp hơn. Ở các nước có nền kinh tế thị trường đang chuyển đổi, tiếp
cận cao hơn với dòng vốn quốc tế, thì nên áp dụng tỷ giá trung gian. Bởi vì, tỷ giá
cố định nếu áp dụng ở các nước này sẽ là mầm mống gây ra khủng hoảng, mặt khác
nó không giúp đạt được mức lạm phát thấp hoặc tăng trưởng cao một cách rõ ràng.
Trong khi đó, tỷ giá linh hoạt hoàn toàn cũng không thể áp dụng ở các nước này, do
lo ngại rằng dao động lớn trong tỷ giá hối đoái có thể gây ra thiệt hại cho nền kinh
tế. Ở các nước phát triển, thả nổi hoàn toàn sẽ cho mức phát triển nhanh hơn các
loại tỷ giá khác mà không phải chịu lạm phát cao. Mặc dù, giá trị của tỷ giá hối đoái
linh hoạt gia tăng với sự trưởng thành về tài chính, thì ưu thế của bất kỳ loại tỷ giá
nào cũng sẽ được tăng cường bởi quản lý kinh tế vĩ mô nhất quán của các quốc gia.
13
Bảng 1.1: Tỷ giá hối đoái tác động đến hoạt động của nền kinh tế
Tỷ giá
hối đoái
Lạm phát Phát triển Tính
không ổn
định
Khủng hoảng
Cố định Làm tăng niềm tin
vào chính sách tiền
tệ, kiềm chế lạm
phát ở mức thấp.
Làm giảm nhập khẩu
ở các nước có nền
kinh tế thị trường
đang chuyển đổi.
Lạm phát có thể
được kiềm chế trong
điều kiện quản lý
kinh tế yếu kém.
Làm giảm các chi
phí giao dịch,
tăng mậu dịch,
làm giảm lãi suất
và rủi ro về lãi
suất, đồng thời
tăng đầu tư và
phát triển.
Làm tăng
tính bất ổn
của các cú
sốc và tỷ
giá cố định
danh
nghĩa.
Làm tăng rủi ro
về các cuộc đầu
cơ tấn công vào
tiền tệ, đặc biệt
khi có biểu hiện
các dòng vốn
không ổn định.
Làm tăng nguy
cơ khủng hoảng
trong bộ phận
ngân hàng.
Thả nổi Làm giảm nhập
khẩu, làm tăng sự
trưởng thành của bộ
phận tài chính và thể
chế
Làm tăng tốc độ
phát triển do hấp
thụ được các cú
sốc và ít bị chệch
hướng bởi các cú
sốc.
Làm tăng
tính bất ổn
của tỷ giá
hối đoái
thực.
Làm giảm rủi ro
về tiền tệ và
ngân hàng.
Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Nằm giữa hai thái cực trên. Quan điểm của
các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại coi trọng cả vai trò kinh tế của Chính phủ
và quy luật “bàn tay vô hình”. Tỷ giá được hình thành trên cơ sở thị trường theo
quy luật cung cầu, cơ quan điều hành chính sách tiền tệ chỉ tác động lên tỷ giá bằng
các công cụ mang tính thị trường tác động lên thị trường ngoại hối.
Trong thực tế, mỗi nền kinh tế luôn có những đặc điểm riêng và các nhà khoa
học cũng đã đồng ý rằng: Không thể có bất kỳ một tiêu thức chung về tỷ giá cho bất
kỳ một nền kinh tế nào; và thực tế có thể được minh chứng thông qua việc phân loại
14
tỷ giá của World bank (WB). Tuy nhiên, để đạt đến mục tiêu cân bằng nội, thì việc
lựa chọn chế độ tỷ giá tối ưu được xác định chủ yếu xoay quanh những vấn đề sau:
1.5.2.1. Phản ứng của tỷ giá hối đoái đối với các cơn sốc:
Các cơn sốc xảy đến cho một nền kinh tế thường có nguồn gốc từ: thị trường
hàng hóa hay từ thị trường tiền tệ.
Nếu cơn sốc xuất phát từ thị trường thế giới bên ngoài hay cơn sốc xuất phát
từ thị trường hàng hóa trong nước thì tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ che chắn cho nền
kinh tế bằng cách thay đổi tăng giảm cầu hàng hóa bên ngoài, từ đó hạn chế được
tác động của nó nhằm đạt mục tiêu ổn định tổng sản phẩm và mặt bằng giá cả. Ngân
hàng trung ương chỉ cần điều chỉnh cung tiền cho phù hợp.
Nếu cơn sốc xuất phát từ thị trường tiền tệ thì tỷ giá hối đoái cố định sẽ có
ích trong việc ổn định tổng sản phẩm vì cung tiền tệ là một biến nội sinh của tỷ giá,
các biến động trong thị trường tiền tệ sẽ được nhà nước điều chỉnh bằng sự thay đổi
dự trữ ngoại tệ mà không làm ảnh hưởng đến cung, cầu trên thị trường hàng hóa.
Phần lớn các cơn sốc thường rất khó nhận biết là ở thị trường hàng hóa hay ở thị
trường tiền tệ để có thể lựa chọn một chế độ tỷ giá tối ưu. Một vị trí nằm giữa hai
thái cực cố định cực đoan và thả nổi thuần túy là bán thả nổi hay cố định bò trườn
theo chế độ Crawling Peg thường được các nước hiện nay áp dụng. Vấn đề là thả
nổi hay bò trườn ở mức độ như thế nào? Biên độ thả nổi là bao nhiêu? Việc lựa
chọn tỷ giá không có một tiêu thức chung, mà tùy thuộc vào điều kiện thực tế của
mỗi quốc gia và dựa trên những tiêu thức sau:
- Mức độ các giao dịch ngoại thương: quy mô của các giao dịch thương mại
là một yếu tố cần chú ý trong việc lựa chọn tỷ giá. Mặc dù trên thị trường luôn sẵn
có các nghiệp vụ phái sinh giúp loại trừ rủi ro hối đoái nhưng chi phí để thực hiện
các kỹ thuật hạn chế rủi ro hối đoái trên thị trường chỉ được xem như có hiệu quả
đối với các giao dịch có giá trị lớn. Nền kinh tế nhỏ, với giá trị các giao dịch là
không lớn, thì một mức độ tương đối ổn định của tỷ giá hối đoái vẫn được xem là
tốt hơn. Nhưng nếu tỷ trọng tổng giao dịch ngoại thương đối với nền kinh tế là đáng
kể thì nên có một chế độ tỷ giá linh hoạt để hạn chế ảnh hưởng từ các cơn sốc bên
ngoài.
15
- Mức độ giao lưu vốn và liên kết giữa lãi suất trong nước với lãi suất quốc
tế: Nếu mức độ giao lưu vốn và liên kết lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế là
càng lớn thì tỷ giá hối đoái cố định sẽ làm cho lãi suất trong nước sẽ phụ thuộc bởi
sự biến động của lãi suất trên thị trường thế giới và ngược lại
1.5.2.2. Tỷ giá hối đoái với chính sách tài chính - tiền tệ:
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết lượng tiền cung ứng còn chính
sách tài chính thì tập trung vào cơ cấu thu chi ngân sách.
Tỷ giá hối đoái cố định sẽ tạo nên một sự ràng buộc chặt chẽ đối với chính
sách tiền tệ và làm mất tính chủ động cao của chính sách tiền tệ, từ đó tạo nên một
kỷ luật tài chính tốt hơn. Trong tỷ giá thả nổi, ngân hàng trung ương không có trách
nhiệm duy trì tỷ giá hối đoái nên tính tự chủ trong chính sách tiền tệ sẽ cao hơn.
Tuy nhiên, chính sách tài chính, tiền tệ có thể vận động ngược chiều nhau. Ví dụ,
một chính sách tiền tệ thắt chặt chống lạm phát có thể bị vô hiệu hóa nếu bộ tài
chính lại mở rộng đầu tư công.
Như vậy đối với các nước đang phát triển khi mà hệ thống các công cụ tài
chính, chính sách còn yếu kém và sự phối hợp giữa các bộ, ngành còn khó khăn thì
nên có một chế độ tỷ giá tương đối cố định nhằm tạo một mốc neo danh nghĩa cho
việc phối hợp các chính sách.
Chính sách tiền tệ là một chính sách lớn, cần phải đi trước, cũng như tính kỷ
luật tài chính là yêu cầu phải có trong việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
1.5.2.3. Tỷ giá hối đoái với thực trạng một đồng tiền mạnh hay yếu:
Ở các nước tư bản phát triển, thì đồng tiền của hầu hết các nước này trước đây
luôn dựa trên bản vị vàng hay ít nhất là có sự đảm bảo theo một loại hàng hóa quan
trọng nhất là vàng. Dần dần, khi vai trò của vàng trong nền kinh tế bị suy giảm, thì
đồng tiền lại đươc đảm bảo theo một giỏ hàng hóa. Chính từ xuất xứ của các đồng
tiền này có cơ sở là vàng và được đảm bảo một cách chắc chắn về khả năng dùng
thanh toán đã làm cho các đồng tiền này tự bản thân nó đã có uy tín trên thị trường
hay ta còn gọi là “tín tệ”. Tâm lý về những đồng tiền này luôn có sự ổn định và tỷ
giá thường ít có biến động lệch quá nhiều so với ngang giá sức mua. Như vậy, tự
bản thân tỷ giá hối đoái đã có một mốc neo vô hình ràng buộc làm cho tỷ giá ít có
16
sự biến động.
Riêng các nước đang phát triển đồng tiền không có xuất xứ từ vàng, khả năng
cung cấp các sản phẩm hàng hóa của nền kinh tế còn yếu và không ổn định, đồng
tiền chỉ là “pháp tệ” làm cho tâm lý về những đồng tiền này thường không ổn định
gây nên hiện tượng đôla hóa và tỷ giá hối đoái luôn có sự chênh lệch rất lớn so với
ngang giá sức mua.
Ngoài ra việc lựa chọn chế độ tỷ giá còn phải căn cứ vào các yếu tố khác như:
tình hình dự trữ ngoại tệ; hệ thống cung cấp thông tin; tình hình kinh tế vĩ mô; phối
hợp các chính sách trên phạm vi quốc tế; Uy tín của ngân hàng trung ương: Yếu tố
then chốt quyết định giá trị và sự ổn định của tỷ giá hối đoái là thái độ, uy tín và sức
mạnh của ngân hàng trung ương, nơi phát hành ra đồng tiền. Các đồng tiền có chất
lượng cao và ổn định là các đồng tiền được dự kiến là duy trì được sức mua của nó
bởi vì nó được phát hành bởi các ngân hàng trung ương có uy tín.
Các nền kinh tế đang phát triển với những đặc thù như: nền kinh tế nhỏ, giá trị
các giao dịch ngoại thương không lớn cần thiết phải lựa chọn một tỷ giá linh hoạt có
quản lý. Do đó, để duy trì sự tương đối ổn định của tỷ giá cần phải sử dụng thêm
những biện pháp quản lý hành chính trong việc can thiệp.
Việt Nam đang theo chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Cụ thể:
- Yếu tố thả nổi: NHNN chỉ “thông báo” tỷ giá giao dịch bình quân liên
ngân hàng do cung cầu thị trường liên ngân hàng quyết định. Các NHTM xác định
tỷ giá kinh doanh trên cơ sở TGBQLNH
- Yếu tố điều tiết của nhà nước: NHNN là người độc quyền điều hành, độc
quyền tính toán, độc quyền thông báo nên trong chừng mực nhất định thì mức
TGBQLNH chưa thoát ly khỏi ý chí chủ quan trong điều hành tỷ giá của NHNN.
Ngoài ra NHNN còn sử dụng hệ thống công cụ (trực tiếp, gián tiếp) dưới đây
để tác động lên tỷ giá.
1.5.3. Công cụ của chính sách tỷ giá
1.5.3.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá
(1) Thị trường ngoại hối
17
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay
xảy ra những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái
như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái.
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là:
- Phát hành trái phiếu kho bạc bằng đồng tiền quốc gia (như Anh, Hà Lan).
Khi ngoại tệ vào nhiều thì sử dụng vốn từ quỹ này để mua nhằm hạn chế mức độ
mất giá của ngoại tệ. Ngược lại, trong trường hợp vốn chạy ra nước ngoài, quỹ này
sẽ tung ngoại tệ ra bán và tiếp tục mua các trái phiếu đã phát hành để ngăn chặn giá
ngoại tệ tăng lên.
- Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (như Pháp, Mỹ, Thụy
Sĩ). Theo phương pháp này, khi cán cân thanh toán bị thâm hụt, quỹ dự trữ bình ổn
hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán. Trường
hợp khi ngoại tệ vào nhiều, quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để
mua ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái.
Điểm hạn chế của công cụ này là nó chỉ có tác dụng lớn khi khủng hoảng về
ngoại tệ ít nghiệm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái đòi hỏi
các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế.
(2) Nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
Các hoạt động can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung
tiền trong lưu thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn
cho nền kinh tế, chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW
thường phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung
hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông.
Nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ có thể nói là một công cụ có tác động mạnh
đến tỷ giá hối đoái vì có ảnh hưởng nội sinh đến tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, việc
sử dụng nghiệp vụ thị trường mở nội tệ bằng việc ngân hàng trung ương mua bán
các chứng từ có giá như tín phiếu kho bạc để làm thay đổi cung tiền trong nước vẫn
có tác động gián tiếp đến tỷ giá vì làm thay đổi lãi suất, mức giá cả, trong nước.
Do đó, công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ được dùng phối hợp với nghiệp vụ
18
thị trường mở ngoại tệ để khử đi sự tăng, giảm cung nội tệ do nghiệp vụ thị trường
mở ngoại tệ gây ra.
(3) Các biện pháp kết hối
Là việc chính phủ quy định đối với các pháp nhân và thể nhân có nguồn thu
ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức
được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp này được áp dụng trong thời kì khan
hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính là nhằm tăng
cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và
giảm áp lực phải phá giá đồng nội tệ.
(4) Một số quy định khác
Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử
dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời điểm
được mua ngoại tệ. Tất cả các quy định này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ,
hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định.
Do xu thế tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính, các biện pháp can
thiệp hành chính ngày càng trở nên không phù hợp. Chính vì vậy, xu thế trên tế giới
là ngày càng hạn chế can thiệp hành chính và chuyển sang sử dụng các công cụ thị
trường.
1.5.3.2. Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá
(1) Lãi suất tái chiết khấu
Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên
thị trường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần
phải can thiệp thì NHTW nâng cao lãi suất tái chiết khấu.
Do lãi suất tái chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên.
Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi suất cao.
Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ
hội để tăng nữa. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm đến mức “báo động” thì NHTW
hạ thấp lãi suất tái chiết khấu, làm cho lãi suất cho vay trên thị trường giảm, vốn
ngắn hạn chạy ra nước ngoài làm cho cung ngoại tệ giảm và tỷ giá hối đoái không
có cơ hội giảm.
19
Phương pháp này cũng có hạn chế nhất định, vì lãi suất và tỷ giá chỉ có mối
tác động qua lại lẫn nhau chớ không phải là mối quan hệ nhân quả. Đồng thời, điều
kiện cần thiết để sử dụng lãi suất tái chiết khấu như một công cụ để tác động, can
thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn đủ mạnh, tự do và linh hoạt; tài khoản
vốn đã được mở cửa.
(2) Thuế quan
Thuế quan cao có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, nhập khẩu giảm làm cầu
ngoại tệ giảm, kết quả làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế quan thấp, sẽ có tác dụng
ngược lại
(3) Hạn ngạch
Hạn ngạch là rào cản thương mại phi thuế quan quan trọng nhất. Đây là biện
pháp trực tiếp hạn chế số lượng hàng hóa được phép nhập khẩu hay xuất khẩu vào
quốc gia trong một thời kì nhất định. Hạn ngạch hạn chế nhập khẩu có tác dụng lên
tỷ giá giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu,
do đó có tác dụng làm tăng tỷ giá giống như thuế quan thấp.
(4) Giá cả
Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho
khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính
phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu,
kết quả là làm cho nội tệ giảm giá.
(5) Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ với các NHTM
Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, NHTW có thể tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử
dụng vốn ngoại tệ tăng, để kinh doanh có lãi buộc các NHTM phải hạ lãi suất huy
động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với nắm
giữ nội tệ khiến cho những người sở hữu ngoại tệ phải bán đi đổi lấy nội tệ, làm
tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
(6) Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM
20
Ngoài mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, quy định này còn có tác
dụng hạn chế đầu cơ vào ngoại tệ làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân
đối.
Tùy mục tiêu tỷ giá hối đoái nói riêng và mục tiêu kinh tế nói chung trong
từng thời kỳ nhất định mà Chính phủ sử dụng các công cụ điều hành tỷ giá hối đoái
khác nhau. Chương 2 dưới đây sẽ tìm hiểu thực trạng việc sử dụng các công cụ
trong điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây.
21
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM
2. Biến động tỷ giá trong 5 năm gần đây
Trước khi đi sâu tìm hiểu thực trạng chính sách tỷ giá của Việt Nam, hãy điểm
qua một vài nét nổi bật trong biến động tỷ giá từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO
để hình dung được bối cảnh kinh tế lúc đó.
Đầu năm 2007, trạng thái cung ngoại tệ lớn hơn cầu nên tỷ giá mua bán
USD/VND của NHTM luôn ở mức sát sàn. Khủng hoảng tín dụng Mỹ bắt nguồn từ
thị trường cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn làm USD mất giá mạnh trên thị trường
quốc tế, FED liên tục cắt giảm lãi suất USD, vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối tăng
22
mạnh, tỷ giá USD/VND ổn định, chênh lệch cao giữa lãi suất USD và VND đã
khuyến khích dân chúng bán USD gửi VND. Các công cụ của chính sách tiền tệ đã
được sử dụng để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền cung ứng, hạn chế sức ép tăng
giá VND.
Từ tháng 9/2007 đến tháng 3/2008 tái diễn tình trạng dư cung ngoại tệ do
USD liên tục mất giá, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD tăng, vốn ngắn hạn
nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng cao. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
khiến tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, chỉ số giá tiêu
dùng, lãi suất huy động và cho vay VND tăng cao có thời điểm 21%/năm. NHNN
điều chỉnh giảm mạnh tỷ giá BQLNH, mở rộng biên độ tỷ giá từ ±0,5% lên ±0,75%
từ 24/12/2007, điều chỉnh lên ±1% từ 10/3/2008, doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó
khăn khi bán ngoại tệ vì NHTM không muốn mua. NHNN thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ, phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, kiểm soát chặt
việc cho vay đầu tư chứng khoán, bất động sản; tuy nhiên thông qua công cụ tái cấp
vốn NHNN hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khó khăn về thanh khoản. Điều chỉnh
tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 7,5%/năm
lên 15%/năm. Siết chặt kiểm soát các đại lý thu đổi ngoại tệ, kiểm soát vay ngoại tệ.
Đến tháng 10/2008, NHNN thực hiện CSTT nới lỏng thận trọng, điều chỉnh giảm
lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống
7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13%/năm xuống 5%/năm, giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc VND từ 11% xuống 3%, hoán đổi ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM.
NHNN đã can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối làm giảm dự trữ ngoại tệ nhưng
đây chỉ là giải pháp tình thế.
Để ổn định thị trường ngoại hối trong nước theo tín hiệu thị trường, ngày
07/11/2008 NHNN điều chỉnh biên độ tỷ giá USD/VND từ ±2% lên mức ±3%
(ngày 26/06/2008 đã lần thứ 2 điều chỉnh tỷ giá trong năm từ ±1% lên ±2%), điều
chỉnh tăng tỷ giá BQLNH ngày 24/12/2008 tăng 3% lên mức 16.977 VND/1USD,
tích cực bán ngoại tệ có chọn lọc nhằm hỗ trợ thanh khoản cho thị trường.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tâm lý găm
giữ ngoại tệ, các doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ mà chỉ muốn
23
vay hỗ trợ lãi suất thấp bằng VND theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Giá cả
trên thị trường thế giới và lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, gấp
hai lần so với cùng kỳ năm trước. Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn ngày càng
nặng nề hơn và có ảnh hưởng lớn tới biến động tỷ giá của Việt Nam.
Nhìn vào biểu đồ ta thấy rằng, từ năm 2009 cho đến nay, tỷ giá không ngừng
tăng lên, từ mức thấp 17.500 VND/USD lên tới 21.035 VND/USD vào ngày
01/12/2012. Mặc dù Ngân hàng nhà nước rất nỗ lực trong điều hành tỷ giá, nhưng
do khủng hoảng chung của nền kinh tế toàn cầu, hệ lụy của khủng hoảng nợ ở Mỹ
và các nước Châu Âu mà tỷ giá biến động khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ sau giữa
Quý 2/2012 cho đến nay, tỷ giá khá ổn định, không có biến động đáng kể như năm
2011, mặc dù cũng có thời điểm giá vàng tăng rất lớn. Thay đổi trong tỷ giá này là
do các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, đặc biệt trong điều hành chính sách
tỷ giá hối đoái.
2.1. Chính sách tỷ giá Việt Nam năm 2009
2.1.1. Tình hình kinh tế xã hội
Năm 2009, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn
các năm trước. Ở trong nước, thiên tai xảy ra trên diện rộng với 11 cơn bão gây
thiệt hại hết sức nghiêm trọng. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động
phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực
tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn đầu
tư, du lịch. Thuận lợi tuy có nhưng không nhiều.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả năm tăng 5,2%, vượt chỉ tiêu Quốc
hội đề ra (5%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế là thấp nhất trong vòng 10 năm (năm
2008 tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, 2006 tăng 8,23%…), nhưng Việt Nam vẫn
được thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu
vực châu Á (sau Trung Quốc tăng 7,8%).
- Áp lực tăng tỷ giá (tỷ giá danh nghĩa) kéo dài trong suốt năm 2009, mặc
dù biên độ dao động đã được nới lỏng lên ±5% vào ngày 23/3/2009 nhưng các
NHTM luôn có xu hướng niêm yết tỷ giá mua bằng tỷ giá bán và sát mức trần biên
độ. Các doanh nghiệp cũng như người dân đều có tâm lý muốn găm giữ ngoại tệ
24
chờ lên giá gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ, nhiều doanh nghiệp nhập khẩu có
nhu cầu sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho các hợp đồng thương mại quốc tế buộc
phải mua ngoại tệ trên thị trường chợ đen, cầu về ngoại tệ ngày càng tăng đẩy tỷ giá
trên thị trường này liên tục lên cao, chênh lệch giữa tỷ giá thị trường chợ đen và thị
trường chính thức là khá lớn (có lúc chênh lệch lên đến khoảng 1.500 VND/USD
vào tháng 7/2009).
2.1.2. Diễn biến tỷ giá năm 2009
Nguồn: cafef.vn
Giai đoạn 1 (từ 01/01 – 24/11/2009): tỷ giá liên tục tăng
Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.
Năm thứ hai liên tiếp thị trường ngoại hối bộc lộ những khó khăn rõ nét và những
vấn đề nội tại chưa thể giải quyết. Có thể xem căng thẳng ngoại tệ là một trong
những điểm nổi bật nhất của kinh tế Việt Nam năm 2009, nhất là khi xét đến những
ảnh hưởng của nó đối với hoạt động doanh nghiệp và tâm lý người dân.
Căng thẳng trên thị trường bắt đầu xuất hiện từ quý 2, khi nhiều doanh nghiệp
găm giữ ngoại tệ, không chịu bán lại cho ngân hàng dẫn đến mất cân đối cung –
cầu. Tình trạng này kéo dài cho đến cuối năm. Bên cạnh đó, tín dụng ngoại tệ giảm
rất mạnh trong nửa đầu năm (chủ yếu do doanh nghiệp ngại vay vì lo rủi ro tỷ giá,
đến tháng 5 giảm tới 9,55% so với cuối năm 2008) lại tạo ra hiện tượng đối ngược
là ứ đọng vốn ngoại tệ tại các ngân hàng. Từ đây, năm 2009 có tình huống ít thấy:
tháng 6, 5 ngân hàng lớn “bắt tay” giảm lãi suất huy động USD, áp tối đa 1,5%/năm
và áp lãi suất vay cao nhất chỉ 3%/năm để kích cầu. Cụ thể:
25