BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
__________________
Phạm Văn Diễn
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
TS. NGUYỄN KIM DUNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn này, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều tổ chức và cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh đã chấp thuận và tạo điều kiện cho tôi thực hiện
luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Kim Dung, phó Viện trưởng
Viện nghiê
n cứu giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn quý Thầy, Cô đã giảng dạy và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Cà Mau,
Phòng Gi
áo dục & Đào tạo huyện Phú Tân, cán bộ quản lí và giáo viên các
trường tiểu học trong huyện đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến quý báu
để tôi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, dù đã rất cố gắng, song chắc chắn luận văn này vẫn còn
nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong các đồng
nghiệp, quý Thầy, Cô và Hội đồng chấm luận văn góp ý cho những thiếu sót
trong luận văn này.
Tôi chân thành cảm ơn !
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực, được nghiên cứu và thu thập
từ thực tiễn và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Văn Diễn
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBQL : Cán bộ quản lí
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
HS : Học sinh
QTDH : Quá trình dạy học
QLGD : Quản lí giáo dục
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề chất lượng và hiệu quả trong giáo dục và đào tạo đã và đang là mối
quan tâm của toàn xã hội, nhất là nước ta đang trong tiến trình hội nhập toàn diện
vào nền kinh tế thế giới mà trong đó nổi lên sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và
khốc liệt trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, trong đó có giáo dục
& đào tạo. Việc nâng cao chất lượng giáo dục & đào
tạo là một nhu cầu bức thiết
cho các cơ sở giáo dục và đào tạo nói riêng và cho cả hệ thống giáo dục quốc dân
nói chung. Khi Việt Nam gia nhập WTO, sẽ phải mở cửa thị trường và nếu nhìn
nhận ở góc độ phát triển thì việc gia nhập này sẽ giúp Việt Nam phát huy tiềm năng
và thúc đẩy sức mạnh nguồn trí thức nội tại để có thể sánh vai ngang bằng với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy,
để sự nghiệp giáo dục thực sự là
quốc sách hàng đầu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có một nhiệm
vụ bức thiết đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam nói chung và các nhà quản lí giáo
dục Việt Nam nói riêng là phải tiếp tục nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về giáo
dục. Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu lực q
uản lý là phải
nâng cao chất lượng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo
viên.
Sứ mệnh của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục có ý nghĩa cao cả
đặc biệt. Họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất nước. Lao động của họ trực tiếp
và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển đất nước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển
bền vững [28, tr. 270]
Nói về tầm
quan trọng của đội ngũ giáo viên trong bối cảnh giáo dục đi vào
thế kỷ XXI, Tiến sĩ Raja Roy Singh - nhà giáo dục nổi tiếng ở Ấn Độ, chuyên gia
giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có một lời
bình khá ấn tượng: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và
đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục . . .”; [28, tr. 270] . Từ lời bình này cho
thấy giáo viên đóng vai trò rất quan trọng t
rong hệ thống giáo dục, là người chịu
trách nhiệm và quyết định đến chất lượng giáo dục của cấp học. Dù ở bất cứ cấp
học nào thì vai trò của giáo viên vẫn trong tư thế chủ đạo. Đặc biệt là cấp học đầu
tiên trong hệ thống giáo dục. Giáo dục tiểu học nằm trong hệ thống giáo dục quốc
dân và là nền tảng đầu tiên rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách cho con người. Vì vậy, chất lượng giảng dạy ở cấp tiểu học là nền tảng ch
o
chất lượng giảng dạy ở cấp Trung học cơ sở và trung học phổ thông và đại học.
Quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu
học là công tác chủ đạo, song cũng rất khó khăn của người hiệu trưởng. Vì chất
lượng giáo dục có được nâng lên tiến tới mục tiêu được hay không thì việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên phải được tổ chức, quản lý, chỉ đạo chặt chẽ và
khoa học ở ngay từ các trường tiểu học. Đồng thời công việc này không chỉ thực
hiện trong một giai đoạn nhất định, một thời điểm nhất định mà phải tiến hành thực
hiện trong suốt quá trình giáo dục. Vì chất lượng giáo dục không phải là cái bất biến
m
à luôn có sự thay đổi biến động liên tục. Vì vậy, quản lý việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học là việc làm cần thiết và phải được tiến
hành một cách thường xuyên liên tục.
Trong thời gian qua, đội ngũ giáo viên tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
từng bước phát triển mạnh về số lượng, chất lượng nhưng cũng c
òn những bất cập
về cơ cấu, trình độ, tuổi tác nên ít nhiều ảnh hưởng đến trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ giảng dạy. Công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đã đạt được kết quả đáng
kể, song nhìn chung chất lượng và hiệu quả còn hạn chế, chưa đáp ứng đư
ợc yêu
cầu của chương trình tiểu học mới hiện nay [57,tr. 12]
Qua tham khảo
các chuyên đề, đề tài về quản lý trường tiểu học, chúng tôi
nhận thấy đề tài: “Quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau” chưa có ai nghiên cứu, đặc biệt
trong tình hình đổi mới giáo dục tiểu học hiện nay. Mặt khác, chúng tôi đã có thời
gian trực tiếp chỉ đạo việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học. C
hính vì thế, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh
Cà Mau” nhằm đưa ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học ở
địa phương.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tâ
n, tỉnh Cà
Mau, phân tích nguyên nhân của thực trạng. Từ đó đề xuất các biện pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các
trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng về công tác quản l
ý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học và xác định được các biện pháp quản lí việc đánh
giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học có tính khoa học, khả
thi, có kế hoạch thực hiện phù hợp với tình hình phát triển giáo dục của huyện P
hú
Tân và được tổ chức thực thi đồng bộ sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
của giáo viên các trường tiểu học ở huyện Phú Tân tỉnh Cà Mau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý việc đán
h giá chất
lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau, tìm ra những
nguyên nhân của thực trạng đó.
5.3. Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú
Tân, tỉnh Cà Mau.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian và qui mô của một luận văn thạc sĩ, đề tài chỉ tập
trung vào vấn đề nghiên cứu thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên ở 12 trường tiểu học tiêu biểu trên địa bà
n huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu được sử dụng nhằm xác lập cơ sở khoa học và thực tiễn
cho việc xây dựng các biện pháp quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
7.2. Ý n
ghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho các cấp quản lý giáo dục ở huyện Phú Tân,
tỉnh Cà Mau thấy được thực trạng quản lí việc đánh giá chất lượng của giáo viên ở
các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau để từ đó đưa ra các chủ trương,
giải pháp phù hợp.
8. Các phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo sách, báo, tài liệu, các bài
viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, các văn bản của Bộ, Sở,
Phòng Giáo dục & Đào
tạo có liên quan đến đề tài
8.2.1. Phương pháp trao đổi - phỏng vấn : Nhằm thu thập thông tin qua
việc trao đổi trực tiếp với các cán bộ quản lí của trường, Phòng Giáo dục & Đào tạo
và một số giáo viên để làm rõ thực trạng công tác quản lí việc đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
8.2.2. Phương pháp điều tra bằng
phiếu : nhằm thu thập thông tin qua
phiếu hỏi ý kiến đội ngũ cán bộ quản lí và phiếu hỏi ý kiến giáo viên.
* Xây dựng bộ công cụ nghiên cứu
Bộ công cụ điều tra gồm 3 mẫu :
- Mẫu 1 : Phiếu điều tra dành cho cán bộ quản lí trường học ( 57 phiếu phát
ra, tỷ lệ phản hồi là 100%).
- Mẫu 2 : Phiếu điều tra dành c
ho các giáo viên ( 236 phiếu phát ra, tỷ lệ
phản hồi là 100%).
- Mẫu 3 : Ph
iếu điều tra dành cho cán bộ quản lí Phòng Giáo dục & Đào tạo
( 08 phiếu phát ra, tỷ lệ phản hồi là 100%).
Các phiếu điều tra tập trung nghi
ên cứu các vấn đề về quản lí việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau.
Xây dựng bộ câu hỏi trao đổi, phỏng vấn Ba
n giám hiệu, các giáo viên tiểu
học, cán bộ quản lí Phòng Giáo dục & Đào tạo, nội dung của bộ câu hỏi xoay quanh
quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học. Lập
kế hoạch tham quan các trường học để quan sát các tài liệu, văn bản, phương tiện,
thiết bị . . . phục vụ cho việc quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy ở các
trường tiểu học nhằm nắm rõ hơn các vấn đề cần điều tra.
* C
họn mẫu nghiên cứu :
Chọn 12 trường tiểu học trên địa bàn huyện Phú Tâ
n, tỉnh Cà Mau.
+ Bốn trường tiểu học xếp loại tốt :
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm
1
Trường tiểu học P
hú Tân
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm
2
Trường tiểu học Việt Khái 1
+ Bốn trường tiểu học xếp loại khá :
Trường tiểu học Tân Hưng Tây B
Trường tiểu học Việt Thắng 1
Trường tiểu học Việt Khái 2
Trường tiểu học Tâ
n Nghiệp A
+ Bốn trường tiểu học xếp loại trung bình :
Trường tiểu học Phú Hiệp.
Trường tiểu học Việt Thắng 2
Trường tiểu học Cái Đôi Vàm 3
Trường tiểu học Phú Mỹ 2
* Tổ chức nghiên cứu :
- Tổ chức khảo sát bằng phiếu hỏi ý kiến.
- Khảo sát thực trạng các trường tiểu học thông qua nghiên cứu các hoạt
động quản lí, các tài liệu, các văn bản c
ó liên quan của trường.
- Khảo sát thực trạng qua trao đổi trực tiếp với hiệu trưởng, giáo viên các
trường tiểu học, cán bộ quản lí của Phòng Giáo dục & Đào tạo.
- Khảo sát thực trạng qua quan sát một số hoạt động của hiệu trưởng.
- Khảo sát thực trạng qua quan sát các phòng học, phòng thiết bị, phòng thư
viện và một số phòng chức năng khác của trường tiểu học.
8.3. Phươn
g pháp quan sát : nhằm thu thập thông tin qua việc quan sát các
hoạt động quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường
tiểu học.
8.4. Phương pháp thống kê toán học :
- Phương pháp thống kê toán học : xử lí kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh
giá thực trạng về định hướng nâng cao hiệu quả của công tác quản lí việc đánh giá
chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học.
- Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê toán học:
Sau khi thu thập các phiếu thăm
dò ý kiến, dùng phương pháp thống kê toán
học để tính:
Độ trung bình:
X
(Mean)
Tính tỷ lệ %
Các câu hỏi về các nội dung, quy trình, điều kiện đánh giá chất lượng
giảng dạy của giáo viên theo thang điểm từ 1 đến 2 (1: chưa tốt, 2: tốt).
Sau đó tính giá trị trung bình
X
của các mức độ trên để đánh giá.
Đồng thời qua tỷ lệ % theo các nhóm đánh giá để so sánh việc đánh giá
của từng nhóm về các nội dung và có nhận định tổng quát về thực trạng
quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên hoặc các biện
pháp do đề tài đề xuất.
- Viết văn bản của kết quả nghiên cứu : dựa trên các thông tin thu thập được
qua các hồ sơ sổ sách, việc xử lí phiếu thăm
dò ý kiến, các thông tin về trao đổi -
phỏng vấn, quan sát.
9. Cấu trúc luận văn
MỞ ĐẦU
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lí việc đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên ở các trường tiểu học
Chương 2. Thực trạng quản lý việc đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo
viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
Chương 3.
Một số biện pháp đổi mới quản lý việc đánh giá chất lượng giảng
dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
VIỆC ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY
CỦA GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Dạy học và quản lí dạy - học được hình t
hành và phát triển cùng với lịch sử
hình thành và phát triển các hình thái kinh tế - xã hội. Lúc đầu cơ sở lí luận về dạy
học chỉ thể hiện dưới dạng một số ý tưởng của những nhà triết học (đồng thời cũng
là các nhà giáo dục) sau đó dần dần phát triển và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, gần
đây người ta mới chú ý, bà
n luận về quản lí nói chung và quản quản lí hoạt động
dạy học nói riêng. Nhưng hầu hết các ý tưởng và công trình nghiên cứu điều nhằm
mục đích nâng cao hiệu quả công tác quản lí các hoạt động này. Thực tiễn dạy học
đã chứng minh rằng muốn hoàn thiện nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
(QTDH) thì không thể bỏ qua khâu kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy của
giáo viên và kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Thông qua đó các nhà quản l
ý
giáo dục ( QLGD) và đội ngũ thầy, cô giáo có được những thông tin hai chiều quan
trọng để kịp thời phát hiện điều chỉnh quá trình dạy và học cho phù hợp với đối
tượng và thực tiễn giảng dạy.
Dạy học là hoạt động chủ yếu trong nhà trường, là trung tâm của hoạt động
QLGD. Vì vậy, việc kiểm tr
a – đánh giá chất lượng giảng dạy có vị trí vô cùng quan
trọng, có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục.
Vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh đã được nhiều tác giả
nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những thang đánh giá về kiến thức, kỹ năng và về thái
độ phù hợp.
The
o T.S. Vũ Thị Phương Anh và Th.S. Hoàng Thị Tuyết trong tài liệu đào
tạo giáo viên tiểu học “Đánh giá kết quả học tập ở tiểu học” thì “Kiểm tra là thuật
ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu
hiện kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ
kiện làm cơ sở cho việc đánh giá. Còn đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá
trình hình thành những nhận định, rút ra những kết luận hoặc chỉ phán đoán về trình
độ, phẩm chất của người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa
trên cơ sở những t
hông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm
tra”. Trong khuôn khổ các tài liệu trên, các tác giả cũng cho rằng đánh giá kết quả
học tập được hiểu là đánh giá học sinh về học lực và hạnh kiểm thông qua quá trình
học tập các môn học cũng như các hoạt động khác trong phạm vi của nhà trường.
Trong đó giáo viên thông qua các phương tiện kiểm tra với nhiều hình thức k
hác
nhau để rút ra nhận định, kết luận về trình độ, kỹ năng, nhận thức của người học để
từ đó có được đánh giá đúng đắn về chất lượng thật của người học trong quá trình
học tập.
Trong những năm gần đâ
y, nhiều nhà khoa học và quản lí giáo dục đã xác
định vấn đề cải cách đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục là một trọng tâm cấp
bách cần được nghiên cứu t
hực hiện nghiêm túc, phải được bắt đầu từ khâu lý luận,
phương pháp luận. Công việc kiểm tra – đánh giá chất lượng giảng dạy ở các trường
phổ thông là một lĩnh vực khá rộng. Trước mắt, do điều kiện thời gian và kinh phí,
các đề tài được giới hạn ở việc xác định cơ sở lý luận của việc đánh giá trong dạy
học v
à bước đầu thử vận dụng để tạo ra sự định hướng và cách làm mới nhằm tập
trung vào việc đánh giá kết quả học tập của học sinh. Có rất ít đề tài nghiên cứu về
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên tiểu học. Song vẫn có một số chuyên
đề, đề tài gần gũi với đề tài chúng tôi nghiên cứu như :
Th.S. Nguyễn Việt Bắc với chuyên đề : “Bồi dưỡng đội ngũ giáo viên - một
giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy tiểu học” nghiên cứu và bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên cho đội ngũ giáo viên tiểu học.
Th.
S. Huỳnh Kim Trang với đề tài : “Thực trạng về công tác quản lý việc
dạy và học ở trường tiểu học của một số Phòng Giáo dục & Đào tạo quận (huyện)
tại Thành phố Hồ Chí Minh” nghi
ên cứu về quản lý dạy học của Phòng Giáo dục &
Đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Th.S. Lê Quang Dũng với đề tài : “ Thực trạng về công tác quản lý giảng
dạy của hiệu trưởng các trường tiểu học ở Thị xã Bến Tre” nghiên cứu về quản lý
giảng dạy của hiệu trưởng ở các trường tiểu học ở Thị xã Bến Tre.
Những công trình nghiên cứu trên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc
nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý của hiệu trưởng và đưa ra các giải pháp chung
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường tiểu học. Tuy nhi
ên, cho đến nay,
theo chúng tôi thì chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quản lý việc
đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên ở các trường tiểu học huyện Phú Tân -
tỉnh Cà Mau.
Theo các tác giả : Vũ Thị Phương A
nh và Hoàng Thị Tuyết thì đánh giá có
những chức năng sau : Chức năng quản lý, chức năng kiểm soát và điều chỉnh, chức
năng giáo dục và phát triển. Nếu đánh giá đúng t
hực lực, đúng chất lượng, đảm bảo
tính công khai, công bằng, dân chủ, khách quan, kịp thời . . . sẽ có tác dụng tích cực
trong việc phát huy tính sáng tạo và nội lực của giáo viên. Đồng thời, đó cũng chính
là động lực thúc đẩy tinh thần đội ngũ giáo viên đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm để
nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Đáp ứng được yê
u cầu của
ngành giáo dục và đào tạo và nhu cầu của xã hội đặt ra. Ngược lại, nếu đánh giá
không đúng lúc, không kịp thời, thiếu khách quan, công bằng thì sẽ mất lòng tin của
đội ngũ giáo viên, không khuyến khích được sự nỗ lực phấn đấu vươn lên và có
nhiều cồng hiến, đóng góp cho ngành.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
* K
hái niệm quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm. Ng
ay từ buổi sơ khai,
để đương đầu với sức mạnh của tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người phải
hình thành các nhóm hợp tác lao động nhằm thực hiện những mục tiêu mà từng cá
nhân riêng lẻ không thể thực hiện được, điều này đòi hỏi phải có tổ chức, phải có sự
phâ
n công và hợp tác trong lao động và từ đó xuất hiện sự quản lý.
Ngày nay, nhiều người thừa nhận rằng quản lý trở thành một nhân tố của sự
phát triển xã hội. C.Mác coi quản lý là một đặc điểm vốn có, bất biến về mặt lịch sử
của đời sống xã hội. Ông viết : “ Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ
đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng
chung, tức là những c
hức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung
của cơ sở sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp
thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một
giàn nhạc thì cần phải có
một nhạc trưởng” [36, tr. 5]
The
o những cách tiếp cận khác nhau, khái niệm quản lý được các nhà khoa
học định nghĩa khác nhau. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu.
The
o Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô 1977 thì “ Quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau, nó bảo toàn cấu trúc xác định
của chúng, duy trì chế độ hoạt động, t
hực hiện những chương trình, mục đích hoạt
động” (Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân) [ 36, tr. 7]. Ngoài ra, có một số quan niệm
khác như “Quản lý là những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản
lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt được mục
đích nhất định” (Nguyễn Ngọc
Quang) [43, tr.7]. Cũng theo tác giả Nguyễn Kỳ,
Bùi Trọng Tuân đã thể hiện quan điểm của mình một cách chính xác khi cho rằng
quản lí là một “Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do
đó: quản lý được hiểu là được bảo đảm hoạt động của hệ thống trong điều kiện có
sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển động của hệ thống đến
trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới” (The
o Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân)
[36, tr. 8]
Cùng với c
ác quan niệm trên các tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Bá Sơn
cũng có những nhìn nhận về khái niệm quản lí một cách toàn diện “Quản lý, là
nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến
thành những thành tựu của xã hội” [36, tr. 8]; “Quản lý là những tác động của chủ
thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là
nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.”
[36, tr. 8]; “Quản lý một hệ thống xã hội là tác động có mục đích đến tập thể người
– thành viên của họ - nhằm làm cho họ vận hành thuận lợi và đạt mục đích dự
kiến.” [43, tr. 8]; “Quản lý là tác động có mục đích đến tập t
hể những con người để
tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động.” (Nguyễn Bá Sơn)
[36, tr. 8]
Các khái niệm về quản lí vừa nêu tuy khác nhau, song chúng có chung
những nội dung cơ bản và những dấu hiệu c
hủ yếu sau đây : Đó là những tác động
có tính định hướng đích cụ thể, hoạt động dựa trên sự tác động, phối hợp của các cá
nhâ
n trong việc xây dựng lập kế hoạch và thực hiện các mục tiêu nhất định. Cần
phải thấy rõ hoạt động quản lí thực hiện trên mối quan hệ biện chứng giữa những
quy luật khách quan xã hội và hoạt động tự giác của con người. Hoạt động quản lí là
sự biểu hiện tự nguyện tự giác của chủ thể quản lí muốn điều chỉnh và hướng dẫn
các quá trình và các hiện tượng xã hội theo sự nhìn nhận của chủ thể phù hợp với
quy luật khách quan. Tuy nhiê
n nhân tố tự giác không nên được tuyệt đối hoá, vì
như thế dễ dàng rơi vào quan điểm duy tâm về quản lí. Ngược lại, việc nhận thức
đúng đắn vai trò của yếu tố tự giác trong hoạt động xã hội sẽ cho phép xác định
đúng đắn những giới hạn, chức năng và ý nghĩa xã hội của việc quản lí các quá trình
xã hội. Nói một cách khác, các đặc trưng chủ yếu của quản lí là : tính tự giác, tính
mục đích và tính quần chúng trong quản lí, đây cũng được coi là cơ sở phương pháp
luận mác xít của hoạt động quản lí. Thực tế công tác quản lí hiện nay cho thấy va
i
trò của quản lý được coi là một trong năm nhân tố phát triển kinh tế - xã hội : vốn,
nguồn lực lao động, khoa học kỹ thuật, tài nguyê
n và quản lý. Trong đó quản lý có
vai trò mang tính quyết định sự thành công.
Như vậy từ các định nghĩa về khái niệm quản lí vừa nêu trên có thể hiểu
khái niệm q
uản lí là : sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý, để chỉ huy, điều
khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm
đạt tới mục đích. Đúng với ý chí
nhà quản lý, phù hợp quy luật khách quan. Hoạt
động quản lý được minh họa qua sơ đồ sau :
MÔI TRƯỜNG QUẢN LÝ
Chủ thể
quản lý
Khách thể
quản lý
Phương
pháp quản lý
Công cụ
quản lý
Mục tiêu
quản lý
Sơ đồ 1.1 : Mô hình quản lý [24, tr. 5]
Từ mô hình quản lí trên có thể thấy hoạt động quản lí là một hoạt động phức
tạp với sự tham gia của nhiều yếu tố : Chủ thể quản lí, công cụ quản lý, phương
pháp quản lí, khách thể quản lí, mục tiêu quản lí và bao trùm lên hoạt động này là
môi trường quản lí. Mỗi yếu tố này có vai trò riêng biệt góp phần tạo nên hoạt động
quản lí thành một hệ thống chặt chẽ. Chủ thể quản lí thông qua các công cụ quản lí
để tìm hiểu, xây dựng kế hoạch và đưa ra phương pháp quản lí phù hợp, tác động
lên khách thể quản lí nhằm đạt một mục tiêu nhất định. Các yếu tố trong hoạt động
quản lí có mối quan hệ đan xen lẫn nhau. Nếu thiếu một trong những yếu tố trên sẽ
dẫn đến hoạt động quản lí thiếu tính hiệu quả, khoa học. Vì mỗi yếu tố trên vừa
đóng vai trò là điều kiện cần vừa đóng vai trò là điều kiện đủ cho các yếu tố còn lại
phối hợp đan xen tạo nên một hoạt động quản lí phù hợp. Tr
ong hoạt động quản lí
mục tiêu được coi như là cái cuối cùng mà hoạt động quản lí muốn đạt được. Để đạt
được mục tiêu đã định, quản lý phải thông qua các chức năng quản lý.
* Chức năng quản lý
Chức năng quản lí đó là một loại động quản lý đặc biệt, sản phẩm của quá
trình phân công lao động và chuyên môn hoá trong quản lí, tiêu biểu bởi tính chất
tương đối độc lập của những bộ phận của quản lí [36, tr. 78-79]. Thực chất, chức
năng quản lí là hình thức tồn tại của các tác động quản lí. Chức năng quản lí là hình
thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể quản lí đến đối tượng quản lí.
Trong quản lí, chức năng quản lí là một phạm trù quan trọng, mang tính khách
quan, có tính độc lập tương đối. Chức năng quản lí nảy sinh và là kết quả của quá
trình phân công lao động, là bộ phận tạo thành hoạt động quản lí tổng thể, được tách
riêng có tính chuyên m
ôn hoá cao. Đối với các chức năng quản lí hiện nay vẫn còn
nhiều ý kiến chưa thật đồng nhất về các chức năng của quản lý nhưng đa số các nhà
khoa học đều thống nhất đề cập đến 4 nhóm chức năng cơ bản của quản lý đó là :
chức năng lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng điều khiển (chỉ đạo t
hực
hiện); chức năng kiểm tra.
Mỗi chức năng đóng vai trò riêng biệt và có những đặc thù góp phần tạo
nên một hoạt động quản lí tổng thể. Chức năng kế hoạch hoá là chức năng trọng
tâm, kế hoạch được hiểu khái quát là một bản ghi nhận những mục tiêu cơ bản, là
một chương trình hành động cụ thể được hoạch định trước khi tiến hà
nh thực hiện
những nội dung nào đó mà chủ thể quản lý đã đề ra. Chức năng tổ chức là việc sắp
xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những dạng hoạt
động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách
tối ưu. Chức năng điều khiển (c
hỉ đạo thực hiện) là huy động lực lượng để thực hiện
kế hoạch, là biến những mục tiêu trong dự kiến thành kết quả thực hiện. Phải giám
sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ đúng tiến trình, đúng kế hoạch.
Khi cần thiết phải điều chỉnh, sửa đổi, uốn nắn nhưng không làm thay đổi mục tiêu
hướng vận hành của hệ nhằm giữ vững mục tiêu chiến lược đề ra. Chức năng kiểm
tra là đánh giá trạng thái của hệ, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch
đã đạt được tới mức độ nào. Kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong
quá trình hoạt động, tìm ra nguyên nhân thành công, thất bại giúp cho chủ thể quản
lý rút ra những bài học kinh nghiệm. Đồng thời kiểm tra là giữ vai trò liên hệ
nghịch, là trái tim, mạch máu của hoạt động quản lý. C
ó kiểm tra mà không đánh
giá coi như không có kiểm tra, không có kiểm tra coi như không có hoạt động quản
lý. Các chức năng quản lý được thực hiện một cách có hiệu quả hay không là nhờ
có thông tin; thông tin vừa là điều kiện vừa là phương tiện thực hiện tổng hợp các
chức năng quản lý. Các chức năng quản lý vừa mang tính độc lập tương đối, vừa có
liên hệ mật thiết với nhau tạo thành một chu trình quản lý, được biểu thị bằng sơ đồ
sau :
Lập kế hoạch
Kiểm tra Thông tin Tổ chức
Chỉ đạo
Sơ đồ 1.2 : Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý [ 24, tr. 6]
Như vậy qua các định nghĩa trên, có thể thấy là chức năng quản lý được xem
là những nhiệm vụ có tính nghề nghiệp mà tất cả các nhà quản lý phải thực hiện
trong quá trình quản lý của mình. Các chức năng quản lý thể hiện bản chất của quá
trình quản lý, việc thực hiện các chức năng quản lý phải đảm bảo cho hoạt động
quản lý tồn tại và phát triển. Các chức năng quản lý có mối quan hệ mật thiết với
nha
u. Nó là cơ sở, điều kiện của nhau, nó đan xen vào nhau, tương tác với nhau
trong một quá trình quản lý đầy năng động, sáng tạo nhằm đưa tổ chức tiếp cận mục
tiêu đã xác định một cách có hiệu quả. Từ khái niệm quản lí và tìm hiểu các chức
năng quản lí nêu trên cho thấy rằng bất cứ lĩnh vực nào trong đời sống xã hội khi có
hoạt động ít nhiều điều xuất hiện khái niệm q
uản lí có đầy đủ các yếu tố của khái
niệm này và các chức năng tiêu biểu của nó. Có khác chăng chính là mỗi lĩnh vực
có đặc thù riêng và có thêm những nét riêng biệt trong hoạt động quản lí. Quản lí
giáo dục cũng nằm trong quy định khách quan này.
1.2.2. Quản lí giáo dục
* Khái niệm quản lí giáo dục
Quản lý giáo dục là một khoa học quản lý chuyên ngành được nghiên cứu
trên nền tảng của khoa học quản lý nói chung. Cũng giống như quản lí, quản lý giáo
dục cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới khái
niệm giáo dục trong phạm vi quản lý một hệ thống giáo dục nói chung mà hạt nhân
của hệ thống là các cơ sở trường học.
Về khái niệm q
uản lý giáo dục các nhà nghiên cứu đã quan niệm như sau:
Theo P. V. Khuđôminxky, M. M Mecchiti Zade : “Quản lý giáo dục là tác động có
hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp
khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống (từ Bộ Giáo dục và Đào tạo đến trường
học) nhằm đảm bảo việc quản lý giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm
bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng
các
quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học
và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em”[2, tr.50]; “Quản lý giáo
dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch
hoá, tài chí
nh, cung tiêu . . . ) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ
quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [2, tr.52]
Các nhà nghiên cứu về quản lí giáo dục Việt Nam như tác giả Trần Kiểm và
tác giả Phạm Minh Hạc cũng có những khái niệm tương tự về quản lí giáo dục:
“QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch
, có ý thức và hướng đích của chủ thể
quản lí ở các cấp khác nhau nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho
thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của xã hội
cũng như các quy luật của QLGD, của sự phát triển tâm lí và thể lực của trẻ em”
[34, tr. 64] hoặc “ QLGD là quản lí trường học, thực hiện đường lối giáo dục của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành the
o
nguyên lí giáo dục, để tiến tới mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ
trẻ và với từng học sinh” [26, tr.26]
Những khái niệm trên tuy có cách diễn đạt khác nhau nhưng tựu chung thì
đặc trưng của quản lí giáo dục gồm có : chủ thể quản lí, đối tượng quản lí, khách thể
quản lí, mục tiêu quản lí. Nói một cách khác quản lí giáo dục được hiểu như sự tác
động có tính tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lí đến các đối tượng quản lí
nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Cụ thể hơn,
QLGD bao gồm 2 cấp độ sau : [36, tr. 36]
Phải có chủ thể QLGD, ở cấp vĩ mô là quản lí của Nhà nước mà các cơ quan
trực tiếp quản lí Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục
và Đào tạo. Phải có hệ thống tác động quản lí theo nội dung, chương trình, kế hoạch
thống nhất từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục trong
mỗi giai đoạn cụ thể ở cấp vi m
ô là quản lý của hiệu trưởng các trường học. Phải có
một lực lượng những người làm công tác giáo dục với hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật tương ứng và đông đảo các em học sinh.
Dù ở cấp độ nào chúng ta cũng thấy rõ 4 yếu tố của QLGD, đó là: chủ thể
quản lí, đối tượng bị quản lí (
nói tắt là đối tượng quản lí), khách thể quản lí và mục
tiêu quản lí. Bốn yếu tố này tạo thành sơ đồ sau :
Chủ
thể
quản lí
Mục tiêu quản lí
Khách
thể quản
lí
Đối
tượng
quản lí
Sơ đồ 1.3:
Sơ đồ khái niệm quản lí [36, tr. 38]
Rõ ràng bốn yếu tố vừa nêu cũng nằm trong hệ thống lí luận chung về quản
lí nhưng cần chú ý ở đây là khách thể quản lí và mục tiêu quản lí ở đây là con
người, cụ thể hơn con người trong hoạt động giáo dục trong môi trường quản lí giáo
dục ( nhằm phân biệt với các lĩnh vực khác như : kinh tế, công nghiệp, dịch vụ). Vì
thế nó sẽ có
những đặc điểm riêng biệt.
* Đặc điểm QLGD
Từ những khái niệm QLGD trên đây, chúng tôi rút ra các đặc điểm cơ bản của
QLGD như sau :
Thứ nhất : Quản lí giáo dục bao giờ cũng chia thành chủ thể quản lí và đối
tượng bị quản lí. Đây là đặc điểm cơ bản của hoạt động quản lí nói chung và QLGD
nói riêng. QLGD là quản lí việc đào tạo con người, việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách, việc tái sản xuất nguồn lực con người. Đối tượng quản lí ở đây là những
ai thực hiện hoặc chịu sự tác động của giáo dục & đào
tạo.
Thứ hai : Quản lí giáo dục bao giờ cũng liên quan đến việc trao đổi thông tin
và đều có mối liên hệ hai chiều. Quản lí được diễn ra nhờ các dấu hiệu của mình.
Đó là thông tin. Thông tin chính là các tín hiệu mới, được thu nhận, được hiểu và
được đánh giá là có ích cho các hoạt động quản lí (cho các chủ thể quản lí và đối
tượng bị quản lí).
Thứ ba: Quản lí giáo dục ba
o giờ cũng có khả năng thích nghi (luôn biến đổi).
Thứ tư
:
Quản lí giáo dục vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì quản lí giáo
dục phải được xây dựng chủ yếu trên cơ sở các sự kiện khoa học trong hoạt động
quản lí giáo dục. Những sự kiện này được quan sát và điều tra, sưu tầm, tổng kết,
thực nghiệm . . . phải được phân tích bằng những tri thức liên quan. Tính khoa học
còn thể hiện ở quan điểm và tư duy về hệ thống, tôn trọng các quy luật khách quan
tức là xuất phát từ tính quy luật của các quan hệ trong quá trình hoạt động của các
tổ chức bao gồm n
hững quy luật kinh tế, xã hội, công nghệ . . . Tính nghệ thuật của
quản lí thể hiện ở chỗ là sự vận dụng các kiến thức khoa học một cách linh hoạt để
quản lí một cách có hiệu quả.
Thứ năm: Quản lí giáo dục gắn liền với quyền lực, lợi ích và danh tiếng.
Người lãnh đạo có ưu thế quan trọng trong việc tổ chức, họ có khả năng điều khiển
người khác và chi phối các nguồn lực và tài sản của tổ chức. Người lãnh đạo còn là
người có điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện các mong muốn của mình thông qua
việc sử dụng người
khác trong quá trình dẫn dắt, thu hút, lôi kéo họ nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức. Người lãnh đạo đồng thời dễ để lại danh tiếng cho người khác
và cộng đồng nếu sự lãnh đạo tổ chức của mình phát triển và đạt được mục tiêu của
tổ chức. Từ các đặc điểm này cho thấy rõ hơn sự khác biệt của hoạt động quản lí
giáo dục và đối tượng chủ yếu của hoạt động quản lí giáo dục chính là con người
nằm trong sự tác động của giáo dục & đào tạo. Chính điều này sẽ quy định đến bản
chất của quản lí giáo dục. Vì đặc điểm cơ bản của sự vật, hiện tượng sẽ quy định
bản c
hất của sự vật hiện tượng tạo nên sự hài hoà trong một chỉnh thể thống nhất.
* Bản chất QLGD
Có thể hiểu “Bản chất là thực chất cơ bản, bên trong sự vật, hiện tượng”
[41,tr. 125] với ý nghĩa trên khi xem xét bản chất của QLGD là nghiên cứu tính chất
QLGD qua các mặt : nhận thức luận, tâm lí học, điều khiển học . . . nhìn nhận hiện
tượng trên nhiều mặt như vậy sẽ cho ta một biểu tượng hoàn chỉnh về nó, giúp
chúng ta nhận thức và giải quyết các vấn đề lý thuyết và thực tiễn QLGD, quản lí
nhà trường, quản lí quá trình gi
áo dục đúng đắn hơn. Kinh nghiệm thực tiễn cho
thấy, quản lí phải xuất phát từ việc nắm vững, thực hiện tốt các quy luật của vấn đề
đặt ra. Vấn đề gắn liền với thực trạng hiện thực của hệ thống, nó được ý thức đầy
đủ, đúng đắn qua đầu vào, các yếu tố nghiệp vụ quản l
í gắn bó hữu cơ, hài hòa ăn
khớp với nhau từ mục tiêu, nguyên tắc, chức năng, phương pháp, cơ cấu tổ chức và
cán bộ. Bản chất của QLGD là sự tác động có mục đích, có ý thức của chủ thể quản
lí đến các đối tượng quản lí nhằm làm cho ngành giáo dục & đào tạo thực hiện tốt
chức năng của mình. Nói đến QLGD chính là nói đến quản lí của nhà trường. Đó l
à
nơi triển khai và thực hiện các mục tiêu, nguyên lí giáo dục nhằm đảm bảo thực
hiện tốt việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho xã hội trong chương trình phát
triển kinh tế - xã hội tổng thể của một quốc gia, một địa phương mà giáo dục là yếu
tố then chốt trong kế hoạch tổng thể đó. Vì thế, tìm hiểu quản lí
giáo dục cũng chính
là tìm hiểu công tác quản lí nhà trường.
1.2.3. Quản lí nhà trường
Đối với công tác quản lí nhà trường được quy định rõ trong văn bản quy
phạm pháp luật cụ thể nhất là Luật Giáo dục (2005) quy định “Nhà trường trong hệ
thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế
hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước tạo điều
kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân”
[39, tr. 42]
Theo từ điển giáo dục học thì “Quản lí nhà trường là thực hiện hoạt động
quản lí giáo dục trong tổ chức nhà trường. Hoạt động quản lí của nhà trường do
chủ thể quản lí nhà trường thực hiện, bao gồm các hoạt động quản lí trong nhà
trường như : quản lí giáo viên, quản lí học sinh, quản lí quá trình dạy học, quản lí
cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, quản lí tài chính trường học, quản lí lớp học
như nhiệm vụ của giáo viên, quản lí mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng”
[47, tr. 31]
“Hoạt động quản lí nhà trường chịu sự tác động của những chủ thể quản lí
bên trên nhà trường (
các cơ quan quản lí giáo dục cấp trên) nhằm hướng dẫn và
tạo điều kiện cho hoạt động của nhà trường và bên ngoài nhà trường, các thực thể
bên ngoài nhà trường, cộng đồng nhằm xây dựng những định hướng về sự phát
triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho nhà trường phát triển” [47, tr. 32]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lí nhà trường là t
hực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh” [26, tr. 27]
Vậy, quản lí nhà trường cũng chính là quản lí giáo dục nhưng trong một
phạm vi xác định cụ thể của một đơn vị giáo dục nền tảng đó là nhà trường. D
o vậy
quản lí nhà trường vận dụng tất cả các nguyên lí chung của quản lí giáo dục nhằm
đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. Nói như thế không có
nghĩa là quản lí trường học là sự sao chép một cách máy móc toàn bộ hệ thống lí
luận về quản lí giáo dục để vận dụng trong nhà trường. Nên biết rằng quản lí trường
học là cấp độ vi m
ô của hoạt động giáo dục. Trong khi đó quản lí giáo dục là một
khái niệm rộng dùng chung cho cả một hệ thống giáo dục. Ngay cả trong lĩnh vực
trường học cũng được chia nhiều cấp độ nhà trường khác nhau. Quản lí trường học
cấp trung học phổ thông khác với quản lí trường học cấp trung học cơ sở và càng
khác xa với quản lí trường học cấp tiểu học. Mỗi cấp học điều có những mục tiêu
giáo dục khác nhau, do đối tượng giáo dục khác nhau. Chính vì thế quản lí trường
học chính là sự vận dụng các nguyên lý quản lí giáo dục một cách linh hoạt đối với
từng cấp học.
* Quản lí trường tiểu học
Theo cách hiểu QLGD như đã nêu trên, thực chất QLGD suy cho cùng là hệ
thống những tác động có tính khoa học theo một quy trình và nguyên tắc nhất định
vào các hoạt động của nhà
trường để các hoạt động này vận hành theo đúng mục
tiêu. Trường học là bộ phận cấu thành của các hệ thống giáo dục. Vì vậy để thành tố
này vận hành và phát triển thì bản thân nhà trường cũng cần phải quản lí. Quản lí
trường học cũng có thể hiểu như một bộ phận của QLGD nói chung. Như vậy quản
lí nhà trường cũng chính là QLG
D nhưng trong một phạm vi xác định của một đơn
vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. Vì thế quản lí giáo dục tiểu học là vận dụng
tất cả các nguyên lí chung của QLGD nhằm đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà
trường theo mục tiêu đào tạo của cấp tiểu học là : Giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh t
iếp tục học trung
học cơ sở [39, tr. 21]
Vị trí của cấp tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân được thể hiện tóm
tắt ở sơ đồ sau :