Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Quản lý nhà nước đối với hệ thống NHTM Việt nam hiện nay: nội dungnhững bất cập và kiến nghị.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.78 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Tài chính ngân hàng

TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Quản lý nhà nước đối với hệ thống NHTM Việt
nam hiện nay: nội dung-những bất cập và kiến nghị.
Sinh viên thực hiện : Ngô Văn Thịnh : STT: 113
Nguyễn Việt Anh 7
Nguyễn Quang Tùng 136
Lớp : TCH301.5_LT
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan
Hà Nội, tháng 6/2013
Mở đầu
Ở Việt Nam ngành ngân hàng mới chỉ trải qua 62 năm hình thành và phát triển bắt đầu
được hình thành từ 06/05/1951điều này cho thấy nó vẫn chỉ là một chặng đường rất ngắn
so với thế giới nhưng trong hơn một thập kỉ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi quan trọng,
xuất hiện ngày càng nhiều của các NHTM trong nền kinh tế, với sự đóng góp vô cùng
quan trọng của mình vào nền kinh tế hệ thống NHTM ở VN đã hình thành nên một kênh
dẫn vốn, huy động vốn giúp cho nền kinh tế VN ngày càng phát triển, thúc đẩy quá trình
tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Bên cạnh đó các
NHTM còn khẳng định mình trong việc góp phần ổn định sức mua của đồng tiền đóng
góp không nhỏ vào quá trình điều hành nền kinh tế ở Việt Nam. Nhưng cùng với sự phát
triển nhanh chóng trong suốt quá trình Việt Nam thực hiện hội nhập thể hiện qua việc
tăng lên nhanh chóng về số lượng và về cả quy mô lẫn lĩnh vực hoạt động việc quản lý
của bản thân các NHTM đối với chính mình ngày càng khó khăn khi kinh nghiệm còn
non kém và sự hội nhập thì ngày càng sâu và rộng khiến cho việc quản lý không còn đơn
giản như trước. Chính vì thế để đảm bảo cho việc phát triển ổn định của hệ thống NHTM
giúp phần phát triển đất nước cùng với đó là việc sử dụng hệ thống NHTM như một công


cụ đắc lực để điều tiết nền kinh tế thị trường đang còn nhiều bất cập này rất cần tới bàn
tay của nhà nước tham gia vào việc quản lý hoạt động của các NHTM tại Việt Nam hiện
nay.
Page 4
I . Tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam
1.1 Định nghĩa đặc điểm của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại.
Cho tới thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về ngân hàng thương mại:
- Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và các hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tìa chính.
- Đạo luật ngân hàng của Pháp ( 1941) cũng đã định nghĩa: ngân hàng thương mại là
những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tin dụng và tài chính.
- Ở Việt Nam: theo tinh thầng Luật các Tổ chức tín dụng ( công bố ngày 26121997) và
Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật của luật Tổ chức tín dụng( có hiệu lực thi hành
ngày 01/10/2004) thì ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi sủ dụng
số tiền này để cugn cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan.
Từ những nhận định trên có thể thấy Ngân hàng thương mại là một trong những định chế
tài chính mà đặn trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, Ngân hàng thương
mại còn cung cấp nhiều dịch vụ nhằm thỏa mã tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã
hội.
Page 5
1.1.2 Chức năng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội, Ngân hàng là một yếu tố không thể thiếu bởi
các chức năng cơ bản của nó là : trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, chức năng
tạo tiền.

Trung gian tín dụng: Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là “ cầu nối” giữa người
có vốn và người cần vốn. Thông qua việc huy động vốn tiền tệ tạm thời nhà rỗi trong nền
kinh tế ngân hàng hình thành nên quĩ cho vay của nó rồi dem cho vay đối với nền kinh tế,
bao gồm cả cho vay ngắn hạn và dài hạn mà chủ yếu là cho vạy ngắn hạn. Với chức năng
này ngân hàng vừa đóng vai trò là người di vay vừa đóng vai trò là người cho vay.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng này xuất phát từ những cơ sở khách quan.
Đó là đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vố xã hội đã phát sinh
hiện tượng trong cùng một lúc có những xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân có vốn tiền tệ
tạm thời chưa sử dụng. Ngược lại, lại có những doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu vốn
cần bổ sung trong một thời gian ngắn. Mâu thuẫn này càn được giải quyết để tăng hiệu
quả sử dụng vốn trong nền kinh tế và được thỏa mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp hoặc
gián tiếp. Tuy nhiên quan hệ tín dụng trực tiếp dưới hình thức quan hệ thương mại hoặc
doanh nghiệp phát hành trái phiếu có những hạn chế vì các chủ thể khó có thể biết rõ
được khả năng và của nhau. Hơn nữa, phải có sự tin tưởng để chuyển nhượng vốn lẫn
nhau. Hạn chế này đòi hỏi phải có ngân hàng đứng ra làm trung gian để chuyển vốn từ
nơi thừa sang nơi thiếu tạm thời. Thêm nữa, nhu cầu tiết kiệm và đầu tư trong xã hội
cũng đòi hỏi ngân hàng làm trung gian để chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người có
nhu cầu đầu tư.
Đây chính là vai trò quan trọng nhất của ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất
của ngân hàng thương mại là di vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát triển của
ngân hàng. Đông thời làm cơ sở để thực hiện các chức năng sau.
Page 6
Trung gian thanh toán: Ngân hàng thương mại thực hiện các chức năng trung gian thanh
toán trên cơ sở nó thực hiện các chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc
nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản
thu, chi. Đó chính là tiền để khách hàng thực hieenjt hanh toán cho ngân hàng, ngân hàng
vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt
giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế, đó là rủi ro do phải vận chuyển tiền, chi phí
thanh toán lớn, đặc biệt với khác hàng ở các xa nhau đã tọa nên nhu cầu khác hàng thực
hiện thanh toán qua ngân hàng. Việc hệ thống ngân hàng thực hiện chức năng trung gian

thanh toán có ý nghĩa rất to lớn với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, hệ thống
ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khác hàng nhiều công cụ thanh toán thuận lợi như
séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ rút tiền… tùy theo nhu cầu khác hàng có thể chọn
chi mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải dữ
tiền mặt để gặp chủ nợ, gặp người được hưởng dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kih tế sẽ tiết
kiệm được nhiều chi phí, thời gian lại đảm bảo thanh toán an toàn. Như vậy chức năng
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đây nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn do đó
góp phần tăng trưởng kinh tế. Đồng thời với việc thanh toán không dùng tiền mặt qua
ngân hàng đã giảm được tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông
tiền mặt.
Đối với Ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân
hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa nó lại tăng thêm nguồn vốn cho vay
của ngân hàng thể hiện trên số dư của tài khoản tiền gửi của khác hàng. Chức năng này
cung chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại.
Chức năng tạo tiền: tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của Ngân
hàng thương mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yếu cầu chính cho sự
tồn tại và phát triển của mình, các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang
tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng thương
Page 7
mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín
dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được
khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được
họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống Ngân
hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh thanh toán trong nền kinh tế, đáp
ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào
tỉ lệ dự trử bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng với Ngân hàng thương mại, do
vậy Ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.

1.2. Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Ngân hàng thương mại ra đời với tính chất là nhận tiền gửi, sử dụng vào nhiệm vụ cho
vay, chứng khoán và các dịch vụ khác của ngân hàng, ngày càng thể hiện rõ vai trò của
nó đối với sự phát triển kinh tế. Với chức năng của mình, Ngân hàng thương mại giữ vai
trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiện qua các nội dung sau:
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: thực tế cho thấy, để phát
triển kinh tế các đợn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều khó khăn nhất là cần có người đứng ra
trung tiền nhàn dỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn
huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại đã
cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá
trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt
động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy
móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản
phẩm cho xã hội.
Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường: Bước sang cơ chế thị
trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân hàng đã làm biến đổi hoạt động trong các
nhà máy xí nghiệp, khơi dậy sức sống bằng các dây truyền sản xuất hiện đại năng suất
cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều đó không thể thực hiện
Page 8
bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng
còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu động của
các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thương trực của các doanh nghiệp. Một khía
cạnh khác đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp đó là một ngân
quỹ để dành cho việc đào tạo đỗi ngũ la động phù hợp với sự phát triển của khoa học –
kỹ thuật – công nghệ cao. Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những
chuyên gia đầu ngành, những các bộ có năng lực và những công nhân lành nghề.
Ngân hàng thương mại là một công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Cùng với
sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia làm hai cấp: Ngân hàng nhà
nước và các ngân hàng thương mại. Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị

trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong
hệ thống từ đó góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua
việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện
việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng
một cách có hiệu quả.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế: Nhận
thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh tế quốc gia với thế giới
đem lại những lới ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Một trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với
nền tài chính quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực
kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các
nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan
hệ tín dụng với các ngân hàng nhà nước của Ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián
tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó
Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù họp với sự
vận động của nền tài chính quốc tế.
Page 9
1.3 Tầm quan trọng của việc quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Các NHTM - bản thân chúng cũng là các DN, song là các DN đặc biệt, do vậy hoạt động
của Ngân hàng không những tác động đến giá trị của ngân hang, mà còn tác động trực
tiếp đến doanh nghiệp và các hộ gia đình và toàn bộ nền kinh tế.
Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong
toàn bộ nền kinh tế nói chung: nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đến đầu tư, là
công cụ của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược; hoạt động của
các trung gian tài chính đặc biệt là các tổ chức nhận tiền gửi, có ảnh hưởng quyết định
đến việc điều hành chính sách tiền tệ
Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hầu hết các chủ thế kinh tế trong xã hội nên sự
sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền đồng thời

đến ảnh hưởng của toàn hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc
với nhau chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động
của hệ thống thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân
hàng cũng sẽ gây nên vấn đề thanh khoản của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặc khác, sự
sụp đổ của ngân hàng sẽ gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Bản chất của các hoạt động ngân hàng là chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro sẽ tăng lên khi
các ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận làm phương hại đến quyền lợi của người
gửi tiền. Nguyên tắc hoạt động của các ngân hàng là đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn.
Bản tổng kết tài sản của nó luôn chứa đựng mức rủi ro tiềm năng do chênh lệch về thời
hạn giữa nguồn vốn và sử dung vốn, giữa yêu cầu thanh khoản và mong muốn sinh lời tối
đa. Vì thế sự điều tiết chặt chẽ và giám sát thường xuyên của NHTW sẽ ngăn cản xu
hướng chạy theo lợi nhuận quá mức, đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro và phá sản.
Sự tồn tại và phát triển các trung gian tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng phụ
thuộc vào lòng tin của công chúng với tư cách là người gửi tiền. Một sai sót nhỏ trong
Page 10
quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ của ngân hàng cũng có thể gây nên sự nghi ngờ
có tính lan truyền trong dân chúng và hệ thống ngân hàng. Điều này thực sự đe dọa sự
tồn tại của các ngân hàng. Một sự sự hiểu nhầm xảy ra, nếu không có sự trấn an và hỗ trợ
của ngân hàng trung ương thì hậu quả thật sự khó lường.
Nhà nước còn đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn hóa quy định thủ tục vay vốn,
giải quyết các tranh chấp giữa khách hàng và ngân hàng. Từ khi đất nước chuyển sang
nền kinh tế thị trường và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO. Theo đó các tổ chức kinh tế lớn trên thế giới đã một lượng vốn rất lớn vào Việt
Nam để đầu tư vào tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế thông qua kênh phân phối chính
là các Ngân hàng thương mại. Cùng với đó là sự xuất hiện của vô số các Ngân hàng
thương mại nước ngoài xâm nhập vào thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh sự xuất
hiện của vô số các Ngân hàng thương mại của nước ngoài thành lập chi nhánh hoặc văn
phòng đại diện tại Việt Nam là sự thành lập vô số các Ngân hàng thương mại cổ phần
trong nước. Với sự mở rộng lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng thương mại như hiện nay

đòi hỏi Ngân hàng nhà nước phải có những chính sách và biện pháp phù hợp để giúp các
Ngân hàng thương mại có thể đứng vững và phát triển.
II. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM và những điều chỉnh của
nhà nước
2.1 Quản lý của nhà nước đối với hệ thống NHTM Việt Nam trên cơ sở pháp lý
Pháp luật là nền tảng cơ bản để nhà nước thực hiện quyền điều hành của mình đối với đất
nước và Ngân hàng thương mại cũng vậy. Trên thực tế, hệ thông luật pháp hiện hành về
hoạt động ngân hàng đã được thiết lập 12/12/1997 khi hai bộ luật cơ bản là Luật ngân
hàng nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng, được thay thế cho các Pháp lệnh
cũ ban hành vào ngày 23/5/1990. Gần đây nhất, Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật
các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi 16/6/2010.
Page 11
Căn cứ vào hệ thống Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật tổ chức tín dụng, bằng
cách sửa đổi, bổ sung các thông tư, nghị định về quản lý hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam, nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm quản lý và
tạo điều kiện thuận lợi để các ngân hàng thương mại phát triển. Như nghị định số
59/2009/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại đã
được sửa đổi và bổ sung chi tiết hơn so vớ nghị định số 49/2000/NĐ-CP. Gần đây nhất,
nhà nước đã ban hành thông tư số 21/2013/TT-NHNN về Quy định về mạng lưới hoạt
động của ngân hàng thương mại
2.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008-
2013
2.2.1. Tăng trưởng tín dụng
Theo số liệu của NHNN, tín dụng của toàn
hệ

thống
tăng trưởng 8,91% trong cả năm
2012- thấp nhất kể từ năm 1992.
Nguyên nhân tín dụng tăng thấp là cầu

yếu,

khả
năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn,
hàng tồn kho cao nên nhiều DN không đủ điều kiện vay vốn; các TCTD phải kiểm
soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn chặn nợ xấu…
 Trong cơ cấu tín dụng, dư nợ bất động
sản

chiếm
tới hơn một nửa, khoảng 1,5 triệu
tỷ đồng. Trong khi tín dụng tăng trưởng thấp thì
huy

động
vốn của các TCTD lại
tăng mạnh. Vốn huy động ước cả năm đạt mức tăng trưởng 17%.
Page 12
Nguồn : Tổng cục thống kê
Trong năm 2013, tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu khởi sắc, tính đến cuối tháng 6 năm
2013,
tín dụng toàn hệ thố ng ước tính t
ăng
4,5% so với cuối năm 2012, trong đó tín
dụng bằng VND tăng 7,55%, tín dụng bằng ngoại tệ giảm 9,4%. Cho tới hết tháng 10
năm 2013, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 6.8% đây là một dấu hiệu đáng mừng cho nền
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên với mức tăng trưởng này gần như chắc chắn sẽ không đạt
mục tiêu tăng trưởng 12% vào năm 2013 khi mà cần nâng tỉ lệ tăng trưởng thêm hơn 5%
trong 2 tháng cuối năm
2.2.2 .Nợ xấu.

Tốc độ tăng nợ xấu ở mức báo động,
năm

2012
tăng 64% so với cuối năm 2011.
Tính đến cuối tháng 9/2012, với dư nợ khoảng 2,7 triệu ngàn tỷ đồng và nợ xấu ở
mức 8,82%. Nợ xấu có tài sản đảm bảo bằng bất động
sản


bất động sản hình thành
Page 13
trong tương lai chiếm đến hơn 70% tổng nợ xấu. Nợ xấu tập trung ở nhóm các ngân
hàng

thương
mại với 95,5% tổng nợ xấu của
các

TCTD
trong nước (NHTM Nhà
nước chiếm 50,5%).
Một số nguyên nhân gây ra nợ xấu có thể kể đến.
Thứ nhất: Kinh tế Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế trong 5-6
năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức thấp, giai đoạn 2008-2010 chỉ
đạt 6.14%, Lạm phát cao làm giảm sức mua của người tiêu dùng, thắt chặt chi tiêu làm
cầu nội địa giảm, tổng cầu giảm, xuất khẩu giảm, hàng tồn kho lớn, vốn bị ứ đọng, sản
xuất bị đình trệ, doanh nghiệp rơi vào thua lỗ phá sản làm tăng tỉ lệ nợ xấu
Page 14
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng và lạm phát 2008-2012

Nguồn : tổng cục thống kê
Thứ 2: Việc lạm dụng đòn bẩy tài chính đã khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải
đối mặt với nhiều rủi ro khi thị trường tài chính có biến động tiêu cực, đặc biệt là
trong các trường hợp thắt chặt tín dụng. Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại hoặc
Chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô theo hướng thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát
thì nhu cầu đầu tư và tiêu dùng giảm, hàng tồn kho bắt đầu ứ đọng và các khoản
phải thu từ khách hàng bị đình trệ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
giảm sút dẫn đến thua lỗ phá sản không thể trả nợ được ngân hàng. Bên cạnh đó, một lượng vốn lớn được
đâu tư vào bất động sản, kinh tế suy thoái làm, thị trường bất động sản đóng băng, khả năng thanh khoản
của bất động sản giảm, doanh nghiệp không thể bán được bất động sản để trả nợ cho ngân hàng.
Bảng 1. Tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu trên tổng

nợ tính giai đoạn 2009- 2011
Ngân
hàng
Nợ nhóm
2
Nợ nhóm 3, 4,
5
2009 2010 9
/
2011 2011 2009 2010 9
/
2011 2011
VCB
5,67%
9,91%
15,12%
14,71%
2,47%

2,83%
3,94%
2,03%
BIDV
16,05%
11,17%
10,20%
11,82%
2,98%
3,22%
2,67%
2,96%
CTG
1,02%
1,02%
1,36%
2,05%
0,61%
0,66%
1,44%
0,75%
Page 15
ACB
0,58%
0,24%
0,79%
0,32%
0,41%
0,34%
1,07%

0,90%
STB
0,17%
0,04%
0,22%
0,29%
0,64%
0,54%
0,56%
0,58%
EIB
0,60%
0,39%
1,51%
1,39%
1,83%
1,42%
1,50%
1,61%
SHB
0,44%
2,45%
3,05%
2,73%
2,79%
1,40%
1,55%
2,13%
HBB
11,64%

20,18%
23,85%
17,00%
2,25%
2,39%
2,83%
4,42%
NVB
1,05%
1,52%
1,88%
2,91%
2,45%
2,24%
2,84%
2,92%
Nguồn:Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính các
NHTM
Thứ 3: Thay vì nâng cao chất lượng các ngân hàng lại tập trung đầu tư mở rộng quy mô,
tăng trưởng tín dụng luôn ở mức cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc
độ huy động vốn trong suốt năm 2012, cùng với mục tiêu kiềm chế lạm phát dấn đến hệ
quả là lãi suất thị trường luôn chịu ở áp lực cao. Do vậy để đáp ứng được lãi suất này, các
doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào các hoạt động phi sản xuất với lợi nhuận và rủi ro cao.
Trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng việc kinh doanh thua lỗ là điều dễ dàng xảy đến.
Với mục tiêu mở rộng quy mô, việc thẩm định các dự án và cấp vốn của nhiều ngân hàng
chưa thật sự hiệu quả, mục đích sử dụng vốn vay, tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp,
khả năng trả nợ không được tính toán chính xác.
Với những thống kê trên thì tỉ lệ nợ xấu ở Việt Nam là đáng lo ngại, nhưng chưa thực sự
quá đáng báo động. Cụ thể theo thống kê 73% dư nợ là có tài sản bảo đảm với hơn
66% được bảo đảm bằng bất động sản. Như vậy, nếu giải quyết được vấn đề thị

trường bất động sản thì lượng nợ xấu như đã nêu trên không đáng quan ngại. Từ đầu
năm tới nay việc xử lý nợ xấu bằng trích lập dự phòng đạt 32000 tỷ đồng, dự kiến trong năm nay VAMC sẽ mua
được khoảng 30-35000 tỷ đồng nợ xấu. Như vậy, chỉ riêng với nội lực từ trích lập dự phòng rủi
ro tín dụng, các NHTM đã có thể phần nào xử lý được nợ xấu của mình.
Bảng 2. Tỷ lệ dự phòng/d
ư
nợ và nợ xấu trên tổng

nợ tính giai đoạn 2009- 2011
Page 16
Ngân
Hàng
Tỷ lệ dự
phòng
/dư

nợ
Tỷ lệ nợ
xấu
2009
2010
9
/
2011
2011
2009
2010
9
/
2011

2011
VCB
3.27%
3.22%
3.70%
2.54%
2.47%
2.83%
3.94%
2.03%
BIDV 2.55% 2.62% 2.08% 2.77% 2.98% 3.22% 2.67% 2.96%
CTG
0.95%
1.18%
1.35%
1.03%
0.61%
0.66%
1.44%
0.75%
ACB
0.81%
0.82%
1.00%
0.96%
0.41%
0.34%
1.07%
0.90%
STB 0.86% 0.99% 1.09% 0.97% 0.64% 0.54% 0.56% 0.58%

EIB
0.99%
1.01%
0.89%
0.83%
1.83%
1.42%
1.50%
1.61%
SHB
0.99%
1.12%
1.09%
1.22%
2.79%
1.40%
1.55%
2.13%
HBB 1.65% 2.06% 2.72% 2.64% 2.25% 2.39% 2.83% 4.42%
NVB
0.96%
1.19%
1.05%
1.23%
2.45%
2.24%
2.84%
2.92%
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính các NHTM.
Với rất nhiều nỗ lực của NHNN trong hơn một năm qua, các chính sách đã phát huy

tác dụng trong việc xử lý nợ xấu, hạn chế nợ xấu gia tăng cũng như giảm thiểu tối đa
ảnh hưởng của nợ xấu đối với nền kinh tế cụ thể: Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN),
đến hết
tháng
5 -2013, nợ xấu của toàn hệ thống giảm xuống 4,64% trên tổng dư nợ,
thay vì 6% vào khoảng tháng 2 và 8,6%-10% hồi tháng 10/2012.
2.2.3 Tính thanh khoản.
Khác với các năm trong giai đoạn 2007-2012, khả năng thanh khoản của các ngân hàng
TM ngày càng được củng cố vào những tháng cuối năm 2013, cụ thể tính đến
18.9.2013 huy động vốn đạt 11.74% cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng tín dụng
( đạt 5.83%) tại cùng thời điểm này. Nhờ sự dồi dào về thanh khoản này mà lãi suất ở
thị trường liên ngân hàng giữ ở mức khá ổn định ( từ 3-4%). Theo Quyết định 1073/QĐ-
NHNN năm 2013 của NHNN Việt Nam các loại lãi suất cho vay tái cấp vốn, tái chiết
khấu và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng đều giảm 1%, lần lượt
về 7% và 5% và 8% một năm trong khi lãi suất cơ bản hiện tại đạt là 9%. Với tình hình
này, các NHTM sẽ đẩy mạnh cho vay đến khi dự trữ tiền mặt giảm tối thiểu, góp phần
tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận bởi nếu có sự thiếu hụt thanh khoản các ngân hàng này
Page 17
hoàn toàn có thể vay ở Ngân hàng trung ương mà vẫn có lợi nhuận. Tuy vậy với tình hình
thị trường tài chính hiện tại, việc dồi dào thanh khoản trong khi cầu về tín dụng suy giảm,
ngân hàng đang đứng cung tiến dụng dồi dào mà nhu cầu thị trường suy giảm, lợi nhuận
giảm mạnh.
2.2.4 An toàn tối thiểu với hệ thống ngân hàng thương mại
So sánh với hệ thống ngân hàng của các quốc gia trong khu vực thì số lượng ngân
hàng ở Việt Nam quá lớn nhưng quy mô vốn điều lệ và tổng tài sản lại quá nhỏ.
Tính đến thời điểm tháng 9/2012, hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm 05
NHTMNN với tổng số vốn điều lệ 111.372 tỷ đồng và 35 NHTMCP với tổng số
vốn điều lệ 172.854 tỷ đồng. Tính đến hết năm 2010 và 2011, vẫn có một số NHTM
chưa đáp ứng được quy định mức vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng theo Nghị định
141/2006/NĐ-CP. Mặc dù đến thời điểm cuối năm 2011, hầ u hế t các NHTM tăng

đủ vốn điều lệ trừ một số ngân hàng nhỏ như bị mua lại hoặc sáp nhập : điển hình nhất là
quyết định 1559/QĐ-NHNN ngày 07/08/2012 chính thức chấp thuận việc sáp nhập Ngân
hàng Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) và gần đây nhất
là quyết định sáp nhập ngân hàng TMCP Đại Á (DaiABank) vào HDBank và mua lại
Công ty TNHH Một thành viên tài chính Việt- Societe (SGVF), nâng tổng số vốn điều lệ
8.100 tỷ đồng, tổng tài sản trên 85.000 tỷ đồng và mạng lưới hoạt động hơn 210 điểm
giao dịch trên cả nước.
Tuy vậy nhìn tổng thể thì chỉ có 6 ngân hàng có tổng vốn điều lệ lớn hơn 10000 tỷ, 7
ngân hàng có tổng vốn điều lệ từ 5000-10000 tỷ, hầu hết các ngân hàng còn lại vốn điều
lệ đều nhỏ hơn 5000 tỷ.
Page 18
Vốn điều lệ các NHTMNN giai đoạn 08-11 Vốn điều lệ các NHTMCP giai đoạn 08-11
Nguồn: Báo cáo thường niên, báo cáo tài chính các NHTM
Nhằm đạt quy định vốn điều lệ và thoát khỏi việc sáp nhập mua lại, hoặc tự giải thể các
NHTM sử dụng nhiều cách thức để tăng vốn điều lệ như đầu tư lòng vòng giữa các công
ty con, quỹ đầu tư, … nổi bật nhất là hiện tượng sở hữu chéo
- Sở hữu chéo: Giả sư cổ đông ngân hàng A vay vốn ngân hàng B để đầu tư vào ngân
hàng B và ngược lại; hoặc tổng công ty X sở hữu doanh nghiệp Y, đồng thời sở hữu
doanh nghiệp Z, khi doanh nghiệp Y và Z cùng đầu tư vào ngân hàng A thì đương nhiên,
X là chủ sở hữu của ngân hàng A, trong đó, Y và Z là sở hữu trực tiếp, còn X là sở hữu
gián tiếp thì các trường hợp này chính là sở hữu chéo.
Vì thế, nhiều nguồn vốn của từng ngân hàng tăng nhưng tổng thể nguồn vốn toàn hệ
thống thì không hề thay đổi do số tiền chỉ chảy qua, chảy về giữa “túi nọ”, “túi kia”, giá
trị tăng chỉ trên sổ sách, còn thực tế thì không tăng.
Page 19
Điều đáng lo ngại từ quá trình này là ở chỗ làm sai lệch việc đánh giá rủi ro cho hệ
thống, bởi lẽ: muốn biết ngân hàng hoạt động có an toàn hay không thì phải dựa vào các
chỉ số như tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất, tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ, được xác định qua vốn
tự có mà vốn điều lệ là yếu tố quan trọng nhất trong vốn tự có.
Kết quả là các ngân hàng đạt quy định vốn tối thiểu nhưng vốn thực lại không đạt đủ

3000 tỷ. Vốn điều lệ chính là tấm đệm, là sức mạnh của NHTM, nếu lượng vốn này quá
mỏng thì khi có biến động trên thị trường hay rủi ro thanh khoản sẽ ảnh hưởng đến các
NHTM khác, đe dọa đến sự an toàn của cả hệ thống Tín dụng.
Ngoài quy định với cho vốn điều lệ tối thiểu, NHTW các nước còn quy định thêm Một
hệ thống tài chính an toàn yêu cầu các TCTD phải đạt được yêu cầu về hệ số an
toàn vốn phụ thuộc vào hai yếu tố vốn tự có và tổng tài sản có rủi ro ( hệ số CAR).
Theo đó
CAR = Vốn tự có/Tổng tài sản “Có” rủi ro.
Vốn tự có là tổng vốn cấp 1 (Tier 1 capital) và vốn cấp 2 (Tier 2 capital). Tổng tài sản
“Có” rủi ro là tổng giá trị tài sản “Có” xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản “Có”
tương ứng của cam kết ngoại bảng xác định theo mức độ rủi ro.
Tại Việt Nam, mặc dù hệ số CAR của nhiều NHTMCP luôn ở trên mức quy định là
9% theo quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN, nhưng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên
tổng tài sản đã giảm khá mạnh kể từ năm 2008 cho đến nay.
Tuy quy mô vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu tăng chậm nhưng quy mô tổng tài sản và
tín dụng của các NHTM lại tăng nhanh trong nhiều năm do các ngân hàng thực
hiện chính sách tín dụng mở rộng. Kết quả của quá trình tăng trưởng tín dụng nóng
là hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên trong khi hệ số an toàn vốn CAR giảm. Đối
với hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt là đối với các
NHTM Việt Nam, thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu như hiện nay là quá thấp đã không đủ để
thực hiện vai trò là tấm đệm chống rủi ro. Tính tới thời điểm cuối tháng 9/2012, tỷ
Page 20
lệ vốn tự có/tổng tài sản của nhóm NHTMNN là 6,46%, thấp hơn tỷ lệ 8,41%
của nhóm NHTMCP.
2.2.5 Số lượng ngân hàng lớn, chất lượng dịch vụ còn thấp
Tính đến thời điểm tháng 6/2012, hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động tại
Việt Nam bao gồm 05 NHTMNN, 35 NHTMCP, 01 ngân hàng phát triển, 01 ngân
hàng chính sách xã hội, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 ngân hàng liên
doanh, 05 ngân hàng 100% vốn nước ngoài và nhiều công ty tài chính, cho thuê tài
chính, quỹ tín dụng… cạnh tranh gay gắt trên thị trường cung ứng dịch vụ tín dụng

ngân hàng. Trong số này, nhiều NHTMCP nông thôn (tiền thân là các quỹ tín dụng
nhân dân) trước đây đã chuyển đổi mô hình, mở rộng quy mô để chuyển sang hoạt
động trong thị trường ngân hàng đô thị từ sau năm 2006. Các NHTMCP từ chỗ
được phân chia thành hai khu vực với quy mô tài sản, mạng lưới chi nhánh, phòng
giao dịch, khả năng tài chính và trình độ quản lý khác nhau, phù hợp với đối tượng
phục vụ, nay chủ yếu cạnh tranh với nhau trên cùng một thị trường. Hơn nữa, thực
trạng các NHTM tập trung vào chạy đua mở rộng thị phần và gia tăng lợi nhuận
trong khi số lượng và chất lượng các sản phẩm và dịch vụ khác chưa phát triển đã
dẫn tới việc huy động tiền gửi và tín dụng vẫn là sản phẩm chủ yếu các ngân hàng
sử dụng để cạnh tranh với nhau. Tình trạng “độc canh” tín dụng và dịch vụ đi kèm
sản phẩm tiền gửi thiếu chất lượng đã dẫn tới các ngân hàng liên tục chạy đua
nâng lãi suất huy động và tìm cách thu hút khách hàng mà không quan tâm đến khả
năng tài chính của khách hàng và tính hiệu quả của phương án, dự án vay vốn. Hệ
quả của thực trạng này là tốc độ tăng trưởng tín dụng, lãi suất cho vay và huy động
của hệ thống ngân hàng luôn cao hơn mục tiêu đề ra của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN). Trong một số thời kỳ, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các ngân hàng
đã dẫn tới một số ngân hàng thực hiện các biện pháp lách luật thông qua nhiều
hình thức, vi phạm các quy định của cơ quan quản lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kỷ cương của thị trường tài chính ngân hàng cũng như hiệu quả điều hành chính sách
tiền tệ của NHNN. Do lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam có mức độ dao động cao
và biến động liên tục trong khi các sản phẩm huy động vốn có khả năng hạn chế rủi
Page 21
ro lãi suất cho người gửi tiền lại chưa phát triển nên đa phần nguồn vốn các NHTM
huy động được là vốn ngắn hạn. Một nguyên nhân nữa khiến cho nguồn vốn huy
động thông qua phát hành các công cụ nợ dài hạn bị hạn chế là trong giai đoạn
những năm gần đây, lạm phát và lãi suất của Việt Nam thường tăng cao khiến cho
các nhà đầu tư vào các công cụ nợ dài hạn gặp nhiều rủi ro về giá nên không mặn mà
với công cụ đầu tư này. Nguồn vốn huy động đa phần là ngắn hạn đã làm ảnh
hưởng tới khả năng cung cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng
khi thực hiện theo Thông tư số 15/2009/TT- NHNN quy định các NHTM chỉ được

sử dụng tối đa 30% nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Nhiều NHTM gặp sự
mất cân đối nghiêm trọng giữa huy động và sử dụng vốn, đã sử dụng tới 60- 70%,
thậm chí còn cao hơn nữa, vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Đây
cũng là một lý do dẫn tới thực trạng mặt bằng lãi suất huy động của hệ thống
NHTM luôn có xu hướng tăng cao.
Ngoài ra, nguồn vốn huy động thường không ổn định do các ngân hàng thay vì
nâng cao chất lượng sản phẩm lại cạnh tranh dựa trên lãi suất, khiến cho các
khoản tiền gửi thường nhanh chóng bị rút ra và đem gửi tại ngân hàng có mức lãi
suất cao hơn. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng
(tới tháng 9/2012, tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động của nhóm
NHTMNN là 101,95% và của nhóm NHTMCP là 76,44%) đã khiến nhiều ngân
hàng gặp khó khăn thanh khoản và buộc phải vay mượn trên thị trường liên ngân
hàng hoặc vay từ NHNN thông qua hoạt động tái cấp vốn. Thực tế cho thấy, khó
khăn thanh khoản tại một số NHTMCP quy mô nhỏ có khoản tiền vay từ các
NHTM quy mô lớn cộng với thực trạng vay nợ chằng chịt giữa các ngân hàng càng
khiến cho mức độ rủi ro của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam trở nên lớn hơn. Lãi
suất liên ngân hàng trong quý cuối năm 2011 tăng cao liên tục đã bộc lộ rõ việc
thiếu hụt thanh khoản tại một số NHTM. Lần đầu tiên trên thị trường liên ngân
hàng Việt Nam xuất hiện hiện tượng các chủ thể tham gia giao dịch yêu cầu ngân
hàng đi vay phải có tài sản bảo đảm có tính thanh khoản cao như vàng, ngoại tệ do
Page 22
một số ngân hàng vay liên ngân hàng nhưng không trả nợ đúng hạn, thậm chí chây ỳ
trả nợ gốc. Ngoài ra sự yếu kém về chất lượng của hệ thống ngân hàng còn biểu hiện ở
chất lượng phục vụ, thái độ của nhân viên, nâng cấp khả năng thanh toán qua thẻ tín dụng,
dịch vụ rút và gửi tiền cần linh động, nhanh gọn hơn.
2.2.6 Khả năng sinh lời giảm và không ổn định
Năm 2012 tiếp tục là một năm khó khăn của kinh tê Việt Nam nói chung và ngành ngân
hàng nói riêng. Lợi nhuận sau thuế của ngành ngân hàng giảm 23% xuống còn 31 nghìn
tỷ đồng so với năm 2011 (40 nghìn tỷ đồng). Lợi nhuận giảm đáng kể chủ yếu do chi phí
rủi ro tín dụng và chi phi hoạt động tăng, điều này sẽ được đề cập đến trong một phân

tích
riêng dưới đây, và thu nhập ròng từ lãi giảm.
Do tình hình kinh tế khó khăn trong năm 2011-2012, các doanh nghiệp tiếp tục gặp
khó khăn trong năm 2012. Các doanh nghiệp vốn đã gặp khó khăn trong năm 2011
nay tiếp tục trải qua nhiều khó khăn hơn trong năm 2012, trong khi những doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả trong năm 2011 phải đối mặt với nhiều thách thức trong
năm 2012. Do đó, các ngân hàng phải trích lập dự phòng nhiều hơn do chất lượng
danh mục khoản vay suy giảm.
Thêm vào đó, trong khi hầu hết các doanh nghiệp cố gắng không vay thêm và chì duy
trì hoạt động, các ngân hàng cũng ngần ngại hơn khi cho vay do tỷ lệ nợ xấu tăng cao.
Lợi nhuận sau thuế toàn ngành ngân hàng Tỉ suất sinh lời ROA và ROE trong các năm
Nguồn: Theo khảo sát về ngành ngân hàng Việt Nam 2013 công ty TNHH KPMG
Khả năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam ở mức cao so với các ngành
trong nền kinh tế, tuy vậy trong những năm gần đây kinh tế khủng hoảng, kết quả kinh doanh của
Page 23
các ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều này làm tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA) của Việt
Nam năm 2012 giảm xuống chỉ còn 0,78%, so với mức 1,06% của năm 2011 (giảm 27% so với năm
trước). Tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2012 là 9,56%, giảm so với mức 14,19% của
năm 2011 (giảm 33% so với năm trước).
Vấn đề này phát sinh từ thực trạng tập trung vào hoạt động tín dụng như là cơ sở
để mở rộng thị trường, sử dụng công cụ lãi suất để cạnh tranh mà không tập trung
vào các mảng sản phẩm và dịch vụ phi tín dụng. Ước tính lợi nhuân thu được từ hoạt
động tín dụng của các Ngân hàng tại Việt Nam chiếm tới hơn 70%, chỉ có một số ngân
hàng như Vietcombank, Eximbank là có tỉ lệ này thấp hơn với trên 60% là nhờ hoạt
động kinh doanh xuất nhấp khẩu, tương đối phát triển. Khi thị trường tín dụng gặp
vấn đề do nền kinh tế suy thoái, khách hàng vay vốn không trả nợ đầy đủ và đúng
hạn thì ngay lập tức khoản thu nhập từ hoạt động tín dụng bị ảnh hưởng tiêu cực,
điều này cho thấy sự tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng tại Việt Nam không ổn
định và bền vững, quá phụ thuộc vào hoạt động tín dụng. Ngoài ra, nếu các NHTM
Việt Nam tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng theo đúng tiêu chuẩn quốc

tế cùng với việc phải chia sẻ với các doanh nghiệp về giảm lãi suất cho vay thì
mức lợi nhuận sẽ giảm nhanh và mức sinh lời như các ngân hàng công bố là không
bền vững
Bảng 3. Mức sinh lời của một số NHTM giai đoạn 2009- 2011
Ng
ân
hàng
ROA
ROE
2009
2010
2011
2009
2010
2011
VCB
1.96%
1.78%
1.69%
23.61%
20.49%
14.73%
BIDV
1.22%
1.26%
1.04%
15.97%
15.51%
13.12%
CTG

0.69%
1.25%
1.82%
10.22%
18.79%
21.97%
ACB
1.69%
1.51%
1.50%
21.78%
20.52%
26.82%
STB
2.09%
1.68%
1.96%
15.84%
13.63%
14.29%
EIB
2.34%
1.81%
2.21%
8.48%
13.43%
18.64%
SHB
1.51%
1.29%

1.41%
13.17%
11.82%
12.91%
HBB
1.73%
1.58%
0.75%
12.53%
13.48%
5.34%
Page 24
Nguồn : Báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại
Bên cạnh đó, chi phí hoạt động của ngành ngân hàng khá cao, cao hơn so với một số hệ
thống ngân hàng trên thế giới.
Bảng 4: Thông kê chi phí hoạt động của NH tại VN và một số quốc gia trên thế giới
Úc Trung Quốc Singapore Thái Lan Việt Nam
Chi phí hoạt động 42% 40% 38% 44% 49%
Nguồn: số liệu của NHTWcác nước và bào cáo thường niên được công bố
Cơ cấu chi phí hoat động của hệ thống ngân hàng TM Việt Nam
- Theo cơ cấu các phần chi phí hoạt động, chi
phí cho lương nhân viên chiếm hơn 50% tổng
chi phí hoạt động, nhưng chất lượng dịch vụ và
nhân sự thì chưa thực sự cao. Hệ thống NHTM
Việt Nam cần có những biện pháp nhằm cắt
giảm chi phí, từng bước nâng cao nâng năng
suất và lợi nhuận toàn ngành.
Page 25

×