Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VIỆC LÀM ĐIỂM Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------



Đinh Phú Cường





MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VIỆC LÀM ĐIỂM Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH




Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. HUỲNH VĂN SƠN






Thành phố Hồ Chí Minh – 2009


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ
Huỳnh Văn Sơn, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể quí Thầy giáo,
Cô giáo đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, quan tâm giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với
Sở GD&ĐT TP.HCM, Phòng Giáo Dục Q.6, Ban giám
hiệu và giáo viên các trường THCS Q.6 cùng các bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn động vi
ên, giúp đỡ, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



CBQL : Cán bộ quản lý
CNTT : Công nghệ thông tin
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HL : Học lực
HK : Hạnh kiểm
ND : Nội dung
QL : Quản lý
SL : Số lượng
TL : Tỉ lệ
TB : Trung bình
TN : Thực nghiệm
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục Việt Nam trong thế kỉ XXI đang ngày càng phát triển. Chương trình, sách
giáo khoa của giáo dục Việt Nam đang được đổi mới và tiến hành thực hiện đại trà, giáo
dục đã và đang mang lại nhiều thành tựu nổi bật cho sự phát triển của đất nước, vì thế Đảng
và nhà nước ta vẫn luôn xác đònh Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Song song đó, kể từ
năm 1991, ngành giáo dục đã trải qua 3 lần thay đổi cách đánh giá xếp loại học lực của học
sinh theo các quyết đònh 1778 / năm 1991, quyết đònh 04/ năm 2001 và quyết đònh 40/ năm
2006 cùng hàng loạt các văn bản hướng dẫn bổ sung, chỉnh lý quyết đònh 40 /2006 đang áp
dụng hiện nay. Chính vì có quá nhiều thay đổi cách xếp loại như vậy nên nhìn chung giáo
viên cũng phải vất vả tiếp cận để làm theo, điều này cũng làm cho tâm lí giáo viên không
thật sự thoải mái.

Lâu nay, lao động của Giáo viên cho việc làm điểm, thống kê, báo điểm, xếp loại
học lực – hạnh kiểm cho học sinh mỗi khi tới đợt giữa kì hoặc kết thúc một học kì, kết thúc
năm học là hết sức nặng nhọc, tốn nhiều thời gian nhưng lại hay sai sót do công việc này
vẫn chủ yếu được thực hiện thủ công, bằng kinh nghiệm của giáo viên. Trong nhiều năm
qua, việc quản lý việc làm điểm của giáo viên cũng làm cho cán bộ quản lý nhà trường tốn
nhiều công sức nhưng hiệu quả lại không cao, cán bộ quản lý các trường cũng đã thực hiện
nhiều hình thức và nhiều biện pháp quản lý khác nhau để có thể hạn chế các hiện tượng
tiêu cực như “cấy” – sửa điểm, nâng điểm, tính toán sai, xếp loại sai… trong khi nhà trường
có cả ngàn học sinh, mà để kiểm tra hết cả ngàn trường hợp này là hết sức khó khăn và
không thể thực hiện được trong khoảng thời gian rất ngắn (3 – 5 ngày sau khi kết thúc kì thi
).
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nói chung ở nước ta hiện nay còn ở
trình độ khá sơ đẳng, phát triển manh mún, tự phát và chủ yếu chỉ ứng dụng và phát triển ở
các lónh vực khối kinh tế như tài chính, ngân hàng … và hiện nay cũng đang dần được quan
tâm phát triển thêm trong lónh vực quản lý nhà nước như thuế quan, hộ tòch, hành chánh….
Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà trường vẫn còn đang bò bỏ ngỏ
và chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo các cấp. Hơn nữa, do thiếu sự đồng
bộ cũng như sự đầu tư cần thiết mà hiện nay công nghệ thông tin vẫn chưa thực sự là yếu tố
tạo động lực phát triển cho ngành giáo dục nước nhà.
Hiệu quả công việc làm điểm của giáo viên cũng như công việc quản lý việc làm
điểm của nhà quản lý trường học vẫn còn là đề tài mới và chưa có bất kì một công trình hay
đề nào nghiên cứu chuyên sâu về nó. Hiện nay trên thò trường kinh doanh phần mềm tại
Việt Nam đã có một số công ty thực hiện sản xuất và kinh doanh một số phần mềm tin học
quản lý nhà trường, trong đó có chương trình quản lý điểm, tuy nhiên các chương trình này
có một số hạn chế như phí bản quyền còn khá cao so với khả năng tài chính của các trường;
tính tương tác và chia sẻ không có, chỉ có thể thực hiện trên một máy tính cho một đóa CD -
ROOM, vì vậy chỉ có thể thực hiện được ở đòa điểm trường mà không thể để giáo viên thực
hiện tại nhà; khó tiếp cận với giáo viên vì các phần mềm này đa số được thực hiện trên nền
Foxpro, Access, Visual basic… trong khi đó, trình độ công nghệ thông tin của giáo viên hiện
nay chỉ có thể thực hiện trên các phần mềm thông dụng như Microsoft Word hay Excel.

Xuất phát từ những lí do trên, đề tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ VIỆC LÀM
ĐIỂM Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 6 – TPHCM”
được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để làm rõ thực trạng việc làm điểm của giáo viên và biện pháp quản lý
việc làm điểm của cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 –
TPHCM, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm quản lý tốt công việc này.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu:
Việc làm điểm và biện pháp quản lý việc làm điểm ở các trường trung học cơ sở trên
đòa bàn quận 6 – TPHCM.
- Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý việc làm điểm ở các trường trung học cơ sở tại Quận 6 – TPHCM.
4. Giả thuyết khoa học
Quản lý việc làm điểm của cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở trên đòa bàn
quận 6 – TPHCM cũng còn nhiều hạn chế. Nếu áp dụng một số biện pháp như ứng dụng
công nghệ thông tin vào toàn bộ quá trình làm điểm của giáo viên; tăng cường kiểm tra đột
xuất qua hệ thống sổ điểm chính, bài kiểm tra học sinh và tiến hành kiểm tra tập trung toàn
trường và chấm chéo một số bài kiểm tra một tiết sẽ nâng cao hiệu quả công tác quản lý
việc làm điểm trên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan nhằm hình thành hệ thống khái niệm, hệ thống lí
luận để nghiên cứu đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng việc làm điểm của giáo viên và công tác quản lý việc làm điểm
của cán bộ quản lý ở các trường trung học cơ sở trên đòa bàn Quận 6 – TPHCM và bước
đầu tìm ra một số nguyên nhân.
- Tiến hành thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản
lý việc làm điểm của giáo viên.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về thời gian, kinh phí thực hiện nên đề tài chỉ nghiên cứu:

- Điều tra thực trạng tại năm trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 – TPHCM.
- Tiến hành thực nghiệm tại trường trung học cơ sở Hậu Giang (nhóm thực nghiệm) và so
sánh đối chiếu với năm trường thuộc nhóm đối chứng cũng là các trường được chọn để
điều tra thực trạng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu những tài liệu có liên quan như sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các
trang web chuyên ngành, các luận văn tiến só, thạc só chuyên ngành, các tài liệu về đường
lối chính sách của Đảng, của nhà nước, các tài liệu của những người nghiên cứu trước để từ
đó xây dựng cơ sở lí luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra
Sử dụng phương pháp điều tra thông qua bảng hỏi với khách thể điều tra là giáo viên
và cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 – TPHCM nhằm tìm ra
thực trạng của việc làm điểm hiện nay của giáo viên cũng như công tác quản lý của Cán bộ
quản lý nhà trường đối với việc làm điểm.
 Dạng bảng hỏi dành cho cán bộ quản lý: gồm 26 phiếu điều tra được phát ra cho hiệu
trưởng và các phó hiệu trưởng của các trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 –
TPHCM. Bảng hỏi này gồm 7 câu hỏi, chia làm 2 phần chính: nhóm câu hỏi điều tra về
mức độ đồng ý với các nhận đònh (gồm 5 câu) nhằm tìm ra quan điểm của cán bộ quản lý
các trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 – TPHCM về thực trạng cũng như biện pháp
cải thiện các thực trạng liên quan đến việc làm điểm của giáo viên cũng như biện pháp
quản lý việc làm điểm của cán bộ quản lý; nhóm câu hỏi điều tra về quan điểm (2 câu) của
cán bộ quản lý các trường đối với việc làm điểm của giáo viên và công tác quản lý việc
làm điểm của cán bộ quản lý.
 Dạng bảng hỏi dành cho giáo viên, phát ra 210 phiếu trong đó 150 phiếu điều tra giáo
viên tại 5 trường trung học cơ sở có điều tra thực trạng, mỗi trường 30 giáo viên. Phiếu điều
tra thực trạng gồm 9 câu, gồm 4 nhóm câu hỏi, nhóm câu hỏi về loại việc (các câu 1 và 2),
nhóm câu hỏi về thực trạng tiêu tốn thời gian (các câu 3 và 5), nhóm câu hỏi về thực trạng
tiêu tốn sức lao động (các câu 7 và 9), cuối cùng là nhóm câu hỏi về khó khăn sai sót (các

câu 4, 6 và 8). Phiếu điều tra thực nghiệm gồm 60 phiếu được phát ra cho các giáo viên tiến
hành thực nghiệm tại trường trung học cơ sở Hậu Giang, Quận 6 – TPHCM. Phiếu điều tra
thực nghiệm gồm 6 câu hỏi, được chia làm 3 nhóm, nhóm câu hỏi về kết quả thực nghiệm
(các câu 1, 2, 3 và 5), nhóm câu hỏi về nhận đònh sau khi tiến hành thực nghiệm (câu hỏi 4)
và câu hỏi nêu lên nhận đònh của bản thân sau khi tiến hành thực nghiệm (câu số 6). Các
phiếu điều tra thực nghiệm sẽ giúp tác giả thu nhận kết quả phản hồi sau khi tiến hành thực
nghiệm để qua đó rút ra kết luận chung về thành công và hạn chế của quá trình thực
nghiệm, đồng thời qua đó khẳng đònh giả thuyết khoa học đã được đề cập trong luận văn
nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát có kết hợp ghi biên bản nhằm tìm hiểu thực tế biện pháp ứng dụng công
nghệ thông tin trong việc làm điểm của giáo viên và công tác quản lý việc làm điểm của
cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở trên đòa bàn quận 6 – TPHCM. [Phụ lục 4]
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Tiến hành trao đổi với một số cán bộ quản lý phòng giáo dục đào tạo, cán bộ quản lý
là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn các trường trung học cơ sở thuộc đòa
bàn quận 6 – TPHCM. Bộ câu hỏi đàm thoại gồm các câu hỏi như sau: Thầy cô nhận đònh
như thế nào về việc làm điểm của giáo viên hiện nay; Thầy cô nhận đònh như thế nào về
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc làm điểm của giáo viên; Sau khi ứng dụng
công nghệ thông tin trong việc làm điểm, thầy cô nhận thấy nó có giúp ích gì cho công tác
quản lý của thầy cô trong nhà trường; Khó khăn của việc quản lý điểm hiện nay là gì; Việc
kiểm tra chéo trong nhà trường đã đem lại hiệu quả gì; Việc kiểm tra ngẫu nhiên hồ sơ ghi
điểm của giáo viên đem lại lợi ích gì cho công tác quản lý chuyên môn trong nhà trường.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Là phương pháp chủ yếu nhằm kiểm chứng tính hiệu quả, tính khả thi của các biện
pháp. Việc thực nghiệm được tiến hành bằng cách tác động các biện pháp đề xuất lên nhóm
thực nghiệm và nhóm đối chứng không thực hiện các biện pháp tác động. Trước khi thực
nghiệm, kiểm tra tính tương đồng giữa hai nhóm và kiểm tra sự khác biệt giữa hai nhóm
nghiên cứu sau khi tác động thực nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kê toán học

Sau khi điều tra và thực nghiệm, dùng phương pháp thống kê toán học để xử lí các số
liệu cũng như các thông số có liên quan để đưa ra được những kết luận chính xác và có giá
trò khoa học cho đề tài nghiên cứu. Sau đó, dùng phần mềm thống kê SPSS 11.5 để xử lí số
liệu thực trạng và số liệu thực nghiệm theo các số liệu thống kê.



Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Lòch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Để có cơ sở lí luận vững chắc cho công tác nghiên cứu, có thể sơ lược một vài công
trình nghiên cứu về công tác đánh giá trong nhà trường cũng như công tác đánh giá học sinh
như sau:
Trong nghiên cứu về vai trò và vò trí của công tác đánh giá trong trường học với nhan
đề “Evaluation of schools providing Compulsory Education in Europe” nhóm tác giả của
viện nghiên cứu giáo dục châu Âu đã khẳng đònh công tác đánh giá là chìa khóa để khẳng
đònh tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Trong nghiên cứu này, nhóm
tác giả của viện nghiên cứu giáo dục châu Âu cũng khẳng đònh việc đánh giá trong giáo dục
rất có ý nghóa đối với giáo viên và học sinh, cho cả hệ thống giáo dục nói chung, cho công
tác quản lý nội bộ lẫn công tác đối ngoại bên ngoài. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng chỉ rõ
ai sẽ là người tham gia vào công tác đánh giá, các hình thức đánh giá trong trường học, mục
tiêu, tiêu chuẩn và các thủ tục để thực hiện công tác đánh giá. [36]
Nhóm tác giả cũng đã chỉ rõ vò trí và vai trò của công tác đánh giá trong nhà trường
bằng sơ đồ 1.1 như sau:









Sơ đồ 1.1. Vai trò của công tác đánh giá trong nhà trường
Hiệu trưởng
Giáo viên
Học sinh
Nhà trường
ĐÁNH GIÁ
Ta thấy rằng công tác đánh giá có vò trí rất quan trọng trong nhà trường, nó giúp đánh
giá công tác quản lý của lãnh đạo nhà trường, đánh giá giáo viên, đánh giá học sinh và
đánh giá tổng thể về nhà trường. Qua đó, những thông tin đánh giá được phản hồi ngược về
cho các đối tượng cụ thể để qua đó nhằm kiểm chứng thông tin đã thu thập được với mong
muốn tìm ra cách thức quản lý, cách thức giảng dạy hoặc cách thức học tập sao cho hiệu
quả hơn.
Trong bài nghiên cứu của mình với tựa đề công tác đánh giá và tự đánh giá trong nhà
trường, giáo sư Peter Rudd và giáo sư Deborah trường đại học Cardiff đã khẳng đònh về vai
trò của công tác đánh giá như sau: “công tác đánh giá trong trường học là cần thiết để giúp
phát triển cơ chế giám sát và cải thiện chất lượng giảng dạy và học tập; công tác đánh giá
đòi hỏi phải có một số chuẩn bò thật chu đáo và cẩn thận; mục đích của công tác đánh giá là
tự nâng cao tiêu chuẩn để hỗ trợ giáo viên và học sinh phát triển”.[37
]
Do đề tài có liên quan đến việc thực nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin, vì vậy
xin được lược khảo thêm một số đề tài nghiên cứu có liên quan đến việc ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý giáo dục hiện nay trên thế giới
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý các ngành nói chung và đặc biệt là
trong quản lý giáo dục đã được quan tâm và ứng dụng từ rất lâu, tác dụng và tầm ảnh hưởng
của công nghệ thông tin đến hiệu quả quản lý nhà trường cũng được nhiều tác giả ở nhiều
nước đề cập đến. Trong bài viết nghiên cứu của mình, Peter Van Gils, chuyên gia của Bỉ

làm việc cho dự án ICT in schools đã nêu lên những nhận đònh của mình về tầm quan trọng
của công nghệ thông tin trong giáo dục như sau: công nghệ thông tin giúp đơn giản hóa và
giảm bớt khối lượng công việc, những phép toán phức tạp và tốn thời gian sẽ chỉ cần thực
hiện bằng một nút nhấn trên máy vi tính, mà trước đây công việc này phải mất vài ngày mới
hoàn tất; công nghệ thông tin là một công cụ không thể thiếu trong công tác hành chánh. Nó
mang lại sự trợ giúp to lớn; công nghệ thông tin giúp lưu giữ hồ sơ cán bộ giáo viên và học
sinh; công nghệ thông tin giúp vận hành nhà trường như lên kế hoạch, sắp xếp nhân sự, tổ
chức nội bộ, công tác quản lý, quản lý tài chánh, giám sát học sinh, quản lý lớp học… [19,
tr.6-8]
Dưới góc độ hình thức ảnh hưởng của công nghệ thông tin trong giáo dục, Van Gils

cũng chỉ ra như sau: công nghệ thông tin là đối tượng học tập: nó bao gồm bài giảng trên
máy tính và những ứng dụng khác; công nghệ thông tin là công cụ học tập: đây là hình thức
phổ biến nhất, các em học sinh có cơ hội thực hành các kó năng trực tiếp trên máy vi tính;
công nghệ thông tin là một người hướng dẫn: một số chương trình vi tính đã được xây dựng
để thay thế cho những hướng dẫn của người thầy giáo; công nghệ thông tin là một phương
tiện mở: nó giúp bổ sung những kó năng và kiến thức nâng cao cho người học thông qua tài
liệu mở trên internet, CD-ROM; công nghệ thông tin là phương tiện truyền thông giúp tạo ra
mối liên lạc giữa nhà trường và gia đình. [19, tr.13-15]
Peter Van Gils đã khẳng đònh tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý trường học như là chìa khóa thành công cho nhà quản lý. Ông cũng đã chỉ rõ

những tính năng ưu việt mà công nghệ thông tin đem lại cho công tác quản lý nhà trường để
từ đó hướng tới sự thành công. Trước những luận điểm trên của Peter Van Gils, bản thân tôi
đã nhận thức được tầm quan trọng và tính đúng đắn khi xây dựng đề tài này, công nghệ
thông tin không chỉ giúp ích cho việc giảng dạy của thầy và việc học tập của trò mà nó còn
giúp các nhà quản lý trường học nâng cao năng lực quản lý nhà trường, giúp lãnh đạo nhà
trường kiểm soát được các thông số, nhân lực…về đơn vò mình đang phụ trách.
Đối với công tác đánh giá, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã có những bài viết,
bài nghiên cứu về vấn đề này như Peterson, Tucker, Ross…. Trong nghiên cứu của mình với

tựa đề “Đánh giá chất lượng để đạt được sự hoàn hảo” (Tên tiếng Anh là Assessment for
excellence), Alexander W. Astin đã nghiên cứu về công tác đánh giá, ông đã chỉ ra tầm
quan trọng và lợi ích mà công tác đánh giá đem lại, ông nhận đònh như sau “các giảng viên,
các nhà quản lý và những người thực hiện hoạt động đánh giá cần phải hiểu tại sao họ đánh
giá và kết quả sẽ được sử dụng như thế nào để thúc đẩy chính sách và hoạt động giáo dục.”
hay khi viết về ích lợi của việc đánh giá đối với sinh viên, Astin viết “việc đánh giá thúc
đẩy sự phát triển năng lực gián tiếp hơn khi nó làm rõ hoặc thông báo cho người dạy biết về
tính hiệu quả của những chính sách và hoạt động giáo dục.” [1, tr.29 - 30]
Đánh giá chất lượng giáo dục nói chung từ trước tới nay luôn là vấn đề mang tính thời
sự không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả các quốc gia trên thế giới. Việc Astin nhận đònh tầm
quan trọng của công tác đánh giá cho thấy rằng tất cả các quốc gia, các trường học dù lớn
hay nhỏ, phát triển, đang phát triển hay chưa phát triển đều có ý thức về tầm quan trọng
của nó.
Tóm lại, nhận đònh của hai tác giả trên cho ta thấy công tác đánh giá có ý nghóa rất to
lớn trong trường học và lợi ích của việc ứng dụng công nghệ thông tin là không thể đo đếm
được khi được áp dụng triệt để trong nhà trường nhằm phục vụ cho công tác quản lý, giảng
dạy và học tập.
1.1.2. Một số nghiên cứu tại Việt Nam
Trong công tác kiểm tra và đánh giá trong giáo dục, Giáo sư Trần Bá Hoành đã
khẳng đònh kiểm tra đánh giá là khâu có ý nghóa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả giáo dục. Ông cũng nhận đònh rằng đánh giá không đơn thuần chỉ là ghi nhận
thực trạng mà còn là đề xuất những quyết đònh làm thay đổi thực trạng.[32]. Nếu nhận đònh
của GS Trần Bá Hoành đề cập đến vai trò của công tác đánh giá thì PGS.TS. Trần Khánh
Đức, Đại học quốc gia Hà Nội lại đề cập đến khía cạnh thực trạng công tác đánh giá trong
hệ thống giáo dục tại Việt Nam hiện nay, ông cho rằng các hình thức kiểm tra đánh giá
thiên về ghi nhớ, nhắc lại những nội dung giảng dạy hiện nay tại Việt Nam đã bộc lộ nhiều
hạn chế như không phát huy khả năng sáng tạo của người học, không tận dụng được khả
năng linh hoạt, sáng tạo của người học [29]. Hay như TS. Nguyễn Kim Dung, Viện nghiên
cứu giáo dục trường Đại học sư phạm TPHCM lại có cách nhìn khác về công tác đánh giá
hiện nay ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của mình, bà cho rằng đánh giá giáo dục hiện nay

ở Việt Nam chỉ thiên về đo lường mà không thiên về khuyến khích phát triển người học,
việc quản lý và cho đánh giá hiện nay tại Việt Nam chủ yếu chỉ thực hiện theo chương trình
sao cho đúng và đủ chứ chưa quan tâm đến lợi ích thiết thực của người học. Như vậy, công
tác đánh giá trong nhà trường là rất quan trọng và rất có ý nghóa cho sự phát triển của nhà
trường nhưng tại Việt Nam hiện nay, công tác đánh giá vẫn chưa thực sự được quan tâm và
đầu tư đúng mức, chưa tạo ra động lực để phát triển nhà trường, chưa trở thành thức đo để
đo lường nhằm mục tiêu thúc đẩy nhà trường phát triển. [21, tr.3]
Trong hoạt động quản lý nói chung và hoạt động quản lý giáo dục nói riêng trong thời
đại phát triển nhanh của công nghệ thông tin, việc ứng dụng những thành tựu mà công nghệ
thông tin đem lại như là một trong những phương thế tất yếu không chỉ cho doanh nghiệp
hoạt động trên các lónh vực kinh tế mà còn đối với cả những cơ quan hành chánh sự nghiệp.
Ông Trần Thọ Đạt, viện trưởng viện đào tạo sau đại học trường đại học kinh tế quốc dân,
trong đề án quản lý đào tạo bằng phần mềm đã chỉ ra rằng: “phương thức làm việc truyền
thống đã bộc lộ rất nhiều bất cập như cơ sở dữ liệu thông tin về sinh viên nằm rải rác ở các
phòng, các khoa khác nhau không tập trung, nhiều công đoạn quản lý trùng lặp, không hỗ trợ
tra cứu…. Ví dụ, với yêu cầu đơn giản là xin xác nhận bảng điểm, cán bộ quản lý phải mất rất
nhiều thời gian cho việc tra cứu, tìm kiếm thông tin…” [2]
Hà An, tác giả bài viết số ra ngày 8 tháng 9 năm 2008 trên trang báo điện tử
www.giaovien.net đã nhận đònh như sau: “việc sử dụng các hệ thống quản lý học tập (LMS)
hiện là một xu thế trên con đường ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục, nhất là sự
khuyến khích của Bộ GD-ĐT trong năm học 2008 – 2009 về việc đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong nhà trường. Nhiều nhà giáo dục tin rằng, sẽ rất hữu ích cho công tác
quản lý cũng như học tập nếu áp dụng LMS vào nhà trường.”
[10]
Các ý kiến trên đã cho chúng ta một nhận đònh chung rằng việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong nhà trường là đòi hỏi bắt buộc và không thể thiếu trong tình hình hiện nay.
Nó cũng cho ta thấy sự bất cập và yếu kém trong công tác tổ chức và quản lý trường học ở
Việt Nam hiện nay một phần là do không đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các
hoạt động quản lý của mình. Trong thời đại kinh tế khoa học hiện nay, công nghệ thông tin
được xem như là“mạch máu” truyền dẫn trong cơ thể người, nó hấp thu và chuyển hóa mọi

dữ kiện, dữ liệu thành sản phẩm nuôi dưỡng cơ thể mà ở đây chính là hoạt động của các cơ
sở giáo dục.
Thực tại vốn đang yếu và thiếu trong việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các trường
học hiện nay đã được Bộ giáo dục và đào tạo nhận ra và đã quyết đònh chọn năm học 2008
– 2009 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy và đây
cũng được xem như là năm bản lề cho nhiều sự thay đổi của ngành trong tương lai.
Trong hội thảo về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục do Bộ
giáo dục và đào tạo chủ trì được đăng trên Tuổi trẻ online ngày 30 tháng 8 năm 2008, ông
Quách Tuấn Ngọc, Cục trưởng cục Công nghệ thông tin – Bộ giáo dục và đào tạo nhận
đònh: “không chỉ được áp dụng rộng rãi ở những nơi có điều kiện như TPHCM hoặc Hà Nội…
công nghệ thông tin đang ngày càng được ngành giáo dục các đòa phương, kể cả các tỉnh
miền núi, vùng khó khăn chú trọng vào công tác quản lý và giảng dạy.” [26]. Cũng trong
buổi hội thảo trên, ông Đỗ Văn Xê – Phó hiệu trưởng trường Đại học Cần Thơ cũng nhận
đònh: “để ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả, lãnh đạo các đơn vò phải là người đi tiên
phong. Các trường phải mạnh dạn đưa công nghệ mới vào ứng dụng và kết hợp nhiều nguồn
lực, trong đó có nguồn lực hợp tác quốc tế.” [26]
Tiếp sau hội nghò của Bộ giáo dục và đào tạo về việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý và giảng dạy, nhiều Sở giáo dục và đào tạo các Tỉnh, Thành cũng
đã tổ chức những hội thảo chuyên đề, những hội nghò quán triệt nhằm cụ thể hóa nội dung
chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tại hội
nghò chuyên đề Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy: cần có sự đầu tư đồng bộ
được Sở giáo dục đào tạo Đồng Nai tổ chức vào trung tuần tháng 11 năm 2008, hội nghò đã
nêu một số nhận đònh như sau: “Công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc đổi
mới phương pháp giảng dạy cũng như quản lý học sinh. Nhiều trường đã triển khai ứng dụng
thành công các chương trình phần mềm phục vụ giáo viên, học sinh, sinh viên như đăng kí
môn học, quản lý điểm, quản lý kế hoạch học tập, đồ dùng dạy học, thư viện và còn thiết lập
website để giao tiếp với phụ huynh học sinh…”[27]
Nhận xét về tầm quan trọng của công nghệ thông tin đối với giáo dục, ông Nguyễn
Minh Hùng, phó hiệu trưởng trường cao đẳng sư phạm Đồng Nai nhận đònh tại hội nghò:
“việc ứng dụng công nghệ thông tin là rất cần thiết. Nhận thức được tầm quan trọng của

công nghệ thông tin, nhà trường đã ứng dụng phần mềm tin học do vụ tổ chức cán bộ – Bộ
giáo dục đào tạo cung cấp để thống nhất quản lý cán bộ, giáo viên, công nhân viên, ứng
dụng các phần mềm trong quản lý đào tạo, quản lý sinh viên, quản lý tài chánh, quản lý thư
viện…”[27]
Trong công văn gửi lãnh đạo các Sở giáo dục đào tạo về việc yêu cầu thực hiện tốt
nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục giai đoạn 2008 – 2012, góp phần
nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục, Bộ giáo dục đào tạo chỉ đạo: “Tin học hóa công
tác quản lý ở các cấp quản lý giáo dục (Bộ, Sở, Phòng) và ở các cơ sở giáo dục. Xây dựng hệ
thống thông tin quản lý giáo dục và thống kê giáo dục thông qua việc tích hợp cơ sở dữ liệu
từ các cơ sở giáo dục đến các cấp quản lý giáo dục. Các cơ sở giáo dục và đào tạo nghiên
cứu khai thác và sử dụng kết quả phân tích dữ liệu thi tốt nghiệp trung học phổ thông và thi
tuyển sinh đại học, cao đẳng do Bộ giáo dục đào tạo cung cấp hằng năm trong công tác quản
lý giáo dục của đòa phương. Đánh giá tốt công tác của từng hội đồng coi thi, chấm thi.”
Báo giáo dục – thời đại, số ra ngày 7 tháng 3 năm 2006, trích đăng nhận đònh của ông
Lê Tiến Thành, phó vụ trưởng vụ giáo dục tiểu học – Bộ giáo dục đào tạo về việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong trường học như sau : “nâng cao nhận thức về tin học và ứng dụng
công nghệ thông tin trong nhà trường, nhằm giúp các cấp lãnh đạo, các lực lượng xã hội
nhận thức được một cách đầy đủù ý nghóa và tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo” [3]
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy ở nhà trường không
chỉ mới được nói đến hay thực hiện gần đây theo yêu cầu của các cấp lãnh đạo ngành giáo
dục mà thực chất, việc nhận thức được ảnh hưởng cũng như lợi ích kinh tế mà nó mang lại
là rất lớn nên trong khoảng 10 năm trước, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và
giảng dạy đã được nhiều công ty tin học trong và ngoài nước quan tâm, chú ý và họ đã tạo
ra nhiều sản phẩm công nghệ thông tin để ứng dụng trong nhà trường như các sản phẩm
E.school quản lý nhà trường, các phần mềm học Anh ngữ, thí nghiệm ảo, xếp thời khóa
biểu…. Hiện nay, trên thò trường công nghệ thông tin cũng xuất hiện nhiều công ty thiết kế
phần mềm phục vụ cho việc quản lý và giảng dạy, quản lý điểm, quản lý trường học, có
thể liệt kê một số phần mềm như sau: School Viewer 5.5 phục vụ việc quản lý điểm, xếp
loại theo quyết đònh 40 năm 2006 /BGD.ĐT và quyết đònh 55 năm 2008 /BGD.ĐT; hoặc như

phần mềm School Manager của công ty thiết bò trường học chuyên dùng để quản lý nhân
sự, quản lý học sinh…





1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm Quản lý
Khái niệm quản lý là một khái niệm tổng quát, nó được dùng trên rất nhiều lónh vực
xã hội, khoa học, sản xuất. Tùy theo cách tiếp cận mà có những khái niệm phù hợp với từng
lónh vực cụ thể. Khái niệm quản lý được một số tác giả nước ngoài đònh nghóa như sau:
Mary Parker Follet, chuyên gia nghiên cứu quản lý và xã hội của Mó, bà nhận đònh về
quản lý như sau: “quản lý là hoạt động của một nhóm người cùng hướng về một mục
đích”[16, tr. 35]. Follet cũng chỉ ra nhiều dạng quản lý khác nhau như quản lý trong kinh
doanh (in business), quản lý trong y học (in medicine), quản lý trong thể thao (in sports),
quản lý trong nghệ thuật (in art), quản lý trong máy tính (in computing )….[16, tr.35]
Tác giả Marina Pinto, một nhà nghiên cứu xã hội học thì cho rằng: “Quản lý là một
hoạt động thiết yếu nảy sinh khi có một nỗ lực tập thể nhằm thực hiện các mục tiêu chung.”
[16,tr.35]
Gần giống với quan điểm của tác giả Marina Pinto, Harold Koontz, một chuyên gia
thương mại Mó lại nhận đònh: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm.”[11, tr.36]
Trong khi đó, một số tác giả Việt Nam lại có những nhận đònh như sau:
Trong quyển “Lý thuyết quản lý”, Đỗ Hoàng Toàn đònh nghóa: “Quản lý là sự tác
động có tổ chức, có đònh hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều
kiện biến động của môi trường.”[9, tr.50]
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì “Quản lý là một quá trình tác động có
đònh hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình

trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn đònh và
làm cho nó phát triển tới mục đích nhất đònh.” [7, tr.3]
Nguyễn Minh Đạo lại đònh nghóa như sau: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có đònh hướng của chủ thể quản lý lên khách thể về các mặt chính trò, văn hóa, xã hội, kinh
tế…bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các
biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng.” [18,
tr.9]







Mục tiêu
Đối tượng quản lí
Chủ thể quản lí
Kha
ùch thể
quản lí




Sơ đồ 1.2. Khái niệm quản lý
Khái niệm quản lý, tùy theo cách tiếp cận của mỗi tác giả mà có nhiều cách đònh
nghóa khác nhau, tuy nhiên ta có thể rút ra một số vấn đề cốt lõi của quản lý như sau: chủ
thể quản lý là con người hoặc tổ chức do con người lập nên; khách thể quản lý là con người,
sự vật hoặc sự việc.
Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động qua lại, tương hỗ


nhau, chủ thể quản lý làm nảy sinh các tác động quản lý, còn khách thể quản lý thì làm nảy
sinh các giá trò vật chất và tinh thần có giá trò sử dụng trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con
người, thỏa mãn mục đích của chủ thể quản lý. Trong quản lý, chủ thể quản lý phải có tác
động phù hợp và sắp xếp hợp lí các tác động đó nhằm đạt mục tiêu quản lý. Do đó, quản lý
phải kết hợp chặt chẽ giữa tri thức và lao động. Xét dưới góc độ điều khiển học hành động
thì quản lý chính là quá trình điều khiển sắp xếp tác động làm cho đối tượng quản lý thay
đổi trạng thái.
Muốn phát huy tiềm năng của đối tượng quản lý thì phải có cơ chế quản lý đúng. Cơ
chế quản lý là phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lý được diễn ra, quan hệ tương tác
giữa chủ thể và khách thể quản lý được vận hành và phát triển. Để thực hiện các quá trình
quản lý phải có các điều kiện, phương tiện quản lý. Điều kiện, phương tiện quản lý không
chỉ là máy móc kó thuật mà còn là nhân cách của nhà quản lý. Hiệu quả quản lý là sản
phẩm kép, nghóa là trong quá trình quản lý, đối tượng quản lý phát triển và phẩm chất năng
lực của nhà quản lý cũng phát triển.
Xét dưới góc độ hoạt động, quản lý có 4 chức năng cơ bản như sau:
- Chức năng lập kế hoạch: việc dự kiến các bước đi hợp lý và các điều kiện cụ thể cùng
việc giải quyết các tình huống, các vấn đề xảy ra.
- Chức năng tổ chức: sự liên kết các bộ phận để tạo ra sức mạnh tổng hợp của bộ máy,
trong đó đặc biệt là liên kết con người.
- Chức năng điều hành, thúc đẩy: sự chỉ huy, dẫn dắt, tác động làm cho bộ máy hoạt
động, trong quá trình hoạt động có điều chỉnh và thúc đẩy.
- Chức năng kiểm tra: nắm tình hình hoạt động của bộ máy để từ đó điều chỉnh hoạt
động của bộ máy để đạt đến mục tiêu.
Nhìn chung, quản lý là hoạt động có chủ đích của con người, quản lý không nằm
ngoài mục tiêu là giúp vận hành hệ thống được tốt hơn. Để phục vụ cho công tác quản lý thì
có các chức năng quản lý, các chức năng này giúp cho nhà quản lý thực hiện đầy đủ chức
năng quản lý của mình. Theo bản thân người viết, quản lý là hoạt động mà trong đó nhà
quản lý vận dụng các chức năng quản lý nhằm giúp đối tượng quản lý thực hiện đầy đủ và
đúng đắn mục tiêu quản lý đã đề ra.

1.2.2. Khái niệm Quản lý giáo dục
Cũng như khái niệm quản lý, khái niệm quản lý giáo dục cũng được đònh nghóa dưới
nhiều cách thức khác nhau tùy theo cách tiếp cận của người đưa ra khái niệm, có thể liệt kê
một số khái niệm như sau:
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý
nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát… một cách có hiệu quả các nguồn
lực giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội.” [28, tr.36]
Nguyễn Ngọc Quang trong Những khái niệm cơ bản về lí luận giáo dục có đinh nghóa
như sau: “quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui
luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo
dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghóa Việt Nam, mà
tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.” [19, tr.25]
Theo TS. Hồ Văn Liên: “cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt
động có ý thức của con người nhằm đeo đuổi những mục đích của mình.” [14, tr.9]
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo thì quản lý giáo dục được hiểu theo hai ý là nghóa
rộng và nghóa hẹp. Theo nghóa rộng: “Quản lý giáo dục theo nghóa tổng quát là hoạt động,
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo
yêu cầu hiện nay”. Theo nghóa hẹp thì “Quản lý giáo dục, quản lý trường học có thể là một
chuỗi tác động hợp lí (có mục đích, tự giác, có kế hoạch, có hệ thống ) mang tính tổ chức sư
phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp tham gia vào mọi
hoạt động của nhà trường, nhằm làm cho qui trình này vận hành tới việc hoàn thành những
mục đích dự kiến.” [18, tr.16,17]
Như vậy, có thể khẳng đònh rằng bản chất của quản lý giáo dục là quá trình tác động
có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý và các thành tố tham gia vào quá trình
hoạt động giáo dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Một số tác giả khác lại cho rằng: “Quản lý giáo dục là tác động có ý thức, có mục
đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống, nhằm mục

đích bảo đảm giáo dục cộng sản chủ nghóa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển hài hòa và
toàn diện của họ, trên cơ sở nhận thức đúng và sử dụng các qui luật chung vốn có của chủ
nghóa xã hội, cũng như các qui luật khách quan của quá trình dạy học – giáo dục, của sự
phát triển thể chất và tâm lý trẻ em, thiếu niên cũng như thanh niên.” [24, tr.9]
Như vậy, quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý, nó cũng có các chức năng
riêng của mình, có thể kể ra một số chức năng của quản lý giáo dục như sau:
- Chức năng kế hoạch hóa: soạn thảo, thông qua và xây dựng được hệ thống những chủ
trương, những quyết đònh quản lý giáo dục.
- Chức năng tổ chức, chỉ đạo giáo dục: thực hiện các quyết đònh quản lý bằng cách xây
dựng cấu trúc tổ chức của đối tượng quản lý, tạo nên mạng lưới quan hệ tổ chức, tuyển
lựa, sắp xếp, bồi dưỡng cán bộ làm cho mục tiêu trở nên có ý nghóa, tăng tính hiệu
quả về mặt tổ chức. Chỉ dẫn, động viên, điều hành và phối hợp các lực lượng giáo dục
(cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh…) theo sự phân công và kế hoạch đã đònh
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục mong muốn.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá: chức năng này có liên quan đến mọi cấp quản lý để
đánh giá các hoạt động của hệ thống giáo dục. Chức năng kiểm tra, đánh giá, thực
hiện việc xem xét tình hình thực hiện công việc, đối chiếu với yêu cầu đã đề ra để có
sự đánh giá đúng đắn những nhiệm vụ giáo dục đã đề ra.
Nếu như quản lý theo nghóa chung nhất được hiểu rộng cho các chuyên ngành khác
nhau thì quản lý giáo dục, với chức năng của mình lại mang bản chất sư phạm. Nhà quản lý
giáo dục không thực hiện các chức năng quản lý vào mục tiêu tạo ra sản phẩm vật chất hay
tinh thần mà quản lý giáo dục vận dụng các chức năng quản lý đặc thù của chuyên ngành
để thực hiện các đường lối, chính sách của chế độ, cao hơn nữa là thực hiện thành công mục
tiêu giáo dục con người hướng tới các điều chân – thiện – mó.
1.2.3. Khái niệm quản lý nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm trường học
Trường học là hệ thống con của hệ thống giáo dục, đồng thời cũng là hệ thống con
của hệ thống xã hội. Trường học là một thể chế chuyên biệt của xã hội, của nhà nước, có
chức năng giáo dục và đào tạo, có mục tiêu rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, được cung cấp các
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình.

Giáo dục là quá trình xã hội hóa nhân cách đang phát triển của trẻ em – bộ phận
quan trọng nhất, chiếm tỉ trọng lớn nhất của quá trình này – được thực hiện một cách có kế
hoạch, có hệ thống trong trường học.
Trường học có đặc điểm thể chế là sự kết hợp chặt chẽ, hữu cơ giữa đặc điểm nhà
nước và xã hội. Trường học trong bất kì chế độ chính trò nào, hình thái kinh tế xã hội nào
cũng là một hệ thống mở, nghóa là trường học cũng có mối quan hệ mật thiết với môi trường
kinh tế – chính trò – xã hội – văn hóa, nó chòu sự tác động mạnh mẽ với môi trường kinh tế
– chính trò – xã hội – văn hóa.
Với tư cách là một hệ thống con trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhà trường ở nước
ta có các nhiệm vụ và quyền hạn theo qui đònh của luật giáo dục của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghóa Việt Nam. Đó là nơi tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác
theo mục tiêu chương trình giáo dục. Nhà trường quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên, quản
lý người học, quản lý sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bò và tài chánh theo qui đònh
của pháp luật. Nhà trường cần phải có sự hợp tác với gia đình người học, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động giáo dục. Ngoài ra, nhà trường cũng phải tổ chức cho nhà giáo, cán bộ nhân
viên và người học tham gia các hoạt động xã hội. Nhà trường còn thực hiện các nhiệm vụ
và quyền hạn khác theo qui đònh của pháp luật.
1.2.3.2. Khái niệm quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là quá trình nắm vững các văn bản pháp qui, nắm vững thực trạng
nhà trường về cán bộ giáo viên và các điều kiện vật chất; nắm được các thông tin về môi
trường, từ đó lựa chọn, sắp xếp, hướng dẫn thực hiện các quyết đònh quản lý theo một
phương án tối ưu, nhằm làm cho các đối tượng quản lý vận động hướng tới việc thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ của nhà trường.
Trong “Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục”, Phạm Minh Hạc viết: “Quản
lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lí giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục
tiêu đào tạo đối với các ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.”[23, tr. 22].
Việc quản lý nhà trường bao gồm các quan hệ giữa nhà trường và xã hội. Quản lý
nhà trường bao gồm các nhiệm vụ như: quản lý quá trình sư phạm là quản lý các quá trình
giáo dục; quản lý cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực trong nhà trường.

Nhà trường là một hệ thống xã hội có 3 thành tố chính là con người, vật chất và tinh
thần. Sự liên kết giữa 3 thành tố này diễn ra trong không gian và thời gian tạo thành các
quá trình xã hội. Trong nhà trường, quá trình đó là quá trình giáo dục.


















Phương tiện
giáo dục
Nội dung
giáo dục
Giáo viên
Phương pháp
giáo dục
Học sinh
Sơ đồ 1.3. Mối quan hệ của các thành tố trong quá trình giáo dục

Mục đích
giáo dục
Trường trung học cơ sở trước đây gọi là trường cấp II, sau được ghép với cấp I gọi là

trường phổ thông cơ sở, từ những năm 90, trường tiểu học được tách ra khỏi trường trung
học cơ sở để hình thành một cấp học riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Sơ đồ 1.4 sẽ
cho ta thấy rõ vò trí và vai trò của trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân
tại Việt Nam:











Giáo dục
Mầm non
Giáo dục phổ thơng
GDTH GD
THCS
GD
THPT
Dạy nghề
Trung cấp
chuyên nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp

Đại học
Giáo dục
Sơ đồ 1.4. Vò trí trường trung học cơ sở trong hệ thống giáo dục quốc dân

Từ sơ đồ 1.4 ta thấy giáo dục trung học cơ sở là bộ phận của giáo dục phổ thông tiếp
nối ngay sau giáo dục tiểu học và là bước chuyển tiếp đi lên giáo dục trung học hoặc giáo
dục nghề nghiệp. Như vậy, giáo dục trung học cơ sở được xem như là “nấc thang” chuyển
tiếp người học tiến lên những bậc học cao hơn hoặc hướng nghiệp cho học sinh và là bước
chuyển tiếp không thể thiếu nếu người học muốn tiếp tục theo học cao hơn để lónh hội tri
thức cũng như kó năng nghề nghiệp.
Luật giáo dục 1998 qui đònh:

Mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở
Giúp học sinh củng cố và phát triển kết quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học
vấn phổ thông cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kó thuật và hướng nghiệp để tiếp tục
học trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động sinh hoạt sau này.

Nội dung của giáo dục trung học cơ sở
Củng cố phát triển những nội dung đã học ở tiểu học, đảm bảo cho học sinh có
được những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lòch sử dân tộc, kiến thức khác
về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, có những hiểu biết tối
thiểu về kó thuật và hướng nghiệp.

Nhiệm vụ của giáo dục trung học cơ sở
Thực hiện các hoạt động giáo dục do bộ giáo dục và đào tạo ban hành. Tổ chức
hướng nghiệp và lao động hướng nghiệp chuẩn bò nghề cho học sinh. Tổ chức cho thầy cô
giáo và học sinh tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, phổ biến khoa học, bảo vệ môi
trường, vận động nhân dân, các tổ chức cộng đồng xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, tham gia thực hiện mục tiêu giáo dục. Quan tâm giáo dục toàn diện nhằm hình thành

và phát triển ở học sinh nhân cách xã hội chủ nghóa, chuẩn bò đội ngũ lao động và chiến só
trẻ sẵn sàng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát triển, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, góp
phần chuan bò đào tạo bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cho trung học phổ thông, trung học
chuyên nghiệp và đào tạo nghề.
Điều 16 điều lệ trường trung học ban hành năm 2000 như sau: “Cán bộ quản lý giữ vai
trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục. Vì vậy, Cán bộ
quản lý phải không ngừng học tập, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng
lực quản lý và trách nhiệm cá nhân.”[5]

Hiệu trưởng trường trung học cơ sở
Hiệu trưởng được xem như người “nhạc trưởng”. Nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu
trưởng là tổ chức bộ máy nhà trường, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
năm học; quản lý giáo viên, học sinh, quản lý chuyên môn, phân công công tác, kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, nhân viên. Hiệu trưởng là người tổ chức
giáo dục học sinh; quản lý hành chánh, tài chánh, tài sản của nhà trường; thực hiện các chế
độ chính sách của nhà nước đối với giáo viên, nhân viên, học sinh; thực hiện qui chế dân
chủ trong hoạt động của nhà trường.

Phó hiệu trưởng trường trung học cơ sở
Giúp việc cho hiệu trưởng là các phó hiệu trưởng, phó hiệu trưởng thực hiện và
chòu trách nhiệm trước hiệu trưởng về nhiệm vụ được hiệu trưởng phân công; cùng với hiệu
trưởng chòu trách nhiệm trước cấp trên về phần việc được giao; thay mặt hiệu trưởng điều
hành hoạt động của nhà trường khi được ủy quyền.
Trong quản lý nhà trường, các phó hiệu trưởng sẽ cùng hiệu trưởng chòu trách
nhiệm cao nhất về công tác điều hành và quản lý nhà trường. Các phó hiệu trưởng, tùy theo
năng lực và nghiệp vụ đã được đào tạo, tùy theo sự phân công phân nhiệm mà có những
nhiệm vụ và chức trách khác nhau như có thể phụ trách công tác quản lý chuyên môn hoặc
chòu trách nhiệm về quản trò hành chánh, quản lý cơ sở vật chất nhưng đều chòu sự quản lý
chung của hiệu trưởng nhà trường.



1.2.4. Khái niệm đánh giá trong giáo dục
1.2.4.1. Khái niệm đánh giá
Đánh giá được áp dụng trong rất nhiều lónh vực, tùy thuộc vào ngành, nghề đặc trưng
mà có khái niệm đánh giá khác nhau. Theo thuật ngữ tiếng Anh, đánh giá (evaluation) được
hiểu là hệ thống xác đònh những ưu điểm, giá trò và tầm quan trọng của một ai đó bằng cách
sử dụng các tiêu chí với một bộ các tiêu chuẩn [1]. Theo từ điển tiếng Việt, nhà xuất bản Đà
Nẵng 1997, đánh giá được hiểu là nhận đònh một giá trò.
Theo Trần Bá Hoành thì đánh giá là quá trình hình thành những nhận đònh, phán
đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được. Đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết đònh thích hợp để cải thiện
thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.[32]
Các nhận đònh trên đã cho ta hình dung được khái niệm về đánh giá và tầm quan
trọng của công tác đánh giá. Đánh giá không đơn giản chỉ là xác đònh những thông tin của
đối tượng mà dựa trên những thông tin thu thập đó, thông qua đối chiếu với các bộ tiêu
chuẩn, tiêu chí đã được xác lập nhằm đề xuất những quyết đònh, những quyết sách nhằm cải
thiện thực trạng của đối tượng.
1.2.4.2. Đánh giá trong giáo dục

Khái niệm đánh giá trong giáo dục
Cũng như các ngành nghề khác, đánh giá trong giáo dục cũng có vò trí và vai trò riêng
của nó. Theo Ths. Vũ Trọng Nghò: “trong quá trình dạy học nói riêng hay giáo dục và đào
tạo nói chung, kiểm tra đánh giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một
chỉnh thể thống nhất trong qui trình đào tạo. Việc kiểm tra đánh giá không đơn thuần chỉ chú
trọng vào kết quả học tập của học sinh, mà còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy động cơ,
thái độ tích cực của người học, hoàn thiện quá trình dạy học, kiểm đònh chất lượng, hiệu quả
dạy học và trình độ nghề nghiệp của người ấy.”[34]
Theo hướng dẫn trong tài liệu hướng dẫn đánh giá kết quả học tập học sinh trung học
cơ sở thì: “đánh giá là tập hợp các chiến lược đánh giá nhằm thu thập và phân tích thông tin
để nhận xét, phán đoán kết quả học tập của học sinh dựa theo mục tiêu chương trình môn

học.” [4]
Theo Đỗ Công Tuất, giảng viên trường Đại học An Giang, trong giáo trình Đánh giá
trong giáo dục có đưa ra khái niệm về công tác đánh giá trong giáo dục như sau: “đánh giá
được hiểu là quá trình hình thành những nhận đònh, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào

×