Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị phẫu thuật khối u buồng trứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 95 trang )


1
ĐẶT VẤN ĐỀ


Khối u buồng trứng là một bệnh lý thường gặp ở phụ nữ, gặp trong mọi
lứa tuổi, đặc biệt là ở tuổi hoạt động tình dục và nguy cơ ung thư là 5-7%
[10],[17],[18],[23]. Khối u buồng trứng (UBT) là những khối u phát sinh từ
các thành phần của buồng trứng bình thường hay từ di tích phôi thai của
buồng trứng. Buồng trứng là một cơ quan đặc biệt so với các cơ quan khác
trong cơ thể vì nó có nguồn gốc mô học rất phức tạp. Vì vậy khối UBT là một
bệnh lý phức tạp về tổ chức học và tiên lượng vì tính chất đa dạng của nó và
có thể gặp ở mọi lứa tuổi khác nhau [18],[23],[25].
Khối UBT thường không có triệu chứng rõ rệt, diễn biến thầm lặng
nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể cho những biến chứng cấp hay bán cấp.
Khối u buồng trứng có hai nguy cơ lớn, đó là biến chứng và ác tính hoá. Ung
thư hoá là một biến chứng nặng nề, nguy hiểm và khó tiên lượng nhất vì bất
cứ khối UBT nào cũng có tỷ lệ hoá ác. Điều này cho thấy tầm quan trọng của
bệnh.
Việc phân biệt u lành hay ác tính không chỉ dựa vào thăm khám lâm sàng hay
một phương pháp cận lâm sàng nào khác. Chẩn đoán giải phẩu bệnh lý, phân
loại mô bệnh học các khối UBT không những đóng vai trò quan trọng mà còn
là tiêu chuẩn cơ bản giúp điều trị và theo dõi khối UBT, đặc biệt với ung thư
buồng trứng ở bất kỳ giai đoạn nào.
Khi chỉ định điều trị phẩu thuật cắt bỏ khối u hay bóc tách để lại mô
lành buồng trứng hoặc kèm cả cắt tử cung toàn phần và buồng trứng bên đối
diện, nên tùy vào từng trường hợp cụ thể, cũng như theo dõi kết quả điều trị
sau phẫu thuật là việc làm cần thiết quan trọng nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người bệnh, theo dỏi phát hiện sớm những nguy cơ biến
chứng của bệnh,từ đó có thái độ xử trí kịp thời, thích hợp,có hiệu quả trước


2
khi nó đe doạ đến tính mạng người bệnh, mang lại ích lợi thiết thực trong việc
chăm sóc sức khoẻ phụ nữ.
Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu về bệnh lý khối
UBT nói chung và ung thư buồng trứng nói riêng. Tuy nhiên tại Thừa Thiên
Huế và khu vực Miền Trung nói chung, chưa có nhiều đề tài đi sâu nghiên
cứu về giải phẩu bệnh lý, phân loại mô bệnh học khối u buồng trứng một cách
hệ thống cũng như tìm hiểu mối liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng , cận
lâm sàng, hình thái siêu âm của những khối u này.
Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị phẩu thuật khối u buồng trứng” nhằm
2 mục tiêu:
1- Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình thái siêu âm và mô bệnh học
khối u buồng trứng.
2- Đánh giá kết quả sớm điều trị khối u buồng trứng .












3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. TỔNG QUAN VỀ BUỒNG TRỨNG
1.1.1. Giải phẫu buồng trứng
Buồng trứng là một tuyến vừa ngoại tiết vừa nội tiết, có 2 buồng trứng
Phải và Trái nằm giáp vào thành bên chậu hông, sau dây chằng rộng, có màu
hồng nhạt, nhẵn cho tới lúc dậy thì, sau đó ngày càng sần sùi vì hàng tháng
một trứng tiết ra từ một nang trứng và vòi tử cung làm rách vỏ buồng trứng và
tạo vết sẹo trên bề mặt buồng trứng [1].
Buồng trứng có
hai mặt: mặt trong và
mặt ngoài, mặt trong lồi
tiếp xúc với các tua của
phễu vòi tử cung và quai
ruột, mặt ngoài nằm vào
phúc mạc của thành bên
chậu hông trong một hố
lõm gọi là hố buồng
trứng, hố buồng trứng được giới hạn bởi các thành phần nằm ngoài phúc mạc
đội lên, phía trước là dây chằng rộng, phía trên là động mạch chậu ngoài, phía
trong là động mạch chậu trong, phía sau là động mạch chậu trong và niệu
quản. Ở hố động mạch rốn và bó mạch thần kinh. Mặt ngoài buồng trứng có
một vết lõm là rốn buồng trứng nơi mạch thần kinh đi vào buồng trứng.
Buồng trứng có hai bờ: Bờ tự do và bờ mạc treo buồng trứng.
Buồng trứng có hai đầu: Đầu vòi và đầu tử cung.
Buồng trứng được treo lơ lửng trong ổ phúc mạc nhờ một hệ thống dây

4
chằng. Ngoài mạc treo buồng trứng còn có dây chằng treo buồng trứng.
Phần tuỷ: Là mô liên kết lỏng lẻo có nhiều mạch máu, thần kinh và sợi
cơ trơn. Các động – tĩnh mạch tạo thành mô cương, khi giản ra làm buồng

trứng trương to lên.
























5
1.1.2. Tổ chức học của buồng trứng
Tuyến sinh dục xuất hiện vào tháng đầu của thời kỳ bào thai dưới dạng
một gờ khu trú ở mặt trước trong của trung thận, được gọi là mào sinh dục.
Mào sinh dục được bao phủ bởi thượng mô khoang và có một vùng trung tâm

đệm sợi dưới thượng mô, vào tuần thứ sáu các mầm bào nguyên thủy di
chuyển từ túi phôi vào mào sinh dục, lúc này thượng mô khoang nguyên thủy
tăng sản tích cực xâm nhập vào mô đệm hình thành các dây giới bào nguyên
thủy (U tế bào đệm sinh dục) từ từ bao quanh các mầm bào vào tuần thứ mười
tuyến sinh dục chưa biệt hóa chuyển dần dần thành buồng trứng, vùng tủy teo
đi có hình thành các nang trứng nguyên thủy ở vùng vỏ với sự phát triển của
dây giới bào thứ cấp tại vùng vỏ. Các dây này đứt đoạn để thành các nang bào
vây quanh mầm bào lúc này dã trở thành nguyên bào noãn rồi sau thành noãn
bào, ở trẻ sơ sinh buồng trứng dài và hẹp nằm trong khung chậu thạch, kích
thước 1,3 x 0,5x 0,3cm ở tuổi dậy thì buồng trứng hình bầu dục kích thước 3
x 1,8 x 1,2cm, ở phụ nữ trưởng thành buồng trứng lớn hơn 3-5cm x 1,5-3cm x
0,6-1,5cm, nặng 5-8gam, sau mãn kinh buồng trứng teo lại võ bao trắng hồng
nhẵn thể vàng thể trắng nằm rãi rác trong vùng vỏ và tủy của buồng trứng.
Tổn thương thường gặp nhất buồng trứng là u buồng trứng bệnh lý
viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng
trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng. U dạng bọc hay gặp
hơn u dạng đặc (Nguyễn Sào Trung 1994)
Bề mặt ngoài buồng trứng được lợp bởi một biểu mô vuông đơn trụ thấp
được gọi là biểu mô buồng trứng, nhưng thường dẹt và tăng theo tuổi. Tế bào
này có nhiều vi nhung mao, thỉnh thoảng có lông chuyển, bề mặt không đều,
có những rãnh, các tế bào này không tạo ra giao tử cái. Dưới lớp tế bào bề
mặt buồng trứng gồm 2 phần cấu tạo:


6
Vùng vỏ buồng trứng:
- Lợp trên bề mặt buồng trứng là lớp tế bào biểu mô vuông đơn. Chính
các tế bào biểu mô này là nguồn gốc sinh tạo khối u thuộc nhóm I.
- Mô liên kết rất nhiều tế bào. Chính các tế bào liên kết này là nguồn
gốc sinh tạo khối u thuộc nhóm II A.

- Các nang trứng nguyên thủy và các nang trứng đang phát triển (nang
trứng ặc, nang trứng có hốc, nang trứng chín).
Các noãn bào là nguồn gốc sinh tạo u tế bào mầm (nhóm IV)
Tế bào vỏ, tế bào hạt là nguồn gốc sinh tạo u thộc nhóm IIA.
Vùng tủy:
- Là vùng mô liên kết, chứa nhiều sợi cơ trơn, thần kinh,nhiều mạch
máu lò xo và mạch bạch huyết.
- Đặc biệt chú ý là ở vùng này có các vết tích phôi thai dưói dạng ống
nhỏ và những tế bào đa diện dạng tế bào Leydig. Chính các dạng tế bào này là
nguồn gốc sinh tạo khối u thuộc nhóm IIB, III.
1.1.3. Sinh lý buồng trứng
Buồng trứng là cơ quan vừa ngoại tiết vừa nội tiết. Hoạt động của
buồng trứng mang tính chất chu kỳ dưới sự điều khiển của hạ đồi - tuyến yên.
- Chức năng ngoại tiết: tạo noãn và phóng noãn trong mỗi chu kỳ.
- Chức năng nội tiết: chế tiết Progesterone và Estrogen [1].
1.2. KHỐI U BUỒNG TRỨNG
1.2.1. Tần suất
Khối u bồng trứng là loại khối u sinh dục thường gặp. Theo số liệu điều
tra trên gần một vạn phụ nữ Việt Nam tỷ lệ mắc bệnh là 3,6% [10]; nhiều hơn
bất cứ khối u nào của đường sinh dục, nếu chỉ tính số ung thư buồng trứng thì
tỷ lệ cũng cao. Không có cơ quan nào trong cơ thể gây ra nhiều loại bướu
khác nhau như buồng trứng. Cấu trúc chính của buồng trứng để u phát sinh là

7
lớp thanh mạc (U biểu mô), trung mô (U tế bào đệm sinh dục) và tế bào mầm
(U tế bào mầm). Tuy nhiên có nhiều khối u chưa thể xếp loại được vì nguồn
gốc của chúng chưa được xác định.
Kích thước khối u cũng được nhiều tác giả quan tâm đến , trước đây người ta
cho rằng kích thước khối u < 5cm được xếp vào u cơ năng và được theo dỏi vì
khó có khả năng biến chứng ác tính, tuy nhiên ngày nay nhiều nghiên cứu cho

thấy khối u 1cm vẫn có khả năng gây ác tính( nguyễn bá mỹ NHi).tuy nhiên
khối u lớn >5cm được nhiều tác giả lưu tâm và mô tả nhiều nhất .Vào năm
1851 Philip J. bruckner đã chụp hình và mô tả một khối u buồng trứng khổng
lồ ở người phụ nữ 33 tuổi đã sinh 5 con trong khi đó một khối UBT vẫn đang
phát triển, cân nặng bà ta 275 pounds(STANLEY B)và ông ta nói rằng khối u
nầy thường là hiếm và thường bắt gặp ở Quốc gia phương Tây nơi mà sự
chăm sóc y tế còn phát triển kém.Nhiều nghiên cứu cũng ghi nhận U càng lớn
khả năng ác tính càng cao và thường gặp những u có kích thước lớn hơn 8cm.
U buồng trứng có thể lành tính, giáp biên ác tính, hay ác tính. Sự phân
loại của tổ chức Y tế thế giới về u buồng trứng định nghĩa u giáp biên của
buồng trứng là loại u có vài tiêu chuẩn ác tính nhưng không có tất cả các tiêu
chuẩn. Có khoảng 10% - 20% u buồng trứng loại biểu mô thuộc loại giáp
biên[18],[23]. Grad mô học của ung thư buồng trứng rất quan trọng, xác định
Grad mô học có liên quan đến tiên lượng và theo dõi bệnh. Sự phân bố các
loại u buồng trứng khác nhau rất tuỳ thuộc vào lứa tuổi, với tỷ lệ 60% các u tế
bào mầm ở trẻ em, 80% các u biểu mô gặp sau tuổi mãn kinh, tỷ lệ các u ác
tính cũng gia tăng theo tuổi: 40% các u buồng trứng ác tính gặp sau tuổi mãn
kinh, ít hơn 10% ở trước tuổi 40. Tần suất u ác là 4% trước 20 tuổi, 8% giữa
20 và 39 tuổi, 27% giữa 40 và 49 tuổi và 42% sau 50tuổi. Theo Auranen A.;
Grenman S. toàn bộ 1.197 u giáp biên buồng trúng đã được báo cáo từ năm
1973- 1992 tuổi trung bình của bệnh nhân là 52.Trong khi đó tuổi trung bình

8
của bệnh nhân ung thư thượng mô buồng trứng xâm lấn được báo cáo trong
cùng thời gian là 62 tuổi, tỉ lệ ung thư giáp biên buồng trứng không gia tăng
với bệnh nhân sau 35 tuổi hoặc lớn hơn. Các u giáp biên ác thường thấy ở phụ
nữ trẻ, 50% u lành là u bì, thường gặp ở vào khoảng 20 và 39 tuổi.Tuy hiếm
gặp nhưng cũng được Valocky I.; Lukan M; Huba F, mô tả năm 2003 một bé
gái Người ANH 10 tháng tuổi vào viện vì kích thước ổ bụng lớn nhanh và
được siêu âm chẩn đoán khối UBT và đươc phẩu thuật cắt bỏ khối u. Ngoài ra

còn có các tình trạng giả u như hoàng thể thai kỳ, buồng trứng đa nang, nang
hoàng tuyến, lạc nội mạc tử cung.
Ung thư buồng trứng loại biểu mô đáng lưu ý vì sự lan tràn xuyên phúc
mạc và trong ổ bụng. Di căn đầu tiên có thể đến buồng trứng bên kia, gieo rắc
phúc mạc vùng chậu, bàng quang, túi cùng sau và dọc theo rãnh đại tràng hai
bên mạc nối lớn, vòm hoành. Theo Raudall và Hall tỷ lệ ung thư buồng trứng
ở Mỹ là 10/100.000 (Ở phụ nữ 75 tuổi trở lên là 40/100.000) 15/100.000 ở
Bắc Âu và 128/100.000 ở Nhật. Tại trung tâm Ung bướu Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1990 – 6/1996 ghi nhận có 1.037 trường hợp ung thư buồng
trứng trong số 36.390 bệnh nhân nhập viện [9] (Tài liệu chuyên khoa II bộ
môn trường đại học Y Huế).
Yếu tố thuận lợi của ung thư buồng trứng là đời sống vật chất cao,
không có chồng hay không có con. Nếu đẻ nhiều, đẻ sớm thì ít bị ung thư
buồng trứng. Dùng thuốc tránh thai cũng làm giảm nguy cơ bị ung thư buồng
trứng.Theo Shert có lẻ đời sống vật chất cao làm tăng số lần rụng trứng trong
tháng (có lẻ làm lộn lớp biểu mô phủ buồng trứng vào trong, tạo nên hang ).
Làm tăng lượng estrogen và progesteron hoặc rối loạn trong quá trình sinh sản
các steroid là chìa khoá gây u, buồng trứng có nhiều loại di tích bào thai sinh
ra các nội tiết loại ste roid nếu có một sự mất cân bằng nào đó có thể làm cho
hoạt động tế bào trở nên bất thường tạo nên khối u [2],[3],[4],[5].

9
Ngoài ra người ta còn nhận thấy một mối liên quan giữa ung thư vú và
ung thư buồng trứng: có ung thư vú và ung thư buồng trứng: có ung thư vú,
nguy cơ bị ung thư buồng trứng gấp hai lần và có ung thư buồng trứng nguy
cơ bị ung thư vú gấp 3-4 lần . Người ta còn nhận thấy phụ nữ dùng nhiều
băng vệ sinh có bột tale có nguy cơ bị ung thư buồng trứng tăng gấp 3,3 lần.
Có nhiều công trình nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy xáo trộn nội tiết có
thể góp phần gây ra ung thư buồng trứng. Người ta ghi nhận tỷ lệ ung thư
biểu mô có hơi cao ở phụ nữ ít có thai hay không có thai và phụ nữ có tiền

căn sản khoa khó, dùng nội tiết kích thích sự rụng trứng trong điều trị vô sinh
và Dùng kích tố Oestrogen tổng hợp ở những bệnh nhân mãn kinh cũng có
liên quan đến sự gia tăng ung thư buồng trứng. Các nghiên cứu về dịch tễ học
cũng cho thấy người bị ung thư vú có tần suất bị ung thư buồng trứng cao gấp
hai lần người khác và bệnh nhân ung thư buồng trứng có tần suất ung thư vú
cao gấp 3,4 lần hơn người khác. Ung thư buồng trứng là nguyên nhân đứng
hang thứ 5 gây tử vong do ung thư phụ nữ, sau ung thư phổi , Vú, đại tràng,
trực tràng và tụy. Nó gây ra khoãng 6% số trường hợp tử vong do ung thư
trong năm 2007, ở Mỹ ước tính sẽ có 15.000 người chết vì căn bệnh này.
Tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư buồng trứng khác nhau theo tuổi,
bệnh nhân dưới 65 tuổi nhiều khả năng sống thêm được ít nhất 5 năm, sau khi
có chẩn đoán gấp đôi bệnh nhân trên 65 tuổi. Nhìn chung tỷ lệ sống thêm 1
năm là 76% và sống thêm 5 năm là 45%. Tỷ lệ sống thêm sẽ cao hơn nhiều
nếu ung thư được phát hiện sớm khi còn khu trú, nhưng chí có 1/5 số trường
hợp ung thư buồng trứng được phát hiện ở thời điểm này.
Sở dĩ như vậy rất khó phát hiện những dấu hiệu sớm của ung thư buồng
trứng. Do chưa có xét nghiệm sàng lọc sớm nên thăm khám vùng hố chậu
thường xuyên được xem là biện pháp chính để phát hiện sớm ung thư, mới
đây các chuyên gia thuộc hội ung thư, quỹ ung thư phụ khoa và Hội các Bác

10
sĩ ung thư phụ khoa Mỹ đã đưa ra một hướng dẫn trong đó khuyên phụ nữ
nên đi khám Bác sĩ nếu đột ngột có bất kỳ triệu chứng nào trong số những
triệu chứng sau: Hằng ngày trong ít nhất là 3 tuần: chướng bụng, đau bụng
hoặc đau vùng hố chậu, chán ăn hoặc nhanh có cảm giác nôn, tiểu rắt hoặc
tiểu gấp.
Ung thư buông trứng chiếm 3-4% ung thư ở phụ nữ và đứng hàng thứ
4 gây tử vong thường gặp ở phụ nữ ở Mỹ, trong năm 2005 ước tính có 22.220
những trường hợp ung thu buồng trứng mới được chẩn đoán ở Mỹ và 16.210
bệnh nhân tử vong vì bệnh này, ung thư buồng trứng là bệnh lý đứng hàng thứ

2 trong số bệnh lý phụ khoa ác tính thường gặp . Năm 1985, tỷ lệ ung thư
buồng trứng mới mắc bệnh được công bố 0,8%/năm thường gặp nhất ở những
phụ nữ sau tuổi 75. Nhìn chung bệnh ung thư buồng trứng là bệnh của những
phụ nữ sau mãn kinh chiếm tỷ lệ cao nhất ở tuổi từ 65-74 tuổi, nguy cơ bị ung
thư buồng trứng trong một đời người là khoãng 1,4% và nguy cơ một đời
người bị tử vong do ung thư buồng trứng là 1% .Ở Việt Nam Trong 4 năm từ
năm 2000- 2003 bệnh viện Từ Dũ đã phẩu thuật 10.494UBT, trong đó có
9.909UBT lành tính(94,4%) và 585 UBT ác tính (5,6%)(.Nguyễn Thị Ngọc
Phượng) . một nghiên cứu khác của(Trần thị Lợi )cũng tại bệnh viện từ Dũ từ
2003- 2005 mỗi năm có khoảng 3000 trường hợp khối UBT được phẩu thuật
.U lành tính chiếm khoảng 95% trong đó nhiều nhất là u bọc bì(40%), kể đến
là u lạc nội mạc tử cung(29%), u bọc dịch trong( 24%), u bọc dịch nhầy(9%),
u ác tính chiếm khoảng 5% tổng số khối UBT, trong số đó,carcinome bọc dịch
nhầy chiếm nhiều nhất(28%),carcinome bọc dịch trong chiếm (23%),u xoang
nội bì: 12,8%, carcinome dạng lạc nội mạc tử cung: 12,1%, u quái không
trưởng thành: 10%.Tất cả các trường hợp UBT ác tính đều được gủi sang
khoa ung thư phụ khoa để tiếp tục điều trị bằng hoá chất.


11
1.2.2. Chẩn đoán
Chẩn đoán u buồng trứng không khó song chẩn đoán sớm ung thư
buồng trứng thì không dễ, trừ trường hợp rối loạn nội tiết. Với khối u buồng
trứng người ta có thể phát hiện sớm bằng cách thăm khám phụ khoa tình cờ
song với khối u ác tính, trừ khi đã quá muộn, các triệu chứng tại chỗ và toàn
thân quá rõ còn ở giai đoạn đầu ác tính khó phát hiện trên lâm sàng. Do đó mổ
thăm dò hoặc phải qua vi thể mới khẳng định. Do đó, người ta khuyên nên mổ
khi u buồng trứng có đường kính từ 5cm trở lên và làm xét nghiệm về GPBL
chu đáo.
1.2.2.1. Triệu chứng chủ quan (cơ năng)

Khối UBT không có triệu chứng nào là rõ rệt có trường kợp chỉ tức
nặng bụng dưới; rối loạn kinh nguyệt, có khi biểu hiện đau đầu nôn mữa hoặc
không có triệu chứng nào chỉ khi đi khám sức khoẻ, hoặc đi khám vì vô sinh
tình cờ phát hiện.vì vậy rất khó để có một triệu chứng điển hình nào cho bệnh
lý khối UBT và cũng chưa thấy sự biểu hiện lâm sàng rõ ràng nào cho một
khối u biến chứng ác tính, tuy nhiên người ta vẫn có thể Tổng kết lại cho
thấy khối u được phát hiện với những lý do:
- do bụng to lên, sờ thấy u.
- do rối loạn kinh nguyệt.
- do đau vì chèn ép khối u.
- Số còn lại do bị cổ chướng yếu mệt, sút cân ,suy nhược.
1.2.2.2.Triệu chứng khách quan (Thực thể)
- U nhỏ: Qua âm đạo thấy biệt lập với tử cung, bờ rõ di động hay dính.
- U to: Sờ thấy trên bụng ở vùng hạ vị hay cả vùng thượng vị nhẵn hay
lỗn nhỗn di động hay không.
- Chuẩn đoán phân biệt: Thận đa năng, có thai, cổ chướng (u túi tuyến
thành mỏng).

12
1.2.2.3. Triệu chứng toàn thân
Chỉ có khi u to bị chèn ép (khó thở, đau) u nội tiết (RL kinh, dậy thì
sớm, nam hay nữ tính hoá) hay đã ở giai đoạn tiến triển của u ác tính (gầy,
hốc hác, đau, mệt mỏi ).
Thường người ta dựa vào một số triệu chứng để giả định là ác tính:
- Tuổi: Trẻ hay sau mãn kinh.
- Suy sụp nhanh.
- Rối loạn kinh.
- Cổ chướng.
- khối u Không di động.
- Đau.

- Sờ thấy các khối u khác ngoài u chính.
1.2.2.4.Các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán
Siêu âm:
Siêu âm là phương pháp chẩn đoán hình ảnh sử dụng sóng siêu âm, dựa
vào thay đổi tính chất của phản âm người ta nhận định được cấu trúc của vật
khảo sát [6], [7]. Siêu âm có khả năng chẩn đoán sớm, nhận định được bản
chất khối u, phân biệt được với các tổn thương khác, phát hiện dịch cổ
trướng….
Nói chung các khối u có giới hạn rõ nét, thành mỏng, ECHO trống,
một thuỳ, có nhiều khả năng lành tính. Ngược lại, nếu u có vách ngăn dày, các
vùng đặc không đồng nhất, giới hạn không xác định được, thành u có ECHO
kém hoặc cấu trúc ECHO phức tạp vừa đặc vừa nang, báng bụng hay các quai
ruột dính chùm nhau, thì có nhiều khả năng ác tính [10], [20].
Năm 1983, Moyte và cộng sự, thử xác định tính chất siêu âm với 106 u
buồng trứng đối chiếu với giải phẫu bệnh, ông nhận thấy rằng tất cả các u cho
phẩn âm trống (trừ một trường hợp) đều lành tính. Trong loạt u cho phản âm

13
kém, có 7/36 trường hợp là ác tính, độ phản âm càng tăng thì độ ác tính cũng
càng cao, tuy nhiên những u cho phản âm sáng nhất lại là những u quái lành tính
Năm 1991, Sassone – MA và cộng sự (trung tâm Y khoa Columbia –
Hoa Kỳ) tiến hành nghiên cứu trên 281 bệnh nhân nhằm khảo sát các đặc tính
của bệnh lý buồng trứng dựa vào siêu âm đầu dò âm đạo qua đó đánh giá hệ
thống điểm mới nhằm dự đoán độ ác tính của u buồng trứng[14].
Mặc dù siêu âm qua đường bụng và đường âm đạo đã được điều tra
nghiên cứu như là nhừng phương thức tầm soát không xâm hại nhưng siêu âm
qua đường âm đạo là phương pháp được ưa dùng hơn do khả năng quan sát
buồng trứng tốt hơn, vấn đề lớn siêu âm qua ngã âm đạo là độ đặc hiệu không
đủ cao, các hệ thống tính điểm dựa vào hình thái học đã được đề nghị để làm
tăng độ đặc hiệu mhững tiêu chuẩn được nghiên cứu bao gồm: kích thước, thể

tích, tính đồng nhất của thành u bọc và những phần đặc của khối u, những nhú
nhô từ thành u bọc , Độ phức tạp của u bọc và sự hiện diện của báng bụng
một nghiên cứu lớn 3.200 phụ nữ bao gồm siêu âm qua đường âm đạo và một
chỉ số hình thái học đã cung cấp mật độ đặc hiệu là 98,7% và giá trị dương
tính là 6,8% cần thực hiện 44 cuộc mổ bụng để tìm ra ung thư trong đó có 2
ung thư ở giai đoạn I (De Priest và CS 1993) .(modul 13)
Hình ảnh Doppler màu và CDI: ngoài siêu âm đường âm đạo còn có
một phương pháp tầm soát khác là hình ảnh Doppler màu để phát hiện kiểu
hình dòng chảy liên quan đến bệnh lý ác tính
Việc sử dụng Doppler màu dòng chảy dựa trên những khác biệt mạch
máu quan sát, phối hợp với u tăng sinh. Trở kháng thấp trong mối liên quan
với dòng chảy; Như được phản ánh bởi một chỉ số xung < 1.0 được chứng
minh trong 16/17 u ác tính (Weiner và CS 1992) ngược lại chỉ số xung l và
>=1 trong 35/36 trường hợp u buồng trứng lành tính. độ nhạy và độ đặc hiệu
của chỉ số xung trong việc xác định khối u ác tính, trong nghiên cúa này là 94

14
và 97%. Một nghiên cứu trên 1.600 phụ nữ với tiền sử gia đình có ung thư
buồng trứng đã kết thúc với 61 bệnh nhân phải phẫu thuật, 06 ung thư buồng
trứng (05 giai đoạn I v à 01 giai đoạn III) được tìm thấy và 03 khối u được
xem là có tiềm năng ác ính thấp (Bourne v à CS 1993).
Doppler màu dòng chảy dĩ nhiên là một kỹ thuật đắt tiền và khả năng
phân biệt sớm u ác tính buồng trứng (giai đoạn I) với u lành buồng trứng của
nó vẫn chưa được biết rõ.
Những khối u nghi ngờ ác tính là những khối u chứa phần đặc cấu trúc
không đều, vách dày hay có nhú hay bờ không đều theo dõi tín hiệu Doppler
màu dọc theo thành và bên trong vách hay những phần đặc khác khi có một
khối u được phát hiện……(tài liệu số 30 về siêu âm tiếng anh) .
Chọc rửa túi cùng sau:
Bằng nước muối sinh lý, hút ra và ly tâm tìm tế bào ung thư. Gía trị hạn

chế vì âm tính chưa loại trừ được K.
Tìm các chất đánh dấu:
Một số chất loại khối u có thể sản sinh các loại kháng nguyên như
CEA, CA-125…CA-125 là Epitope Carbohydrate kháng nguyên ung thư
glycoprotein, một dấu hiệu sinh học trong huyết thanh có ích trong chẩn đoán
và điều trị ung thư buồng trứng, kháng thể đơn dòng mucin tăng lên, đọng lại
dòng tế bào cái lấy từ các bệnh nhân bị Carcinoma nang tuyến dạng nhú
[8],[11], [12], [13].
CA 125 hiện diện ở lá phôi trong dẫn xuất từ biểu mô mầm, bao gồm
phúc mạc, màng phổi màng ngoài tim và màng ối. Ở người trưởng thành, bình
thường, nhuộm hoá mô miễn dịch cho thấy kháng nguyên CA 125 hiện diện
trong biểu mô vòi trứng, nội mạc tử cung và cổ tử cung. Biểu mô buồng trứng
người trưởng thành cũng như biểu mô buồng trứng của thai đều không biểu
hiện hoạt tính CA 125 [5], [9].

15
CA 125 được định lượng bằng các xét nghiệm miễn dịch với nồng độ
huyết thanh bình thường nhỏ hơn 35 UI/ml. Ngày nay có nhiều công trình
khảo sát để nhận dạng CA 125 trong ung thư buồng trứng với những phương
pháp phân lập cao cấp bằng dùng kháng thể đơn dòng mới, nhận dạng như
một phân tử mucin (phương pháp sắc ký ái lực) [8], [11], [12].
Carcinôm buồng trứng là một trong số các bệnh lý ung thư đáp ứng với
điều trị phẫu thuật giảm tổng khối u, xạ trị và hoá trị. Việc theo dõi đáp ứng
với điều trị rất khó khăn do u thường di căn bề mặt phúc mạc và tạo nên
những nốt nhỏ không thể phát hiện được bằng các khảo sát hình ảnh. Phẫu
thuật mổ bụng xếp giai đoạn lại có nhiều nguy cơ do sự hiện diện của u và
những dây dính do phẫu thuật trước đó. CA 125 tăng sớm trong các trường
hợp tái phát có thể giúp ích trong tình huống này [6], [11], [12], [15].
CA-125 tăng cao bất thường trong huyết thanh 80% bệnh nhân
Carcinôm không tiết nhầy của buồng trứng. Nồng độ CA 125 huyết thanh

tăng ở những bệnh nhân tái phát âm thầm xảy ra trước khi có dấu hiệu lâm
sàng. Nồng độ CA 125 huyết thanh cũng tăng với tỷ lệ cao ở các bệnh nhân
ung thư vòi trứng, nội mạc tử cung và cổ tử cung [3],[4],[5],[8].
Về mặt chẩn đoán sớm, trong một nghiên cứu ghi nhận một bệnh nhân
có tăng nồng độ CA-125 huyết thanh tăng được 12 tháng trước khi được chẩn
đoán lâm sàng ung thư buồng trứng giai đoạn I hoặc II có nồng độ huyết
thanh lớn hơn 35 UI/ml và 50% bệnh nhân có nồng độ lớn hơn 50UI/ml. Phát
hiện này gợi ý bằng đo nồng độ CA 125 huyết thanh có ích trong chẩn đoán
một khối u buồng trứng được phát hiện khi khám thực thể hay siêu âm vùng
chậu. Phần lớn các nghiên cứu cho thấy sử dụng CA 125 huyết thanh để chẩn
đoán một khối u buồng trứng có độ nhạy là 75% và độ đặc hiệu gần 90%.
Nồng độ CA 125 huyết thanh tăng vào lúc chẩn đoán ung thư buồng trứng báo
trước một tiên lượng xấu [5],[7],[8],[9],[11],[12],[13].

16
Tuy nhiên, CA 125 không đặc hiệu cho u buồng trứng. Một nghiên cứu
gần đây cho thấy có sự gia tăng đáng kể dấu hiệu sinh học này các bệnh nhân
bị tràn dịch màng phổi do ung thư vú. Cũng có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân di căn
phổi không liên quan màng phổi cũng có tăng CA 125. Sự gia tăng CA 125
cũng tìm thấy trong huyết thanh bệnh nhân Carcinôm nội mạc tử cung, cổ tử
cung, vòi trứng, tuỵ tạng, dạ dày, gan, đường mật, phổi, vú và đại tràng. Nồng
độ CA 125 huyết thanh tăng cũng được tìm thấy trong các tình trạng lành tính
bao gồm có thai, hành kinh, bệnh nội mạc tử cung, bệnh viêm nhiễm vùng
chậu, viêm tụy tạng, viêm gan và suy thận [5],[8],[13],[15].
- Bê ta HCG là một Glucoprotein có trọng lượng 36.700 đa tong, trong
đó 70% là Polypeptide còn lại 30% là Carbon hydrate. Đây là phần có hoạt
tính sinh học chủ yếu. Sự có mặt của HCG là một xét nghiệm cơ bản và cổ
điển để chẩn đoán có thai. Tuy nhiên do cấu trúc của HCG có chuỗi anh pha
giống LH sự phản ứng chéo này phản ánh không đúng về nông độ HCG. Tuy
nhiên giữa LH và HCG khác nhau về chuỗi Beta, do đó định lượng Beta HCG

sẽ phản ánh trung thành nồng độ Beta HCG trong máu. Tuy nhiên trong khối
u buồng trứng u tế bào mầm, u xoang nội bì phôi làm tăng Beta HCG rất có
giá trị để chẩn đoán khối u này. Giá trị Beta HCG huyết thanh ở phụ nữ bình
thường là 0,337± 0,804 UI/lít.
Các chất miễn dịch:
Bhahacharya và Barrlow (1978) đã phát hiện kháng nguyên có phân tử
lượng cao ở khối u nhầy và nước, song không có ở buồng trứng bình thường
và u lành. Bằng phản ánh miễn dịch phóng xạ thử phát hiện được kháng thể
này trên 67% các K thể dịch và khoảng 30% ở cá ung thư khác (vú, đại tràng).
Knauf và Urbach (1981) đã phát hiện một phần của kháng nguyên
mang kí hiệu NB, 70K điển hình cho K biểu mô, song còn tìm thấy ở một số
K vú và K nội mạc tử cung.

17
Bast và công sự tìm ra kháng thể (125 tác động với kháng nguyên ca l
25 có ở ung thư thanh dịch buồng trứng (cả borderline).
Scanner:
Chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ có hình ảnh chất lưọng cao và
độ tương phản của mô mềm là những lý lẻ xác đáng trong trường hợp tổn
thương nghi ngờ. Siêu âm vẫn giữ là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh chính được
sử dụng trong chẩn đoán khối u phần phụ.tuy nhiên chụp cắt lớp vi tính hay
cộng hưởng từ. Có thể giúp phát hiện khối u đã lan toả vào các bộ phận khác
(ruột, xương, não ). Ngoài ra chụp thận, đại tràng có tác dụng tiên lượng
trong cuộc chuẩn bị mổ.
Khi nghi ngờ ung thư buồng trứng thứ phát cần soi đại tràng để xem có
ung thư đại tràng nguyên phát không. Những xét nghiệm hình ảnh của hệ tiết
niệu cho phép xác định hạch sau phúc mạc và sự tắc nghẽn niệu quản hay
bàng quang bị chèn ép bởi khối u vùng chậu [15].
1.2.3. Phân loại khối u buồng trứng theo WHO
I. CÁC LOẠI U BIỂU MÔ

A. U nước (Khối u thanh dịch).
1. Lành tính.
U túi tuyến và u túi tuyến nhú (U nang tuyến và u nang tuyến có nhú)
U nhú trên bề mặt.
U tuyến xơ và u túi tuyến xơ (U xơ tuyến và u xơ - nang tuyến)
2. Ung thư biểu mô có độ ác tính thấp (borderline)
U túi tuyến và u túi tuyến nhú (U nang tuyến và u nang tuyến có nhú )
U nhú trên bề mặt
U tuyến xơ và u túi tuyến xơ (U xơ tuyến và u xơ -nang tuyến)
3. Ác tính.

18
Ung thư tuyến, ung thư tuyến nhú và ung thư túi tuyến nhú (Ung thư
tuyến, ung thư tuyến có nhú và ung thư tuyến dạng nang có nhú).
Ung thứ biểu mô phủ bề mặt (Ung thứ biểu mô có nhú phủ bề mặt)
Ung thư tuyến x và ung thư túi tuyến xơ (U xơ tuyến và U xơ - nang
tuyến ác tính)
B. U nhầy.
1. Lành tính:
U túi tuyến nhầy (U nang tuyến nhầy)
U tuyến sơ nhầy, u túi tuyến sơ nhầy (U xơ tuyến nhầy, u xơ-nang tuyến
nhầy)
2. Ung thư biểu mô nhầy có độ ác tính thấp.
U túi tuyến nhầy (U nang tuyến nhầy).
U tuyến xơ nhầy, u túi tuyến xơ nhầy(U xơ tuyến nhầy, u xơ nang tuyến
nhầy)
3. Ác tính.
Ung thư tuyến nhầy, ung thư túi tuyến nhầy (Ung thư tuyến nhầy, ung
thư tuyến dạng nang nhầy)
Ung thư tuyến xơ, ung thư túi tuyến xơ.(U xơ tuyến và U xơ - nang

tuyến ác tính)
C. U dạng nội mạc tử cung.
1. Lành tính.
U tuyến lành, u túi tuyến lành (U tuyến và u nang tuyến )
U tuyến xơ, u túi tuyến xơ lành (U xơ tuyến và u xơ -nang tuyến)
2. Ung thư có độ ác tính thấp.
U tuyến và u túi tuyến (U tuyến và u nang tuyến )
U tuyến xơ và u túi tuyến xơ (U xơ tuyến và u xơ nang tuyến)

19
3. Ác tính.
Ung thư biểu mô:
Ung thư túi tuyến (Ung thư tuyến)
Adenoacanthome (Ung thư gai tuyến)
Ung thư tuyến xơ và túi tuyến xơ (U xơ tuyến và u xơ nang tuyến ác tính)
Ung thư mô đệm dạng nội mạc.
Khối u phối hợp thuộc lá phôi giữa
D. U tế bào sáng. (mesonephroid)
1. Lành tính: U túi sơ (U xơ tuyến)
2. Ác tính thấp
3. Ác tính: Ung thư biểu mô và ung thư biểu mô tuyến.
E. U Brenner.
1. Lành tính
2. Ác tính thấp
3. Ác tính
F. U biểu mô pha.
1. Lành tính
2. Ác tính thấp
3. Ác tính
G. Ung thư biểu mô không biệt hóa.

H. Ung thư biểu mô không phân loại được.
II. U CỦA MÔ ĐỆM BUỒNG TRỨNG (sex cord stromal).
A. U tế bào hạt và u mô đệm buồng trứng.
I. U tế bào hạt.
2. U nhóm tế bào vỏ và xơ buồng trứng.
- U tế bào vỏ
- U Xơ buồng trứng
- U không phân biệt được (không phân loại được)

20
B. U tế bào dòng tinh, U tế bào Sertoli và Leydig:
1. Biệt hoá cao.
- Androblastome loại ống hay U tế bào Sertoli có chứa mỡ ( U nguyên
bào tinh dạng ống, hay u tế bào Sertoli)
- (U nguyên bào tinh dạng ống có chứa mỡ)
- U tế bào Sertoli -Leydig
- U tế bào Legdig
2. Biệt hoá vừa
3. Ít biệt hoá. (dạng sarcome).
4. Loại có những thành phần dị biệt (heterologome)
C. Gynandroblastome (khối u nguyên bào lưỡng tính)
D. Không xếp loại được
III. U TẾ BÀO MỠ
IV. U TẾ BÀO MẦM.
A. Dysgerminome (U loạn sản tế bào mần)
B. Endodermil sinuis tumor (U xoang nội bì)
C. Embryonal carcinoma ( Ung thư biểu mô thuộc phôi)
D. Polyembryoma (U đa phôi)
E. Choriocarcinoma (Ung thư tế bào nuôi)
F. U quái (teratoma)

1. Chưa trưởng thành
2. Trưởng thành
- Loại đặc
- Loại nang: Nang bì
Nang bì có phần ác tính
3.Monodermal biệt hoá cao (Dạng u một lớp biểu bì và biệt hóa cao)
- Struma ovari

21
- Carcinoid
- Struma ovari + Carcinoid
- Loại khác
G. Hình thái hỗn hợp.
1. Lành tính
2. Ác tính thấp
3. Ác tính
V. GONADOBLASTOMA
A. Đơn thuần
B. Phối hợp với Dyserminoma (loạn sản tế bào mần) hay dạng khác của u tế
bào mầm.
VI. U TẾ BÀO MẦM KHÔNG ĐẶC HIỆU CỦA BUỒNG TRỨNG.
VII. KHÔNG PHÂN LOẠI ĐƢỢC.
VIII. U DI CĂN TỚI BUỒNG TRỨNG (U THỨ PHÁT Ở BUỒNG TRỨNG DO DI CĂN).
IX. BUỒNG TRỨNG DẠNG KHỐI U.
- U tuyến vàng do thai nghén
- Quá sản mô Đệm buồng trứng và quá sản lớp vỏ
- Nang noãn và nang tuyến vàng
- Buồng trứng đa nang
- Buồng trứng nhiều nang tuyến vàng
- Lạc nội mạc tử cung

- Nang do lộn niêm mạc phủ buồng trứng
- Nang thường và nang ngoài buồng trứng (cạnh)
- Các tổn thương viêm
1.2.4. Phân loại ung thƣ buồng trứng theo FIGO
Ung thư thượng mô buồng trứng và ung thư ống dẫn trứng, cũng như
các khối u ác tính của mô đệm buồng trứng và các tế bào mầm là những bệnh
được phân giai đoạn phẫu thuật. Người ta hiện sử dụng một hệ thống phân

22
giai đoạn đã được Quốc tế công nhận, dựa theo Liên đoàn sản phụ khoa Quốc
tế (FIGO, bản 12). Các kết quả của sự phân giai đoạn này được dựa trên cuộc
mỗ bụng thăm dò được thực hiện một cách đúng đắn, một sự việc cần được
nhấn mạnh vì phân giai đoạn không phù hợp đã và vẫn tiếp tục là một vấn đề
quan trọng.
Sự phân giai đoạn phẫu thuật được dựa vào sự hiểu biết về kiểu hình ăn
lan của bệnh và phải được thực hiện một cách hệ thống và kỹ lưỡng. Nó phải
bao gồm một sự đánh giá toàn diện của tất cả các bề mặt thành và tạng trong ổ
bụng, của cắt mạc nối lớn và sinh thiết hạch chậu và hạch động mạch chủ. Nó
cũng thường bao gồm việc cắt bỏ các cơ quan sinh dục trong.


Giai đoạn
Mô tả
Giai đoạn I
Giai đoạn Ia


Giai đoạn Ib



Giai đoạn Ic


Sự tăng trưởng được giới hạn ở buồng trứng.
Sự tăng trưởng được giới hạn ở một buồng trứng, vỏ bao
nguyên vẹn, không u trên bề mặt buồng trứng, không có tế
bào ác tính ở dịch báng hoặc dịch rửa ổ bụng.
Sự tăng trưởng giới hạn ở cả 2 buồng trứng, vỏ bao nguyên
vẹn, không u trên bề mặt buồng trứng, không có tế bào ác
tính ở dịch báng hoặc dịch rửa ổ bụng.
U ở giai đoạn Ia hoặc Ib nhưng có kèm u trên bề mặt của một
hoặc cả hai buồng trứng hoặc kèm vở vỏ bao hoặc kèm tế
bào ác tính trong dịch báng hoặc dịch rửa ổ bụng.
Giai đoạn II

Giai đoạn IIa
Giai đoạn IIb
Giai đoạn IIc
Tăng trưởng bao hàm một hoặc cả hai buồng trứng với sự mở
rộng ra vùng chậu.
Mở rộng và /hoặc di căn đến tử cung và/hoặc ống dẫn trứng.
Mở rộng đến các mô khác trong vùng chậu.
U ở giai đoạn IIa hoặc IIb nhưng đi kèm u trên bề mặt của

23


một hoặc cả hai buồng trứng hoặc kèm vở vỏ bao hoặc kèm
tế bào ác tính trong dịch báng hoặc dịch rửa ổ bụng.
Giai đoạn III





Giai đoạn IIIa


Giai đoạn IIIb


Giai đoạn IIIc
U bao hàm một hoặc cả hai buồng trứng với cấy ghép phúc
mạc bên ngoài vùng chậu và/hoặc hạch sau phúc mạc hoặc
hạch bẹn dương tính; di căn bề mặt gan bằng giai đoạn III; u
giới hạn trong vùng chính chậu nhưng có mở rộng ác tính
được xác minh bằng mô học qua ruột non hoặc mạc nối lớn.
U giới hạn ở vùng chậu về đại thể với hạch âm tính, có sự
gieo hạt vi thể được xác minh bằng mô học của các bề mặt
phúc mạc bụng.
U ở một hay cả hai bên buồng trứng, có cấy ghép được xác
minh bằng mô học của các bề mặt phúc mạc bụng, nhưng
không cấy ghép nào quá 2 cm đường kính; hạch âm tính.
Cấy ghép ổ bụng > 2 cm đường kính và/hoặc hạch sau phúc
mạc hay hạch bẹn dương tính.
Giai đoạn IV
Tăng trưởng bao hàm một hay cả hai buồng trứng với di căn
xa, nếu có tràn dịch màng phổi thì kết quả tế bào học phải
dương tính để có thể chuyển một trường hợp sang giai đoạn
IV, di căn mô gan = giai đoạn IV .


1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CHẨN ĐOÁN ĐỘ LÀNH, ÁC TÍNH
CỦA U BUỒNG TRỨNG
Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về dự đoán độ lành của
khối u buồng trứng bằng siêu âm và xét nghiệm sinh học của các tác giả trong
nước và các tác giả nước ngoài.
Ferrazzi H. và cộng sự (1999) đã chứng minh siêu âm ngã âm đạo là phương
tiện hiệu quả trong việc tầm soát ung thư buồng trứng. Bằng cách sử dụng,
phối hợp và so sánh 5 thang điểm: Sassone, Granberg, De Priest, Lerner,

24
Ferrazzi cùng với đối chiếu kết quả mô học và thực hiện nghiên cứu trên 330
bệnh nhân; các tác giả đã xác định:
- 261 bệnh nhân có các u buồng trứng lành, khối u có kích thước trung
bình là 50  26mm
- 69 bệnh nhân có các u buồng trứng ác tính, khối u có kích thước trung
bình là 69  33mm.
Các tác giả đã kết luận rằng: sử dụng siêu âm đường âm đạo và sử dụng
phối hợp các thang điểm để phân tích phương pháp có hiệu quả cao làm tăng
giá trị dự đoán dương trong việc tầm soát ung thư buồng trứng [14].
Ordén đã sử dụng tiêm các vi hạt để làm tăng độ phân giải và khả năng chẩn
đoán phân biệt giữa khối u lành tính và ác tính qua các đặc điểm của hình ảnh
siêu âm [24].
Zannetta G. nghiên cứu đặc điểm hình thái và phân bố mạch máu qua siêu
âm đã ghi nhận không có sự khác biệt về phân bố mạch máu giữa các khối u
lành và ác tính, nhưng có sự khác biệt rõ về huyết động giữa chúng [28].
Nguyễn Đình Tường Lân (năm 1999) phân loại 185 khối u buồng trứng theo
siêu âm dựa vào bảng phân loại siêu âm của Trường Đại học ToKyo nhận thấy:
- U lành chiếm 89,73%, U ác chiếm 10,27%
- Loại I & II không có u ác tính.
Tỷ lệ ác tính ở 3 loại IV,V, VI là 23,53% [9]

Mc Cluggage sử dụng phương pháp hoá mô miễn dịch trong nghiên
cứu để chẩn đoán sớm ung thư buồng trứng. Các tác giả sử dụng phương pháp
hoá mô miễn dịch để phát hiện Metallothioneins. Metallothioneins là những
Prôtein trọng lượng phân tử thấp thường xuất hiện trong nhiều khối tân sinh.
Mc Cluggage ghi nhận Metallothionein xuất hiện ở 56% Carcinoma và 2%
khối u buồng trứng lành tính. Trong các khối u buồng trứng ác tính,
Metallothionein xuất hiện ở 68% khối u dạng nội mạc, 56% u nhầy và 52% u

25
thanh dịch [21], [22].
Gard G.B. và cộng sự nghiên cứu sự xuất hiện Alpha Fetoprotein ở các
khối u buồng trứng đã ghi nhận sự tăng cao AFP liên quan đến các khối u của
tế bào Sertoli-Leydig [16].
Woolas R.P và cộng sự đã sử dụng phối hợp các Marker như CA-125,
CA15-3, CA72-4, CA19-9 trong tầm soát ung thư buồng trứng. Các tác giả
ghi nhận có đến 80% các trường hợp ung thư buồng trứng có sự tăng cao CA-
125 và các Marker khác và khuyến cáo nên sử dụng phối hợp các Marker này
sẽ làm tăng cao khả năng phát hiện sớm ung thư buồng trứng [27].
Nghiên cứu của tác giả Trịnh Tiến Đạt tại khoa Ung Bướu Bệnh viện
phụ sản Thành Phố Hồ Chí Minh tháng 6/2001 ghi nhận các dấu ấn hiện nay
ít có ích trong việc phát hiện ra ung thư buồng trứng, nó chỉ giúp cho chẩn
đoán và theo dõi tốt, với độ nhạy 82% và độ đặc hiệu 75-94% [3]
Nghiên cứu cuả tác giả Lê Thanh Bình, 58 bệnh nhân có khối u buồng
trứng điều trị tại bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng tháng 01/1999 đến – 12/1999,
được định lượng CA125 trước mổ nhận thấy: độ nhạy 53,8% và độ đặc hiệu
86,7%, khả năng chẩn đoán đúng 79,3%.Tác giả kết luận: không nên quá lạm
dụng CA125 như một cứu cánh trong chẩn đoán sớm ung thư buồng trứng.
Nó có giá trị định hướng trong chẩn đoán và đặc biệt trong theo dõi, đánh giá
kết quả điều trị. Nên kết hợp CA-125 với các Marker khác hoặc với siêu âm
để nâng cao hiệu quả chẩn đoán.

Szpurek D cũng cho rằng sử dụng phối hợp nhiều chỉ tiêu và phương
pháp tìm tương quan hồi qui giữa các chỉ tiêu này sẽ giúp cho việc tầm soát
có độ nhạy và đặc hiệu cao hơn [26].
2. CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ KHỐI U PHẦN PHỤ
2.1 Đánh giá chẩn đoán và xử trí các khối u phần phụ ở trẻ em gái và
thiếu nữ

×