Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Nhìn chung nông thôn Việt Nam có cảnh quan thiên nhiên phong phú, đa
dạng, giàu giá trị văn hoá và môi trường trong lành. Tuy nhiên, hiện tại nông
thôn Việt Nam đang chịu tác động sâu sắc của quá trình hướng tới xã hội
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra ở nước ta. Nhiều tác động diễn ra
hàng ngày làm thay đổi tận gốc cách làm ăn, cách nghĩ của con người cũng
như môi trường sống của họ.
Ngày nay, nông thôn đã có những thay đổi to lớn về kinh tế xã hội, phần
lớn ở khu vực đồng bằng đều có điện, có trường học, 100% số xã có trạm y tế,
có nhà trẻ. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của nước ta được
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX Đảng cộng sản Việt Nam thông qua năm
2001 đã xác định quan điểm là: “phát triển nhanh, hiệu quả bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường” (Văn kiện Đại hội. NXB chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, trang 162).
Chất lượng cuộc sống của con người nay không chỉ là những điều kiện
về ăn, mặc, ở…mà còn về chất lượng không khí hít thở hằng ngày, chất lượng
nước để uống, tắm rửa…Vì vậy, các bộ ngành các chính quyền địa phương
trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải nhìn từ góc độ tổng quan về môi trường
để có quyết định phát triển ở địa phương mình.
“Nước ta là một nước nông nghiệp với 75% dân số và nguồn lực lao
động xã hội đang sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn, với hơn 3 triệu
hộ nông dân, lực lượng sản xuất này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát
triển kinh tế xã hội. Theo số liệu thống kê (1998-2002), nông thôn tạo ra
khoảng 1/3 tổng sản phẩm quốc dân. Tỷ trọng công nghiệp mới chiếm 13,8%,
1
dịch vụ 14,7%, nông nghiệp 71,45% trong tổng giá trị sản xuất. Tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu thu nhập của nông dân giữa thành thị và nông
thôn là 2 lần và có khả năng tăng lên. Hơn 90% số hộ nghèo tập trung ở vùng
nông thôn” (Nguyễn Ngọc Nông, 2006) [8].
Do đặc diểm khác nhau về điều kiện kinh tế và thiên nhiên về kinh tế xã
hội, cho nên các vùng nông thôn Việt Nam có nét đặc thù riêng và chất lượng
môi trường có sự biến đổi khác nhau. Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng
Đông Bắc Việt Nam, xã Quảng An là xã thuần nông thuộc huyện Đầm Hà,
nông dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi số hộ được sử dụng
nướ sạch còn thấp. Việc thu gom, xử lý rác thải từ trước tới nay do từng hộ
nông dân xử lý, xã chưa có lực lượng thu gom. Vì vậy tình trạng rác thải vứt
bừa bãi, hôi thối gây ô nhiễm không chỉ ảnh hưởng đời sống của các hộ nông
dân trong xã mà còn ảnh hưởng đến mỹ quan chung của huyện. Nhận thức
của người dân về việc thu gom, xử lý rác thải trong quá trình chăn nuôi và
sinh hoạt lại chưa cao, xác súc vật chết đều đổ ra khe, suối gần nhà và quanh
vườn; Nhà tiêu không đảm bảo vệ sinh…đây là những nguyên nhân chính gây
ô nhiễm môi trường, phát sinh dịch bệnh trên địa bàn xã thời gian qua, ảnh
hưởng sức khoẻ cộng đồng, phá huỷ cân bằng môi trường.
Xuất phát từ vấn đề đó, được sự nhất trí của ban giám hiệu nhà trường
ban chủ nhiệm khoa Tài nguyên và Môi trường - trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thạc sĩ Trần Thị Phả, em tiến
hành thực hiện đề tài: “Điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường nông thôn
tại xã Quảng An huyện Đầm Hà tỉnh Quảng Ninh”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Điều tra, đánh giá hiện trạng môi trường nông thôn tại xã Quảng An
huyện Đầm Hà tỉnh Quảng Ninh về các vấn đề:
+ Nước sinh hoạt
2
+ Nước thải
+ Vệ sinh môi trường
+ Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và môi trường
+ Sức khoẻ và môi trường
+ Công tác tuyên truyền và giáo dục vệ sinh môi trường
- Đánh giá sự hiểu biết của người dân về vấn đề môi trường
- Thông qua nghiên cứu chuyên đề, nâng cao hiểu biết của người dân về
vấn đề bảo vệ môi trường
- Đề xuất các giải pháp bảo vệ và quản lý môi trường tại địa phương
1.3 Yêu cầu của đề tài
- Phỏng vấn đại diện các tầng lớp, các lứa tuổi làm việc ở các ngành
nghề khác nhau.
- Thu thập các thông tin, tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại
xã Quảng An
- Số liệu thu thập phải chính xác, khách quan, trung thực
- Tiến hành điều tra theo bộ câu hỏi; bộ câu hỏi phải dễ hiểu đầy đủ các
thông tin cần thiết cho việc đánh giá.
- Các kiến nghị được đưa ra phải phù hợp với tình hình địa phương và có
tính khả thi cao.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
+ Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút kinh nghiệm thực tế phục vụ cho
công tác sau này.
+ Vận dụng và phát huy được các kiến thức đã học tập và nghiên cứu.
- ý nghĩa trong thực tiễn:
+ Kết quả của chuyên đề sẽ góp phần nâng cao được sự quan tâm của
người dân về việc bảo vệ môi trường.
3
+ Làm căn cứ để cơ quan chức năng tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục nhận thức của người dân về môi trường.
+ Xác định hiện trạng môi trường nông thôn tại xã Quảng An huyện
Đầm Hà tỉnh Quảng Ninh.
+ Đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường cho khu vực nông thôn thuộc
tỉnh Quảng Ninh nói chung.
4
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
- “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con ngươì, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại, sự phát triển
của con người và sinh vật” (Luật bảo vệ môi trường, 2005) [10].
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp vối tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người,
sinh vật. [10]
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong
sạch, phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố
môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng
sinh học. [10]
“Nâng cao chất lượng môi trường là mục đích chủ yếu của công tác
BVMT. Chất lượng môi trường phản ánh mức độ phù hợp của môi trường đối
với sự tồn tại, phồn vinh cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của nhân loại. ở
những năm 60 cùng với sự xuất hiện vấn đề chất lượng môi trường cũng ngày
càng được quan tâm. Người ta dần dần ding mức độ tốt xấu của môi trường,
để biểu thị mức độ môi trường bị ô nhiễm” (Lê Văn Khoa và cs, 2003) [5].
2.2. Một số đặc điểm về hiện trạng và xu thế diễn biến môi trường trên
Thế giới và trong nước.
2.2.1. Một số đặc điểm về hiện trạng và xu thế diễn biến môi trường trên
Thế giới
Theo Lê Thạc Cán và cs (1995) [2]. Trong những năm đầu thập kỉ 90
của thế kỉ XX, tình hình môi trường ở trên Thế giới hiểu theo nghĩa rộng bao
5
gồm cả nhân tố về chất lượng môi trường và tài nguyên thiên nhiên, có những
đặc điểm sau:
* Tăng trưởng dân số nhanh:
Dân số Thế giới đã lên tới 5,769 tỷ người và tiếp tục tăng tới 8,5 tỷ
trong 3 thập kỉ tới. Trong đó, 83,5% là dân số các nước đang phát triển. Sau
năm 2025, tốc độ tăng dân số sẽ chậm lại và lên tới 10 tỷ vào năm 2050.
Tốc độ tăng trưởng dân số Thế giới là 1,68% trong thời gian từ năm
1990-1995 đã giảm xuống còn 1,43% trong thời gian từ năm 2000-2005.
Hiện nay mỗi năm trên Trái đất có khoảng 93 triệu trẻ sơ sinh, vào đầu
thế kỷ XXI con số này là 92 triệu. Ở Châu á tốc độ tăng trưởng dân số hiện
nay là 1,78% và sẽ giảm xuống còn 1,39% trong thời gian từ năm 2000-2005.
Những vấn đề về tài nguyên môi trường mà tăng trưởng dân số đặt ra là:
- Lương thực: Trái đất đủ sức nuôi sống hai lần dân số hiện nay không?
việc thiếu hụt lương thực cho dù chỉ là 10-20% lượng cần thiết sẽ dẫn đến hậu
quả gì?
- Nhà ở và các nhu cầu vệ sinh, sức khoẻ, dịch vụ: xã hội loài người
hiện nay có đủ khả năng sản xuất, phân phối cho mỗi con người các điều kiện
cần thiết để duy trì cuộc sống tương xứng với văn minh mà con người đã xác
định được sau quá trình phát triển trên 1 triệu năm?
- Chất lượng môi trường: Có phải lúc dân số tăng lên 2 lần thì các nguồn
ô nhiễm cũng tăng lên như vậy hay không?
* Suy giảm tài nguyên đất:
Hậu quả môi trường gắn liền trực tiếp với gia tăng dân số và suy giảm
tài nguyên đất. Theo số liệu của viện Tài nguyên Thế giới, vào năm 1993 quĩ
đất cho toàn nhân loại là 13.041,7 triệu ha, trong đó trồng trọt chiếm khoảng
20,6%, đồng cỏ 69,6%. Diện tích đất bình quân đầu người trên toàn Thế giới
6
là 2.432 ha, ở Châu á là 0,81 ha, ở Châu Âu là 0,91 ha. Phần lớn đất trồng trọt
tăng thêm chủ yếu lấy từ đất rừng, gây nên những hậu quả xấu về môi trường.
* Đô thị hoá mạnh mẽ:
Dân số đô thị tăng lên nhanh chóng với tốc độ 3% hàng năm cho toàn
Thế giới và 3-5% cho khu vực Châu á - thái Bình Dương. Năm 1995, 45%
dân số Thế giới sống ở các đô thị. Dự báo đến năm 2020 tại các nước đang
phát triển trong khu vực 50% dân số ở các đô thị và tại các nước phát triển tỷ
lệ này là 75%.
* Hình thành các siêu đô thị:
Xu thế đô thị hoá này sẽ dẫn đến sự hình thành các siêu đô thị với dân số
trên 4 triệu người.
Sự hình thành các siêu đô thị tất cả các nước đều gây nên những khó
khăn và phức tạp về môi trường sống: Ô nhiễm do công nghiệp, giao thông
vận tải, tiêu tốn nhiều vật liệu năng lượng, xử lý rác thải và các vấn đề xã hội.
Tại các nước đang phát triển, những vấn đề về môi trường lại càng trở nên
phức tạp do sự hình thành các nhóm dân cư nghèp khổ phải sống trong các
khu “ổ chute”, thiếu then điều kiện vệ sinh, tiện nghi, đời sống vật chất, văn
hoá, xã hội; hoạc nhiều người lớn thất nghiệp, trẻ em lang thang cơ nhỡ hình
thành các nhóm dân cư “hè phố” với cuộc sống thiếu thốn, bất định.
* Mất cân đối dân số đô thị và nông thôn:
Dân số nông thôn Thế giới hiện nay đang tăng rất nhanh với tốc độ 1%.
Tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương tốc đọ này là 1-2.5%. Với xu thế này
sự phân bố dân cư đô thị và nông thôn ngày càng mất cân bằng. Một mặt lực
lượng lao động trẻ sẽ bị thu hút vào đô thị gây thêm những căng thẳng về môi
trường; mặt khác, tại nông thôn do thiếu lực lượng lao động trẻ, khoẻ, công
tác phục hồi suy thoái vì vậy sẽ gặp nhiều khó khăn.
7
Sự mất cân đối này thường diễn ra qua việc dân nông thôn di cư một
cách vô tổ chức tới các đô thị. Viện tài nguyên Thế giới ước lượng rằng, trên
Thế giới hàng năm có 70.000 km
2
đất nông nghiệp phải bỏ hoang do không
còn màu mỡ, khoảng 20.000 km
2
năng suất giảm sút rõ rệt. Hàng triệu người
nông dân không có đất canh tác, hoạc do lao động nông nghiệp cực nhọc
không thể nuôI sống họ nên họ đã phải bỏ làng xóm để đi tìm việc làm tại các
đô thị.
* Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập không đều:
Có thể nói rằng trong thập kỷ cuối cùng cùng của thế kỷ XX, tất cả các
quốc gia từ các quốc gia đang bị nội chiến tàn phá đều có những cố gắng vượt
bậc để phát triển kinh tế và đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, sự
không đồng đều về kinh tế, thu nhập và mức sống vật chất giữ các quốc gia
ngày càng tăng.
Đầu thập kỷ 90, Hoa Kì vẫn là nước có tổng sản phẩm xã hội cao nhất
Thế giới=5,6 tỷ USD, tiếp đó là Nhật Bản với tổng sản phẩm xã hội bằng 3,3
tỷ USD.
Trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, vùng có tăng trưởng kinh tế
cao với tốc đọ tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội trên 6% trong những năm
đầu thập kỷ 90. Phần Đông Nam á và Đông Bắc á có tốc đọ tăng trưởng lớn
hơn 7% trong lúc phần Nam á chỉ tăng trưởng nhỏ hơn 4%.
Tốc đọ tăng trưởng kinh tế cao kéo theo nhu cầu lớn về tài nguyên thiên
nhiên, nhân lực, cơ sở hạ tầng thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Nếu không quản
lý tốt thì đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến suy thoái môi trường.
Sự phân bố thu nhập trong khu vực phân bố không đều 25% dân số sống
dưới mức nghèo khổ. Điều này tạo nên một áp lực mạnh mẽ đối với tài
nguyên thiên nhiên do những người nghèo khổ, không vỗnv, không phương
8
tiện và thiết bị chỉ còn cách kiếm sống độc nhất là khai thác cùng kiệt tài
nguyên thiên nhiên còn ở trong tầm lao động của họ .
* Nhu cầu về lương thực tăng nhanh:
Trong hai thập kỷ 70-80, năng lượng tiêu thụ trên toàn Thế giới đã tăng
thêm 45% và lên tới 321420 petajoule (1050joule), hay 60 pj/đầu người. Sự
tiêu thụ rất không đồng đều theo quốc gia, Hoa Kì tiêu thụ hàng năm
320petajoule/đầu người bằng 35 lần ấn Độ, hoặc 23 lần Trung Quốc, hoặc 80
lần Vịêt Nam.
* Sản xuất lương thực tăng chậm và bước vào thời kỳ suy giảm:
Trong các hoạt động của con người, tới nay sản xuất nông nghiệp được
xem là loại hình hoạt động có tác động mạnh mẽ, nhiều mặt nhất tới môi
trường. Vơí việc cải tiến kỹ thuật và công nghệ, mở rộng diện tích trồng trọt,
con người về cơ bản đã thoả mãn nhu cầu về lương thực cho mình. Tới giữa
thế kỷ 21 dân số sẽ lên tới 10 tỷ để nuôi sống số người này cần tăng sản lượng
hiện nay lên 2,5-3 lần. Trong lúc ở Châu á, Châu âu và Nam Mĩ sản lượng
lương thực tăng nhanh hơn dân số, thì Châu Phi ngược lại trong thập kỷ 1982-
1992 sản lượng lương thực trên đầu người giảm 5%. Năm 1994 so với 1993
sản lượng lương thực toàn thế giới giảm 1%.
* Gia tăng sử dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu:
Nhìn chung trên toàn thế giới, lượng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu,
diệt cỏ sử dụng vào nông nghiệp đang tiếp tục tăng thêm, tại một số nơi tăng
lên theo cấp số nhân. Trong những năm gần đây, các tổ chức quốc tê như tổ
chức Nông Lương (FAO), tổ chức Y Tế thế giới (WHO), chương trình phát
triển của Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức môi trường đã cố gắng hạn chế
việc sử dụng các chất hoá học nhân tạo vào nông nghiệp và đã thu được
những kết quả bước đầu.
9
Tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là nơi đã và đang có sự gia tăng
mạnh mẽ về sử dụng thuốc trừ sâu. Trong những thập kỷ 80, lượng thuổctừ
sâu được sử dụng tại các nước Indonesia, Pakistan, Philippin, Srilanka, đã gia
tăng hơn 10% hằng năm. Lượng phân bón hoá học được sử dụng tại đây dự
kiến sẽ giảm với tốc độ khoảng 4.3% hằng năm.
* Gia tăng sa mạc hoá
* Suy giảm sản lượng thuỷ sản
* Tăng trưởng sản xuất và tiêu thụ dầu khí
* Gỗ củi tiếp tục bị cạn kiệt nhanh chóng
* Chất lượng môi trường khí quyển tiếp tục bị suy thoái
* Rác thải cũng tăng lên
Rác thải bình quân vào khoảng 0.4-1.5kg/người/ngày và ngày càng tăng
lên đồng biến với tăng trưởng của thu nhập Quốc dân. Thành phần của rác
thải cũng thay đổi theo hướng tăng lên của bộ phận rác không thể chế biến
thành phân hữu cơ được. Với sự phát triển của công nghiệp lượng rác thải rắn
trở nên rất lớn. Hoa Kì mỗi năm phải xử lí, chôn vùi 150 triệu tấn rác thải.
ở các đô thị và khu công nghiệp, rác thải rắn cũng trở thành vấn đề
nghiêm trọng. Trong hơn 20.000 m
3
rác thải/ngày của các đô thị thì khoảng
50% số này được thu gom và xử lý thô sơ. Trong rác thải rắn có cả những
chất độc hại như kim loại nặng, nguồn dịch bệnh nguy hiểm.
2.2.2. Các vấn đề môi trường nông thôn ở nước ta
Kết quả điều tra toàn quốc về vệ sinh môi trường (VSMT) nông thôn do
bộ y tế và UNICEF thực hiện được công bố ngày 26/03/2008 cho thấy VSMT
và vệ sinh cá nhân còn quá kém chỉ có 18% tổng số hộ gia đình, 11,7%
trường học, 36,6 trạm y tế xã 21% UBND xã và 2,6% khu chợ tuyến xã có
nhà vệ sinh theo tiêu chuẩn của Bộ y tế (Quyết định 08/2005/QĐ-BYT); Tỷ lệ
người dân nông thôn được sử dụng nước sạch còn rất thấp 7,8% khu chợ nông
10
thôn; 11,7% dân cư nông thôn; 14,2% trạm y tế xã; 16,1% UBND xã; 26,4%
trường học có tiếp cận sử dụng nước máy; Ngoài ra, kiến thức của người dân
về vệ sinh cá nhân và VSMT còn rất hạn chế, thái độ của người dân còn rất
bằng quang về vấn đề này [17].
Theo Lê Văn Khoa, Hoàng Xuân Cơ (2004) [6]. Nước ta là một nước
nông nghiệp, 74% dân số đang sống ở khu vực nông thôn và miền núi với
khoảng 20%số hộ ở mức đói nghèo. Những năm gần đây, các hoạt động nông
nghiệp cùng với những hoạt động dịch vụ, sinh hoạt đã làm xuất hiện nhiều
vấn đề môi trường có tính chất đan xen lẫn nhau và ở nhiều nơi, nhiều chỗ đã
và đang trở nên bức xúc.
Những vấn đề này gây tác động mạnh mẽ và lâu dài đến hệ sinh thái
nông nghiệp và nông thôn. Nó hạn chế tính năng sản xuất của các thành phần
môi trường, giảm năng suất cây trồng và vật nuôi, cản trở sự phát triển bền
vững. Càng ngày, những vấn đề ô nhiễm môi trường càng trở nên phổ biến
rộng rãi, len lỏi trong mọi hoạt động sản xuất và sinh hoạt thường nhật của
người dân nông thôn. Và quan trọng nhất, hiện trạng trên tác đọng xấu đến
sức khoẻ cộng đồng nông thôn và hậu quả là lâu dài, không những đối với thế
hệ hiện tại mà cả thế hệ mai sau [6].
Vấn đề nước sạch và môi trường:
Vấn đề phải kể đến về hiện tượng môi trường sống của người dân ở các
vùng nông thôn Việt Nam đang bị tàn phá nghiêm trọng là nước sạch và
VSMT nông thôn.
Nếu như chúng ta quan niệm nước sạch chỉ đơn giản là nước mưa, nước
giếng khoan qua xử lý bằng bể lọc đơn giản chứ không phải nước sạch được
xử lý ở các thành phố lớn thì tỷ lệ người dân nông thôn nhất là khu vực miền
núi còn rất thấp. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua bảng số liệu sau:
[6]
11
Bảng 2.1. Tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước sạch ở các vùng
ĐVT: %
STT Vùng
Tỷ lệ người dân nông
thôn được cấp nước
sạch (%)
1 Vùng núi phía Bắc 15
2 Trung du Bắc Bộ & Tây Nguyên 18
3 Bắc Trung Bộ & Duyên HảI miền Trung 36 - 36
4 Đông Nam Bộ 21
5 Đồng Bằng Sông Hồng 33
6 Đồng Bằng Sông Cửu Long 39
Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy rõ, những người dân ở nông thôn
Việt Nam đang phải sinh hoạt với những nguồn nước như thế nào. ở vùng
Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi có tỷ lệ cao nhất cũng chỉ 39% dân số được
sử dụng nước sạch. Còn vùng thấp nhất là vùng núi phía Bắc, chỉ có 15% dân
số được cấp nước sạch.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp đến sức khoẻ, là
nguyên nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun sán… Các
bệnh này gây suy dinh dưỡng, thiếu sắt, thiếu máu, kém phát triển, gây tử
vong nhất là trẻ em. Có 88% trường hợp tiêu chảy là do thiếu nước sạch,
VSMT kém. Có thể thấy, nguyên nhân gây tình trạng ô nhiễm môi trường và
nguồn nước ở nông thôn do các nguyên nhân cơ bản sau:
+ Đầu tiên phải kể đến tình trạng sử dụng hoá chất trong nông
nghiệp như phân hoá học, thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan và
không có kiểm soát.
Nhìn chung, lượng phân bón hoá học ở nước ta sử dụng sòn ở mức trung
bình cho 1 ha gieo trồng, bình quân 80-90 kg/ha (cho lúa là 150-180 kg/ha),
so với Hà Lan 758kg/ha, Hàn Quốc 467kg/ha, Trung Quốc 390kg/ha. Tuy
12
nhiên việc sử dụng này lại gây sức ép đến môi trường nông nghiệp và nông
thôn với 3 lý do: Sử dụng không đúng kỹ thuật nên hiệu lực phân bón thấp:
Bón phân không cân đối, nặng về sử dụng phận đạm; Chất lượng phân bón
không đảm bảo, các loại phân bón N-P-K, hữu cơ vi sinh, hữu cơ khoáng do
các cơ sở nhỏ lẻ sản xuất trôi nổi trên thị trường không đảm bảo chất lượng
đăng kí, nhẵn mác, bao bì nhái, đóng gói không đúng khối lượng đang là áp
lực chính cho nông dân và môi trường đất. [6]
+ Ngoài ra miền Bắc Việt Nam còn tồn tại tập tục sử dụng phân Bắc,
phân chuồng tươi vào canh tác. ở Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), phân
tươi được coi là thức ăn cho cá, gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh
hưởng sức khoẻ con người.
+ Thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu; thuốc trừ nấm;
thuốc diệt chuột; thuốc trừ cỏ. Các loại này có đặc điểm là rất độc với mọi
sinh vậ; tồn dư lâu dài trong môi trường đất, nước gây ô nhiễm; Tác dụng gây
độc không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi
trong môi trường đất và môi trường nước.
+ Hiện nay nước ta chưa sản xuất được thuốc BVTV mà phải nhập khẩu
để gia công hoặc nhập khẩu thuốc thành phẩm bao gói lớn để sang chai đóng
gói nhỏ tại các nhà máy trong nước.
Đặc biệt ở rau xanh, sâu bệnh có thể làm tổn thất trung bình từ 10-40%
sản lượng nên đầu tư cho thuốc BVTV sẽ mang lại lợi nhuận trên 5 lần .
Chính vì vậy, lượng thuốc BVTV sử dụng cho rau thường quá mức cho phép.
Điều này dẫn đến ô nhiễm đất, nước. Từ môi trường đất nước, nông sản,
thuốc BVTV sẽ xâm nhập vào cơ thể con người và tích tụ lâu dài gây các
bệnh như ung thư, tổn thương về di truyền. Trẻ em nhạy cảm với thuốc bảo vệ
thực vật cao hơn người lớn gấp 10 lần. Đặc biệt thuốc BVTV làm cho trẻ em
13
thiếu ôxi trong máu, suy dinh dưỡng, giảm chỉ số thông minh, chậm biết đọc,
biết viết.
Điều đáng quan tâm là tình trạng ngộ độc thực phẩm do các hoá chất
độc, trong đó có thuốc BVTV vẫn diễn ra phức tạp và có nhiều hướng gia
tăng không chỉ riêng ở nông thôn mà còn ở các thành phố lớn có sử dụng
nông sản có nguồn gốc từ nông thôn.
Nguyên nhân tình trạng trên là do việc quản lý thuốc BVTV còn nhiều
bất cập và gặp nhiều khó khăn. Hàng năm có khoảng 10% Số lượng thuốc
được nhập lậu. Số này rất đa dạng về chủng loại, chất lượng không đảm bảo
mà vẫn lưu hành trên thị trường. Thứ hai là việc sử dụng còn tuỳ tiện, không
tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật theo nhãn mác không dảm bảo thời gian cách li
của từng loại thuốc. Thứ ba là do một lượng lớn thuốc BVTV tồn đọng tại các
kho cũ, hết niên hạn sử dụng còn nằm dải rác tại các tỉnh thành trên cả nứơc.
Theo Trung tâm Công nghệ xử lý môi trường, Bộ Tư lệnh Hoá học (2004),
trong khoảng hơn 300 tấn thuốc BVTV tồn đọng có nhiều chất nằm trong số
12 chất ô nhiễm hữu cơ khó phá huỷ. Và cuối cùng là việc bảo quản thuốc
BVTV còn rất tuỳ tiện, không có nơi bảo quản riêng, nhiều hộ để thuốc
BVTV trong nhà, trong bếp, trong chuồng nuôi gia súc.[6]
Theo Phạm Ngọc Quế (2003)[11] hiện tại số hộ ở nước ta chăn nuôi gia
súc gia cầm là rất phát triển nhưng phương thức chăn nuôi lạc hậu (thả rông,
làm chuồng dưới nhà sàn, phân để trong chuồng lâu không được xử lý hoặc
dọn rửa chuồng xả bừa bãi vào các nguồn nước…) đã làm cho môi trường
nông thôn ngày càng ô nhiễm. Ngoài lượng phân, còn có nước tiểu, thức ăn
thừa cũng chiếm một khối lượng đáng kể trong tổng số chất thải do chăn nuôi
đưa đến. Rõ ràng nếu lượng phân này không được xử lý tốt chắc chắn sẽ tạo
ra một sự ô nhiễm đáng kể đối với vệ sinh môi trường.
14
Nguyên nhân thứ hai gây ô nhiễm môi trường ở nông thôn là do chất thải
rắn từ các làng nghề và sinh hoạt của người dân. Hiện nay cả nước có khoảng
1450 làng nghề, phân bố trên 58 tỉnh thànhvà đông đúc nhất ở đồng băng
Sông Hồng, vốn là cái nuôi của làng nghề truyền thống, với tổng số 472 làng
nghề các loại tập trung chủ yếu ở các tỉnh như Hà Tây (nay thuộc Hà Nội),
Thái Bình, Bắc Ninh…Trong đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản
xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ sản xuất lạc hậu chiếm phần lớn (trên
70%). Do đó đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nông thôn, tác
động xấu đến môi trường đất, nước, không khí, sức khoẻ của người dân làng
nghề.[6]
Ô nhiễm không khí: Hầu hết nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là
than. Do đó lượng bụi và các lượng khí CO, CO
2
, SO
2
và NO
x
thải ra trong
quá trình sản xuất trong làng nghề khá cao. Theo kết quả điều tra tại các làng
nghề sản xuất gạch đỏ ( Khai Tái – Hà Tây), vôi (Xuân Quan- Hưng Yên)
hàng năm sử dụng khoảng 6000 tấn than, 100 tấn củi nhóm lò đã sinh ra nhiều
loại bụi như CO, CO
2
, SO
2
, NO
x
và nhiều loại thải khác gây nguy hại tới sức
khoẻ của người dân trong khu vực và làm ảnh hưởng hoa màu, sản lượng cây
trồng của nhiều vùng lân cận. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây
các vụ xung đột, khiếu kiện như ở Thái Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên…[6]
Ô nhiễm môi trường đất: chủ yếu tập trung tại các làng nghề tái chế kim
loại. Kết quả nghiên cứu của đề tài KC.08.06 cho thấy một số mẫu đất ở làng
nghề tái chế thuộc xã Chỉ Đạo- huyện Văn Lâm- Hưng Yên cho thấy hàm
lượng Cu
2+
đạt từ 43,68- 69,68 pp. Hàm lượng các kim loại nặng cũng rất cao,
vượt nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép.[6]
Bên cạnh đó có khoảng 3.600 chợ nông thôn, trung bình mỗi ngày thải ra
0,4- 0,5 kg chất thải. Việc thu gom rác còn rất thô sơ bằng các xe cải tiến nên
mới thu gom được khoảng 30% chuyên chở về những nơi tập trung rác. Bãi
15
rác tại các huyện, các chợ nông thôn chưa có cơ quan quản lý và biện pháp xử
lý. Chủ yếu tập trung để phân huỷ tự nhiên và gây những gánh nặng cho công
tác bảo vệ môi trường. [6]
Bảng 2.2. Tình trạng phát sinh chất thải rắn
Các loại chất thải rắn Toàn quốc Đô thị Nông thôn
Tổng lượng phát sinh chất thảisinh
hoạt (tấn/ năm)
12.800.000 6.400.000 6.400.000
Chất thải nguy hại từ nông nghiệp
(tấn/năm)
128.400 125.000 2.400
Chất thải nguy hại từ công nghiệp
(tấn/năm)
2.510.000 1.740.000 770.000
Chất thải y tế lây nhiễm (tấn/năm) 21.000 - -
Tỷ lệ thu gom trung bình (%) - 71 20
Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung
bình theo đầu người (kg/người/ngày)
- 0,8 0,3
Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự xuống cấp của môi trường nông thôn
là do tổ chức trong lĩnh vực VSMT nông thôn còn phân tán. sự phối hợp các
Bộ ngành chưa tốt. Nhà nước chưa có chính sách huy động sự tham gia đóng
góp của các thành phần kinh tế để cùng với người sử dụng xây dựng công
trình vệ sinh mà vẫn áp dụng cách tiếp cận dựa vào cung cấp là chính. Về
pháp chế vẫn còn thiếu các quy định và hướng dẫn cụ thể để có thể quản lý tốt
trong lĩnh vực vệ sinh môi trường. Đa số hộ chưa có hố xí đạt tiêu chuẩn vệ
sinh, nhất là vùng bị ngập lụt, vùng ven biển nơi có mật độ ngư dân cao [11].
Hiện trạng về VSMT nông thôn vấn còn nhiều vấn đề bức xúc. Chất
lượng của chúng ngày một tăng, lan tràn làm ô nhiễm đất, nước kể cả ngấm
sâu dưới mặt đất hàng choc, hàng trăm mét. Ô nhiễm môi trường gây ra do
con người trong hoạt động nông nghiệp, công nghiệp chế biến các sản phẩm
16
nông nghiệp, chăn nuôi và do những chất thải sinh hổặt các khu vực phân bố
dân cư.
2.3. Hịên trạng môi trường tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Hiện trạng môi trường nước
2.3.1.1. Môi trường nước mặt
+ Nước sông
Theo Quy hoạch bảo vệ môi trường tổng thể và một số vùng trọng điểm
tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 do khoa Địa lý, trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, ĐHQG Hà Nội (2007) [15] khảo sát:
Chất lượng nước các sông chính ở phía đông tỉnh Quảng Ninh (sông Ka
Long, Tiên Yên, Ba Chẽ) còn khá tốt. Sông Ka Long có hàm lượng TSS cao
hơn năm trước (mùa mưa năm 2006 là 43,2mg/l, năm 2003-2005 là 5,7-
28,0mg/l). Các sông Tiên Yê, Ba Chẽ chất lượng nước bị tác động mạnh vào
mùa mưa do xuất hiện lũ, xói mòn rửa trôi, nước đục, màu vàng của đất, hàm
lượng chất lơ lửng cao. Sông Đầm Hà, sông Hà Cối, hàm lượng TSS có xu
hướng tăng, tương tự so với các năm2005, tuy nhiên cao hơn nhiều so với
năm 2000-2004. Tại sông Đầm Hà, hàm lượng TSS mùa mưa là 52,41mg/l,
mùa khô là 23,12mg/l, cao hơn các năm 2000-2004 1,6-5,7mg/l. Tại sông Hà
Cối, hàm lượng TSS mùa mưa là 27,31mg/l, mùa khô là 27,71mg/l, cao hơn
các năm 2000-2004 (1,0-8,0mg/l).
Các sông tại Hoành Bồ (sông Trới, sông Diễn Vọng ít bị ảnh hưởng của
nguồn nước thải sinh hoạt. Tuy nhiên, khai thác khoáng sản phía thượng
nguồn như than, cát… trên địa bàn nên thường xuyên có độ đục và hàm lượng
TSS cao, nằm trong GHCP. Tại sông Trới, hàm lượng TSS vào mùa mưa là
51,25mg/l, mùa khô là 24,22mg/l, nằm trong GHCP, cao hơn năm trước (từ
4,2-12,8mg/l).
17
Các sông suối tại Cẩm Phả, Hạ Long vào mùa mưa, suối moong Cọc
Sáu, ngầm Mông Dương, suối Lộ Phong vẫn bị ảnh hưởng của nước thải mỏ
gây nước đục, có nhiều bùn đất và than rủa trôI ây bồi lấp dòng chảy. Tại nầm
Mông Dương, hàm lượng TSS mùa khô là 579,25mg/l, vượt GHCP là 7,24
lần, mùa mưa là 279,02mg/l, vượt GHCP là 3.49 lần, coa hơn các năm trước
(từ 12-115mg/l). Hàm lượng TSS tại suối Lộ Phong vào mùa mưa vượt
GHCP 5,35 lần, BOD vựơt 2,48 lần.
Các sông tại Uông Bí như sông Uông, sông Sinh, sông Vàng Danh, độ
đục và BOD thường cao do nước thải nhà máy điện, nước thải sinh hoạt của
dân cư hai bên bờ các sông, khai thác than trên thượng nguồn sông. Trong đó
chịu ảnh hưởng rõ rệt nhấtláông Vàng Danh, TSS vượt giới hạn A trên 5 lần,
BOD vượt giới hạn A (tiêu chuẩn nước cấp cho sinh hoạt) gần 4 lần theo tiêu
chuẩn TCVN 5942-1995. Chất lượng nước sông Sinh nằm đạt tiêu chuẩn loại
B theo tiêu chuẩn TCVN 5942-1995, diễn biến hàm lượng TSS như các năm
trước. Sông Uông vào mùa mưa, hàm lượng TSS là 205,2mg/l, vượt GHCP 2,
56 lần, mùa khô 152mg/l, vượt 1,9 lần so vói giới hạn cho phép, diễn biến
hàm lượng TSS cao hơn năm trước 2000-2005 ()từ 11,2-121mg/l).
Nước sông tại các vùng nông thôn như sông Cầm, sông Bình Hương…
nước sông bị ảnh hưởng bởi nước thải, rác thải, hoạt động sản xuất nông
nghiệp (sử dụng thuốc BVTV, hoá chất, phân khoáng).
+ Nước hồ
Chất lượng nước hồ khu vực phía tâytỉnh Quảng Ninh: Đông Triều (hồ
Nội Hoàng, Cổ Lễ Tân yên, Khe Ươn I, II, Rộc Chày, Yên Dưỡng, Cầu
Cuốn), Uông Bí (Lán Tháp) vẫn chịu tác động mạnh của tình trạng khai thác
than phía thượng nguồnvà ngay cạnh các hồ làm cho nước bị axit hoá (pH<4),
nhiều hồ bị thu hẹp do đât đá thải than trôi lấp. Diện tích hồ Nội Hoàng, Cầu
Cuốn bị giảm do các bãi thải mỏ bồi lấp. Kết quả quan trắc năm 2006 cho
18
thấy, pH tại hồ Nội Hoàng rất thấp (3,6-3,8) và thấp hơn các năm 2004-2005
(4,1-6,9).
Chất lượng nước hồ khu vực phía đông tỉnh Quảng Ninh: Hồ Quất
Đông, hồ Tràng Vinh cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất. Vào mùa
khô, tại các hồ Quất Đông khi mực nước kiệt, gió mạnh, nước hồ bị xáo
trộn khiến gia tăng hàm lượng TSS (mùa mưa 29,15mg/l, mùa khô là
101,1mg/l, cao hơn nhiều so với các năm trước (từ 0,8-6mg/l), vượt quá
giới hạn A của TCVN 5942-1995 quy định đối với mực nước mặt ding
làm nguồn cấp nước sinh hoạt.
2.3.1.2. Hiện trạng nước biển, ven bờ
Nhìn chung môi trường nước biển, ven bờ tỉnh Quảng Ninh đã có hiện
tượng ô nhiễm đáng kể. Khu vực vịnh Hạ Long chủ yếu bị ô nhiễm bởi nước
thải sinh hoạt và các phao nổi của các nhà bè. Hiện tượng váng dầu mỡ trong
nước, chất dinh dưỡng (Nitơ, phốt pho) ở mức cao. Khu vực Cẩm Phả-Móng
Dương chịu tác đọng của hoạt đọng khai thác, chế biến và vận chuyển than
gây ngộ độc cao, hàm lượng TSS và dầu loang nhiều khi vượt TCCP tại các
cảng than. Khu vực Vân Đồn hàm lượng TSS mùa mưa cao hơn mùa khô, đã
có xuất hiện hiện tượng váng dầu (0,2-0,6mg/l). Chât lượng nước biển khu
vực Trà Cổ-Móng Cái hàm lượng TSS vượt GHCP, mùa mưa (35,41mg/l)
cao hơn mùa khô (30,11mg/l), cao hơn so với năm trước. Mặt nước xuất
hiện váng dầu (0,107-0,321mg/l) vượt GHCP (0mg/l) tiêu chuẩn nước cho
mục đích du lịch. Khu vực biển xa bờ đều xuất hiện váng dầu vượt GHCP
(1,1-1,7 lần).
19
2.3.1.3. Hiện trạng môi trường nước thải
+ Hiện trạng nước thải sinh hoạt: Nước thải sinh hoạt các khu dân cư
trong tỉnh Quảng Ninh hiện nay hầu hết không qua xử lý, thoát trực tiếp ra
các cống và mương thoát nước mặt và đỏ vào các vực sông hay vực biển ven
bờ.
+ Hiện trạng nước thải công nghiệp: Nước thải công nghiệp tại các khu
vực trong tỉnh nhìn chung đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng TSS
của nước thải khu công nghiệp Kim Sơn vượt giới hạn loại A gần 2,0 lần.
Nước thải mỏ than Vàng Danh đổ trực tiếp vào nguồn sông Vàng Danh qua
hệ thống cống ngầm, nước thảI đục và có màu đen vàng, pH, TSS, Colifom
vượt giới hạn cho phép của tiêu chuẩn TCVN 6980-2001: 14,33 lần; Nước
thải nhà máy nhiệt điện Uông Bí có nhiệt độ cao (42-43
0
C), TSS mùa mưa
vượt giới hạn cho phép của TCVN 6984-2001; Nước thảI của Công ty XKTS
II, TSS, BOD, COD vượt giới hạn A của TCVN 5942-2005 là 1,44 lần.
2.3.2. Hiện trạng môi trường không khí
Môi trường không khí ở khu vực nông thôn - miền núi và khu du lịch
hàm lượng bụi lơ lửng thấp và không có dấu hiệu ô nhiễm các khí độc, mức
ồn đo được nằm trong giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn TCVN 5942-1998.
Khu đô thị và thương mại ngành sản xuất than đã làm ảnh hưởng tới chất
lượng môi trường, đặc biệt là môi trường không khí các khu đô thị như: Cẩm
Phả, Hạ Long, Uông Bí, Mạo Khê, tình trạng này đã diến ra trong nhiều năm
kết hợp với bụi gây ra do hoạt động khai thác và vận chuyển vật liệu xây
dựng nên phần lớn trên các tuyến đường quốc lộ có phương tiện chở than và
đất đá, hàm lượng bụi lơ lửng đều vượt TCCP. Các khu công nghiệp như
KCN Kim Sơn, KCN Chạp Khê, KCN xã Thống Nhất và KCN Ninh Dương
hàm lượng bụi vượt TCCP 1,73 lần.
20
Khu vực khai thác, chế biến và vận chuyển than Mạo Khê hàm lượng bụi
trong môi trường không khí vượt quá TCVN 5937-2005 là 2,86 lần; hàm
lượng SO
2
vượt 2,4 lần.
Tại khu vực sàng tuyển than Cửa Ông, hàm lượng bụi xấp xỉ mức giới
hạn cho phép của TCVN.
Kết quả quan trắc năm 2007 và 2008 của Kho Địa lý, Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên cho thấy môi trường không khí khu vực khai thác than ở
thị xã Uông Bí hiện đang bị ô nhiễm rất nặng nề. Hàm lượng các khí độc
trong không khí như SO
2
, NO
x
, H
2
S… đều cho kết quả cao ở nhiều khu vực,
hàm lượng các chất này vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Các tuyến đường
vận chuyển than, khu vực gần nhà máy nhiệt điện, khu khai thác than… hàm
lượng bụi là rất lớn, trong đó có nhiều chất độc hại trong than, từ nhà máy
nhiệt điện.
2.3.3. Hiện trạng môi trường đất
Tỉnh Quảng Ninh có đặc thù là diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp ít,
chủ yếu đất lâm nghiệp. Hiện nay do nhiều nguyên nhân tỷ lệ đất trống đồi
núi trọc còn nhiều, tỷ lệ rừng chồng tăng chậm chạp. Thêm vào đó việc phát
triển kinh tế đã thúc đẩy quá trình lấn ra biển, phá rừng ngập mặn nhanh hơn.
Điều này làm cho chất lượng của đất bị ảnh hưởng bởi xói mòn, suy thoái,
rửa trôI. Đất nông nghiệp đã ít lại được sử dụng vào mục đích khác ngày càng
nhiều. Khai thác than và vật liệu xây dựng đã làm cho diện tích đất bị ô nhiễm
tăng lên.
Chất lượng môi trường đất của hầu hết các chỉ tiêu môi trường đất
đều nằm trong TCVN cho phép ngoại trừ Cd trong đất cao có thể giải
thích bởi ảnh hưởng của các hoạt động công nghiệp trong vùng, nhất là
công nghiệp than.
21
2.3.4. Những vấn đề môi trường nổi cộm của tỉnh Quảng Ninh
Có thể nhận thấy các vấn đề môi trường bức xúc của tỉnh Quảng Ninh
như sau:
- Ô nhiễm môi trường toàn diện, nghiêm trọngtại khu vực khai thác than
và đới ven biển từ Đông Triều đến Mông Dương.
- Ô nhiễm môi trường đô thị và khu công nghiệp do khí thải, nước thải
và chất thải rắn.
- Suy giảm rừng nhanh chóng, tỷ lệ che phủ rừng của tỉnh hiện đã xuống
thấp, trong đó rừng tự nhiên, rừng nguyên sinh còn chiếm một tỷ lệ nhỏ. Chất
lượng rừng suy giảm cả rừng đầu nguồn và rừng ngậm mặn. Tài nguyên sinh
vật rừng tiếp tục suy giảm và xuống cấp. Đây chính là nguyên nhân phát sinh
tai biến lũ quét ở tỉnh.
- Ô nhiễm và suy thoái môi trường đất diễn ra ở nhiều nơi từ đất rừng,
đất nông nghiệp, đất ven biển, đất bãi triều.
- Nguy cơ ô nhiễm môi trường nước nghiêm trọng tại nhiều nơi: Chất
lượng nước mặt, nước ngầm, nước biển ven bờ có xu thế suy giảm (tăng độ
đục, độ axit, hàm lượng các cation kim loại…). Nhiều sông, suối, dòng chảy
bị bồi lấp.
- Vệ sinh môi trường nông thôn bị ảnh hưởng nghiêm trọng do chất thải
rắn, nước thải sinh hoạt,…
2.4. Những chủ trương chính sách của Nhà nước nhằm nâng cao hiểu
biết của người dân về môi trường
2.4.1. Những chuyển biến tích cực về nhận thức của người dân về
môi trường
Sau khi ban hành nghị quyết 41-NQ/TW về bảo vệ môI trường trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đầu năm 2008, Bộ Tài
nguyên và Môi trường phối hợp với Ban Tuyên giáo TW tiến hành kiểm
22
điểm, đánh giá việc thực hiện nghị quyết trong thời gian qua ở các Bộ, ngành
và địa phương. Qua hơn 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết đã cho nhiều
kết quả đáng khích lệ trong hoạt động bảo vệ môi trường, tạo sự chuyển biến
khá mạnh mẽ về nhận thức và hành động của các tổ chức, cá nhân và cộng
đồng xã hội. Các cấp, các ngành ở TW và địa phương đã quan tâm hơn về
công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên công tác bảo vệ môi trường còn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được những mục tiêu, nội dung của Nghị quyết, điều
này đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư phải tự giác thực hiện
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với công tác này.
2.4.2. Những hạn chế trong nhận thức của người dân về vấn đề về môi
trường, hiểu biết Luật pháp về môi trường còn hạn chế
Kết quả điều tra của nhóm Nâng cao nhận thức cộng đồng (chương trình
SEMLA - Bộ Tài nguyên và Môi trường) tại 3 tỉnh Hà Giang, Nghệ An, Bà
Rịa - Vũng Tàu cho thấy, nhìn chung cán bộ công chức của 3 tỉnh đều có hiểu
biết chính sách pháp luật đất đai và môi trường. Sự hiểu biết của họ chủ yếu
là do bản thân chủ động nghiên cứu và nghe trên phương tiện truyền thông đại
chúng. Song sự tiếp cân cũng như hiểu về Luật Đất đai và Bảo vệ môi trường
ở những mức độ khác nhau.
Đa số cán bộ trong cơ quan Nhà nước hiểu biết về chính sách pháp luật
đất đai nhiều hơn và sâu hơn, còn Luật Bảo vệ môi trường thì các cán bộ viên
chức chỉ hiểu biết ở tầm khái quát chung, Song khi đi vào chi tiết nhiều người
còn chưa nắm bắt được. Ví dụ như việc phỏng vấn câu hỏi trách nhiệm lập
báo cáo đánh giá tác động môi trường là trách nhiệm thuộc về ai? Tại Hà
Giang có tới 80% trả lời là trách nhiệm thuộc cơ quan nhà nước, Nghệ An có
54,9% và Bà Rịa-Vngx Tàu có 53,19% có cùng câu trả lời. Trong khi đó
nhiệm vụ này là của chủ dự án! Nhận thức về chính sách, pháp luật đất đai và
môi trường của cộng đồng dân cư đô thị của 3 tỉnh có cao hơn cộng đồng dân
23
cư nông thôn nhưng cũng chỉ “mạnh” về đất đai, còn mảng môi trường nhiều
người hoặc chưa biết, hoặc trả lời sai ở một số câu hỏi. Ví như, việc khắc
phục ô nhiễm theonhiều người thì trách nhiệm thuộc về cơ quan quản lý nhà
nước, song trên thực tế trách nhiệm này thuộc về người gây ô nhiễm. Đây
cũng là một thông tin khá quan trọng để nhóm Nâng cao nhận thức cộng đồng
nghiên cứu và có phương pháp truyền thông phù hợp với đối tượng này. Tuy
nhiên, ô nhiễm môi trường hiện vẫn là vấn đề được nhiều người quan tâm bởi
có tới 96,15% dân cư tại Hà Giang; 81,82% dân cư tại Nghệ An; 97,98% tại
Bà Rịa-Vũng Tàu. Từ đó ta thấy cần thiết phải tham khảo ý kiến người dân
trong đánh giá tác đọng môi trường và việc tham khảo này nên tổ chức họp
dân là phù hợp nhất. Đối với cộng đồng dân cư nông thôn, nhất là nhân dân
vùng sâu, vùng xa, nhiều người hiểu biết pháp luật đất đai cũng còn hạn chế ở
một số nội dung như: them quyền giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn có một số người dân chưa nắm
rõ về điều này. Những thông tin đó sẽ là tài liệu quan trọng để nhóm có định
hướng tuyên truyền nâng cao nhận thức về chính sách, pháp luật về đất đai,
môi trường tại các địa phương này.
24
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề môI trường trên địa bàn xã Quảng An huyện Đầm Hà tỉnh
Quảng Ninh.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Xã Quảng An huyện Đầm Hà tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Địa đỉểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm thực tập: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đầm Hà,
tỉnh Quảng Ninh.
Địa điểm nghiên cứu: Địa bàn xã Quảng An, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng
Ninh.
3.2.2.Thời gian tiến hành
Từ tháng 01/ 2010 đến tháng 05/ 2010
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Tình hình cơ bản của xã Quảng An
- Điều kiện tự nhiên.
- Điều kiện kinh tế, xã hội.
3.3.2. Đánh giá hiện trạng môi trường tại xã Quảng An
- Vấn đề sử dụng nước sinh hoạt
- Vấn đề nước thải
- Vấn đề rác thải
- Vệ sinh môi trường
- Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và môi trường
25