Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trương trung học phổ thông thành phố Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.86 KB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




Đào Văn Lê










Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ HƯƠNG











Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
THƯ
VIỆN


Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phòng Khoa học Công Nghệ
– Sau Đại học, Khoa Tâm lý – Giáo dục của trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã
tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và làm luận văn tốt
nghiệp.
Đặc biệt tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Hương đã tận tình hướng dẫn tôi
nghiên cứu đề tài này.
M ặc dù bản thân tôi đã rất cố gắng nhưng chắc chắn luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong được nhận những ý kiến đóng góp bổ sung để luận văn được hoàn
thiện.
M ột lần nữa, tôi vô cùng cám ơn quý thầy cô!

Tác giả

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT

01 Hoạt động giáo dục hướng nghiệp HĐGDHN
02 Trung học phổ thông THPT
03 Cán bộ quản lý CBQL
04 Giáo viên GV
05 Học sinh HS
06 Giáo viên chủ nhiệm GVCN
07 Giáo viên bộ môn GVBM
08 Giáo viên trung tâm Hướng nghiệp - Dạy nghề GVTT HN-DN
09 Giáo viên hướng nghiệp GVHN
10 Giáo viên chuyên trách GVCT
11 Phương pháp dạy học PPDH
12 Thiết bị dạy học TBDH
13 Giáo dục hướng nghiệp GDHN
14 Công nghệ thông tin CNTT
15 Phụ huynh học sinh PHHS
16 Chương trình CT
17 Sách giáo khoa SGK
18 Phương tiện dạy học PTDH
19 Bộ môn BM
20 Cha mẹ học sinh CMHS
21 Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Đoàn TNCSHCM

MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của giáo dục phổ thông. Hoạt động giáo dục
hướng nghiệp được chính thức đưa vào chương trình và kế hoạch giáo dục phổ thông nhằm
giúp học sinh biết cách chọn nghề phù hợp với hứng thú, năng lực của bản thân, đồng thời phù
hợp với nhu cầu nhân lực và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đấ
t nước. Nhờ đó học sinh

dễ tìm được công việc phù hợp với ngành nghề được đào tạo, phát huy tối đa năng lực, sở
trường của mình trong công việc và thành đạt trong lao động nghề nghiệp. Giáo dục hướng
nghiệp còn là biện pháp hữu hiệu, góp phần tích cực và có hiệu quả vào việc phân luồng học
sinh, chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống lao động nếu như các em không có đi
ều kiện tiếp
tục học lên ngay sau khi tốt nghiệp phổ thông. Vì lẽ đó, từ nhiều năm nay, yêu cầu đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông là nhu cầu
cấp thiết. Điều này cũng được khẳng định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật và các Nghị
quyết về giáo dục đào tạo như Luật Giáo dục, Quyế
t định 126/CP ngày 19/3/1981 của Chính
phủ, Nghị quyết 40/2000/QH 10 của Quốc hội, Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Chỉ
thị 33/CT-BGD&ĐT ngày 23/7/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nghị định số
75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 …
Thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng để
đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp và đã đạt được những k
ết quả bước đầu. Nhiều địa
phương, nhiều trường đã triển khai thực hiện chương trình giáo dục hướng nghiệp theo hướng
dẫn, chỉ đạo của Bộ, mặc dù các điều kiện để thực hiện chương trình hầu như chưa có. Nhìn
chung, hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong thời gian qua còn thấp, chưa đáp
ứng yêu cầu của xã h
ội, nhiều học sinh rất lung túng trong việc lựa chọn hướng đi cho mình sau
khi tốt nghiệp trung học phổ thông và thiếu tâm thế, năng lực để bước vào cuộc sống lao động.
Đa số học sinh có tâm lý học xong trung học cơ sở phải vào trung học phổ thông và học xong
trung học phổ thông phải vào được đại học hoặc cao đẳng, rất ít học sinh có nguyện vọng học
nghề. Nhiều trường d
ạy nghề có chất lượng cao, thị trường lao động rất cần và trả lương cao
nhưng vẫn thiếu học sinh học nghề. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng mất cân đối trong cơ
cấu trình độ nguồn nhân lực đã đào tạo và cơ cấu ngành nghề đào tạo ở nước ta. Những ngành
nghề có nhu cầu phát triển thì chỉ có ít sinh viên theo học. Trong khi đó, rất đông h
ọc sinh theo

học các ngành có nhu cầu về nhân lực qua đào tạo thấp, nên sau khi tốt nghiệp đại học, nhiều
em không xin được việc làm hoặc làm những công việc trái với ngành nghề được đào tạo, gây
lãng phí lớn cho gia đình và xã hội. Như vậy, mục tiêu hướng nghiệp của giáo dục phổ thông
hầu như chưa đạt được.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do nội dung công tác giáo
dục hướng nghiệp chưa được thực hiện đầy đủ; các trường phổ thông thiếu các điều kiện cần
thiết cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp đặc biệt là đi
ều kiện giáo viên. Cho đến nay, nước ta
vẫn chưa có cơ sở giáo dục đào tạo nào làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chuyên
trách hướng nghiệp. Giáo viên làm công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ
thông đều là giáo viên kiêm nhiệm …
Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông là một trong
những nội dung của quản lý các hoạt động sư phạm. Quản lý ho
ạt động giáo dục hướng nghiệp
ở trường trung học phổ thông bao gồm quản lý tốt việc thực hiện chương trình giáo dục hướng
nghiệp, phát huy hiệu quả các trang thiết bị phục vụ giảng dạy, đầu tư đúng mức cho cơ sở hạ
tầng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo đúng yêu cầu của giáo dục hướng nghiệp, phối hợp
tốt các lực l
ượng tham gia công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông. Quản
lý tốt hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh là góp phần vào việc giáo dục và đào tạo
con người hoàn thiện về phẩm chất đạo đức, có năng lực, đủ trình độ kiến thức cống hiến cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, việc quản lý công tác này ở
các trường trung học
phổ thông chưa thật sự đạt hiệu quả, phần lớn các trường chỉ giao khoán cho giáo viên chủ
nhiệm, các nhà quản lý trường học chưa thật sự quan tâm đến việc tổ chức thực hiện, kiểm tra
đánh giá việc thực hiện công tác giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nhà quản lý trường học quả
n lý tốt công tác giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường.

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông
thành phố Cần Thơ”.
2.
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung
học phổ thông thành phố Cần Thơ. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu
quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thành phố Cần
Thơ.
3.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông
thành phố Cần Thơ.

4.
Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học
phổ thông thành phố Cần Thơ đã đạt được một số thành tựu như chương trình giáo dục hướng
nghiệp học sinh phổ thông đã được chính thức đưa vào giảng dạy chính khoá, kế hoạch giáo
dục hướng nghiệp khá chu đáo, phương pháp thực hiện hoạt động giáo dụ
c hướng nghiệp có
nhiều tiến bộ… Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại trong quá trình quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp về xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình, tổ chức chỉ đạo, kiểm tra đánh giá,

5.
Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường

trung học phổ thông.
5.2. Khảo sát thực trạng quản hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học
phổ thông thành phố Cần Thơ.
5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệ
p ở các trường trung học phổ thông.
6.
Giới hạn đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu về thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở một số
trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ.
7.
Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc
Vấn đề được nghiên cứu một cách toàn diện, khách quan: Quản lý hoạt động giáo dục
hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ phải được xem xét trong
mối quan hệ với các hoạt động khác trong nhà trường với việc thực hiện đồng bộ bốn con
đường giáo dục hướng nghiệ
p, việc giảng dạy hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh
trung học phổ thông cũng như việc bồi dưỡng đội ngũ tham gia hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các trường trung học phổ thông trong phạm vi toàn quốc so với mục tiêu giáo dục và
đào tạo chung.
7.1.2. Quan điểm thực tiễn
Qua điều tra, nghiên cứu thực tế, phân tích để phát hiện những tồn tại trong quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông thành phố Cần
Thơ, trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp quản lý nâng cao hiệu quả
hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các trường trung học phổ thông.
7.1.3. Quan điểm lịch sử, logic
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của hoạt động giáo dục hướng nghiệp trên thế giới

và ở Việt Nam. Đồng thời, xem xét xu thế phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu nguồn nhân lực
của đất nước và trên địa bàn thành phố Cần Thơ trong những năm vừa qua cùng với những
thành t
ựu cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích - tổng hợp, phân loại, hệ thống hoá những vấn đề lý luận trong
các văn bản, tài liệu, sách báo, thông tin trên mạng Internet có liên quan đến vấn đề nghiên cứu,
từ đó xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp quan sát
Người nghiên c
ứu tiến hành quan sát có chủ định cách tổ chức, tiến hành quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết
bị, phương tiện dạy học phục vụ cho công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học
phổ thông… nhằm thu thập thông tin về thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở các tr
ường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ.
7.2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Người nghiên cứu xây dựng hai loại phiếu hỏi: một, dành cho cán bộ quản lý, giáo viên,
các lực lượng tham gia hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông
thành phố Cần Thơ; hai, dành cho học sinh ở các trường trung học phổ thông nhằm khảo sát
thực trạng quản lý hoạt động giáo dục h
ướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thành
phố Cần Thơ.
7.2.2.3. Phương pháp phỏng vấn
Người nghiên cứu tiến hành phỏng vấn hoặc trao đổi với các cán bộ quản lý, giáo viên về
công tác quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thành phố
Cần Thơ.
7.2.2.4. Phương pháp chuyên gia

Tác giả trao đổi, lấy ý kiến chuyên gia về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các
trường trung học phổ thông.
7.2.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứ
u các kế hoạch hoạt động giáo dục hướng nghiệp, kế hoạch bài dạy giáo dục
hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ nhằm thu thập thông tin về
quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học và phần mềm SPSS FOR WINDOW phiên bản
16.0 để xử lý các số liệu thu được trong quá trình khảo sát.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề giáo dục hướng nghiệp và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
một số nước trên thế giới
Trên thế giới, hoạt động giáo dục lao động – hướng nghiệp cho học sinh có từ hàng trăm
năm nay và ngày càng phát triển. Những vấn đề hướng dẫn chọn nghề được đặt ra một cách
rộng rãi ở
nhiều nước với tính cấp thiết của nó vào những năm đầu thế kỷ XX. Để có sự tuyển
chọn đích đáng những người lao động cho nhà máy, xí nghiệp, cần phải đưa hướng nghiệp vào
trường phổ thông. Từ lâu, N.K.Crupxkaia, nhà giáo dục học và tâm lý học lỗi lạc người Nga đã
từng nêu lên luận điểm “tự do chọn nghề” cho mỗi thanh niên. Theo bà, thông qua hướng
nghiệp, mỗi trẻ em
đều phải nhận thức sâu sắc hướng phát triển kinh tế của đất nước, những
nhu cầu nào của nền sản xuất cần được thỏa mãn, những nhiệm vụ mà thanh thiếu niên phải đáp
ứng trước yêu cầu mà xã hội đề ra trong lĩnh vực lao động sản xuất.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về hướng nghiệp và giáo dục hướng nghiệp ở các
nước như Nga, Pháp, Đức, Anh, Mỹ

, Nhật Bản, Trung Quốc.
1.1.1.1. Quan điểm giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp ở nước Nga hậu Xô
Viết
Chương trình giáo dục công nghệ ở trường phổ thông của Liên bang Nga hiện nay bao
gồm những nội dung có tính chất giáo dục kỹ thuật tổng hợp không nhằm đào tạo một nghề cụ
thể, học sinh được làm quen, thử sức với từng loại hình sả
n xuất trong xây dựng, đồng thời chú
ý đến công nghệ thông tin được sử dụng trong nền kinh tế hiện đại. Các nhà giáo Liên bang
Nga vẫn kế thừa và tiếp tục phát triển lý luận về vai trò và ý nghĩa của giáo dục tổng hợp, quán
triệt vào dạy học các môn khoa học của trường phổ thông, đồng thời vào giảng dạy môn công
nghệ học và giáo dục lao động.
Về mặt chỉ đạo thực tiễn, Bộ
Giáo dục Liên bang Nga không tách giáo dục hướng nghiệp
khỏi giáo dục công nghệ đại cương và giáo dục lao động của trường phổ thông, nhất là đối với
học sinh trung học phổ thông, thì nội dung, phương pháp tổ chức dạy học các môn khoa học và
công nghệ phân hóa nhằm mục tiêu hướng nghiệp cho học sinh vào học nghề và cuộc sống. Bộ
Giáo dục Liên bang Nga từ những năm 1993 đã giữ lại nội dung chương trình giáo dục lao
động và hướng nghiệp tại nhà trường phổ thông, trong đó tăng cường phân hóa giáo dục lao
động cũng như giáo dục kỹ thuật tổng hợp tại bậc trung học phổ thông. Từ năm 1994 – 1995,
Bộ Giáo dục Liên bang Nga chủ trương tiến hành thí nghiệm dạy học rộng rãi, cuốn chiếu
chương trình Công nghệ học thay cho chương trình dạy học lao động và kỹ thuật áp dụng từ
thời Xô Viết và tổ ch
ức soạn thảo tài liệu về phương pháp dạy học công nghệ trên quan điểm
tăng cường định hướng phát triển kỹ thuật tổng hợp, công nghệ và tin học với các môn học phổ
thông [15].
Các nhà giáo dục Liên bang Nga cho rằng, trong các tiêu chí đánh giá chất lượng học
sinh thì “Sự thành đạt nắm vững nghề đã chọn là giá trị cao nhất”.
1.1.1.2. Xu thế cải cách các trường học ở Châu Âu cuối thế k
ỷ XX gắn với hướng
nghiệp và đào tạo nghề

Vào những năm 70 – 80 của thế kỷ trước, các nước Châu Âu lần lượt tiến hành cải cách
giáo dục từ cấu trúc, tổ chức đến nội dung, phương pháp giáo dục và giảng dạy, đáp ứng các
yêu cầu phát triển của xã hội công nghiệp dựa vào sự tiến bộ vượt bậc của khoa học – công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin, kinh t
ế để đạt tới một số chuẩn mực chung về trình độ giáo
dục phổ thông và giáo dục nghề. Ở đây, chúng tôi điểm qua một số cải cách nhà trường gắn với
vấn đề giáo dục, nghề và hướng nghiệp tại trường phổ thông.
* Nhà trường Pháp và vấn đề giáo dục lao động, nghề nghiệp
Năm 1975, nước Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục để hiện đạ
i hóa giáo dục nhằm vào
các hướng: tăng cường giáo dục tự nhiên và toán học, trong đó tăng kiến thức thực hành đối
với khoa học tự nhiên, đưa giáo dục kỹ thuật vào để đảm bảo sự liên hệ giữa trường học và đời
sống, đồng thời vẫn giữ vững ý nghĩa của các môn xã hội và nhân văn.
Cải cách giáo dục Pháp đặc biệt chú trọng tới giảng d
ạy lao động và nghề nghiệp cho học
sinh khắc phục khuynh hướng và quan niệm coi giáo dục lao động là một hoạt động giáo dục
lao động loại hai (tức là đứng sau các môn khoa học)
Để phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhà trường Pháp đặt giáo dục lao động,
thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trường, đào tạo
“tiền nghề nghiệp” là cơ sở của việc họ
c tập liên tục về sau và chuẩn bị cho học sinh bước vào
cuộc sống lao động. “Công nghệ học là lĩnh vực cơ bản của văn hóa. Nó không có mục tiêu đào
tạo một nghề cụ thể mà nhiệm vụ chính là giáo dục phổ thông phải cung cấp những tri thức kỹ
thuật xác định và phát triển những kỹ năng cần thiết giúp học sinh hiểu được thế giới công nghệ
xung quanh”[15]. Ch
ương trình công nghệ học phải bao gồm những kiến thức liên quan đến
thiết kế cơ khí, các loại máy và hiệu quả sử dụng chúng. Học sinh cần hiểu được vị trí của công
nghệ học trong môi trường xã hội và trong tự nhiên, trình độ công nghệ, những thành tựu to lớn
và hiểm họa trong lao động.
Nhà trường Pháp hiện nay đã giảm bớt tính hàn lâm trong việc cung cấp các kiến thức

khoa học, tăng cường tỷ trọng các kiến thức có ý nghĩa thực và hướng nghiệp để giúp h
ọc sinh
trung học chuẩn bị đi vào đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
* Hiện đại hóa quá trình học tập của nhà trường Đức
Giáo dục phổ thông trong nhà trường của Liên bang Đức đang tiến tới “Một nhà trường
Châu Âu thống nhất” nhưng vẫn giữ được những truyền thống tốt đẹp nhất của nền giáo dục
Đức. Vì vậy, định hướng cả
i cách của nhà trường Đức đã đặt ra nhiệm vụ xem xét lại mục tiêu
và nhiệm vụ của trường phổ thông, hiện đại hóa, cụ thể là:
- Chuyển từ nhà trường truyền thống với hệ 3 loại hình sang 2 loại hình
- Giảm thời lượng học tập của trường Ghim-na-zi (THCS) nhưng vẫn bảo đảm trình độ
cao về giáo dục phổ thông
- Xác lập mối quan hệ chặt chẽ hơ
n giữa giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp
- Sử dụng nguồn lực của chính nhà trường, sự sáng tạo của giáo viên và sự đổi mới nhằm
làm cho nhà trường được tự chủ nhiều hơn trong quản lý.
Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp
để chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề tùy theo trình độ học tậ
p của mỗi em. Học
sinh được phân loại ngay từ cấp tiểu học. Sau lớp 5, căn cứ vào thành tích học tập của từng em,
trường phân loại học sinh thành hai loại: loại chỉ học hết lớp 10 rồi đi vào học công nhân lành
nghề tại các trung tâm dạy nghề và loại học hết trung học lớp 12. Đến đây, lại phân loại lần
nữa, chỉ cho những học sinh học khá được lên l
ớp 13 thi lấy bằng tú tài toàn phần và vào học
các trường đại học, số còn lại sẽ vào các cơ sở đào tạo nghề trung cấp. Sự phân loại sơ bộ được
tiến hành từ khi học hết tiểu học nhưng phải phúc tra và đưa ra quyết định chính xác sau lớp 9.
Tới lớp 10, ngay từ học kỳ 1, giáo viên chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng nghiệp, những
trường dạy nghề của các công ty tư nhân và Nhà nước để bố trí học sinh đến đó tìm hiểu nghề
mình muốn học, chế độ được hưởng khi học như trợ cấp bao gồm tiền ăn, tiền ở, đảm bảo nhu
cầu tối thiểu theo mức sống ở Đức. Những học sinh có nhu cầu hay năng lực học lên đại học

buộc phải có học lự
c khá và từ lớp 11 được học trường phổ thông hệ học lên đại học. Nhà nước
không để thanh niên dù là người thuộc quốc tịch nước ngoài đang cư trú hợp pháp trên nước
Đức bị thất học phổ thông và mù nghề. Học sinh được học miễn phí trong tất cả các bậc học: tại
nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường tiểu học đều tổ chức căn tin và Nhà nước bù lỗ đối với việc ăn
uống của trẻ. Xu hướng hiện đại hóa ở đây là tạo điều kiện cho học sinh có thể học nghề ngay
khi đang học phổ thông, cung cấp hệ thống và kiến thức khoa học gắn với hướng đào tạo nghề
một cách linh hoạ
t, giảm bớt tính hàn lâm của bậc trung học hoàn chỉnh.
* Nhà trường Ba Lan bước vào thế kỷ XXI
Trong báo cáo về chiến lược hiện đại hóa “con đường tới năm 2010”, “Ba Lan trong thế
kỷ XXI” của Chủ tịch đoàn Viện Hàn lâm Ba Lan có đoạn viết: “Ưu tiên cao nhất cho 15 năm
tới là sử dụng tiếm lực trí tuệ Ba Lan và nguồn nhân lực để rút ngắn và hiện đại hóa quá trình
xã hội – kinh tế. Chúng ta theo đuổi chi
ến lược đưa giáo dục trong năm 2010 đạt được những
tiêu chuẩn giáo dục Châu Âu”. Nhà nước Ba Lan chủ trương chế độ giáo dục bắt buộc 9 năm,
gồm giáo dục tích hợp lớp 1 – 3, giáo dục theo khối 4 đến 6 và tiếp tục là hệ thống giáo dục 3
năm phân hóa (từ 1/9/2001 sẽ tăng lên 4 năm) theo hai hướng: hàn lâm và nghề nghiệp hướng
vào lĩnh vực xã hội – kinh tế, văn hóa – nghệ thuật nhằm đ
ào tạo nghề phân hóa rộng. Báo cáo
xác định một số nguyên tắc chỉ đạo cải cách giáo dục gồm:
- Nguyên tắc phân nhánh rộng thay cho hướng phân hóa hẹp trước đây, vì phân hóa rộng
đảm bảo thay đổi nhanh chóng trình độ lành nghề cho người lao động và đào tạo cán bộ
- Nguyên tắc phát triển mọi mặt trí tuệ, tâm lý, nghề nghiệp – xã hội, thể chất của học
sinh, đảm bảo mục tiêu con người phát triển toàn diện
- Nguyên tắ
c giáo dục thông qua lao động được thực hiện thông qua quá trình lao động,
giáo dục kỹ thuật tổng hợp tiếp nhận tri thức và khả năng phù hợp với các giai đoạn và hình
thức học tập, công tác hướng học và hướng nghiệp.
Xu thế hiện tại của giáo dục phổ thông và giáo dục nói chung trên thế giới là coi dạy

nghề, bao gồm cả giáo dục tiền nghề nghiệp ở trường phổ thông, với tính ch
ất đặc biệt quan
trọng đó là cách diễn đạt khác nhau, nhưng tựu chung đều thống nhất với nhau ở chỗ: giáo dục
lao động gắn liền với giáo dục công nghệ và giáo dục hướng nghiệp theo tinh thần mà người
Nga gọi là giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
1.1.1.3. Giáo dục hướng nghiệp, lập nghiệp ở các trường trung học của Australia
Giáo dục hướng nghiệp, lập nghiệp (Career Education) ở các tr
ường học của Australia
nhằm phát triển những kỹ năng, kiến thức và thái độ thông qua một chương trình học tập được
kế hoạch hóa. Việc giáo dục này giúp cho học sinh biết ra những quyết định về việc lựa chọn có
tính hướng nghiệp, lập nghiệp trong và sau khi học ở trường và tham gia có hiệu quả vào đời
sống lao động.
Cá nhân con người thường xuyên lao động suốt đời: ở nhà, trong hệ thống giáo dục chính
quy, ở cộng đồng (với tư cách là người chủ hoặc người làm thuê). Mô hình các vai trò trong lao
động mà cá nhân phát triển trong cuộc đời là kết quả mà hàng loạt các tác động qua lại của
những yếu tố tâm lý, xã hội, giáo dục, vật chất, kinh tế và may mắn.
Giáo dục hướng nghiệp, lập nghiệp yêu cầu học sinh phải hiểu biết những yế
u tố nói trên
và phát triển năng lực chuẩn bị, biết lập và thực hiện những quyết định hướng nghiệp, lập
nghiệp cho bản thân. Quyết định này phản ánh những khả năng, lợi ích và giá trị cá nhân liên
quan đến việc lựa chọn thích hợp. Những kỹ năng và hiểu biết cần thiết cho việc tham gia có
hiệu quả vào lao động và rất quan trọng đối với học sinh, không phụ thu
ộc vào giới, hoàn cảnh
văn hóa, điều kiện địa lý và đời sống vật chất.
Những nghiên cứu về GDHN, lập nghiệp ở các trường học của Australia chỉ ra 4 nhiệm
vụ của học sinh. Bốn nhiệm vụ này có liên quan với nhau:
- Học về bản thân trong mối quan hệ với lao động
- Học về thế giới nghề nghiệp
- Học về lập kế hoạ
ch và ra quyết định hướng nghiệp, lập nghiệp

- Phát triển khả năng triển khai các quyết định về hướng nghiệp và tiến hành thay đổi
công việc.
Học sinh phải đối mặt với nhiều sự dịch chuyển trong suốt thời gian học ở trường, kể cả
dịch chuyển từ năm học này sang năm học khác, từ trường này sang trường khác, từ môn học
này sang môn học khác, từ
thầy này sang thầy khác… Họ phải có kỹ năng quản lý những dịch
chuyển này, vì những kỹ năng này có thể áp dụng cho những dịch chuyển sau nhà trường.
1.1.1.4. Chuẩn bị nguồn nhân lực và tinh thần hướng nghiệp ở nhà trường của Nhật
bản
Năm 1988, Nhật Bản công bố “sách trắng” và đã khẳng định: Nhật Bản đang đối mặt với
mục tiêu cơ bả
n của cải cách giáo dục thế kỷ XXI, thực hiện một “xã hội học tập suốt đời”. Hạ
Nghị viện Nhật Bản thông qua ngày 01/07/1990 Đạo luật gọi là “Luật về duy trì hệ thống
khuyến khích học tập suốt đời”.
Nếu mục tiêu của cải cách giáo dục Nhật Bản ở giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ
II là hướng tới tạo ngu
ồn nhân lực phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, thì mục tiêu cải cách giáo
dục hiện nay là sự phát triển của chính học sinh, giúp các em tự phát triển ngay từ nhỏ cho đến
khi trưởng thành. Sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng trở thành một nguyên tắc
cơ bản, trong đó vai trò chính của nhà trường phổ thông là phải tạo động cơ học tập cho học
sinh, dạy cho các em cách học, phát triển khả năng tự học. Trên cơ sở đó, vai trò của từng cấp
học thay đổi nhằm thích ứng với yêu cầu phát triển này.
Chương trình cải cách giáo dục được xây dựng trên cơ sở hai luận điểm quan trọng đó là
tăng cường tính linh hoạt và đa dạng trong đánh giá hệ thống giáo dục; thực hiện chương trình
cải cách giáo dục không chỉ đ
óng khung trong phạm vi nhà trường, trong hệ thống giáo dục mà
còn mở rộng tầm nhìn ra phạm vi toàn xã hội theo quan điểm mở cửa, giao lưu, hội nhập quốc
tế.
Nội dung chương trình học gồm các môn học: Quốc ngữ, Địa lý, Lịch sử, Giáo dục công
dân, Toán, Khoa học, Nghịên cứu môi trường, Âm nhạc, Vẽ, Thủ công, Đồ họa, Kinh tế gia

đình, Giáo dục sức khỏe và thể chất, Ngoại ngữ
, Tin học, Giáo dục hướng nghiệp, Giáo dục đạo
đức và các hoạt động đặc biệt khác.
Với những thay đổi về nội dung, phương pháp học tập theo hướng nêu trên, giáo dục phổ
thông nhằm tăng cường năng lực thực tiễn của cá nhân học sinh, cần thiết cho vai trò của người
lao động. Theo quan điểm mới về chất lượng nguồn nhân lực, trong tương lai, mỗi công dân
cần phải có nh
ững kỹ năng đa dạng, phong phú hơn là những kiến thức mà học sẽ quên ngay
sau khi thi. Những kỹ năng này không chỉ được học trong nhà trường, mà còn phải được luyện
tập, thực hành hằng ngày trong cuộc sống. Để đạt được mục tiêu này, phải có sự kết hợp chặt
chẽ giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng. Để học tập trong nhà trường cho kết quả thật sự,
học sinh phải được luyện tập những điều đã học được trong cuộc sống thực tế. Kiến thức sẽ
thiết thực đối với học sinh hơn khi được vận dụng trong cuộc sống. Đó là điểm then chốt trong
chương trình học tập, tạo hứng thú cho học sinh.
Việc rèn luyện khả năng thích ứng của nhân lực đối với sự
phát triển “nền văn hóa công
nghiệp Nhật Bản” trong giáo dục phổ thông. Nhà trường phổ thông Nhật Bản rèn luyện khả
năng thích ứng cho học sinh qua một số hoạt động như hoạt động nhóm nhỏ và “tinh thần
doanh nghiệp Nhật Bản”; giáo dục lòng trung thành của người lao động Nhật Bản tương lai
trong trường phổ thông; giáo dục quan hệ lãnh đạo trong trường phổ thông; hình thành thói
quen cần cù, tự giác của người lao
động.
1.1.1.5. Quan điểm của UNESCO
Quan điểm coi học tập là một quá trình liên tục, kéo dài suốt cả cuộc đời, khiến chúng ta
xét lại cả nội dung và cách tổ chức giáo dục trung học. Đòi hỏi của thị trường lao động tạo ra
áp lực dẫn đến số năm học có xu hướng tăng lên. Trên toàn thế giới, nếu xét về tỷ lệ học sinh
đến trường, thì giáo dục trung học có số lượng học sinh tăng nhanh nhất trong hệ thống giáo
dục chính quy.
Xác định nguyên tắc giáo dục suốt đời, tạo nhiều cơ hội cho người tự học, tự đào tạo và
tự hoàn thiện sau đã hoàn thành giáo dục cơ sở. Ý tưởng về “quyền được có thời gian học tập”

có thể được sử dụng suốt đời và hướng các ho
ạch định chính sách tập trung vào các thủ tục cho
phép quay trở lại học tập cho những ai còn trẻ mà việc học hành bị gián đoạn như cấp giấy phép
đi học, công nhận những khả năng đã tiếp thu được, cấp giấy chứng nhận đã theo học các
chương trình không chính quy và công nhận những mối liên hệ liên thông giữa các loại hình
giáo dục khác nhau.
Tóm lại, với nguyên tắc giáo dục thường xuyên, giáo dục trung h
ọc có thể gắn với phạm
vi học suốt đời theo ba nguyên tắc cơ bản: đa dạng hóa các khóa học; phát triển xen kẽ giữa
chương trình học và hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội và nghiên cứu cải tiến chất lượng.
Trong khi giáo dục cơ sở phải đáp ứng nhu cầu học tập thông thường của dân cư, thì giáo
dục trung học có nhiệm vụ làm cho tất cả tài nă
ng của học sinh bộc lộ và nở rộ. Nói cách khác,
cần phải quan tâm hơn nữa đến chất lượng và đến việc chuẩn bị cho cuộc sống trong một thế
giới biến động nhanh, thường là những thay đổi về công nghệ.
Ngày nay, các môn học về lý thuyết về cơ bản thường phục vụ cho việc chuẩn bị cho học
sinh vào đại học mà bỏ rơi những ngườ
i không được học tiếp, không được trang bị những gì
cần thiết cho lao động và cuộc sống. Việc đa dạng hóa cơ cấu khóa học và chú ý hơn không chỉ
nội dung mà cả việc chuẩn bị cho cuộc sống lao động là một trong những mục tiêu của mọi
cuộc cải cách.
Dạy kỹ thuật và đào tạo nghề nhằm đào tạo ra những kỹ thuật viên trung cấp, thợ
lành
nghề. Ở các nước đang phát triển, điều này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần được phát
triển.
Giáo dục trung học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước vào
cuộc sống lao động thật sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn một trong nhiều
con đường khác nhau. Các hệ thống giáo dục cần phải đượ
c thiết kế dù linh hoạt để tính đến sự
khác biệt cá nhân trong việc tổ chức các mô hình học tập, tạo cầu nối cho những người bị gián

đoạn học tập có thể trở lại học theo hình thức chính quy.
Việc lựa chọn con đường riêng biệt của giáo dục nghề hay giáo dục phổ thông cần phải
dựa trên những đánh giá thận trọng về điểm mạnh và đ
iểm yếu của học sinh. Nói cách khác,
hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh giá dựa trên việc kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về
nhân cách tương lai. Nhà trường phải có khả năng vẽ lên một bức tranh rõ nét nhất về khả năng
của mỗi học sinh. Vì vậy, cần phải có những nhà tư vấn hướng nghiệp chuyên môn để giúp học
sinh lựa chọn khóa học thích hợp (có tính đến chu cầu của thị trường lao động), dự báo những
khó khăn trong học tập và giúp giải quyết những vấn đề xã hội khi cần thiết.
1.1.2.
Vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở Việt Nam
Công tác hướng nghiệp được chính thức đưa vào trường phổ thông từ 19/03/1981 theo
quyết định 126/CP của Chính phủ về công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử
dụng hợp lý học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông tốt nghiệp ra trường. Quyết định nêu
rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ công tác hướng nghiệp, phân công cụ
thể chính quyền các cấp, các
ngành kinh tế, văn hóa từ trung ương đến địa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi
trực tiếp giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục bồi dưỡng
học sinh phổ thông sau khi ra trường. Ban hành kèm quyết định 126/CP của Chính phủ là thông
tư 31-TT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào t
ạo về việc hướng dẫn thực hiện quyết định nêu
trên. Nội dung thông tư nêu rõ mục đích, nhiệm vụ và hình thức hướng nghiệp cho học sinh
trong nhà trường phổ thông, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang
công tác tại trường phổ thông, cho dù đang đảm nhận chức vụ công tác nào đều phải hoàn thành
nhiệm vụ được giao trong công tác giáo dục hướng nghiệp.
Vấn đề hướng nghiệp cho h
ọc sinh ở các trường phổ thông không phải là vấn đề mới.
Đây là một vấn đề được tất cả các cấp, ban ngành đoàn thể trong xã hội từ trung ương đến địa
phương, các nhà quản lý giáo dục, các bậc cha mẹ học sinh và các em học sinh thực sự quan
tâm.

Việc nghiên cứu các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ này đã được
các nhà nghiên cứu khoa học giáo dục quan tâm. Các cuộ
c hội thảo khoa học, hội nghị chuyên
đề do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh tổ chức: “Đổi
mới công tác lao động – hướng nghiệp phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” (7/2003); “Tổ chức giáo dục lao động – hướng nghiệp theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông” (11/2001).
Đề tài “Tìm hiểu tình hình đội ngũ làm công tác quản lý trường lớ
p dạy nghề (công lập
và bán công), thiết kế chương trình và phương thức bồi dưỡng về quản lý cho đội ngũ này tại
thành phố Hồ Chí Minh” (Chủ nhiệm đề tài: Th.S Tạ Văn Doanh – Tổng biên tập báo Giáo dục
sáng tạo) cho thấy, cán bộ quản lý là yếu tố có tính quyết định nhất đối với thành bại của một
hệ thống xã hội nói chung, một đơn vị doanh nghiệp hay một trường h
ọc nói riêng. Nếu đào tạo
và bồi dưỡng được đội ngũ này tốt thì hiệu quả hoạt động của hệ thống giáo dục sẽ tốt hơn. Về
mặt thực tế, đề tài chỉ rõ đội ngũ chưa có chung một mặt bằng tiêu chuẩn và trình độ quản lý
theo yêu cầu của Sở Giáo dục và Đào tạo. Do đó, hiệu quả hoạt động đào tạo nghề chưa cao,
điều này lý gi
ải một phần về sự thiếu hụt đội ngũ công nhân lành nghề, nhất là những nghề mũi
nhọn thành phố. Mục đích sau cùng của đề tài là mở các khóa bồi dưỡng về quản lý cho đội ngũ
cán bộ quản lý chủ chốt của khối trường dạy nghề (cả công lập, bán công và tư thục) một cách
hiệu quả nhằm nâng cao năng lực về quản lý cho các hiệu tr
ưởng, phó hiệu trưởng, trưởng
phòng giáo vụ, giám đốc, phó giám đốc các trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp, trung
tâm dạy nghề hoạt động có hiệu quả, giữ đúng vai trò chủ đạo trong việc phát triển dạy nghề,
góp phần cung ứng lao động có kỹ thuật cao cho nền kinh tế thành phố.
Một đề tài khác nói về việc quản lý công tác hướng nghiệp đó là “Quản lý công tác
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông b
ậc trung học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Thực trạng và giải pháp” (luận văn thạc sĩ của tác giả Huỳnh

Thị Tam Thanh)[37]. Ưu điểm của đề tài này là xác định được các đầu việc quản lý của lãnh
đạo các nhà trường trong công tác quản lý giáo dục hướng nghiệp và đưa ra những biện pháp
nhằm tăng cường hiệu quả của công tác này. Tuy nhiên, đề tài vẫn còn một vài khi
ếm khuyết
như chưa xây dựng được một cơ sở lý luận hoàn chỉnh để làm nền tảng cho việc giải quyết phần
nội dung. Đề tài cần phải nghiên cứu thêm về tâm lý lứa tuổi thanh thiếu niên có ảnh hưởng rất
lớn đến việc chọn nghề sau này của các em.
Riêng tại thành phố Cần Thơ chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác quản lý hoạt
động giáo dục hướng nghiệ
p (trừ huyện Thốt Nốt).
1.2. Lý luận về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
1.2.1. Khái niệm về hoạt động giáo dục hướng nghiệp
* Hướng nghiệp trên bình diện xã hội
Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường,… các cơ quan quản lý kinh
tế và quản lý nhà nước, cơ quan của các đoàn thể chính trị và xã hội v.v… đều cần đến những
người có năng lực và phẩ
m chất, nhân cách phù hợp. Để chọn được người theo đúng những tiêu
chuẩn đã định, cơ quan, tổ chức nói trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung,
tính chất, đặc điểm, điều kiện công tác,… của mình, giúp họ tìm hiểu những nghề nghiệp,
chuyên môn mình cần tuyển chọn. Cuối cùng, các cơ quan, cơ sở sản xuất phải tiến hành tuyển
chọn ng
ười trên cơ sở nguyện vọng và dự định nghề nghiệp của người đó.
Như vậy, hướng nghiệp có thể hiểu như là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục
học, y học, xã hội học, kinh tế học,… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp
hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực
của các lĩnh vực sản xuấ
t trong nền kinh tế quốc dân.

* Hướng nghiệp trên bình diện trường phổ thông
Trong trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của các thầy và

hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là
công việc của tập thể GV, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục HS trong việc chọn nghề
,
giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực,
hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Như vậy,
hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm
làm cho các em HS lựa chọn nghề một cách hợp lý.
Với cách hiểu này, hướng nghiệp là nhiệ
m vụ của bất kỳ thành viên nào trong tập thể sư
phạm: hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, GV chủ nhiệm, GV bộ môn, cán bộ phụ trách Đội thiếu
niên tiền phong, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,… Vấn đề là phải có sự phân
công, phân nhiệm cụ thể cho từng loại cán bộ nói trên.
Hướng nghiệp là một trong những hình thức hoạt động học tập của HS. Thông qua hoạt
động này, mỗi HS ph
ải lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp trong xã hội, đặc biệt là
nghề nghiệp ở địa phương, phải nắm được hệ thống yêu cầu của từng nghề cụ thể mà mình
muốn chọn, phải có kĩ năng tự đối chiếu những phẩm chất, đặc điểm tâm – sinh lý của mình với
hệ thống yêu cầu của nghề đang
đặt ra cho người lao động,…
1.2.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.2.2.1. Mục tiêu của hoạt động giáo dục hướng nghiệp
a) Kiến thức
- Hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai
- Biết được một số thông tin cơ bản về định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa
phươ
ng, đất nước và khu vực; về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục
nghề nghiệp (trung học chuyên nghiệp và dạy nghề), cao đẳng, đại học ở địa phương và cả
nước.
- Biết cách tìm kiếm thông tin nghề và cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân.
- Biết cách tự đánh giá năng lực bản thân, điều kiện gia đình và nhu cầu xã hội để định

hướng học tập và chọn nghề tương lai
b) Kỹ năng
- Tự đánh giá được năng lực bản thân và điều kiện gia đình trong việc định hướng nghề
nghiệp tương lai
- Tìm kiếm được những thông tin nghề và thông tin cơ sở đào tạo cần thiế
t cho bản thân
trong việc chọn nghề
- Định hướng và lựa chọn được nghề nghiệp trong tương lai của bản thân
c) Thái độ
- Chủ động và tự tin trong việc chọn nghề phù hợp
- Có hứng thú và khuynh hướng chọn nghề đúng đắn
1.2.2.2. Các nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông
Trong quyết định 126/CP ngày 19/03/1981 của Hội đồng Chính phủ, hướng nghiệp ở
tr
ường phổ thông có các nhiệm vụ chung như sau:
- Giáo dục thái độ lao động đúng đắn.
- Tổ chức cho học sinh thực tập, làm quen với một số nghề.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để khuyến khích,
hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần lao động trẻ tuổi có văn
hóa[5],[24].
Ngày nay, để thực hiện tố
t công tác hướng nghiệp, người ta thường xem xét các nhiệm vụ
cụ thể trong từng mặt của công tác giáo dục hướng nghiệp sau:
- Định hướng nghề nghiệp: bao gồm quá trình thông tin nghề nghiệp và vấn đề tạo điều
kiện cho học sinh làm quen với một số nghề.
- Tư vấn nghề nghiệp: bao gồm việc khảo sát, đánh giá các đặc điểm về thể chất, trí tuệ,
hứ
ng thú, hoàn cảnh…của học sinh, đối chiếu các đặc điểm đó với đặc điểm, yêu cầu của ngành
nghề; trên cơ sở đó cho học sinh những lời khuyên về chọn nghề có căn cứ khoa học, loại bỏ
những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn trong khi chọn nghề.

- Tuyển chọn nghề nghiệp: mặt này ở trường phổ thông chỉ có chức nă
ng tạo điều kiện cho
tuyển chọn nghề nghiệp. Đó là việc căn cứ vào nhu cầu nhân lực của một nghề cụ thể mà tuyển
chọn những người có đặc điểm nhân cách phù hợp.
Ba mặt này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể biểu hiện qua hình
sau[4],[5],[10],[24]

1.2.3. Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Nội dung chương trình HĐGDHN theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (thực hiện
với thời lượng 3 tiết/ tháng) bao gồm:
- Nhóm chủ đề về kiến thức chung, cơ sở cho việc chọn nghề
- Nhóm chủ đề về kiến thức liên quan đến nhóm nghề và nghề cụ thể
- Nhóm chủ đề về giao lưu, th
ảo luận, tham quan
- Nhóm chủ đề về tư vấn nghề
Nội dung chương trình HĐGDHN với thời lượng 1tiết/ tháng (theo hướng dẫn của Sở
Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ). Ở hai năm học 2006 – 2007 và 2007 – 2008 thì chương trình
HĐGDHN của Bộ GD&ĐT ở các khối lớp 10 và 11 gồm 27 tiết/năm học, thực hiện 1 chủ đề/3
tiết/tháng, nhưng ở năm học 2008 – 2009 theo h
ướng dẫn số 7475/BGDĐT-GDTrH về việc
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GD trung học năm học 2008 – 2009 của Bộ GD&ĐT chỉ còn 9
tiết/năm học ở tất cả các khối lớp THPT. Bên cạnh, nội dung GDHN lại đề cập đến quá nhiều
lĩnh vực rất rộng và chuyên sâu, có nhiều thông tin thuộc các lĩnh vực của các ngành, nghề, thị
trường lao động, các phương hướ
ng phát triển KT-XH, ĐT…với thời lượng HĐGDHN đã bị
giảm đi rất nhiều. Vì vậy, các trường THPT thực hiện HĐGDHN chưa đảm bảo đủ thời lượng
với số tiết theo phân phối chương trình là 1 tiết/1 chủ đề/1 tháng. Chính điều này đã ảnh hưởng
lớn đến kết quả GDHN chung của các trường. Ngoài những chủ đề theo quy định của Bộ
GD&
ĐT nhà trường còn thực hiện một vài nội dung khác. Nội dung HĐGDHN ở cấp THPT

gồm những mạch nội dung sau:
- Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước
- Nhu cầu về thị trường lao động
- Thông tin nghề nghiệp và cơ sở đào tạo
- Năng lực bản thân, hoàn cảnh và truyền thống nghề nghiệp gia đình
Định
hướng
nghề
Tuyển
chọn nghề
Tư vấn
nghề
- Lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp THPT
* Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 10
Theo phân phối chương trình của Bộ GD&ĐT thì chương trình quy định:
- Cả năm : 9 tháng x 3 tiết/ tháng = 27 tiết
- Học kỳ I : 5 tháng x 3 tiết/ tháng = 15 tiết
- Học kỳ II : 4 tháng x 3 tiết/ tháng = 12 tiết
Cụ thể như sau:
Tháng Chủ đề
9 Chủ đề 1: Em thích làm nghề gì?
10 Chủ đề 2: Năng lực nghề nghiệp và truyền thống nghề nghiệp gia đình
11 Chủ đề 3: Nghề dạy học
12 Chủ đề 4: Vấn đề giới trong chọn nghề
01 Chủ đề 5: Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
02 Chủ đề 6: Tìm hiểu một số nghề thuộc các ngành Y và Dược
03 Chủ đề 7: Tìm hiểu thực tế một số đơn vị sản xuất công nghiệp hoặc nông nghiệp
04 Chủ đề 8: Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Xây dựng
05 Chủ đề 9: Nghề tương lai của tôi


* Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 11
Theo phân phối chương trình của Bộ GD&ĐT thì chương trình quy định:
- Cả năm : 9 tháng x 3 tiết/ tháng = 27 tiết
- Học kỳ I : 5 tháng x 3 tiết/ tháng = 15 tiết
- Học kỳ II : 4 tháng x 3 tiết/ tháng = 12 tiết
Cụ thể như sau:
Tháng Chủ đề
9 Chủ đề 1: Tìm hiểu một số nghề thuộc các ngành Giao thông vận tải và
Địa chất
10 Chủ đề 2: Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ
11 Chủ đề 3: Tìm hiểu một số nghề thuộc ngành Năng lượng, Bưu chính -
Viễn thông, Công nghệ thông tin
12 Chủ đề 4: Tìm hiểu một số nghề thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng
01 Chủ đề 5: Giao lưu với gương mặt vượt khó, điển hình về sản xuất, kinh
doanh giỏi (Chủ đề: Làm gì sau khi tốt nghiệp Trung học phổ thông)
02 Chủ đề 6: Nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường lao động
03 Chủ đề 7: Tôi muốn đạt ước mơ
04
05
Chủ đề 8: Tìm hiểu thực tế một trường Đại học (hoặc Cao đẳng, Trung
cấp chuyên nghiệp, Dạy nghề) tại địa phương

* Nội dung chương trình hoạt động giáo dục hướng nghiệp lớp 12
Theo phân phối chương trình của Bộ GD&ĐT thì chương trình quy định:
- Cả năm : 9 tháng x 3 tiết/ tháng = 27 tiết
- Học kỳ I : 5 tháng x 3 tiết/ tháng = 15 tiết
- Học kỳ II : 4 tháng x 3 tiết/ tháng = 12 tiết
Cụ thể như sau:
Tháng Chủ đề
9 Chủ đề 1: Định hướng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và

địa phương
10 Chủ đề 2: Những điều kiện để thành đạt trong nghề
11 Chủ đề 3: Tìm hiểu hệ thống đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và dạy
nghề của trung ương và địa phương
12 Chủ đề 4: Tìm hiểu hệ thống đào tạo đại học và cao đẳng
01 Chủ đề 5: Tư vấn chọn nghề
02 Chủ đề 6: Hướng dẫn học sinh chọn nghề và làm hồ sơ tuyển sinh
03 Chủ đề 7: Thanh niên lập nghiệp, lập thân
04
05
Chủ đề 8: Tổ chức tham quan hoặc hoạt động giao lưu theo chủ đề
hướng nghiệp



1.2.4. Các con đường giáo dục hướng nghiệp
Quản lý hoạt động lao động – kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp – Dạy nghề là quá trình
tổ chức thực hiện công tác lao động, hướng nghiệp bằng những tri thức quản lý được soạn thảo
thành kế hoạch và cũng như các chu trình quản lý khác cần có sự kiểm tra theo dõi và có tổng
kết khen thưởng. Song song đó, phải thực hiện đồng bộ
bốn con đường hướng nghiệp, cụ thể:
- Hướng nghiệp qua dạy – học các môn văn hóa (tạo nền tảng)
- Hướng nghiệp qua dạy – học các môn kỹ thuật, dạy nghề phổ thông và lao động sản
xuất (con đường cơ bản)
- Hướng nghiệp qua hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông (vai trò
của nhà trường)
- Hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan, ngoại khóa, các phương tiện thông tin
đại chúng, gia đình và các tổ
chức xã hội (mở rộng hiểu biết về nghề nghiệp)
1.2.5. Ý nghĩa của hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông

* Ý nghĩa giáo dục
- Công tác hướng nghiệp là một bộ phận của công tác giáo dục xã hội. Về phương diện
này, hướng nghiệp là công việc điều chỉnh động cơ nghề của HS, điều chỉnh hứng thú nghề
nghiệp của các em theo xu thế phân công lao động xã hội. Kinh nghiệm trong và ngoài nước
cho thấy rằng, sự chọn nghề một cách tự phát của thanh thiếu niên thường không phù hợp với
hướng phát triển sản xuất và cơ cấu ngành, nghề trong xã hội. Vì vậy, tác động giáo dục trong
quá trình hướng nghiệp có ý nghĩa rất đặc biệt. Kết quả cuối cùng cần đạt là mỗi HS phải tự
giác chọn nghề với ý thức
đặt lợi ích của sự phát triển sản xuất lên trên những nguyện vọng cá
nhân.
Hướng nghiệp với ý nghĩa giáo dục sẽ là một công việc góp phần vào việc cụ thể hóa
mục tiêu đào tạo của trường phổ thông. Trong giai đoạn hiện nay, trường phổ thông phải đào
tạo thế hệ trẻ thành những người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể. Tố
t nghiệp trường
phổ thông, HS phải có năng lực tham gia một nghề ở địa phương hoặc sẽ tiếp tục học để sau
này làm tốt một nghề. Như vậy, quá trình hướng nghiệp trong nhà trường không dừng lại ở sự
giáo dục ý thức lao động nghề nghiệp chung chung, mà phải hướng HS đi vào nghề nghiệp cụ
thể.
* Ý nghĩa kinh tế
Công tác hướng nghiệp luôn hướng vào việc s
ử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi
của đất nước, từ đó, nâng cao năng suất lao động của xã hội. Đưa thanh thiếu niên vào đúng vị
trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy được hết năng lực, sở trường lao động, phát triển
cao những hứng thú nghề nghiệp, làm nảy nở óc sáng tạo trong lao động là việc làm hết sức
quan trọng đối với hướ
ng nghiệp. Làm như vậy, nghề nghiệp không phải là nơi kiếm sống, mà
là nơi thể hiện nhân cách, phát triển tài năng, cống hiến sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc. Để đảm bảo ý nghĩa kinh tế của hướng nghiệp,
trường phổ thông phải gắn mục tiêu đào tạo với những mục tiêu kinh tế – xã hội. Sự phát triển
kinh tế – xã hội phụ thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất, đi

vào sự phân công lao động trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Hướng nghiệp có nhiệm
vụ quan trọng đối với công việc này, bởi vì thông qua đ
ó, hướng nghiệp là một trong những yếu
tố làm đồng bộ hóa đội ngũ lao động nghề nghiệp, phân bố lại lực lượng lao động xã hội,
chuyên môn hóa tiềm năng lao động trẻ tuổi.


* Ý nghĩa chính trị
- Nếu như nói rằng, hướng nghiệp có tác dụng góp phần làm cụ thể hóa mục tiêu đào tạo
của trường phổ thông thì điều đó có nghĩa là, công tác hướng nghiệ
p có chức năng thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước, hiện thực hóa đường lối giáo dục trong đời sống xã
hội. Ngày nay, cuộc chạy đua về sản xuất đang diễn ra rất mãnh liệt. Trong cuộc chạy đua này,
những nước bị tụt lại phần lớn là do không làm tốt công tác đào tạo người lao động, đào tạo
một đội ngũ thợ
lành nghề và những cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ cao, hay nói khác đi,
là những nước chưa làm tốt công tác giáo dục. Hướng nghiệp phải được coi là điều kiện đảm
bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục. Hướng nghiệp sẽ tạo nên những yếu tố mới trong con
người lao động – yếu tố cơ bản của việc tăng năng suất lao động xã hội.
Làm t
ốt công tác hướng nghiệp, chúng ta sẽ có những lớp người đủ năng lực và phẩm
chất cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, công tác hướng
nghiệp có ý nghĩa lớn đối với sự triển khai chiến lược con người – một bộ phận của chiến lược
kinh tế, khoa học và công nghệ.
* Ý nghĩa xã hội
Xét ở bình diện xã hội, h
ướng nghiệp có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã
hội, tạo ra sự cân bằng trong việc phân bố lực lượng dân cư. Khi xã hội gặp khó khăn trong việc
tìm kiếm “công ăn, việc làm” cho thanh, thiếu niên, hướng nghiệp kết hợp chặt chẽ với lao
động sản xuất và dạy nghề có tác dụng làm ổn định đời sống xã hội: góp phần tạo điều kiện để

xã h
ội sử dụng có hiệu quả lực lượng HS phổ thông ra trường trong lĩnh vực kinh tế, kể cả kinh
tế quốc doanh, ngoài kinh tế quốc doanh và kinh tế gia đình.
Chúng ta biết rằng, thanh, thiếu niên không tham gia lao động nghề nghiệp, không có
việc làm sẽ rất dễ gây ra nhiều tiêu cực cho xã hội. Điều này không chỉ gây lo âu cho người lớn,
mà nguy hiểm hơn là tạo ra những thói hư, tật xấu ở tuổi trẻ, từ
đó dẫn đến tình trạng suy thoái
nhân cách của lớp người mới lớn. Hướng dẫn thanh thiếu niên chọn nghề, hình thành ở các em
tinh thần yêu thích lao động, thái độ sẵn sàng tham gia sản xuất, đóng góp sức lực, tài trí cho sự
mở mang ngành, nghề, phát triển kinh tế – đó là một nội dung giáo dục rất cơ bản giúp thế hệ
trẻ phấn chấn và tự giác chấp nhận sự phân công lao động xã hội, tin yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa.
1.2.6. Những vấn đề mới cần phải quán triệt nhằm nâng cao hiệu quả công tác hướng
nghiệp hiện nay
1.2.6.1. Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc chọn nghề của thanh niên
theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Một trong những mục đích chính của công tác hướng nghiệp là điều chỉnh hướng chọn
nghề của thế hệ trẻ cho phù hợp vớ
i những yêu cầu phát triển của kinh tế. Vì thế, từ lâu trong
công tác hướng nghiệp, nhà giáo dục luôn đòi hỏi thanh niên phải trả lời được câu hỏi: “Nghề
định chọn có nằm trong những nghề mà xã hội đang cần phát triển hay không?”.
Đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển đồi theo hướng gi
ảm
tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc nội. Xu hướng
chọn nghề của thanh, thiếu niên phù hợp xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một yêu cầu
của hướng nghiệp.
Để đảm bảo hướng nghiệp đạt yêu cầu này, có 2 vấn đề đặt ra:
- Về phía quản lý Nhà nước và quản lý kinh tế, cần có sự điề
u chỉnh để cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo đúng tỉ trọng của công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đã qui định trong chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội;
- Về phía giáo dục, phải thông tin chính xác về yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thế
hệ trẻ có cơ sở cân nhắc hướng chọn nghề của mình.
Có thể nói, vấn đề chuyển dị
ch cơ cấu kinh tế phải được nhà trường quan tâm hơn như
một định hướng chuẩn bị cho HS ra trường. Quá nhiều trường vẫn đang ở tình trạng giảng dạy
để giảng dạy, đứng ngoài những công việc phát triển chung của xã hội. Đó là một hiện tượng
“không lành mạnh”, nghĩa là không gắn được mục tiêu đào tạo với mục tiêu phát triển kinh tế.
1.2.6.2. Hướng nghiệp giáo dụ
c ý thức chính trị và lý tưởng nghề nghiệp cho người
lao động
Một trong những biểu hiện của sự ấu trĩ và lạc hậu trong tư duy giáo dục là bằng lòng với
việc giáo dục đạo đức – chính trị với một số bài học về giáo dục công dân rất khô cứng và nhạt

×