Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 2011 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.27 KB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG DỆT MAY
XUẤT KHẨU VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2011
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Sinh viên : Bùi Thế Tuấn
Mã sinh viên : 0851010662
Lớp : Anh 15 - Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : Ths. Nguyễn Thị Tường Anh
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
2
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T
Các ký hiệu
viết tắt
Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 AMA
American Marketing
Association
Hiệp hội Marketing Hoa
Kỳ
2 ASEAN


Association of Southeast
Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á
3 BTA Bilateral Trade Agreement
Hiệp định Thương mại
song phương
4 EU European Union Liên minh Châu Âu
5 EUROSTAT European Statistics
Cơ quan thống kê Liên
minh Châu Âu
6 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
7 FOB Free On Board Giao hàng lên tàu
8 FTA Free Trade Agreement
Hiệp định tự do Thương
mại
9 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
10 GSO General Statistics Office Tổng Cục Thống kê
11 ITC International Trade Centre
Trung tâm Thương mại
Quốc tế
12 ODM
Original Design
Manufacturing
Sản xuất tự thiết kế
13 OECD
Organization for Economic
Cooperation and
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát

triển kinh tế
14 OTEXA
Office of Textiles and
Apparel
Cơ quan Dệt may thuộc Bộ
Thương mại Hoa Kỳ
3
15 R&D Research and Development Nghiên cứu và phát triển
16 UNIDO
United Nationns Industrial
Development Organization
Tổ chức Phát triển Công
nghiệp Liên hợp quốc
17 VIETRADE
Vietnam Trade Promotion
Agency
Cục xúc tiến Thương mại
Việt Nam
18 VINATEX
Vietnam National Textile
and Garment Group
Tập đoàn Dệt may Việt
Nam
19 VITAS
Vietnam Textile and
Apparel Association
Hiệp hội Dệt May Việt
Nam
20 WEF World Economic Forum Diễn đàn kinh tế Thế giới
21 WTO World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế
giới
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cạnh tranh có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó là
công cụ để thúc đẩy, phát triển kinh tế, xây dựng nên những doanh nghiệp có sức
mạnh, có khả năng cạnh tranh khi tham gia vào quá trình kinh doanh trong nước
cũng như quốc tế. Hiện nay, quá trình liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn
ra một cách hết sức nhanh chóng, điều đó tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh
tế, nhưng cũng tăng sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì thế doanh nghiệp cũng
như sản phẩm muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao.
Trong số nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, dệt may được xem là
một mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao. Chính vì vậy, trong nhiều năm gần đây,
mặt hàng này đã trở thành mặt hàng mũi nhọn trong nhóm hàng xuất khẩu của Việt
Nam, thể hiện qua việc ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Ngoài ra, Ngành Dệt may cũng đang mang lại nhiều lợi ích cho
xã hội khi góp phần giải quyết một nhu cầu lớn việc làm của người lao động.
Tuy nhiên, trong những những năm gần đây, trước sức ép cạnh tranh của
các đối thủ đến từ Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Indonesia , hàng dệt may Việt
Nam đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Chính vì vậy, để sản phẩm dệt may
Việt Nam có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường thế giới, đồng thời góp phần
nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước, năng lực cạnh tranh của các mặt hàng dệt may xuất khẩu cần
phải được nâng cao một cách toàn diện, không chỉ thể hiện qua khía cạnh sản phẩm,
qua hoạt động của các doanh nghiệp, của riêng Ngành Dệt may mà phải trên cả
phạm vi rộng lớn, đó là toàn quốc gia.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Năng lực cạnh
tranh hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2006 - 2011: Thực trạng và
giải pháp” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh của hàng
dệt may Việt Nam xuất khẩu trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó đề xuất một số
giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng này.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng về năng lực cạnh tranh của
mặt hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế và các nhân tố ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh đó.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu thực trạng
năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang một số thị trường
xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản trong giai đoạn 2006 - 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
đồng thời cũng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê để đánh giá, so
sánh và giải quyết các vấn đề đã đặt ra.
Nguồn tư liệu, thông tin sử dụng trong khóa luận được lấy từ Tổng cục
thống kê Việt Nam, Hải quan Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam và các nguồn
thông tin chính thức khác từ Internet.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục các bảng biểu và danh mục
tài liệu tham khảo, khóa luận được trình bày trong 3 chương:
• Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của hàng dệt
may xuất khẩu
• Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
giai đoạn 2006 - 2011
• Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực canh tranh hàng dệt may Việt
Nam xuất khẩu trên thị trường quốc tế
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu và tập thể các
thầy, cô giáo Trường Đại học Ngoại Thương, các thầy, cô giáo Khoa Kinh tế và

kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương đã tạo điều kiện để tác giả có
thể hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này. Tác giả xin đặc biệt cảm ơn cô giáo,
Ths. Nguyễn Thị Tường Anh, giảng viên Khoa Kinh tế quốc tế, Trường Đại học
Ngoại Thương, người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong quá trình hoàn
thành bài khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian hạn chế và vốn kiến thức
có hạn, nên khóa luận sẽ không tránh khỏi những sai sót và hạn chế nhất định. Tác
6
giả mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung để hoàn thiện hơn nữa bài
khóa luận của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY
XUẤT KHẨU
1.1. Lý luận chung về cạnh trạnh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
7
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ngày nay đang diễn ra một cách
khốc liệt, từng giây, từng phút và trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của đời
sống. Cạnh tranh tồn tại cùng với sự tồn tại của nền kinh tế thị trường, ở đâu có sản
xuất, trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự cạnh tranh. Và cùng với đó, cạnh tranh đã trở
thành động lực phát triển cho nền sản xuất xã hội.
Cạnh tranh là một khái niệm rộng. Nó tồn tại trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội chứ không chỉ riêng trong sản xuất, kinh doanh. Có rất nhiều các khái
niệm khác nhau về cạnh tranh:
• Cạnh tranh, theo định nghĩa của Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý (1998)
chủ biên (Nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin, trang 248) là “Sự tranh đua giữa
những cá nhân, tập thể có chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng
về mình”.

• Theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học (Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội
2001, trang 42): “Cạnh tranh - sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay
quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà
không phải ai cũng có thể giành được”.
• Từ điển thuật ngữ kinh doanh của Anh (xuất bản năm 1992) định nghĩa: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về
phía mình; là hoạt động tranh đua giữa nhiều người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi quan
hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”.
• Theo như diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD), cạnh tranh được định nghĩa là: “Khả năng của các doanh
nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Tựu chung lại, xét một cách tổng quan: “Cạnh tranh là mối quan hệ kinh tế
mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau bằng mọi biện pháp kể cả nghệ thuật và
cả thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị
trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi
nhất, mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi ích”.
8
Như vậy, có nhiều cách thức tiếp cận về cạnh tranh, khóa luận này chỉ tập
trung nghiên cứu vào cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp trong nội bộ một ngành sản
phẩm cụ thể mà không đi vào nghiên cứu cạnh tranh giữa các ngành hàng.
1.1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
• Đối với nền kinh tế
Vai trò của cạnh tranh ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế hiện
nay. Dựa trên quy luật giá trị, cạnh tranh góp phần điều tiết lại quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa, phân bổ đồng đều các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế, nhờ đó khai thác được các tiềm năng, thu hút được vốn, khoa
học, kỹ thuật, công nghệ từ nhiều nguồn, mở rộng năng lực sản xuất.

Trong nền kinh tế hàng hóa ngày nay, mỗi một tổ chức sản xuất là một chủ
thể kinh tế độc lập, riêng biệt, tự quyết định chính hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Để giành được lợi thế trong quá trình cạnh tranh và tránh được nguy cơ
phá sản, họ bắt buộc phải hạ thấp chi phí sản xuất của mình, muốn vậy họ phải
không ngừng cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, tăng cường tiết kiệm, tăng
năng suất lao động. Vì vậy, cạnh tranh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thúc đẩy
sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại
hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, nhằm đảm bảo hiệu quả cho nền kinh tế.
Ngoài ra, cạnh tranh còn góp phần nâng cao nhu cầu của xã hội qua việc tạo
ra nhiều những sản phẩm mới với chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng
đa dạng của xã hội, kích thích phát triển nhu cầu, làm nảy sinh những nhu cầu mới,
qua đó nâng cao đời sống xã hội và phát triển văn minh nhân loại.
• Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh chính là động lực giúp cho mỗi doanh nghiệp phát triển một
cách toàn diện hơn. Các doanh nghiệp phải tiến hành các hoạt động nghiên cứu, tìm
tòi và áp dụng các biện pháp tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự đảm bảo sự cân đối giữa các khâu của quá trình
sản xuất, kinh doanh, bên cạnh đó phải đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của mình
để lựa chọn một phương thức sản xuất tốt nhất nhằm đem lại hiệu quả cao.
Cạnh tranh tác động trực tiếp đến quá trình lưu thông, tiêu thụ sản phẩm,
giai đoạn cuối cùng của chu trình sản xuất, kinh doanh. Do đó, những áp lực liên
9
tục đối với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm phát sinh trong quá trình
cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải phản ứng nhanh nhạy, phù hợp với thị trường,
nhằm thỏa mãn được nhu cầu cao nhất của người tiêu dùng.
Để tham gia vào thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ quy luật tự
nhiên, đó là “đào thải chọn lọc”. Vai trò của cạnh tranh ở đây thể hiện thông qua
việc kích thích sự năng động, sáng tạo của của các doanh nghiệp trong việc sản
xuất, đổi mới cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, nâng cao chất lượng, cũng như tăng khối
lượng hàng hóa và dịch vụ. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự nâng cao

trình độ, kiến thức về sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, cạnh tranh chính là
điều kiện tốt để chọn lọc được những doanh nghiệp kinh doanh giỏi, hình thành nên
đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ và lực lượng lao động lành nghề đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế, xã hội.
• Đối với người tiêu dùng
Một khi sự tự do cạnh tranh xuất hiện, người tiêu dùng có quyền tự do lựa
chọn sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn theo ý muốn chủ quan của bản thân. Ngày nay,
nhờ có cạnh tranh, hàng hóa và dịch vụ có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng được
nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng dù là những nhu cầu nhỏ nhất. Bên cạnh
đó, đi cùng với quá trình cạnh tranh ngày càng khốc liệt, người tiêu dùng cũng có
vai trò trong việc tác động ngược trở lại quá trình sản xuất của doanh nghiệp để họ
có thể nhận được những sản phẩm tốt hơn hay được đáp ứng nhu cầu đa dạng hơn.
Ở một khía cạnh khác, các doanh nghiệp luôn đề cao vai trò của khách hàng
và sự cạnh tranh như là những yếu tố không thể tách rời trong quá trình tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhờ có vai trò của cạnh tranh mà người
tiêu dùng thực sự được tôn trọng hơn. Bên cạnh đó, cạnh tranh cũng thúc đẩy và
nâng cao số lượng cũng như chất lượng sản phẩm, đem lại cho người tiêu dùng
những lợi ích cao nhất.
1.1.2. Một số lý thuyết và mô hình về năng lực cạnh tranh
Từ điển thuật ngữ kinh tế học (Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa Hà Nội,
2001, trang 349) đưa ra định nghĩa: “Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh
tranh; Tiếng Anh - Competitiveness Power) là khả năng giành được thị phần lớn
10
trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần
hay toàn bộ thị trường”.
Tóm lại, có thể hiểu, năng lực cạnh tranh là sức mạnh tương đối của một
chủ thể kinh tế này so với các chủ thể kinh tế khác. Kinh tế học thường phân loại
năng lực cạnh tranh thành ba loại theo chủ thể cũng như cấp độ sau: năng lực cạnh
tranh của quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh
của sản phẩm, dịch vụ. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao đồng nghĩa với

việc nó có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, với các sản phẩm và dịch vụ
có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh của quốc gia
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năng lực cạnh tranh quốc gia được
định nghĩa là “năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế bền
vững trong môi trường và thị trường thế giới”. Như vậy, có thể hiểu năng lực cạnh
tranh quốc gia chính là năng lực của một quốc gia trong việc xây dựng một môi
trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn
lực, thông qua đó đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững, cũng như thu hút
được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
Có thể thấy, môi trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với
việc thúc đẩy quá trình đầu tư, lựa chọn của các nhà sản xuất, kinh doanh, các
doanh nghiệp theo yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. Một môi trường cạnh tranh nhiều
thuận lợi sẽ tạo khả năng cho Chính phủ hoạch định các chính sách phát triển, thu
hút đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng. Do đó, nó
sẽ là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thì cho đến
năm 2008, theo WEF, năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi 12 yếu tố
chính và được phân vào 3 nhóm như sau:
- Nhóm các yếu tố cơ bản (Nhóm A)
- Nhóm các yếu tố nâng cao hiệu quả (Nhóm B)
- Nhóm các yếu tố cải cách và phát triển (Nhóm C)
Trong đó, các yếu tố cụ thể như trong bảng sau:
Bảng 1.1: Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh quốc gia
Nhóm Các yếu tố
11
Nhóm A
1. Thể chế
2. Cơ sở hạ tầng
3. Môi trường kinh tế vĩ mô

4. Y tế và giáo dục tiểu học
Nhóm B
5. Đào tạo và giáo dục đại học
6. Hiệu quả thị trường hàng hóa
7. Thị trường lao động: Tính linh hoạt và
năng suất
8. Sự phát triển của thị trường tài chính
9. Khả năng đáp ứng về công nghệ
10. Quy mô thị trường
Nhóm C
11. Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh doanh
12. Cải cách, đổi mới
(Nguồn: WEF - 2011)
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cho đến nay vẫn chưa
được hiểu một cách thống nhất. Bên cạnh đó, không ít ý kiến đưa ra đồng nhất năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực kinh doanh. Do đó, để có thể đưa ra
khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, chúng ta sẽ xem xét một
vài quan điểm như dưới đây.
Trong bài viết về “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, đăng trên tạp chí Lý luận - Chính
trị, số ra tháng 8 năm 2005, Ts Trần Thị Minh Châu cho rằng “năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp biểu hiện khả năng của doanh nghiệp trong việc duy trì và mở
rộng thị phần, mức doanh lợi, lợi nhuận của doanh nghiệp trên thị trường trong
nước, khu vực và thế giới. Một quốc gia có nhiều doanh nghiệp có ưu thế cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, có khả năng đổi mới về công nghệ sản xuất, phương
thức quản lý, xúc tiến thị trường và có môi trường kinh doanh thuận lợi phản ánh
khía cạnh nhất định của năng lực cạnh tranh quốc gia”. (Trần Thị Minh Châu,
2005, trang 51)
Trong khi đó, M. Porter đưa ra quan điểm như sau “trong nền kinh tế thị

trường, bất kỳ ngành, doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động đều phải chịu
áp lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của ngành, doanh nghiệp phụ thuộc vào
năm yếu tố bao gồm: sức mạnh đàm phán của nhà cung cấp, sự đe doạ của các
doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, sự đe dọa của sản phẩm và dịch vụ thay thế,
12
sức mạnh đàm phán của người mua và cạnh tranh giữa các đối thủ. Muốn nâng cao
được năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần xác định được những lợi thế của mình
mới có thể dành thắng lợi. Hai nhóm lợi thế cạnh tranh đó là:
• Lợi thế về chi phí: tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các
yếu tố sản xuất như máy móc, công nghệ, vốn và lao động thường được xem là
nguồn lực để tạo ra lợi thế cạnh tranh.
• Lợi thế về sự khác biệt: dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho
người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn
thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá
thậm chí cao hơn đối thủ”. (Michael E. Porter, 1996, trang 87 - 92)
Tương tự năng lực cạnh tranh quốc gia, các quan niệm và cách thức phân
tích của các nhà nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tuy khác nhau
nhưng đều dẫn đến một hệ quả đồng nhất, đó là doanh nghiệp sau quá trình cạnh
tranh luôn luôn mong muốn khả năng đứng vững trên thị trường. Từ đó, có thể tổng
quát khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau: “năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong
việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả
các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và đảm bảo sự phát triển kinh tế
bền vững”. (Nguyễn Minh Tuấn, 2010)
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ nào đó
trên thị trường là sự thể hiện tính ưu việt hay tính hơn hẳn của nó cả về tính chất
định tính và định lượng với các chỉ tiêu như: chất lượng và sự ổn định chất lượng
của sản phẩm, khối lượng và thị phần trên thị trường, kiểu dáng mẫu mã sản phẩm,
giá thành và giá cả sản xuất, mức độ giao dịch và uy tín của sản phẩm trên thị

trường, thương hiệu,
Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của mỗi nền kinh tế thì các
quan hệ thương mại cũng phát triển; theo đó diễn ra sự mở rộng thị trường trao đổi
hàng hóa. Sự mở rộng trao đổi thương mại tác động ngược trở lại quá trình sản xuất
của mỗi nước theo cả hai chiều: Kích thích gia tăng khối lượng hàng hóa được thị
trường chấp nhận và hạn chế sản xuất những hàng hóa mà thị trường không chấp
nhận. Như vậy, mỗi sản phẩm do từng nhà sản xuất đưa ra thị trường sẽ được người
13
tiêu dùng phản ứng với các mức độ cao thấp khác nhau. Sự phản ứng của người tiêu
dùng thể hiện qua việc mua hay không mua sản phẩm đó. Đây là biểu hiện tổng
quát cuối cùng về sức cạnh tranh của sản phẩm đó. Nói cách khác, cạnh tranh giữa
các sản phẩm trên một thị trường là quá trình thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dùng
của các sản phẩm đối với khách hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thời
gian nhất định.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể gắn với một doanh nghiệp, một
quốc gia cụ thể hoặc xét chung cho tất cả các quốc gia, các doanh nghiệp. Đối với
một doanh nghiệp hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực cạnh tranh gắn với mục
tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị trường và được thể hiện cụ thể
bằng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc gia và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Một
quốc gia hay nền kinh tế có khả năng cạnh tranh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp
tạo dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Nói cách khác,
năng lực cạnh tranh quốc gia là một nguồn hình thành năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, nó sẽ góp phần vào
việc nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh và do đó
góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
1.1.2.4. Lý thuyết về mô hình SWOT đánh giá năng lực cạnh tranh
SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái đầu tiên của các từ tiếng Anh:
Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ hội) và Threats
(Nguy cơ). Đây là công cụ cực kỳ hữu ích giúp chúng ta tìm hiểu vấn đề hoặc ra

quyết định trong việc tổ chức, quản lý cũng như trong kinh doanh. Nói một cách
khác, SWOT là cơ sở lý thuyết mà dựa vào đó, chúng ta có thể xem xét lại các chiến
lược, xác định vị thế cũng như hướng đi của một tổ chức, một công ty, phân tích các
đề xuất kinh doanh hay bất cứ ý tưởng nào liên quan đến quyền lợi của doanh
nghiệp. Và trên thực tế, việc vận dụng SWOT trong xây dựng kế hoạch kinh doanh,
hoạch định chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, khảo sát thị trường, phát triển
sản phẩm và cả trong các báo cáo nghiên cứu đang ngày càng được nhiều doanh
nghiệp ưu tiên lựa chọn.
Mô hình SWOT dùng để tổng hợp những nghiên cứu, phân tích về môi
trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp cũng như của ngành. Trong đó,
14
phân tích môi trường bên ngoài để phát hiện ra những cơ hội và thách thức đối với
doanh nghiệp, ngành hàng. Phân tích môi trường nội bộ bên trong để xác định được
điểm mạnh và điểm yếu của chính doanh nghiệp, ngành hàng.
Sử dụng SWOT là một công cụ định tính hữu hiệu trong việc giúp nhận
diện và phân tích cơ hội, thách thức cũng như điểm mạnh, điểm yếu, thông qua đó,
dự báo và đưa ra những chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp hay chiến lược
phát triển cho ngành hàng trong tương lai.
SWOT được xây dựng bởi bốn yếu tố: S = Strength (Điểm mạnh), W =
Weaknesses (Điểm yếu), O = Opportunities (Cơ hội) và T = Threats (Thách thức).
• Điểm mạnh: Những năng lực, lợi thế giúp doanh nghiệp hay ngành có khả năng
thực hiện tốt mục tiêu phát triển.
• Điểm yếu: Những điểm cần khắc phục vì chúng ngăn cản doanh nghiệp hay ngành
đạt được những hiệu quả trong quá trình phát triển.
• Cơ hội: Những xu hướng, động lực, sự kiện và ý tưởng mà doanh nghiệp hay ngành
có thể tận dụng nhằm thực hiện mục tiêu.
• Thách thức: Những sự kiện hay sức ép có thể xảy ra, gây ảnh hưởng xấu đến việc
thực hiện mục tiêu mà doanh nghiệp hay ngành cần tính đến.
(Báo Tin Kinh tế, 2009, )
Bốn yếu tố này được chia làm hai nhóm:

Nhóm 1: Điểm mạnh (S) và Điểm yếu (W): là những nhân tố bên trong
được kiểm soát bởi chính doanh nghiệp như công tác quản lý, hoạt động marketing,
tài chính - kế toán, sản phẩm và sản xuất, Mục tiêu của doanh nghiệp là cố gắng
tận dụng điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu.
Nhóm 2: Cơ hội (O) và thách thức (T) đề cập đến những vấn đề về mặt kinh
tế, chính trị, xã hội, khoa học, công nghệ, các xu hướng cạnh tranh và các sự kiện
có thể đem lại lợi ích hoặc nguy cơ cho doanh nghiệp. Cơ hội và thách thức vượt ra
khỏi khả năng kiểm soát của doanh nghiệp nên được gọi là những nhân tố tác động
từ bên ngoài.
Như vậy với việc sử dụng phân tích SWOT, các doanh nghiệp có thể hoạch
định được những chiến lược phát triển để nắm lấy cơ hội, nhằm tránh đi hoặc giảm
bớt những thách thức từ bên ngoài, bên cạnh đó, tận dụng điểm mạnh đồng thời
khắc phục những điểm còn yếu bên trong doanh nghiệp.
15
Việc áp dụng SWOT vào phân tích và dự báo kinh tế đã được sử dụng ở cả
cấp quốc gia, cấp ngành hay doanh nghiệp. Đây là một công cụ hữu hiệu giúp
chúng ta nhận diện và phân tích những xu hướng tác động trong thời gian tới khi
những số liệu định lượng không có đủ để tiến hành phân tích hồi quy định lượng.
Ngoài ra, trên cơ sở phân tích các yếu tố trong SWOT, căn cứ vào mục tiêu,
phương hướng phát triển kinh doanh, người ta có thể đưa ra những dự báo dựa trên
bốn loại kết hợp như sau:
Bảng 1.2: Lý thuyết mô hình SWOT
Điểm mạnh
(S)
Điểm yếu
(W)
Cơ hội
(O)
Phối hợp S - O
Nhằm sử dụng các mặt

mạnh để khai thác cơ hôi
Phối hợp W - O
Nhằm tranh thủ cơ hội để
khắc phục điểm yếu
Thách thức
(T)
Phối hợp S - T
Sử dụng mặt mạnh để đối
phó thách thức
Phối hợp W - T
Cố gắng giảm thiểu các mặt
yếu và tránh được thách thức
1.2. Năng lực cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
1.2.1. Tổng quan về hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm hàng dệt may
Hàng dệt may là sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất dệt
may. Sản phẩm dệt may được tạo nên từ nhiều nguyên liệu khác nhau như vải,
bông, xơ, sợi và trải qua hai công đoạn: công đoạn thứ nhất của các doanh nghiệp
dệt, sản xuất tạo ra nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp may, và công đoạn
thứ hai, các daonh nghiệp may tiến hành sản xuất các sản phẩm may mặc. Do vậy
có thể thấy, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt và may là các doanh nghiệp bổ trợ
cho nhau trong quá trình sản xuất. Sự phong phú, đa dạng của các sản phẩm may
mặc còn tùy thuộc vào sự đa dạng của các chủng loại sản phẩm do các doanh
nghiệp dệt tạo ra. Ngày nay, khi xét đến các sản phẩm dệt và may, người ta thường
đồng nhất và gọi chung lại là sản phẩm dệt may. Nhưng trong thực tế, sản phẩm dệt
16
và may là hai loại sản phẩm riêng biệt. Chúng có các đặc điểm khác nhau và là
những sản phẩm bổ trợ cho nhau. Sản phẩm của Ngành Dệt may bao gồm từ các
loại quần áo, vải vóc cho đến các vật dụng sinh hoạt quen thuộc như khăn mặt, khăn
tắm, chăn màn, rèm cửa, ô dù, mũ nón trong đó, các sản phẩm may mặc phổ biến

thường được xuất khẩu sang các thị trường chính của Việt Nam như quần dài, quần
short, áo jacket, áo sơ mi, áo bông, áo thun
1.2.1.2. Đặc điểm của hàng dệt may trên thị trường
• Đặc điểm về nhu cầu và tiêu thụ
Khác với các loại hàng hóa khác, hàng dệt may được sử dụng một cách
thường xuyên, liên tục và là loại hàng hóa có tính toàn cầu hóa cao. Nó được sử
dụng ở mọi châu lục, mọi quốc gia, góp phần giải quyết nhu cầu về sinh hoạt cho
hơn 7 tỉ người trên trái đất mà không phân biệt tầng lớp, giai cấp, giàu nghèo,
không phân biệt giới tính, độ tuổi. Người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm dệt may
phụ thuộc vào hoàn cảnh, địa điểm hay thời gian khác nhau. Tuy nhiên, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào thì người tiêu dùng vẫn phải sử dụng các sản phẩm dệt may
thường xuyên trong sinh hoạt, trong công việc, học tập cũng như các hoạt động
khác.
Sản phẩm dệt may không có hàng hóa thay thế, thể hiện qua việc không có
hàng hóa khác cạnh tranh trong nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng mà chỉ có các
nguyên phụ liệu tạo ra hàng dệt may được sử dụng thay thế cho nhau. Hay nói cách
khác, cạnh tranh giữa các hàng dệt may là chính là cạnh tranh trong việc sử dụng
các nguyên phụ liệu đầu vào và cách thức tạo ra các sản phẩm khác nhau. Sự cạnh
tranh giữa các sản phẩm dệt may trên thị trường chủ yếu là cạnh tranh về kiểu dáng,
mẫu mã, thiết kế chứ không có yếu tố cạnh tranh của hàng hóa thay thế. Đây là
một đặc điểm rất quan trọng của sản phẩm dệt may, nhờ có nó mà các doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh sẽ biết cách tìm ra những biện pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh qua con đường đa dạng hóa mẫu mã, kiểu dáng, thiết kế.
Sản phẩm dệt may là loại sản phẩm có yêu cầu rất phong phú, đa dạng tùy
thuộc vào đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng trên thế giới khác nhau về văn hóa,
phong tục tập quán, tôn giáo, hay khác nhau về khu vực địa lý, khí hậu, về giới tính,
tuổi tác sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Điều đó tác động đến việc
17
nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu của các nhóm người tiêu dùng nhằm
đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm.

Sản phẩm dệt may có tính thời trang cao, nó phải thường xuyên được thay
đổi về mẫu mã, kiểu dáng, thiết kế, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu thích
đổi mới, độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Do đó để đẩy mạnh việc tiêu
thụ được sản phẩm, cần phải có những cái nhìn toàn diện và sự am hiểu các xu
hướng thời trang trên thế giới.
Ngoài ra, khi tiến hành sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may cần chú
trọng đến yếu tố thời vụ. Phải căn cứ vào chu kỳ thay đổi của thời tiết trong năm ở
từng khu vực thị trường mà cung cấp hàng hóa cho phù hợp. Điều này liên quan đến
khâu phân phối sản phẩm. Nếu như không muốn bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu thì hơn bao
giờ hết, hàng dệt may cần được giao đúng thời hạn để cung cấp cho kịp thời vụ.
• Đặc điểm về sản xuất
Sản phẩm dệt may là sản phẩm sử dụng nhiều lao động giản đơn, phát huy
được lợi thế của những nước có nguồn lao đồng dồi dào với giá nhân công rẻ. Đặc
biệt, kinh doanh sản xuất các sản phẩm dệt may đòi hỏi vốn đầu tư ít nhưng tỉ lệ lãi
khá cao. Chính vì vậy sản phẩm dệt may thường là mặt hàng được chú trọng và đầu
tư đối với các quốc gia đang phát triển và đang ở giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hóa. Khi một quốc gia trở thành một nước công nghiệp phát triển với trình
độ công nghệ cao, giá lao động cao, sức cạnh tranh trong sản xuất hàng dệt may
giảm thì họ lại vươn tới những ngành công nghiệp có hàm lượng kĩ thuật cao hơn,
sử dụng ít lao động và mang lại lợi nhuận cao. Và do đó, sản phẩm dệt may lại được
chú trọng đầu tư, sản xuất ở các nước khác kém phát triển hơn. Như vậy, vòng đời
phát triển của sản phẩm dệt may cũng chính là sự chuyển dịch của Ngành công
nghiệp dệt may từ khu vực phát triển sang khu vực kém phát triển hơn do có sự
chuyển dịch về lợi thế so sánh.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh hàng dệt may xuất khẩu
1.2.2.1. Thị phần của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
Thị phần là phần thị trường tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh hàng hóa đó chiếm lĩnh. Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nếu thị phần của doanh nghiệp trên thị
18

trường lớn hơn so với các đối thủ cạnh tranh thì cho thấy hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp có hiệu quả, chiếm một vị trí ổn định và vượt trội hơn so
với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Thị phần của mỗi doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may trên một thị
trường được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu tiêu thụ hàng dệt may của bản
thân doanh nghiệp đó so với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh
dệt may trên thị trường đó. Mỗi một chủng loại sản phẩm dệt may thông thường sẽ
chiếm những mảng thị trường nhất định, những mảng thị trường đó chính là số
lượng khách hàng của doanh nghiệp.
Thị phần của doanh nghiệp xuất khẩu dệt may được tính theo công thức:
Trong đó:
- MS : Thị phần của doanh nghiệp
- R : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong một khoảng
thời gian nhất định
- TR : Tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp trên thị trường trong
một khoảng thời gian nhất định
Công thức trên tính thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp so với toàn bộ thị
trường. Ngoài ra để đánh giá vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, người ta còn
dùng chỉ tiêu thị phần tương đối, đó là tỷ lệ về doanh số bán hàng của doanh nghiệp
so với đối thủ cạnh tranh. Chỉ tiêu này cho biết vị thế của doanh nghiệp so với các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường như thế nào.
Trong đó:
- R1 : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong một khoảng
thời gian nhất định
- R2 : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong một
khoảng thời gian nhất định
Nếu hệ số thị phần trên lớn hơn 1 thì lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về doanh
nghiệp và ngược lại, nếu hệ số thị phần nhỏ hơn 1, doanh nghiệp sẽ không có lợi thế
cạnh tranh khi so sánh với đối thủ đang xét.
19

Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ngày nay, cùng với việc mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế, sản phẩm dệt may của doanh nghiệp nào có sức cạnh tranh tốt
thường chiếm được mảng thị trường lớn hơn, ngược lại sản phẩm của doanh nghiệp
nào với sức cạnh tranh yếu thì chỉ chiếm được mảng thị trường nhỏ. “Tiêu chí thị
phần phản ánh chính xác sức mạnh của mỗi sản phẩm và năng lực cạnh tranh của
sản phẩm đó trên thị trường”. (Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2005, trang 26 - 27)
1.2.2.2. Doanh thu tiêu thụ hàng dệt may
Doanh thu của hàng dệt may được tính theo công thức sau:
TR : Doanh thu
Pi : Giá của một đơn vị sản phẩm i
Qi : Số lượng sản phẩm i được tiêu thụ
n : Số loại sản phẩm được tiêu thụ
Hàng dệt may đạt doanh thu tiêu thụ cao trên thị trường chứng tỏ nó được
thị trường chấp nhận và được người tiêu dùng ưa chuộng. Sự chấp nhận của thị
trường thể hiện rằng sản phẩm đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đặt ra.
Trong môi trường tự do cạnh tranh ngày nay, người tiêu dùng được tự mình lựa
chọn sản phẩm theo sở thích, do vậy, nếu các cơ hội lựa chọn sản phẩm đều là như
nhau, thì doanh thu chính là chỉ tiêu phản ánh một cách chính xác mức độ thỏa mãn
các nhu cầu khác nhau của người tiêu dùng đối với sản phẩm của các doanh nghiệp.
Và do đó, nó là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của hàng
dệt may. Hàng dệt may có khả năng cạnh tranh cao sẽ dễ dàng bán được, qua đó
làm tăng doanh thu hơn so với những hàng dệt may có khả năng cạnh tranh yếu.
Có nhiều biện pháp để tăng doanh thu tiêu thụ hàng dệt may của doanh
nghiệp. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tiến hành tăng giá bán, trong khi giữ nguyên
số lượng hàng dệt may cung ứng trên thị trường. Tuy nhiên, đây không phải là biện
pháp được áp dụng đối với những sản phẩm của doanh nghiệp mà chưa có thương
hiệu nổi tiếng trên thị trường. Hơn nữa, với việc tự do hóa thương mại đang diễn ra
mạnh mẽ như ngày nay, xu thế chung của hàng dệt may trên thế giới đều giảm giá.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm bằng cách hạ giá
sản phẩm nhưng lại tăng số lượng hàng dệt may đưa ra thị trường, đẩy mạnh các

hoạt động xúc tiến thương mại. Đây là xu thế chung của các doanh nghiệp sản xuất
20
kinh doanh hàng dệt may trên thế giới nhằm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm dệt
may, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
1.2.2.3. Giá cả của sản phẩm dệt may
Giá cả sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng trong chiến lược
cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp xác định chiến lược
cạnh tranh thông qua giá cả thì doanh nghiệp sẽ phải tiến hành sản xuất với chi phí
thấp nhất có thể để giá cả hàng hóa, dịch vụ của mình thấp hơn so với các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường. Cạnh tranh thông qua giá cả đem đến cho người tiêu
dùng nhiều sự lựa chọn hơn khi quyết định mua sản phẩm. Thông thường, có thể
thấy tâm lý chung của người tiêu dùng là sẽ lựa chọn những sản phẩm cùng loại,
cùng chất lượng, cùng các dịch vụ như nhau nhưng lại có giá rẻ hơn. Trong môi
trường xã hội có nhiều biến động như bất ổn về kinh tế hay chính trị như giai đoạn
hiện nay thì yếu tố giá cả sẽ thu hút được sự quan tâm cũng như cân nhắc kỹ lưỡng
của người tiêu dùng nhiều hơn. Do đó, đây là một yếu tố quan trọng trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng dệt may, nó tạo điều kiện cho sản phẩm dệt
may của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng trên thị trường, hay nói cách khác là
sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh cao hơn.
Giá cả sản phẩm bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như nguyên vật liệu đầu
vào, chi phí vận chuyển, xếp dỡ, kho bãi, nhà xưởng, khấu hao máy móc thiết bị,
lương nhân công và các chi phí hoạt động khác. Ngoài ra, kênh phân phối càng lớn
thì chi phí của sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng sẽ càng cao.
Tuy giá cả sản phẩm không quyết định hoàn toàn tới năng lực cạnh tranh
của sản phẩm nhưng nó là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định mua hàng
của người tiêu dùng. Vì thế, doanh nghiệp cần phải tiết kiệm các nguồn lực đầu vào,
sử dụng hợp lý các nhân tố trong quá trình sản xuất kinh doanh và phải xác định
cho mình một chiến lược giá phù hợp nhất.
1.2.2.4. Chất lượng của sản phẩm dệt may
Cũng như nhiều sản phẩm khác, bên cạnh giá cả thì chất lượng sản phẩm

dệt may cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu để quyết định khả năng cạnh tranh của
sản phẩm này trên thị trường. Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của con
người cũng ngày càng nâng cao. Chất lượng của sản phẩm dệt may được hiểu ở đây
không chỉ đơn thuần là chất lượng sản phẩm riêng biệt mà là toàn bộ các nhân tố tác
21
động tới quá trình tiêu dùng, sự hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm. Chất
lượng của sản phẩm bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến các yếu
tố đầu vào (như nguyên vật liệu, phụ liệu ), mức độ hiện đại của máy móc, thiết bị,
trình độ tay nghề của đội ngũ lao động. Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh
tranh tốt là sản phẩm không chỉ khi kết hợp được các nhân tố trên mà quan trọng là
nó phải thỏa mãn được thị hiếu tiêu dùng của khách hàng.
Người tiêu dùng ngày càng có những đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm.
Họ yêu cầu một sản phẩm dệt may có chất lượng thì không chỉ đáp ứng những nhu
cầu thiết yếu của mình mà phải giúp họ thể hiện được giá trị của chính bản thân
mình, thể hiện được những điểm mạnh của người mặc chúng. Đối với một sản
phẩm có chất lượng cao người tiêu dùng không hề do dự khi bỏ tiền ra mua. Còn
nhà sản xuất hoặc người kinh doanh, họ có thế đặt giá cao hơn so với những sản
phẩm dệt may của đối thủ, từ đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn và đảm bảo chắc
chắn hơn khả năng tồn tại và phát triển của sản phẩm và doanh nghiệp trên thị
trường trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay khi mà hầu hết hạn ngạch
trong lĩnh vực dệt may đã được xóa bỏ.
Những yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm dệt may có ảnh hưởng mạnh
mẽ tới quyết định của người mua là vẻ đẹp của sản phẩm, sự ích lợi, kiểu dáng hiện
đại phù hợp với thị hiếu và an toàn cho người sử dụng. Thông thường, chất lượng
sản phẩm được xem xét và đánh giá bởi hệ thống những chứng chỉ về tiêu chuẩn
chất lượng quốc tế mà doanh nghiệp có được như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000
hay GB (rào cản thương mại xanh). Để có được những chứng chỉ tiêu chuẩn chất
lượng trên, đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn tuân thủ chặt chẽ những yêu cầu
ngặt nghèo trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất.
1.2.2.5. Mức độ đa dạng của sản phẩm thông qua mẫu mã, kiểu

dáng, chủng loại
Mẫu mã của sản phẩm là hình thức bên ngoài của sản phẩm đó. Nó được
thể hiện bởi các yếu tố như hình dáng, màu sắc, kích thước, của sản phẩm. Càng
ngày mẫu mã sản phẩm càng có vai trò lớn hơn trong quyết định mua hàng của
người tiêu dùng. Do đó, nó cũng tác động không nhỏ tới năng lực cạnh tranh của
sản phẩm. Mẫu mã phải mang tính thẩm mỹ và thời trang cao, khơi gợi trí tò mò và
tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Đặc biệt, đối với những sản phẩm mang tính thời
22
trang như quần áo, giày dép, nội thất, thì mẫu mã là vô cùng quan trọng, bởi vì
các mặt hàng này có tính thời vụ hoặc bị ảnh hưởng bởi xu hướng thời trang, thị
hiếu của người tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Cho nên, những nhà kinh
doanh mặt hàng này cần hết sức chú ý đến các nhân tố này mới có thể nâng cao
năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
1.2.2.6. Thương hiệu của sản phẩm dệt may
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA), “thương hiệu là một cái tên,
một từ ngữ, một ký hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ thiết kế hoặc tập hợp các yếu
tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một hoặc một nhóm
người bán với hàng hóa và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.” (Vũ Đức Minh,
2009, trang 26 - 27). Hay nói một cách khác, thương hiệu thường được quan niệm
theo nghĩa rộng nhằm để phân biệt và thể hiện sự khác biệt giữa sản phẩm hoặc dịch
vụ của doanh nghiệp này với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp khác.
Sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao đồng nghĩa với việc nó được người
tiêu dùng biết đến, hay nói một cách khác chính là thương hiệu của sản phẩm đó
được định hình trong tâm trí, suy nghĩ của người tiêu dùng. Lúc này, sản phẩm sẽ
chứng minh được cho khách hàng rằng những giá trị mà nó mang lại lớn hơn sản
phẩm của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Khi trong tâm trí của người tiêu
dùng đã có hình ảnh sản phẩm của doanh nghiệp và họ luôn đặt niềm tin vào sản
phẩm đó thì thương hiệu sẽ trở thành yếu tố lôi kéo khách hàng, giúp sản phẩm có
sức cạnh tranh cao, khẳng định được vị thế của mình khi cạnh tranh trên thị trường
chứ không chỉ nhờ yếu tố giá cả hay chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Chính

giá trị vô hình của thương hiệu đã tạo ra những sự khác biệt của sản phẩm trong
lòng người tiêu dùng và đối với cả sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh.
1.2.3. Hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh hàng
dệt may xuất khẩu
1.2.3.1. Nhóm các nhân tố vĩ mô
• Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế
Bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP), thu nhập bình
quân trên đầu người, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách của Chính phủ về kinh
tế, các thị trường tài chính tiền tệ, chứng khoán, lao động, khoa học công nghệ, xu
23
hướng đầu tư, tiết kiệm, thuế khóa, tỷ giá hối đoái tác động tới hoạt động xuất
nhập khẩu hàng dệt may của một quốc gia.
Một doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may phải dựa vào các yếu tố kinh tế
xã hội, các chính sách kinh tế, trong đó cần chú ý tới chính sách ngoại thương, các
quy định về thuế làm cơ sở cho hoạt động của doanh nghiệp mình. Một biến động
về chính sách kinh tế cùa Nhà nước sẽ làm thay đổi mọi đường lối, chiến lược, mục
tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Về cơ bản, chính sách ngoại thương ảnh hưởng
nhiều nhất tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc, nhất
là các quy định về hạn ngạch, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu và các quy định
hành chính khác. Vấn đề lạm phát, tỷ giá hối đoái cũng cần được doanh nghiệp xuất
khẩu hàng dệt may quan tâm bởi lẽ có thể ảnh hưởng đến giá trị dự kiến của hợp
đồng. Đồng ngoại tệ mà nhà xuất khẩu sẽ nhận được trong tương lai giảm hay tăng
giá so với đồng bản tệ cũng là vấn đề mà doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng
dệt may phải chú ý.
• Các nhân tố thuộc môi trường chính trị, luật pháp
Hệ thống chính trị và luật pháp là cơ sở nền tảng cho các hoạt động sản
xuất - kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Chúng hoàn toàn có thể tạo ra những lợi
thế nhất định mà cũng có thể đem lại những hạn chế, thậm chí rủi ro cho chính
doanh nghiệp. Một thể chế chính trị ổn định và mối quan hệ ngoại giao thân thiện
giữa các quốc gia luôn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tạo tiền đề

cho các hoạt động đầu tư, mở rộng kinh doanh và xuất khẩu. Đây là quy luật khách
quan trong mối quan hệ giữa chính trị, ngoại giao và phát triển kinh tế.
Trong khi đó, nhân tố luật pháp bao gồm các bộ luật, các quy định và tiêu
chuẩn đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng như các chính sách khuyến
khích hay hạn chế xuất khẩu hàng dệt may. Những quy định pháp lý này tạo ra hành
lang pháp lý thuận lợi và minh bạch cho hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của một quốc gia khác. Một môi trường pháp lý đầy
đủ, đồng bộ vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của một quốc gia tiến
hành hoạt động xuất khẩu vừa điều chỉnh các hoạt động theo hướng quốc gia nhập
khẩu muốn đạt tới.
• Các nhân tố về văn hóa - xã hội
Các yếu tố đó là tình trạng việc làm, thất nghiệp, bình đẳng trong xã hội,
trình độ giáo dục, lối sống, phong tục tập quán, tâm lý xã hội, tâm lý tiêu dùng, tiết
24
kiệm, các độ tuổi trong xã hội của quốc gia nhập khẩu tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp quốc gia xuất khẩu, từ
đó hiệu quả kinh doanh cũng bị ảnh hưởng. Với một xã hội mà có trình độ văn hóa
cao sẽ thuận lợi trong việc xuất khẩu những hàng may mặc có chất lượng cao, kiểu
dáng mẫu mã đẹp, hiện đại. Một xã hội có tâm lý tiêu dùng hơn là tiết kiệm sẽ là
một thị trường lý tưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc.
1.2.3.2. Nhóm các nhân tố thị trường và ngành hàng dệt may
• Khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là một nhân tố có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với các doanh nghiệp. Họ có thể ảnh hưởng, tác động làm tăng hoặc
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp bằng cách đặt ra những yêu cầu chất lượng sản
phẩm cao hơn hoặc dịch vụ nhiều hơn với giá cả rẻ hơn. Trong khi đó, các doanh
nghiệp sản xuất đều mong muốn thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng, bởi
vì thỏa mãn tốt nhu cầu của người tiêu dùng đồng nghĩa với việc tỷ lệ thị phần mà
doanh nghiệp giành và duy trì được sẽ tăng lên.
Có thể khẳng định khách hàng là một bộ phận không thể tách rời trong quá

trình cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Sức ép từ phía khách hàng thể hiện qua sức ép
về giá cả, chất lượng, kênh phân phối, điều kiện thanh toán
• Đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh là áp lực thường xuyên và đe dọa trực tiếp đến hoạt
động của mỗi một doanh nghiệp. Khi mà cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt
động trên cùng một lĩnh vực, cùng một ngành càng tăng thì càng đe dọa đến khả
năng thu lợi nhuận, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong ngành. Vì chính
sự cạnh tranh này buộc các doanh nghiệp phải tăng cường chi phí đầu tư nhằm tạo
nên khác biệt hóa sản phẩm hoặc giảm giá bán để tiếp cận thị trường tốt hơn. Mỗi
đối thủ đều mong muốn và tìm đủ mọi cách để đáp ứng đòi hỏi đa dạng của thị
trường. Họ tận dụng triệt để những lợi thế của doanh nghiệp mình, khai thác những
điểm yếu của đối thủ, tận dụng thời cơ chớp nhoáng để giành lợi thế trên thị trường.
Ngoài ra cũng phải kể đến các đối thủ tiềm ẩn, đó là những doanh nghiệp
hiện tại chưa có mặt ở trong ngành nhưng có khả năng sẽ tham gia. Khi có càng
nhiều doanh nghiệp tham gia vào ngành, các doanh nghiệp càng khó khăn trong
việc duy trì thị phần cho mình. Sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh sẽ làm tăng
cường độ cạnh tranh, giảm lợi nhuận trong ngành.
25
• Nhà cung cấp
Nhà cung cấp phản ánh mối tương quan giữa nhà cung cấp với doanh
nghiệp ở khía cạnh chi phí sản xuất, tăng giá hoặc giảm giá thành sản phẩm hay
chất lượng hàng hóa khi tiến hành giao dịch trên thị trường. Nó trực tiếp ảnh hưởng
đến giá thành và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, do đó sẽ tác động đến
phản ứng của khách hàng.
Nhà cung cấp có thể chi phối đến doanh nghiệp là do sự thống trị hoặc khả
năng độc quyền của một số ít nhà cung cấp. Nhà cung cấp có thể liên kết với nhau
để cùng tác động lên nhà sản xuất, dẫn đến sự thay đổi chi phí của sản phẩm mà
người mua phải chấp nhận. Để giảm bớt các tác động của phía nhà cung cấp, doanh
nghiệp phải xây dựng và lựa chọn cho mình một hay nhiều nguồn cung ứng, nghiên
cứu tìm sản phẩm thay thế, có chính sách dự trữ nguyên vật liệu hợp lý.

1.2.3.3. Nhóm nhân tố nội tại các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may
• Nguồn nhân lực
Lao động luôn là yếu tố đầu tiên cũng như là yếu tố cuối cùng tạo nên sự
thành hay bại của một doanh nghiệp, phải có nguồn nhân lực mới tạo ra sản phẩm
một cách trực tiếp hay gián tiếp. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ là những
người quyết định các hoạt động sản xuất kinh doanh: sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào, sản xuất cho ai. Mỗi quyết định của họ có ý nghĩa hết sức quan trọng liên
quan đến sự tồn tại, phát triển hay diệt vong của doanh nghiệp. Trong khi đó, trình
độ tay nghề của lao động còn ảnh hưởng đến năng suất lao động của một người lao
động. Năng suất lao động thấp ngoài việc sẽ khiến cho giá thành cao mà còn có thể
không đồng đều về chất lượng. Những nhân tố này rõ ràng có ảnh hưởng trực tiếp
đến năng lực cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp.
• Năng lực sản xuất
Là một tiêu chí hết sức quan trọng trong việc phân tích môi trường doanh
nghiệp. Tùy thuộc vào mục tiêu và kế hoạch đề ra mà mỗi doanh nghiệp lựa chọn
phương thức sản xuất, từ đó sẽ ảnh hưởng đến giá cả, đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Phân tích sản xuất bao gồm phân tích năng lực sản xuất, chi phí và
thời hạn sản xuất, việc phân bổ nguồn lực, các biện pháp sản xuất, phân tích cung
ứng và lưu kho, xác định quy mô tối ưu, đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục.
• Năng lực tài chính doanh nghiệp

×