Chống đói nghèo là nhiệm vụ cấp bách ở các nước Á-Phi-Mỹ Latinh
(TTXVN) – "Đấu tranh chống đói nghèo là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách của các
nước Á-Phi-Mỹ Latinh", nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã
khẳng định như vậy tại Hội thảo quốc tế “Giảm nghèo ở châu Á, Phi, Mỹ
Latinh-Kinh nghiệm và triển vọng" do Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt
Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 31/8.
Theo bà Nguyễn Thị Bình, người hiện đang giữ chức Chủ tịch Quỹ Hòa bình
và Phát triển Việt Nam kiêm Phó Chủ tịch Tổ chức Đoàn kết Nhân dân Á-Phi,
mặc dù trong thời gian qua, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở các nước Á, Phi,
Mỹ Latinh đã thu được những kết quả có ý nghĩa nhưng vẫn còn rất hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu khách quan và mong ước của nhân dân các nước
trong khu vực.
Bà Bình cho rằng một nguyên nhân quan trọng là do các nước Á, Phi, Mỹ
Latinh đang phải “đối mặt với những thách thức và tác động tiêu cực không
nhỏ của toàn cầu hóa và chủ nghĩa tự do mới, với sự áp đặt và can thiệp của các
thể chế tài chính, tiền tệ và thương mại thế giới, các tập đoàn xuyên quốc gia".
Ở Việt Nam, trong giai đoạn 1993-2004, tỷ lệ nghèo đã giảm hơn một nửa. Tuy
vậy, tỷ lệ nghèo của Việt Nam hiện vẫn còn ở mức cao (25% dân số) và tốc độ
giảm nghèo đang chậm lại. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ nghèo ở nông thôn, nhất
là các vùng dân tộc thiểu số, vùng núi, cao gấp 2 đến 3 lần tỷ lệ nghèo ở thành
thị và khoảng cách giàu nghèo trong cộng đồng không những không được thu
hẹp mà lại rộng ra.
Tiến sỹ Fakhry Labib, Trưởng đoàn đại biểu của Tổ chức Đoàn kết Nhân dân
các nước Á-Phi (AAPSO), khẳng định: “Nghèo đói là một thách thức lớn nhất
đối với loài người. Thực tế cho thấy, 20% dân số thế giới đang phải sống trong
cảnh nghèo đói. Khoảng 75% người nghèo trên thế giới sống với mức thu nhập
dưới 1 USD/ngày tại các vùng nông thôn. Bên cạnh đó, 50% dân số thế giới
sống với mức thu nhập dưới 2 USD/ngày, 80% trong số họ rơi vào tình trạng
nghèo đói và suy dinh dưỡng".
Theo Tiến sỹ Labib, tình hình còn tồi tệ hơn khi khoảng cách giàu nghèo càng
ngày càng mở rộng. Điều này được chứng minh qua thực tế rằng 20% dân số
thế giới sở hữu 83% của cải thế giới, trong khi người nghèo nhất chỉ sở hữu
4,1% của cải thế giới (30 năm trước đây tỷ lệ đó là 2,4%). Hiện tượng nghèo
đói đang nảy sinh ngay tại Hoa Kỳ nơi mà hàng triệu người đang bị thất nghiệp
và chỉ tiêu xã hội bị cắt giảm rất lớn.
Trong khi đó, ông Sharma Oli, Phó Chủ tịch Nepal AAPSO, khẳng định thách
thức lớn nhất trong quá trình phát triển tại các nước đang phát triển là mức thu
nhập thấp, thất học, bệnh tật, bất bình đẳng, kinh tế trì trệ, bất ổn chính trị, mâu
thuẫn xã hội, thương mại bất bình đẳng, nợ nần, gia tăng dân số nhanh, tội
phạm và khủng bố.
Cũng tại Hội thảo, các đại biểu đã dành nhiều thời gian để chia sẻ các kinh
nghiệm trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, phân tích thực trạng nhằm tìm ra
nguyên nhân đói nghèo ở các nước châu Á, Phi và Mỹ Latinh và đề ra các biện
pháp nhằm tăng cường hợp tác giữa các nước trong cuộc chiến chống đói
nghèo./.
Mở rộng quan hệ đa phương nhằm quảng bá hình ảnh, củng cố vị thế
quốc tế của Việt Nam, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
Thế giới.
(Vietpeace) Trong những năm đầu thế kỷ 21, do tác
động của tình hình thế giới với những yếu tố như xu
thế dân chủ hóa đang diễn ra tại nhiều nước trên thế
giới, quá trình toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin, sự
phát triển của xã hội dân sự… phong trào của nhân
dân thế giới đã có những bước phát triển mới. Các tổ
chức dân chủ và tiến bộ quốc tế trước đây sau một
thời gian khủng hoảng đã củng cố lại lực lượng và
hoạt động tích cực hơn. Đặc biệt, có nhiều hình thức
tổ chức, tập hợp và hoạt động mới xuất hiện và phát
triển nhanh chóng, ví dụ như các diễn đàn, mạng
lưới, cơ chế của các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức nhân dân được hình thành ở
cấp quốc gia, khu vực, liên khu vực và quốc tế. Có những diễn đàn nhân dân có
quy mô tham gia lên tới hàng trăm ngàn người hay có cuộc tập hợp trên quy
mô toàn cầu nhằm chống mặt trái của toàn cầu hóa đã huy động được hơn 100
triệu người tham gia. Bên cạnh đó, song song với nhiều thiết chế khu vực, diễn
đàn liên khu vực hay quốc tế đã hình thành các diễn đàn của xã hội dân sự (như
ASEAN, ASEM, LHQ…). Xu thế này làm cho tiếng nói của phong trào nhân
dân thế giới ngày càng có ảnh hưởng đối với các vấn đề quốc tế và lợi ích của
các quốc gia.
Trong tình hình đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ III (2003–2008), Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị Việt Nam đã chủ trương tăng cường công tác đa phương nhằm
chủ động tham gia các cơ chế, diễn đàn nhân dân khu vực và thế giới, bảo vệ
và thúc đẩy lợi ích của Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới.
Để triển khai chủ trương đó, bên cạnh các tổ chức đa phương truyền thống như
Ủy ban Hòa bình Việt Nam, Ủy ban Việt Nam đoàn kết Á – Phi – Mỹ Latinh,
Hội Quốc tế ngữ Việt Nam, Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam đã được
thành lập (3/2003) để tạo điều kiện mở rộng và đa dạng hóa quan hệ đa
phương. Liên hiệp cũng đã thành lập Ban Công tác đa phương làm thường trực
cho các tổ chức hợp tác đa phương của ta.
Nhìn lại kết quả hợp tác đa phương của Liên hiệp và các tổ chức thành viên
Liên hiệp trong nhiệm kỳ qua ta có thể nhận thấy có bước đột phá mạnh mẽ
Về quan hệ đối tác, ta đã khôi phục, củng cố quan hệ và đóng góp tích cực cho
hoạt động của các tổ chức truyền thống như Hội đồng Hòa bình Thế giới
(WPC), Tổ chức Đoàn kết Nhân dân Á – Phi (AAPSO)… Bên cạnh đó, ta đã
mở rộng quan hệ với các tổ chức cánh tả, tiến bộ của các nước trên thế giới,
chủ động tham gia các diễn đàn, mạng lưới quan trọng như Diễn đàn dân sự
ASEAN, Diễn đàn Nhân dân Á – Âu, Diễn đàn Xã hội Thế giới… mạng lưới
hòa bình, an ninh, mạng lưới về vấn đề thương mại tự do, mạng lưới Đoàn kết
Nhân dân Nam – Nam. Hiện nay, Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam đang
đăng ký quy chế tư vấn phi chính phủ tại Hội đồng Kinh tế xã hội của Liên hợp
quốc (UN ECOSOC).
Có thể nói, trong 5 năm qua, mạng lưới quan hệ đối tác của chúng ta đã được
đa phương hóa, đa dạng hóa một cách đáng kể. Các tổ chức của chúng ta có uy
tín cao trong các mạng lưới và phong trào, trở thành đối tác tin cậy của nhiều tổ
chức quốc tế, nhiều quan hệ đối tác mới được mở ra với danh nghĩa Quỹ Hòa
bình và Phát triển Việt Nam. Trong 5 năm, qua kênh hợp tác đa phương, chúng
ta thiết lập quan hệ với hơn 100 đối tác mới, đưa tổng số đối tác của các tổ
chức đa phương thành viên của Liên hiệp (Ủy ban Hòa bình Việt Nam, Ủy ban
Việt Nam Đoàn kết và Hợp tác Á Phi Mỹ la tinh, Hội Quốc tế ngữ Việt Nam,
Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam) lên tới hơn 200 tổ chức ở cấp quốc gia,
khu vực và quốc tế.
Nhờ có quan hệ đối tác rộng rãi và uy tín trong các mạng lưới, phong trào nên
chúng ta đã triển khai được rất nhiều hoạt động nhờ sự ủng hộ của các đối tác.
Ngân sách nhà nước chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số kinh phí sử dụng
cho hoạt động (ví dụ ngân sách nhà nước chi cho hoạt động của Quỹ Hòa bình
và Phát triển Việt Nam chỉ chiếm khoảng 16% tổng chi phí cho hoạt động của
Quỹ trong năm 2007).
Về nội dung hoạt động hợp tác đa phương, có thể đánh giá là phong phú, hiệu
quả và có chiều sâu.
Tại các diễn đàn, hoạt động đa phương, chúng ta đã chủ động giới thiệu về sự
nghiệp đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta. Thông qua các hội thảo về Việt Nam được tổ
chức tại Diễn đàn Xã hội Thế giới, Diễn đàn Nhân dân Á – Âu, Hội nghị Mạng
lưới Đoàn kết Nam – Nam cũng như trong các đợt hoạt động tại Ấn Độ,
Philippin, CHLB Đức, Venezuela… chúng ta đã trình bày, giải đáp cho đại
diện hàng ngàn tổ chức nhân dân các nước về chính sách đổi mới và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, từ đó, tạo được sự đồng tình, ủng hộ,
quan tâm của bạn bè đối với Việt Nam.
Bên cạnh đó, một trong những hoạt động trọng tâm của chúng ta trong các diễn
đàn là vận động nhân dân thế giới ủng hộ nạn nhân chất độc da cam của Việt
Nam thông qua tổ chức thuyết trình về hậu quả của chất độc da cam, tiếp xúc,
vận động nhân dân các nước. Ta đã đưa được nội dung ủng hộ nạn nhân chất
độc da cam của Việt Nam vào nghị quyết, tuyên bố của nhiều hội nghị quốc tế
quan trọng; tập hợp và hình thành những mạng lưới bạn bè quốc tế tích cực
tham gia vận động, ủng hộ cuộc đấu tranh vì công lý của các nạn nhân và có
nhiều hoạt động giúp đỡ, hỗ trợ nạn nhân.
Ngoài ra, một trong những nét đáng chú ý trong hoạt động đa phương là tính
đấu tranh chính trị, tư tưởng và ý thức hệ diễn ra ngày càng gay gắt và phức
tạp. Trong thời gian qua, những lực lượng phản động, thù địch đã và đang tìm
cách khai thác, lợi dụng các diễn đàn xã hội dân sự để chống phá ta. Trong số
này có lực lượng người Việt phản động ở hải ngoại, có những tổ chức, cá nhân
người nước ngoài có thái độ thù địch đối với Việt Nam, thậm chí có không ít
người nước ngoài và các tổ chức đối tác, mặc dù có mục tiêu tiến bộ nhưng còn
bị chi phối bởi những quan điểm về dân chủ, nhân quyền theo theo kiểu
phương Tây hoặc không có thông tin đúng về Việt Nam nên có mặc cảm, định
kiến với ta.
Trong những trường hợp này, chúng ta đã đối thoại, trao đổi, vận động, thậm
chí cả đấu tranh trực tiếp, do đó đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, làm
cho bạn bè hiểu đúng, hiểu rõ hơn về Việt Nam, cô lập các lực lượng thù địch
tại các diễn đàn quốc tế. Điển hình là tại Diễn đàn Nhân dân Á – Âu lần thứ 6
tại Phần Lan năm 2006, ta đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu hoạt động chống
phá của các nhóm Việt kiều phản động cũng như âm mưu can thiệp gây tổn hại
cho Việt Nam của một số tổ chức Tây Âu. Trước đó, việc đăng cai Diễn đàn
Nhân dân ASEM 5 (2004) tại Hà Nội là một thách thức lớn trong bối cảnh một
số tổ chức Tây Âu tìm cách can thiệp, áp đặt và tính chất phức tạp vốn có của
lực lượng tham gia Diễn đàn. Tuy nhiên, ta đã xử lý có hiệu quả, đảm bảo cho
Diễn đàn thành công, đóng góp tích cực cho sự phát triển của Diễn đàn Nhân
dân Á – Âu, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ của các đại biểu quốc tế tham
dự. Từ sau Diễn đàn Nhân dân ASEM 5 tại Hà Nội, Việt Nam đã khẳng định vị
trí của mình trong Ban Tổ chức Quốc tế của Diễn đàn.
Bên cạnh việc bảo vệ các lợi ích của mình, tại các diễn đàn và hoạt động đa
phương, ta cũng luôn tích cực tham gia góp phần vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì những mục tiêu tiến bộ.
Cụ thể là chúng ta đã đóng vai trò tích cực trong việc hình thành Mạng lưới
Đoàn kết Nhân dân Nam – Nam; tổ chức các hoạt động nghiên cứu về giải
pháp của nhân dân trước những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội đang được đặt
ra; đăng cai tổ chức thành công nhiều hoạt động của các mạng lưới và tổ chức
quốc tế như hội nghị bàn tròn về “Dân chủ hóa và quyền lực của nhân dân”, hội
nghị bàn tròn về “Hiệp định thương mại tự do EU-ASEAN”, Hội nghị Ban
Thường vụ Hội đồng Hòa bình Thế giới, Đại hội Thanh niên Quốc tế ngữ thế
giới lần thứ 63, Hội nghị Đoàn kết Nhân dân Nam – Nam…
Tại các diễn đàn quốc tế, chúng ta đã chia sẻ, trao đổi thông tin, kinh nghiệm
về những vấn đề quốc tế, đóng góp vào hoạt động chung của lực lượng nhân
dân tiến bộ, bày tỏ tình đoàn kết với cuộc đấu tranh của nhân dân các nước.
Có một lợi thế là hình thức tổ chức và điều kiện hoạt động của các tổ chức đa
phương cho phép chúng ta tiếp cận nhiều phong trào, tổ chức và những học giả,
nhà hoạt động chính trị, xã hội tiến bộ của các nước trên thế giới. Điều này tạo
điều kiện cho chúng ta hình thành quan hệ hợp tác với mạng lưới các học giả,
các nhà hoạt động chính trị xã hội tiến bộ, có nguồn tri thức mang tính cách
mạng, giúp cho ta có những nhận định, phân tích khoa học và bổ ích về những
vấn đề đặt ra đối với nhân loại nói chung và đối với đất nước Việt Nam nói
riêng. Trong thời gian qua, chúng ta đã chú trọng phát huy kênh này để tìm
hiểu kinh nghiệm, thông tin, tổ chức nghiên cứu về các vấn đề đặt ra để phục
vụ cho quá trình phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa. Quỹ Hòa
bình và Phát triển Việt Nam đã có nhiều hoạt động nghiên cứu về giáo dục,
toàn cầu hóa và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), về vấn đề tam nông,
hiệp định thương mại tự do, dân chủ hóa và xã hội dân sự, về khủng hoảng tài
chính toàn cầu… qua đó, cung cấp các thông tin có giá trị cho lãnh đạo cũng
như các cơ quan chức năng về các vấn đề quốc tế liên quan.
Thực tiễn hoạt động trong thời gian qua khẳng định chủ trương đẩy mạnh hoạt
động đa phương của Liên hiệp và các biện pháp thực hiện là hết sức đúng đắn.
Chúng ta đã triển khai các hoạt động hợp tác đa phương với hiệu quả cao, tạo
hiệu quả chính trị to lớn.
Trong tình hình thế giới hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng kinh
tế toàn cầu đang có tác động nhiều chiều đến đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội của các nước trên thế giới, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới sẽ có
những bước phát triển mới với những mối quan tâm liên quan đến các vấn đề
như hòa bình và an ninh, quyền kinh tế và xã hội, công bằng sinh thái, biến đổi
khí hậu, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, tác động của các hiệp định
thương mại tự do, nhân quyền, dân chủ hóa và quyền lực của nhân dân…
Trong bối cảnh đó, trong lĩnh vực hợp tác đa phương, chúng tôi xin đề xuất
lãnh đạo Liên hiệp như sau:
1. Trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động, rút ra bài học kinh nghiệm trong thời
gian qua và nhận thức được yêu cầu của tình hình mới, cần đề ra các phương
hướng và giải pháp nhằm củng cố tổ chức, tăng cường năng lực, tiếp tục đổi
mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động hợp tác đa phương.
2.Quan tâm và có biện pháp khai thác tri thức của các học giả tiến bộ mà ta có
điều kiện tiếp cận thông qua các diễn đàn đa phương; đầu tư cho công tác lý
luận, nghiên cứu, dự báo, phân tích tình hình quốc tế và các tác động, ảnh
hưởng đối với Việt Nam về các vấn đề chính trị, đối ngoại, kinh tế, xã hội của
đất nước.
Tham luận của Ban Đa phương -
Liên hiệp CTCHNViệt Nam tại Đại hội IV
Hiện đại hóa, toàn cầu hóa và vấn đề
chảy máu chất xám
Trần Hữu Dũng 01/12/2009 02:48:08 PM
Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, hiện tượng “chảy máu chất xám” (từ nước này
sang nước khác) là một hiện tượng được nhiều người, trong chính quyền cũng
như ngoài xã hội, đặc biệt quan tâm. Ngay các quốc gia tiền tiến Tây Âu và
Canada thỉnh thoảng cũng bộc lộ nhiều lo lắng về chất xám của họ di cư sang
Mỹ. Và chính ở Mỹ, trong vài năm gần đây, do hậu quả những luật lệ cấm đoán
một số đề tài nghiên cứu sinh y học tại nước này, cũng bị thất thoát nhiều khoa
học gia sang Anh. Tuy nhiên, cho đến nay, sự chảy máu chất xám trầm trọng
nhất vẫn là từ các quốc gia nghèo, kém phát triển Á, Phi, Mỹ La Tinh (và mới
đây là Đông Âu) sang các quốc gia giàu, đã phát triển, ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Để có một chính sách đúng đắn đối với hiện tượng này, và cụ thể hơn là để cá
nhân chất xám có những quyết định sáng suốt cho tương lai bản thân và gia
đình, những lý do thường viện dẫn để giải thích cái “không tốt”, hoặc “tốt”, của
sự chảy máu chất xám, cũng như những phản luận, cần được khám định cặn kẽ
và khách quan.
1. Tại sao nên quan ngại?
Có hai ý kiến thường được nêu ra để giải thích cho sự “không nên có” của chảy
máu chất xám. Ý kiến thứ nhất thì cho rằng chất xám chảy ra nước ngoài là một
mất mát cho những nước nghèo, đã tốn nhiều nguồn lực quốc gia trong hàng
chục năm đào tạo chất xám ấy, để rồi lại bị các nước giàu chuổn mất. Ý kiến
thứ hai thì cho rằng sự đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp của người trí thức
chuyên viên tại quê huơng họ là rất cao và cần thiết hơn ở các nước đã phát
triển, sự vắng mặt của họ là một thiệt thòi lớn cho những nước vốn dĩ đã lạc
hậu, nghèo nàn.
Song có nhiều nghi vấn cần được đặt cho những ý kiến này. Thứ nhất, phải so
sánh đóng góp (cho quê hương họ) của cá nhân liên hệ trong toàn cuộc đời
đương sự, không chỉ trong một số năm nhất định nào đó sau khi xuất ngoại và
thành tài. Trong khoảng đời dài đó là những số lượng kiều hối, và những đóng
góp sau khi họ có thể trở về nước sau nhiều năm làm việc ở nước ngoài v v
Sự phát triển kinh tế thần kỳ của các nước Đông Á (trước hết là Hàn Quốc, Đài
Loan, hiện nay là Ấn Độ và hầu hết các nước trong vùng) phần đáng kể là do
những chuyên viên các nước ấy mang tài năng, vốn liếng về đóng góp, sau
nhiều năm sinh cơ lập nghiệp tại các quốc gia tiền tiến, nhất là Mỹ.
Và trên hết phải nhận định rằng năng suất làm việc của họ ở môi trường quê
huơng có thể rất khác môi trường nước ngoài, tùy vào ngành nghề và trình độ
phát triển của xứ sở. Nói cách khác, năng suất có thể là rất cao của họ trong
việc làm tại các quốc gia tiền tiến không thể dễ dàng “bứng rễ” hồi hương, dù
họ có trở về. Sự đóng góp của một người Việt ở nước ngoài và trong nước, tuy
hình thức có khác nhau, không nhất thiết phải là một đàng thì nhiều, một đàng
thì ít.
Thứ hai, chất lượng của chất xám không phải hoàn toàn là sở hữu của cộng
đồng, là kết quả đầu tư của nơi họ sinh trưởng. Một phần đáng kể là do những
nổ lực cá nhân của chính họ, không chỉ là do tiền của đóng góp cho sự giáo dục
của họ thuở thiếu thời. “Có công nuôi dưỡng” là một cụm từ cần phải xác định
cho rõ.
2. Tại sao không nên quan ngại?
Đối với nhiều người khác thì cái gọi là chảy máu chất xám không là một vấn đề
cần quan ngại, chẳng phải chỉ vì lý luận của những người cho nó “xấu” (như
nói trên) là sai, nhưng còn vì một số lý do tích cực khác.
Một là, trên bình diện kinh tế khách quan, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá
hiện nay, thì những luồng chảy chát xám chỉ là một cục diện của những giao
lưu kinh tế thế giới: các “đầu vào” (inputs) luôn có khuynh hướng “chảy” từ
những công nghiệp, những địa phương có thu hoạch thấp đến những công
nghiệp, những địa phương có thu hoạch cao. Theo kinh tế học tân cổ điển thuần
tuý, những dòng chảy này càng thông thoáng thì tài nguyên nhân loại càng
được phân bố hợp lý, đưa vào những sử dụng có hiệu năng tương đối cao nhất.
Nói cách khác, sự di cư chất xám chỉ là hậu quả của quy luật kinh tế, không có
gì đáng quan ngại, cần ngăn trở.
Hai là, nhìn từ quan điểm người sở hữu chất xám thì sự di cư từ một quốc gia
kém phát triển, thậm chí có thể đang trong bom đạn chiến tranh, đến một quốc
gia tiền tiến, an bình, có mức sống cao, rõ ràng là tăng phúc lợi cho bản thân và
gia đình họ, và qua kiều hối, đóng góp cho quốc gia gốc. Sự di cư đó là một
phần của tự do, dân chủ, quyền căn bản của con người
Song, cũng chính lý thuyết này, nếu đi sâu hơn, sẽ nêu ra hai dè dặt. Thứ nhất,
khi toàn bộ cơ cấu kinh tế còn nhiều “méo mó” (distortions) − chẳng hạn khi
còn những công nghiệp độc quyền − thì sự hoàn thiện hơn ở một mảnh nhỏ thị
trường (ví dụ như lao động) không phải bao giờ cũng tăng mức độ hoàn mỹ của
toàn bộ kinh tế. Đó là định lý “cái tốt bật nhì" (second-best theorem) nổi tiếng
trong kinh tế học hiện đại.
Thứ hai, lao động nhiều chất xám là một thứ lao động đặc biệt, không giống
những lao động tầm tầm khác, bởi vì nó gây những lợi ích ngoại vi, không
phản ảnh hết trong thu nhập của cá thể lao động chất xám ấy. Thế nên sự di
chuyển của nó theo những tín hiệu lợi hại nhìn từ cá thể sẽ không chắc ăn khớp
với những lợi hại cộng đồng. Nói lý thuyết hơn thì hiện tượng này thuộc phạm
trù lý thuyết về ngoại ứng (externalities). Theo lý thuyết này (mà người khai
sáng là Ronald Coase, Nobel 1991) thì sự sản xuất hoặc tiêu dùng một sản
phẩm hay dịch vụ có thể ảnh hưởng đến những người chung quanh (tốt hoặc
xấu) ngoài tác dụng (lợi hoặc hại) cho chính người mua hoặc bán những sản
phẩm hay dịch vụ đó. Nói cách khác, có sự chênh lệch giữa lợi ích (hoặc phí
tổn) cá thể và lợi ích (hoặc phí tổn) cộng đồng. Và đối với những loại sản phẩm
và dịch vụ có ngoại ứng như thế thì cơ cấu thị truờng thuần tuý sẽ không đem
đến sự phân bố tối ưu.
Thứ ba, nhìn từ quan điểm cá nhân, mỗi người đều cư xử hợp lý khi phản ứng
theo những tín hiệu thị trường: dời đến nơi nào, làm công việc gì, cũng là để tối
đa hóa thu nhập vật chất và tinh thần của người ấy. Tuy nhiên, để giải bài toán
“tối ưu hoá” đó cho thật đúng, người quyết định cần ý thức rằng hành động của
mình có thể (dù rất gián tiếp và vô tình) tăng thêm những chênh lệch bất công
giữa các quốc gia, cũng như giữa các tầng lớp xã hội trong một quốc gia, nhất
là sự phân hoá giàu nghèo tại quốc gia gốc của họ.
Để giải thích điều này, nên thử hỏi tại sao có sự chênh lệch quá lớn về lương
bổng giữa người làm việc cho các công ty nước ngoài và công ty trong nuớc
(đùng nói chi đến cán bộ, công chức). Theo lý thuyết kinh tế tân cổ điển, lương
lao động (nói rộng hơn là tiền bù trả cho mọi loại đầu vào) là tuỳ thuộc vào hai
yếu tố chính: (1) năng xuất biên tế lao động (marginal labor productivity) và
(2) giá trị thu nhập biên tế (marginal revenue). Yếu tố thứ nhất giải thích một
phần sự chênh lệch lương bổng là phản ảnh khả năng cao của những người làm
việc cho các công ty nước ngoài: ngoại ngữ họ thành thạo hơn, khả năng vi tính
của họ tốt hơn, phong cách giao tiếp của họ năng động hơn, v v Song yếu tố
thứ hai nhắc ta nhớ rằng một phần sự chênh lệch lương bổng là hậu quả của thế
lực thị trường (mà có thể xem như một hình thức “bốc lột”) của các công ty
ngoại quốc. Nói cách khác, mọi mặt bằng nhau (ceteris paribus) thì công ty độc
quyền sẽ trả lương cao hơn công ty cạnh tranh, vì nhân viên trong công ty ấy
chia sẻ phần nào lợi nhuận độc quyền đó. Như vậy, khi nhận lương cao ở các
công ty đa quốc gia ngoại quốc, người sở hữu chất xám vô tình đóng góp phần
nào vào sự bóc lột bất công trong chính xã hội của họ.
3. Vài lời cuối
Xin kết luận bằng một tóm tắt và vài ý kiến riêng.
Thứ nhất, những hậu quả không tốt của chảy máu chất xám một phần là do
những lỗ hổng, những bất toàn, thất bại thị trường (và do đó là cơ cấu kinh tế)
trong nước cũng như toàn cầu. Những lỗ hổng này cần đựơc nhà nước sửa chữa
(trong chừng mực có thể) tự cội rễ, một cách toàn bộ, không thể chỉ băng vá
qua loa một hậu quả (tương đối là nhỏ) của nó là sự thất thoát chất xám.
Thứ hai, bản thân người có chất xám phải ý thức được khả năng đóng góp thật
sự của mình (và những thu nhập tinh thần cũng như vật chất do sự đóng góp
đó) trong những quyết định nghề nghiệp và cuộc sống của họ
Quyết định tối hậu phải do người sở hữu chất xám, với ý thức đầy đủ và sâu
rộng hậu quả sự chọn lựa của mình. Đối với nhiều thế hệ trước đây (khi cơ hội
tái xuất ngoại là rất khó) thì đây là một quyết định bản lề cho cả đời: giữa quê
huơng và thế giới, giữa cá nhân và cộng đồng, cho suốt cuộc đời của người lựa
chọn. Ngày nay, trong hoà bình độc lập, tình trạng đã ít bức bách hơn, song vai
trò của người công dân trí thức trong xã hội chậm tiến, lạc hậu thì vẫn còn là
quan trọng hơn những đồng nghiệp, đồng song của họ trong một quốc gia đã
phát triển. Nghĩ cho cùng, sự đóng góp vào đời sống cộng đồng là hệ trọng,
không phải vì đó là nghĩa vụ mang tính hi sinh, nhưng là một cơ hội để chính
bản thân người trí thức có những thu nhập tinh thần cao quý cho chính mình,
những thu nhập không thể có được trong xã hội nước người. Và tuy đóng góp
ấy không nhất thiết đòi hỏi sự hiện diện trên xứ sở, nó sẽ là khó hơn nếu sống
xa quê huơng.
Hầu như mọi người đều đồng ý rằng nước ta cần phải công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, và niềm ao ước chung là mỗi người Việt Nam, nhất là những người trẻ
ở hải ngoại, hoặc là du học hay sinh trưởng ở nước người, sẽ đóng góp được
phần nào vào sự nghiệp đó. Song, ao uớc suông như vậy là chưa đủ: Vai trò đó,
muốn thực tế, phải diễn ra trong cuộc sống và con đường tăng tiến nghề nghiệp
của từng người, trong bối cảnh cơ hội mà Việt Nam và thế giới tạo ra cho họ.
Một sự dung hoà, đồng bộ, tương thích là cần thiết
Một cái nhìn như phác hoạ trên đây, theo người viết bài này, sẽ là hợp tình hợp
lý nhất: nó không phủ nhận những khía cạnh không tốt của sự chảy máu chất
xám, nhưng đồng thời nó cũng tôn trọng tự do cá nhân căn bản của mỗi người.
Điều cần nhất là phải hoàn chỉnh những cơ chế kinh tế xã hội trong nước cũng
như hợp tác với cộng đồng thế giới để sắp xếp lại tương quan kinh tế toàn cầu.
Đồng thời, mỗi cá nhân may mắn sở hữu chất xám phải tự trách nhiệm xác định
toàn thể khả năng đóng góp tối đa của mình - và đừng quên những đóng góp đó
sẽ có đền bù, dù là tinh thần - trong cộng đồng nhân loại, rồi tự chọn con đường
mình đi trong ý thức đó.
Dayton
15 tháng 12, 2001
Nguồn: Viet-Studies
Ngô Đức Thịnh- Văn hóa
trong sự phát triển xã hội
THỨ NĂM, 16 THÁNG 4 2009 12:58 VIETTEMS
GS. TS. Ngô Đức Thịnh
1. Phát triển và xã hội phát triển
Nếu như khái niệm "phát triển" là một thuật ngữ được hình thành từ sau thế
chiến thứ hai, chứa đựng nội dung sự thay đổi xã hội và kinh tế, thì các chính
sách thực hành sự phát triển lại có lịch sử lâu dài hơn. Ngay từ thời thịnh hành
của chủ nghĩa thực dân, sứ mạng "phát triển", "khai hoá văn minh” của các đế
quốc đối với thuộc địa của họ ở châu Phi, châu Á, Mỹ La - Tinh cũng đã được
rao giảng. Từ sau thế chiến thứ hai, khái niệm phát triển được sự ủng hộ và đề
cao ở các nước Âu-Mỹ, đặc biệt là ở Mỹ, thông qua các học thuyết Truman, kế
hoạch Marshall đối với Châu Âu, cùng với nó là các tổ chức quốc tế như Liên
hợp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới tham gia tích cực vào các
chương trình phát triển này.
Vào già nửa đầu thế kỷ XX, nhất là sau thế chiến thứ hai, trong khung cảnh xã
hội công nghiệp hoá theo mô hình phát triển của Mỹ, người ta thường đồng
nhất khái niệm xã hội phát triển với phát triển về kinh tế hay cụ thể hơn là tăng
trưởng kinh tế. Lúc này, cuộc thi đua kinh tế thắng thua giữa các nước thuộc hệ
thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa cũng được quy về chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế theo các chỉ tiêu nói trên. Đó là tư tưởng của thời kỳ lấy tăng
trưởng kinh tế làm đầu, mà lúc đó những con người theo đuổi tư tưởng phát
triển xã hội như vậy là "con người kinh tế" .
Tuy nhiên, tư tưởng phát triển xã hội lấy tăng trưởng kinh tế làm nền tảng ấy
cũng gặp phải những bất cập, nhất là đối với các nước thế giới thứ ba, các nước
đang phát triển. Cũng cần phải nói ngay rằng, quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở các nước Châu Âu tư bản chủ nghĩa vào thế kỷ XVII-XIX đều dựa
trên một nguồn lực rất quan trọng là bóc lột các nước thuộc địa ở Châu Á,
Châu Phi, Mỹ La – Tinh. Với các quan niệm và chính sách phát triển này,
nhiều khi cùng với sự giàu lên nhanh chóng của các nước công nghiệp phát
triển, lại là sự nghèo đói và "lạc hậu hoá", sự phụ thuộc của các nước được coi
là kém phát triển vào các nước công nghiệp phát triển. Do vậy, một nghịch lý
đã và đang đặt ra, đó là cùng với các chương trình phát triển, thì ở một cực này,
con người càng giàu lên, còn ở cực kia con người càng nghèo đi. Hố ngăn cách
giàu nghèo trên thế giới không những không thu hẹp mà càng khoét sâu thêm.
Sự thất bại và kém hiệu quả của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá dựa
trên tư tưởng "tăng trưởng kinh tế” thuần tuý theo mô hình Âu-Mỹ khiến người
ta phải nhìn nhận lại chủ kiến này. Một sức ép khác ở tầm vĩ mô, đó là càng
ngày người ta càng đặt lại vấn đề về con đường phát triển của nền văn minh
nhân loại. Cũng vào các thập kỷ nửa sau thế kỷ XX, sự khủng khoảng của nền
văn minh nhân loại ít nhất cũng được bộc lộ rõ nét trên hai phương diện: Thứ
nhất, đó là môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên của hành tinh đang bị
chính cách khai thác để phục vụ sự tăng trưởng kinh tế của chúng ta huỷ hoại
nghiêm trọng, những thảm họa môi trường, như bão, lũ lụt, hiện tượng nóng lên
toàn cầu đã và đang diễn ra. Thứ hai, đó là cách ứng xử mang nặng tính bạo
lực, cực quyền, chèn ép "cá lớn nuốt cá bé", chiến tranh, khủng bố diễn ra ở
hầu khắp mọi châu lục. Điều này càng ngày càng trở nên thường xuyên tác
động tới mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi con người trên hành tinh này, khiến
chúng ta cần xem xét lại con đường chúng ta đi rồi sẽ dẫn nền văn minh nhân
loại tới đâu ?
Tất nhiên, con người sẽ thức tỉnh trước những thách thức của hoàn cảnh. Từ
các thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX tới nay, người ta đã bắt đầu xem xét lại cách
xác định theo hướng “kinh tế luận” về phát triển xã hội, để từ đó đưa ra một
quan điểm phát triển hợp lý hơn. Theo Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc năm 2000, một xã hội phát triển cần phải được thể hiện trên ba phương
diện, đó là :
- Tăng trưởng kinh tế bền vững
- Chất lượng sống của con người được đảm bảo và nâng cao
- Bản sắc văn hoá dân tộc được bảo tồn, làm giàu và phát huy .
Đúng là một xã hội phát triển phải trên cơ sở tăng trưởng kinh tế, mà ngày nay
nó được thể hiện trên chỉ tiêu GDP tăng hợp lý hằng năm. Tuy nhiên, sự tăng
trưởng kinh tế phải là sự tăng trưởng bền vững trên cơ sở môi trường thiên
nhiên được bảo vệ và khai thác hợp lý, "nguồn tài nguyên trí tuệ" của con
người vừa được khai thác, phát huy, nhưng vẫn càng ngày càng được bồi bổ và
nâng cao, chứ không phải bị bóc lột cạn kiệt như thời kỳ công nghiệp hoá trước
đây.
Chất lượng sống của con người là một nhân tố quan trọng trong quan niệm xã
hội phát triển, nó thể hiện trên các phương diện, như chăm sóc y tế, sức khoẻ
của công dân, giáo dục, trình độ dân trí, an sinh xã hội, nhân quyền, sự tiện lợi
trong các dịch vụ đời sống, bình đẳng giới Thực tế cho thấy, không nhất thiết
một xã hội có tăng trưởng kinh tế cao thì chất lượng sống của con người được
đảm bảo và nâng cao tương ứng; mà thường ở các nước thế giới thứ ba, các
nước đang phát triển, cùng với tăng trưởng kinh tế thì nhiều phương diện về
chất lượng sống bị suy giảm. Điều này còn thấy ở cả các nước tư bản phát
triển, các vấn đề bạo lực, khủng bố, an ninh xã hội, kỳ thị chủng tộc và văn hoá
đang có nguy cơ gia tăng. Do vậy, trong sự đảm bảo chất lượng sống của con
người ở một xã hội cụ thể thì tăng trưởng kinh tế không phải là nhân tố quyết
định duy nhất, mà nó còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, cách tổ chức và quản lý
xã hội. Và hơn nữa, còn là cái nền tảng văn hoá, đạo đức của một xã hội.
Đặc biệt là, vấn đề bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá đã được đưa
vào nội dung của khái niệm phát triển xã hội. Theo chúng tôi, điều này bao
gồm hai ý nghĩa: Thứ nhất, bản sắc văn hoá được hiểu như là một động lực của
sự phát triển, đó là nhân tố nội lực của sự phát triển. Thứ hai, bản sắc được coi
như là mục đích của sự phát triển, có nghĩa là mỗi xã hội, mỗi cộng đồng dù
phát triển tới đâu vẫn đảm bảo sự nhất quán và thống nhất của cộng đồng đó,
phân biệt với cộng đồng khác.
Như vậy, khác với quan niệm cũ của "con người kinh tế", quan niệm phát triển
xã hội lần này đã đưa nhân tố văn hoá vào thành nội dung của sự phát triển, và
được thể hiện với các mức độ khác nhau ở cả ba tiêu chí: phát triển bền vững
(con người và môi trường), chất lượng sống và nhất là nhân tố bản sắc văn hoá
trong phát triển xã hội.
2. Hiện đại hoá, tính hiện đại và tính hiện đại đa dạng
Cũng giống như "phát triển", "hiện đại” hay "tính hiện đại” cũng gây nhiều
tranh cãi trong các nhà khoa học xã hội. Tính hiện đại được định nghĩa là
"Những ý tưởng, các thiết chế gắn liền với sự tiến bộ và phát triển theo lối
phương Tây". Lúc đầu, khái niệm “hiện đại” để chỉ một khát vọng để trở nên
"thời thượng", "cập nhật", khiến cho một số cộng đồng sẵn sàng từ bỏ các giá
trị truyền thống của họ, được quan niệm là đối lập với “hiện đại”, để được xếp,
hay tự mình xếp vào hạng dân "hiện đại”. Cũng có bộ phận cư dân bị lôi kéo
vào quá trình "hiện đại hoá” một cách không tự nguyện, thông qua các dự án
phát triển do các tổ chức quốc tế hay các công ty xuyên quốc gia tài trợ, bởi sức
hấp dẫn của chủ nghĩa tiêu thụ Về sau, quá trình hiện đại hoá gắn liền với quá
trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, với chủ nghĩa cá nhân, sự thành đạt và lối
suy nghĩ theo kiểu duy lý phương Tây tư bản chủ nghĩa. Và cũng giống như
quan niệm phát triển, "hiện đại hoá”, “tính hiện đại” (dùng cho số ít) hàm chứa
nội dung "vật chất", "kỹ thuật" và "kinh tế", gắn với thiết chế xã hội mang nặng
tính quan liêu. Kết quả của quá trình này là các nước hiện đại hoá, xã hội mang
nhiều tính hiện đại lại bị phụ thuộc nhiều vào các nước công nghiệp hiện đại
Âu-Mỹ.
Trong xu hướng hiện đại hoá theo mô hình "kinh tế", "kỹ thuật" phương Tây
như vậy, về quan niệm, người ta thường đối lập giữa “cái truyền thống” với
“cái hiện đại”, khiến cho quá trình phát triển của một xã hội là sự lựa chọn giữa
truyền thống hay hiện đại. Cũng không ít trường hợp như ở nước ta, trong quan
niệm xã hội có sự đồng nhất "hiện đại hoá” với "phương Tây hoá" .
Trong sự thay đổi mang tính bước ngoặt ấy của quan niệm “hiện đại hoá” và
"tính hiện đại”, chúng ta thấy dần hiện lên nền tảng văn hoá của hiện đại hoá,
của tính hiện đại. Từ chỗ coi quá trình "hiện đại hoá” mang nặng tính khách
thể, tức coi trọng khía cạnh phương tiện vật chất, kỹ thuật và kinh tế, mà
thường là xuất phát từ mô thức phương Tây tư bản chủ nghĩa, nhiều khi mang
tính áp đặt, “đồng hoá cưỡng bức”, người ta ngày càng nhận rõ vai trò của chủ
thể hiện đại hoá. Đó là vai trò của con người, của xã hội, mà con người và xã
hội ở đây không phải là con người và xã hội chung chung, mà là con người và
xã hội thuộc về các dân tộc, các quốc gia, các địa phương với các truyền thống,
các điểm mạnh và yếu khác nhau. Chính xuất phát từ góc độ chủ thể hay nói
cách khác, từ góc độ con người và văn hoá của hiện đại hoá mà mô hình và quá
trình hiện đại hoá cũng mang tính đa dạng, cũng như tính hiện đại của một xã
hội cũng mang tính đa dạng. Người ta đã dần chuyển khái niệm "hiện đại hoá”,
“tính hiện đại” từ dạng số ít sang số nhiều.
Từ việc phân tích các quá trình hiện đại hoá và tính hiện đại theo hướng đa
dạng hoá, các nhà nghiên cứu cũng càng ngày càng nhận ra vai trò của những
đặc thù dân tộc, quốc gia, đặc thù địa phương đối với sự phát triển nói chung và
quá trình hiện đại hoá nói riêng. Thế giới trong thế kỷ XX đã chứng kiến hai xu
hướng phát triển mang bản chất khác nhau, tuy nhiên có điểm chung là mang
tính nhất loạt và áp đặt. Đó là xu hướng phương Tây hoá tư bản chủ nghĩa đối
với thế giới, thể hiện qua chủ nghĩa trung tâm châu Âu và chủ nghĩa tự do Mỹ.
Một xu hướng khác của phong trào Cộng sản thế giới . Hai xu hướng này đều
coi nhẹ tính đặc thù xã hội và văn hoá trong phát triển và hiện đại hoá, do vậy
hiệu quả của quá trình này đều bị hạn chế, thậm chí thất bại.
3. Tiến tới quan niệm "văn hoá điều tiết sự phát triển”
Qua các lý thuyết về phát triển và hiện đại hoá, chúng ta nhận thức rõ hơn về
vai trò nhân tố văn hoá trong phát triển. Ở nước ta, Hội nghị lần thứ 5, khoá
VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về "Xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc" đã khẳng định vai
trò của văn hoá trong phát triển xã hội. Đó là : Văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu đồng thời là động lực của phát triển xã hội. Có thể
nói, đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt văn hoá vào vị trí quan
trọng đối với sự phát triển xã hội, điều này vừa phản ánh nhận thức của Việt
Nam và đồng thời cũng phản ánh nhận thức của thế giới về nhân tố văn hoá
trong phát triển, thể hiện qua thập kỷ văn hoá của UNESCO, mà mục tiêu của
nó là làm thức tỉnh ý thức nhân loại về nhân tố văn hoá và khuyến nghị các
nhà lãnh đạo các quốc gia đưa nhân tố văn hoá vào các chương trình phát
triển. Tất nhiên, để hiểu rõ hơn vai trò của văn hoá trong phát triển xã hội thì
về phương diện nhận thức lý luận, chúng ta cũng cần làm rõ thế nào là văn hoá,
bởi cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.
Rõ ràng, sự khẳng định vai trò của văn hoá trong phát triển như trên là khá
mạnh mẽ, tuy nhiên cũng không tránh khỏi xu hướng một chiều. Điều này cũng
dễ hiểu, bởi vì vào các thập kỷ trước, quan điểm của thế giới cũng như của
nước ta đều coi văn hoá như là hệ quả của phát triển, là cái "đuôi” của phát
triển, thậm chí trong xây dựng các chương trình phát triển, thì văn hoá thường
không có trong tư duy của những người hoạch định kế hoạch.
Như mọi người đều rõ, "văn hoá”, “truyền thống”, “bản sắc dân tộc, bản sắc
văn hoá” tác động đến xã hội không thuần tuý một chiều là thúc đẩy, tạo động
lực, mà có khi lại là nhân tố cản trở, níu kéo, kìm hãm. Thậm chí cùng một
nhân tố văn hoá, truyền thống hay bản sắc, nhưng nó có thể tác động đến xã hội
theo cả hai chiều hướng khác nhau. Thí dụ, truyền thống cố kết cộng đồng của
làng xã, trong điều kiện xã hội hiện đại, một mặt nó là chất kết dính, tạo nên
sức mạnh cộng đồng giúp cộng đồng vượt qua một số thử thách trong chống
ngoại xâm, khắc phục thiên tai; nhưng mặt khác, nó lại là cản trở trong phát
huy sức sáng tạo, bứt phá của cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường
Chúng tôi đặt nhân tố văn hoá vào vị trí hệ điều tiết sự phát triển xã hội là bao
hàm hai khía cạnh: trước nhất, mọi sự phát triển đều chịu sự tác động ở mức độ
khác nhau của nhân tố văn hoá; thứ hai, sự tác động đó theo chiều tích cực hay
tiêu cực, thậm chí đồng thời cả hai chiều hướng đó.
Nếu nói văn hoá là một hệ điều tiết phát triển, thì cái "màng lọc" của hệ điều
tiết đó chính là hệ giá trị của văn hoá. Điều đó hàm chứa ý nghĩa là, hệ giá trị
không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu nó không tồn tại trong một nền văn
hoá cụ thể hay ngược lại, hệ giá trị bao giờ cũng thuộc về một nền văn hoá nào
đó. Nói cách khác, văn hoá, bản sắc văn hoá bao giờ cũng thông qua hệ giá trị
để điều tiết sự biến đổi của xã hội.
Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá trong môi trường tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử -
xã hội cụ thể bao giờ cũng tạo nên một hệ giá trị cho mình. Do vậy, nó là kết
tinh của mỗi nền văn hoá, thường được biểu hiện, tiềm ẩn trong các biểu tượng
và tới lượt nó, hệ giá trị và biểu tượng ấy định hướng, chi phối hoạt động của
con người trong mỗi cộng đồng.
Khổng giáo ở Trung Quốc và các quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của văn
hoá Trung Hoa, trong đó có Việt Nam, khuyến khích con người tu dưỡng cá
nhân, nhất là tinh thần học tập và chính thông qua học tập là con đường tiến
thân của mỗi con người, dù người đó xuất thân từ tầng lớp xã hội nào. Đó
chính là một trong các giá trị của văn hoá Khổng giáo góp phần vào việc thúc
đẩy sự phát triển của các xã hội kể trên, trong quá khứ cũng như trong xã hội
hiện tại.
Trong văn hoá truyền thống Việt Nam, tinh thần cởi mở trong học hỏi, tiếp thu,
cải biến văn hoá tiếp thu từ bên ngoài là một giá trị đáng quý, khiến văn hoá,
dân tộc Việt Nam có sức sống trường tồn, vượt qua nhiều thử thách khắc nghiệt
của lịch sử. Nó cũng là điểm mạnh, khả dĩ có bù đắp điểm yếu khác, đó là thiếu
tư duy lý luận mang tính lập ngôn, lập thuyết. Chính giá trị này đã và đang là
sức mạnh giúp chúng ta học tập, đi tắt, đón đầu các trào lưu tiến bộ của nhân
loại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những
giá trị tích cực đó cũng phải khắc phục mặt hạn chế, đó là tính tuỳ tiện, nửa
vời, học không đến nơi đến chốn của một số người Việt Nam.
Vai trò điều tiết của văn hoá thông qua hệ giá trị là một tất yếu khách quan, sản
phẩm của quá trình lịch sử mỗi dân tộc; tuy nhiên, điều đó không phải là cái bất
biến, mà chúng ta, với tư cách là chủ thể xã hội và văn hoá, một khi đã nhận
thức được nó, hoàn toàn có thể tác động theo chiều hướng thúc đẩy, khai thác
các mặt, các giá trị tích cực, hạn chế các mặt, các giá trị mang tính tiêu cực,
nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Nguồn: tapchicongsan.org.vn
* GS, TS, Viện khoa học Xã hội và Nhân văn
Á, Phi, Mỹ la tinh cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm giảm nghèo
Cập nhật ngày: 05/09/2005
Á, Phi, Mỹ la tinh cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm giảm
nghèo Xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững là một
sự nghiệp có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, mang
tính cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách của nhân dân các nước
trên thế giới, đặc biệt là của nhân dân các nước Châu Á,
Phi, Mỹ la tinh. Phân tích thực trạng và chia sẻ những
kinh nghiệm của các chương trình giảm nghèo tại các
nước Á, Phi, Mỹ la tinh là chủ đề chính của hội thảo quốc tề về giảm nghèo tại những
khu vực này diễn ra sáng 31/8/20905 tại Hà Nội.
Tăng việc làm thì giảm được hộ nghèo Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Ang – gô – la Paulo Jorge cho
biết: trong số 6 tỷ người trên thế giới, có tới 2,8 tỷ người sống ở mức dưới 2 USD/người/ngày và
1,2 tỷ người sống dưới 1 USD/người/ngày. Tỷ lệ nghèo tại Châu Phi đang tiếp tục tăng. Tại phía
Nam Xahara, tỷ lệ nghèo chiếm tới 60%, có nghĩa là hơn 480 triệu người tại châu lục này nằm
trong tình trạng nghèo. Điển hình là Ang – go – la, số hộ nghèo ở mức trên 63%. Tại đây có tới
65% dân số không được tiếp cận nước sạch, 43% không được tiếp cận các dịch vụ vệ sinh cơ
bản, 54% không được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu. Mù chữ ở người lớn chiếm tới
44%… Chiến tranh là nguyên nhân cơ bản của tình trạng này ở Ang – go – la. Trong khuôn khổ
của Quan hệ đối tác mới vì phát triển Châu Phi (NEPAD), cuộc chiến chống nghèo được coi là
một chiến lược sống còn. Ở cấp độ khu vực, Cộng đồng phát triển miền nam Châu Phi (SADC)
xác định các chiến lược xoá nghèo là: phân phối lại các tài nguyên thiên nhiên, xây dựng và bảo
dưỡng hạ tầng, nâng cao nhận thức và cải thiện chăm sóc y tế, mở rộng thị trường khu vực và
xúc tiến đầu tư nhằm khuyến khích tăng trưởng kinh tế và tạo ra các cơ hội về việc làm cho
người nghèo. Kinh nghiệm của Châu Phi trong đấu tranh chống nghèo cho thấy, những trường
hợp tỷ lệ người nghèo giảm thì việc tăng việc làm và tăng cường sản xuất thường là những yếu
tố chính. Như vậy, đấu tranh chống đói nghèo sẽ bền vững với các chính sách phát triển chứ
không chỉ với chính sách xã hội. Tăng việc làm và thu nhập kết hợp với nhau sẽ cải thiện việc
tiếp cận y tế, giáo dục, nước sạch. Tuy nhiên, để đương đầu với đói kinh niên, với bệnh tật và
nghèo. Châu Phi cần sự hỗ trợ tài chính của các nước khác, đặc biệt là các nước công nghiệp hoá
và nước giàu. Nhìn chung, các nước Châu Phi không có đủ nguồn lực cần thiết để đối phó với các
tình huống khẩn cấp diện rộng mà các nước đang trải qua. Phát triển nông nghiệp vùng nông
thôn Châu Á, Thái Bình Dương có tới 768 triệu người nghèo. Châu Mỹ la tinh hiện có 227 triệu
người nghèo, trong tổng số 1,2 tỷ người nghèo trên toàn thế giới. Sự nghèo đói được thấy rõ ở
vùng nông thôn. Trong bài phát biểu của mình, ông K.P. Sharma Oli, Chủ tịch của Nepal AAPSO
đã chỉ ra được tình trạng nghèo tập trung chủ yếu là tại các khu vực nông thôn. Các quốc gia
nghèo hầu hết là các quốc gia thuần nông. Do vậy, để giảm nghèo, phát triển nông nghiệp tại
vùng nông thôn là điều kiện tiên quyết. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong phát triển nông
nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu lương thực của con người. Đối với phát triển nông nghiệp,
việc chuyển giao công nghệ đóng vai trò quan trọng do các quốc gia nghèo không có nguồn lực
để đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Những quốc gia này cần được hỗ trợ các
công nghệ hiện đại ảnh hưởng tốt tới môi trường với giá rẻ nhằm kiểm soát suy thoái môi
trường. Những quốc gia phát triển đóng vai trò quan trọng trong hoạt động này. Ông K.P.
Sharama Oli cho biết: Với kinh nghiệm phát triển 50 năm của các quốc gia đang phát triển tại
Châu Á, Châu Phi và Mỹ la tinh đã đem lại những kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên, vấn đề nghèo
đói chưa thể được giải quyết nhanh chóng. Hiện tại, các quốc gia kém phát triển phải đối mặt với
một số vấn đề nan giải như: nạn phá rừng, đất đai xói mòn, lũ lụt, hạn hán và suy thoái môi
trường. Giải quyết những vấn đề này đòi hỏi phải đáp ứng được những thay đổi về nguồn nguyên
liệu. Xoá đói giảm nghèo - mục tiêu quốc gia của Việt Nam Về những kinh nghiệm trong công tác
xoá đói giảm nghèo của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đàm Hữu
Đắc chia sẻ: Đảng và Chính phủ Việt Nam coi xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong qúa trình phát triển của đất nước. Do đó, từ năm 1998 đến nay, xoá đói giảm nghèo
đã trở thành một chương trình mục tiêu quốc gia. Và công tác này được chia ra thành 4 nhóm
giải pháp thực hiện. Trong đó, nhóm giải pháp tạo môi trường giúp người nghèo cải thiện
KHOẢNG CÁCH GIÀU NGHÈO CHƯA ĐƯỢC THU HẸP
(TPO) Ngày 31/8, tại Hà Nội, Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam đã tổ chức Hội thảo
quốc tế về “Xóa đói giảm nghèo ở châu Á, Phi và Mỹ
Latinh- Kinh nghiệm và triển vọng của các dân tộc”.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, bà Nguyễn Thị Bình,
nguyên Phó Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch tổ chức
đoàn kết nhân dân Á-Phi, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và
Phát triển Việt Nam cho biết xóa đói giảm nghèo
(XĐGN) đã được Liên Hợp Quốc đặt thành một trong
những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
XĐGN và phát triển bền vững là một sự nghiệp có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, mang
tính vừa cơ bản, lâu dài vừa cấp bách của nhân dân các nước trên thế giới, đặc biệt là của
nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Các đại biểu quốc tế tham dự Hội
thảo
Ở Việt Nam, những cố gắng của Chính phủ, các
tổ chức nhân dân và nhân dân trong công cuộc
XĐGN đã đem lại kết quả khả quan: Trong hơn
10 năm (1993-2004) tỷ lệ nghèo đã giảm hơn
một nửa.
Tuy vậy tỷ lệ nghèo vẫn còn cao với 25% số dân
và tốc độ giảm nghèo đang chậm lại. Điều đáng lo
ngại nữa là tỷ lệ nghèo ở nông thôn, nhất là các
vùng dân tộc thiểu số, vùng núi cao gấp 2-3 lần tỷ
lệ nghèo ở thành thị, khoảng cách giàu nghèo
trong nhân dân chưa được thu hẹp.
“Nhiệm vụ đấu tranh chống đói nghèo là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách của nhân dân các nước
Á, Phi, Mỹ Latinh”- Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh.
Khía cạnh nguy hiểm nhất của hiện tượng đói nghèo đó là khoảng cách giàu nghèo càng
ngày càng mở rộng. Điều này được chứng minh qua thực tế rằng 20% dân số thế giới sở
hữu 83% tài sản thế giới trong khi 20% người nghèo nhất sở hữu 4,1% tài sản thế gới. 30
năm trước đây tỉ lệ đó là 2,4%.
Trao đổi tại Hội nghị, Tiến sĩ Fakhry Lahib cho
biết cuộc chiến chống đói nghèo cần phải diễn
ra trong một không khí của tình đoàn kết và hữu
nghị anh em. Đây là một cuộc chiến chống lại
bất công, bất bình đẳng xã hội và sự mở rộng
về khoảng cách giàu nghèo, chống lại sự tăng
chi phí sinh hoạt và thất nghiệp. Cuộc chiến
chống nghèo đói là một cuộc chiến chống lại di
sản tích lũy từ nhiều năm và giờ đã đến lúc phải
thay đổi nó.
Sự cấm vận mà các siêu cường áp đặt lên các
dân tộc tạo ra những nhân tố dẫn tới tình trạng
nghèo đói. Các siêu cường đặt ra những trở ngại trên con đường phát triển kinh tế và xã hội
của các nước đang phát triển. Sự bùng nổ của thất nghiệp cũng là nhân tố quan trọng góp
phần làm xấu hơn tình trạng nghèo đói và làm suy giảm các điều kiện phát triển của rất nhiều
dân tộc trên thế giới.
Người thất nghiệp càng lún sâu vào đói nghèo, mất đi sự độc lập và giá trị của mình bởi họ
ngày càng bị phụ thuộc vào gia đình mà gia đình của họ có thể rất nghèo khó. Điều đó đặt
những người thất nghiệp và gia đình của họ vào một thảm kịch.
Tiến sĩ Fakhry Lahib, Trưởng đoàn đại
biểu Tổ chức Đoàn kết Nhân dân các
nước Á-Phi (AAPSO) của Ấn Độ nhấn
mạnh: Nghèo đói là một thách thức
lớn nhất đối với loài người. Thực tế
cho thấy 1/5 dân số thế giới, tương
đương 1,2 triệu người đang phải sống
trong cảnh nghèo đói. 3/ 4 người
nghèo trên thế giới sống với mức thu
nhập dưới 1 đô la/ngày tại các vùng
nông thôn. Một nửa dân số thế giới
sống với mức thu nhập dưới 2 đô
la/ngày. 80% trong số họ rơi vào tình
trạng nghèo đói và suy dinh dưỡng.
Sự gia tăng bất bình đẳng giữa người
giàu và người nghèo
Năm 1998, 20% người giàu nhất thế
giới chiếm 86% tổng tiêu dùng thế giới
trong khi 20% người nghèo nhất chỉ
chiếm 1,3%.
Tỷ lệ giữa 20% người giàu và 20%
người nghèo nhất là 1:30 vào năm 1960
và tăng lên 1:60 vào năm 1990 và 1:74
năm 1998
“Một nhân tố rất quan trọng cần phải được đề cập khi nói về cuộc chiến chống đói nghèo, đó
là thiện chí chính trị, thiện chí đổi mới. Sự nghèo đói không chỉ là một hiện tượng kinh tế hay
xã hội mà chính là một thước đo chính trị. Trước hết phải có thiện chí chính trị và với một tầm
nhìn chính trị mới có thể nói đến các biện pháp hiệu quả nhằm chống lại nghèo đói và đạt
được những thành tựu thực tế trong cuộc chiến này”- Tiến sĩ Fakhry Lahib khẳng định.
Ông P.Sharma Oli, Chủ tịch Tổ chức Đoàn kết Nhân dân các nước Á-Phi của Nêpan cũng
khẳng định sự gia tăng nghèo đói tại các nước đang phát triển tại châu Á, châu Phi và châu
Mỹ Latinh là một trong những mối quan ngại chính của sự phát triển.
Thử thách và trở ngại lớn nhất trong quá trình phát triển tại các nước đang phát triển là mức
thu nhập thấp, thất học, bệnh tật, bất bình đẳng, nợ nần, gia tăng dân số nhanh và khủng bố.
Các quốc gia nghèo bị vây hãm bởi vòng xoáy nợ nần.
Tham dự Hội thảo có nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, ông Trần Đắc Lợi, Phó
Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, 50 đại diện các tổ chức
quốc tế cùng đại diện các Bộ, ban ngành của các cơ quan, đơn vị Việt Nam.
Phạm Tuyên
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
Thế giới năm 2007: Thách thức và thời cơ
Nguyễn Trung
(Cập nhật: 21/1/2008)
Loài người đã đi qua năm thứ bảy của thế kỷ XXI trong một thế giới đầy biến động.
Những nguy cơ, thách thức mà con người phải đối phó luôn vận động, diễn biến vô
cùng phức tạp và đan xen cùng những thời cơ, thuận lợi mà con người nắm bắt được.
Về cơ bản, những nguy cơ, thách thức mang tính truyền thống và phi truyền thống
tiếp tục tồn tại như năm trước, nhưng có phát triển, diễn biến phức tạp hơn, đòi hỏi
thế giới phải tìm cách đối phó tích cực, hiệu quả hơn, nếu như muốn tồn tại và phát
triển bền vững.
Nguy cơ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường tăng lên
Trong những nguy cơ, thách thức mà con người phải đối mặt, nguy cơ biến đổi khí hậu được
coi là nghiêm trọng nhất ở thế kỷ XXI và nổi lên hàng đầu trong năm 2007 - năm được Liên
hợp quốc coi là "Năm khí hậu". Ủy ban Liên chính phủ và các nhà khí hậu học của Liên hợp
quốc công bố hàng loạt báo cáo xác thực chứng minh rằng trái đất ngày càng ấm lên và "các
chất thải gây hiệu ứng nhà kính" do chính con người tạo ra dẫn tới tình trạng ấm lên của trái
đất và một môi trường đang biến đổi gây ra những thảm họa thiên tai như hạn hán, bão lụt,
triều cường, nước biển dâng cao, đất liền thu hẹp, nhiều đảo biến mất, một số loài động -
thực vật bị tuyệt chủng Theo báo cáo của Tổ chức Báo động quốc tế ngày 12-11-2007, 46
quốc gia bao gồm 2,7 tỉ người có nguy cơ cao về xung đột bạo lực và 56 quốc gia khác có
nguy cơ bất ổn chính trị do biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp nước, sử dụng
đất, sản xuất nông nghiệp.
Đứng trước nguy cơ, thách thức nghiêm trọng như vậy, cộng đồng quốc tế đã và đang có
những quan tâm đặc biệt về vấn đề biến đổi khí hậu. Thế giới đã chi tới 1,6% GDP toàn cầu
để ngăn chặn tình trạng này. Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, hầu hết
các quốc gia trên thế giới đều đưa vấn đề biến đổi khí hậu vào chương trình nghị sự, chiến
lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ của mình theo xu hướng
phát triển kinh tế - xã hội phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Rất nhiều sáng kiến, biện pháp
làm sạch môi trường, giảm rủi ro thiên tai, giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính đã được đưa
ra thảo luận tại các hội nghị quốc tế và thực hiện ở các quốc gia. Đặc biệt, nửa đầu tháng 12-
2007, Liên hợp quốc đã triệu tập Hội nghị về biến đổi khí hậu tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a), hơn
10.000 đại biểu đại diện cho 190 quốc gia tham dự để bàn bạc và đưa ra những biện pháp
khắc phục tình trạng này. Hầu hết các quốc gia tán thành thực hiện mục tiêu của "Lộ trình
Ba-li", theo đó mục tiêu đến năm 2020, tất cả các nước đang phát triển phải cắt giảm từ 25%
đến 40% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, so với mức của năm 1990 (Lộ trình này sẽ
tiếp nối Nghị định thư Ky-ô-tô hết hiệu lực vào năm 2012). Dự kiến, trong 6 tháng đầu năm
2008, các cuộc thương lượng chính thức trong khuôn khổ "Lộ trình Ba-li" sẽ bắt đầu để tiến
tới hành động thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Trong thời gian Hội nghị Ba-li họp tại In-đô-
nê-xi-a và nhiều nước trên thế giới đã diễn ra hàng loạt cuộc biểu tình kêu gọi thế giới có
những hành động khẩn cấp để kiểm soát tình trạng biến đổi khí hậu, bảo vệ trái đất, bảo vệ
môi trường sống của con người.
Khủng bố và chống khủng bố
Chủ nghĩa khủng bố vẫn là mối đe dọa phi truyền thống nguy hiểm mang tính toàn cầu, là
thách thức hàng đầu đối với an ninh của nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 2007 vẫn có hàng
ngàn vụ khủng bố chủ yếu bằng đánh bom liều chết, ám sát, bắt cóc con tin diễn ra ở nhiều
nước, nhiều khu vực trên thế giới, tập trung nhất vẫn là khu vực Trung Đông, châu Phi, Nam
Á, Đông - Nam Á (miền Nam Thái Lan, Phi-líp-pin). I-rắc và Áp-ga-ni-xtan là hai nước trọng
điểm mà Mỹ đã tiến hành chiến tranh "chống khủng bố" từ những năm trước đây, nay vẫn là
những trung tâm, sào huyệt lớn nhất của bọn khủng bố quốc tế, hoạt động khủng bố vẫn diễn
ra thường xuyên, liên tục. Tiếp đến là Pa-ki-xtan, đồng minh và căn cứ quan trọng nhất của
Mỹ trong cuộc chiến tranh chống khủng bố ở Nam Á, cũng trở thành trung tâm của hoạt động
khủng bố. Năm 2007, có tới hàng trăm vụ khủng bố bằng đánh bom liều chết do các phần tử
Hồi giáo cực đoan gây ra ở nước này. Vụ khủng bố đẫm máu nhất đã xảy ra vào ngày 18-10
ở thành phố Ca-ra-chi, khi hàng vạn người ra đường chào đón Cựu Thủ tướng B. Bút-tô lưu
vong trở về nước thì bọn khủng bố đã cho nổ bom giết chết và làm bị thương hơn 500
người
Tuy quy mô và cường độ hoạt động khủng bố có giảm hơn các năm trước nhưng các tổ chức
khủng bố quốc tế vẫn đang củng cố, bổ sung lực lượng và tìm kiếm, phát triển các phương
thức, thủ đoạn khủng bố bằng các phương tiện kỹ thuật công nghệ cao, đặc biệt nguy hiểm
như vũ khí hóa học, sinh học và vũ khí hạt nhân. Đây là một nguy cơ mà thế giới luôn phải
cảnh giác, đề phòng.
Chống khủng bố là một trong những nhiệm vụ trung tâm, hàng đầu của cộng đồng quốc tế
được thể hiện trong chiến lược quốc phòng, an ninh của các quốc gia. Trong năm 2007, cộng
đồng quốc tế bao gồm Liên hợp quốc, các tổ chức liên kết khu vực, các quốc gia đều có
những nỗ lực chống khủng bố và đã thu được những kết quả nhất định. Nhiều tên khủng bố,
nhiều nhóm khủng bố đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt. Tuy nhiên, An Kê-đa, tổ chức khủng bố quốc
tế lớn nhất và trùm khủng bố Bin La-đen vẫn tồn tại, tiến hành hoạt động phân tán ở nhiều
nơi trên thế giới. Hai vụ khủng bố lớn ở Pa-ki-xtan và An-giê-ri nêu trên đều mang "nhãn hiệu
An Kê-đa". Bin La-đen thỉnh thoảng lại xuất hiện trên truyền hình như thách thức Mỹ và đồng
minh. Không những thế, Bin La-đen đã trở thành một hình tượng đại diện của một trào lưu
cho nhiều thanh niên Hồi giáo mới lớn lên bị tiêm nhiễm tư tưởng cực đoan, lấy "thánh chiến"
làm tôn chỉ chống Mỹ và phương Tây.
Chống khủng bố thực sự là cuộc chiến đầy cam go, lâu dài, phức tạp. Chỉ khi nào loại trừ
được những nguyên nhân sinh ra khủng bố thì mới chấm dứt được khủng bố. Việc chống
khủng bố một cách phiến diện bằng biện pháp quân sự, bằng chiến tranh như Mỹ tiến hành ở
Áp-ga-ni-xtan và I-rắc là sai lầm, không có hiệu quả. Đó là chưa kể việc mượn cớ "chống
khủng bố" để gây chiến tranh, hoặc can thiệp lật đổ, giết hại dân thường, tàn phá nước người
còn là tội ác. Thực tế cho thấy rằng, để chống khủng bố có hiệu quả hơn, ngoài việc tổ chức,
xây dựng lực lượng, xây dựng luật pháp chống khủng bố, các quốc gia cần phải tiếp tục
thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc phòng - an ninh một
cách đồng bộ, thiết lập sự công bằng xã hội, nâng cao dân trí, xóa bỏ dần áp bức, bất công,
đói nghèo, bất bình đẳng tôn giáo, mâu thuẫn, kỳ thị dân tộc, sắc tộc
Chiến tranh, xung đột vũ trang và những cuộc khủng hoảng, những "điểm nóng" tiềm
tàng
Năm 2007, vẫn có hàng chục cuộc chiến tranh (chủ yếu là nội chiến) và xung đột vũ trang
tiếp diễn trên thế giới.
Trung Đông, nơi tập trung nhiều loại mâu thuẫn gay gắt nhất, cũng là "điểm nóng" nhất thế
giới, biểu hiện bằng cả chiến tranh, xung đột vũ trang, bạo lực khủng bố, khủng hoảng hạt
nhân, khủng hoảng chính trị, khủng hoảng nhân đạo v.v Tập trung nhất vẫn là ở I-rắc. Hơn
4 năm sau ngày Mỹ tiến công I-rắc, đất nước này vẫn chưa im tiếng súng, chiến tranh và
xung đột vũ trang, bạo lực khủng bố vẫn tiếp diễn hằng ngày giữa quân nổi dậy với quân Mỹ
và đồng minh chiếm đóng, giữa các phe phái Hồi giáo dòng Si-ai, dòng Săn-ni, Hồi giáo Gi-
hát và cả người Cuốc. Ngay từ đầu năm 2007, Tổng thống Mỹ Bu-sơ đã có điều chỉnh chiến
lược về I-rắc, tăng thêm quân và tăng cường xây dựng, củng cố chính quyền I-rắc, nhưng
vẫn không có được một nhà nước I-rắc đủ mạnh để ổn định tình hình, để quân Mỹ có thể rút
dần về nước. Cũng như I-rắc, từ năm 2006 cho đến nay, Li-băng đã trở thành chiến trường
khốc liệt tranh giành ảnh hưởng giữa hai phái Săn-ni và Si-ai bằng bạo lực khủng bố, và
xung đột vũ trang giữa Héc-bô-la với I-xra-en. Vào cuối năm 2007 này, tiếng súng xung đột
tạm lắng, nhưng nước này lại rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị, khi Tổng thống E. La-hút
đã hết nhiệm kỳ từ ngày 23-11 mà thời gian dài vẫn chưa bầu được Tổng thống mới. Dư luận
cho rằng, dù khi có được một vị Tổng thống mới thì đất nước này cũng khó thoát khỏi khủng
hoảng do bất đồng, mâu thuẫn giữa các phe phái rất sâu sắc và có quá nhiều thế lực can
thiệp từ bên ngoài.
Cuộc đối đầu về vấn đề hạt nhân giữa Mỹ và I-ran tiếp tục trong năm 2007 với những diễn
biến phức tạp, có lúc hai bên như đứng bên miệng hố chiến tranh. Oa-sinh-tơn có ý định
"hướng cuộc chiến chống khủng bố vào I-ran", bởi vì nước này cũng từng bị liệt vào "trục ác
quỷ", ủng hộ khủng bố và tìm cách phát triển vũ khí hạt nhân. Rất may, cuộc chiến "chống
khủng bố" ấy chưa xảy ra, nếu không, "kịch bản" I-rắc lại diễn ra, gây tai họa khôn lường cho
cả đôi bên và cộng đồng quốc tế.
Bao trùm lên "thùng thuốc súng" Trung Đông vẫn là cuộc xung đột I-xra-en - Pa-le-xtin. Năm
2007, cuộc xung đột này vẫn tiếp diễn nhưng mức độ căng thẳng, quyết liệt có giảm hơn,
không có những vòng xoáy bạo lực "ăn miếng trả miếng" đẫm máu như trước đây. Tuy
nhiên, tình hình lại có những diễn biến phức tạp, đặc biệt do mâu thuẫn nội bộ gay gắt, giữa
hai phái Pha-ta và Ha-mát của Pa-le-xtin đã xảy ra cuộc xung đột "huynh đệ tương tàn" và
ngày 13-6-2007, phái Ha-mát đã đánh bật lực lượng Pha-ta ra khỏi Ga-da về khu Bờ Tây, tạo
nên tình trạng "một dân tộc, hai chính quyền". Tình hình đó làm cho sự nghiệp giải phóng,
xây dựng một nhà nước độc lập, tự chủ của nhân dân Pa-le-xtin càng thêm khó khăn, xa vời.
Ngoài khu vực Trung Đông còn có hàng chục "điểm nóng" tiếp diễn hoặc tiềm tàng, dễ bùng
nổ ở nhiều khu vực trên thế giới do các mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo và chủ nghĩa ly khai gây
ra. Đó là chiến tranh và xung đột vũ trang tiếp diễn ở Áp-ga-ni-xtan, Xri Lan-ca, ở miền Nam
Thái Lan, ở Xu Đăng và nhiều nước châu Phi, Mỹ La-tinh. Tại châu Âu, Cô-xô-vô cũng tiếp
tục là "điểm nóng" tiềm tàng luôn sẵn sàng bùng nổ xung đột nếu như bộ phận người gốc An-
ba-ni chiếm đa số tự ý tuyên bố độc lập tách khỏi Xéc-bi-a. Tại Đông Á, eo biển Đài Loan
cũng vẫn là "điểm nóng" tiềm tàng, nguy cơ nổ ra chiến tranh giữa hai bờ eo biển là khó
tránh khỏi nếu "thế lực Đài Loan độc lập" cố tình thực thi ý chí của mình.
Năm 2007, thế giới vẫn tiếp tục phải đứng trước hàng loạt nguy cơ, thách thức và mối đe dọa
khác: chạy đua vũ trang và phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; các loại tai nạn, tệ nạn xã
hội; tội phạm xuyên quốc gia; dịch bệnh ở người và gia súc, gia cầm; tình trạng bất công, bất
bình đẳng, tham nhũng, đói nghèo và phân hóa giàu nghèo cao độ. Trước thực trạng đó, các
quốc gia trên thế giới tiếp tục điều chỉnh chiến lược phát triển chiến lược kinh tế - xã hội, đề
cao cảnh giác, tăng cường xây dựng tiềm lực và thực lực quốc phòng, an ninh, nâng cao
chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang, tăng cường hợp tác quốc tế, chủ động đối
phó với những nguy cơ, thách thức của thời đại.
Xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu; hợp tác và đấu tranh cho hòa bình và phát triển
bền vững vẫn là dòng chính của thời đại
Dù cho thế giới loài người trong năm 2007 vẫn phải đối phó với vô vàn nguy cơ, thách thức,
nhưng với cách nhìn khách quan và tổng quát, có thể khẳng định vai trò chủ đạo, dòng chính
của thời đại đó là: xu thế hội nhập quốc tế, liên kết khu vực, liên khu vực; đàm phán giải
quyết các mâu thuẫn, xung đột; hợp tác và đấu tranh cho hòa bình và phát triển bền
vững, cho một trật tự thế giới công bằng, tốt đẹp, cho mục tiêu độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Điều khẳng định này được thể hiện trên các bình diện sau đây:
Là tổ chức quốc tế lớn nhất, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 62 họp tháng 9-2007 đã thảo
luận và quyết định những vấn đề liên quan đến hòa bình, ổn định và sự phát triển bền vững
của thế giới, cũng như vấn đề cải tổ Liên hợp quốc. Tuyệt đại đa số các thành viên yêu cầu
tiếp tục cải tổ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc theo hướng dân chủ hóa, minh bạch hóa, tăng
cường tính đại diện cho các châu lục, mở rộng các thành viên Thường trực và không
Thường trực của Hội đồng Bảo an, tăng cường vai trò, sức mạnh, quyền uy và hiệu quả hoạt
động để tổ chức quốc tế lớn nhất này thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích của mình. Tại khóa
họp này, Việt Nam đã được tuyệt đại đa số các nước thành viên bầu làm Ủy viên không
Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009. Sự kiện này, cùng với
việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO năm trước đã nâng tầm vị thế cũng như trách nhiệm
của Việt Nam trên trường quốc tế, biểu hiện bước tiến quan trọng của Việt Nam trong xu thế
hợp tác quốc tế, hội nhập toàn cầu.
Cùng với xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hợp tác và đấu tranh thông qua các tổ chức toàn cầu
như Liên hợp quốc, WTO thì xu thế nhất thể hóa, liên kết khu vực, liên khu vực cũng tiếp
tục phát triển. Năm 2007, hầu hết các tổ chức khu vực, tiểu khu vực, vùng, tiểu vùng đều tiếp
tục tăng cường hoạt động, mở rộng quy mô hoặc củng cố tổ chức hiện có, tăng cường hiệu
quả hợp tác, liên kết toàn diện hay từng mặt về kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, an
ninh, văn hóa, khoa học công nghệ; hợp tác đấu tranh chống khủng bố, chống chiến tranh,
bảo vệ môi trường sinh thái.
Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục vận động, vượt qua những trở ngại để tiến tới thông qua
được bản Hiến pháp chung cho toàn châu Âu. Đầu tháng 11-2007, Hội nghị cấp cao EU -
châu Phi họp ở Bồ Đào Nha, các nhà lãnh đạo của 27 quốc gia thành viên EU và 30 quốc gia
thuộc châu Phi đã ký kết Hiệp định về đối tác chiến lược giữa EU với châu Phi.
Ngày 20-11-2007, Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) đã ký kết một văn kiện lịch
sử, đó là "Hiến chương ASEAN" đánh dấu bước tiến quan trọng, đưa ASEAN từ một hiệp hội
trở thành một khối hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý. Từ nay, cơ chế tự nguyện sẽ không
còn, mọi quyết định của ASEAN đều ràng buộc về pháp lý. Mọi người hy vọng "Hiến chương
ASEAN" sẽ thắt chặt mối đoàn kết, hợp tác của 10 nước thành viên, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho các nước trong khu vực.
Các tổ chức hợp tác, liên kết khu vực khác ở các châu á, Phi, Mỹ La-tinh, Bắc Mỹ, Trung
Đông, Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương v.v đều có nhiều hoạt động phong phú, đa dạng
theo xu thế vừa hợp tác vừa đấu tranh cho hòa bình và phát triển bền vững.
Trên cơ sở thắng lợi của phong trào cánh tả ở Mỹ La-tinh trong các cuộc bầu cử năm ngoái,
9/12 vị đứng đầu nhà nước sau các cuộc bầu cử thuộc cánh tả. Năm 2007, phong trào này
tiếp tục củng cố vị thế quyền lực mà nhân dân giao cho để lãnh đạo xây dựng những xã hội
tiến bộ và phát triển ở Mỹ La-tinh. Ngọn cờ "Chủ nghĩa xã hội của thế kỷ XXI" mà U. Cha-vét
phất lên đang được thu hút sự quan tâm của dư luận Mỹ La-tinh cũng như thế giới.
Năm 2007, quan hệ giữa các nước lớn vẫn tồn tại nhiều mâu thuẫn và xung đột về lợi ích,
nhưng về bản chất đã không còn là mối quan hệ thù địch như thời kỳ "chiến tranh lạnh".
Quan hệ Nga - Mỹ có mâu thuẫn gay gắt xung quanh việc Mỹ dự định triển khai hệ thống tên
lửa đánh chặn ở Cộng hòa Séc và Ba Lan, sát biên giới Nga. Tuy nhiên, hai nước vẫn giữ
quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Quan hệ Trung - Nhật
được cải thiện, hòa dịu nhiều hơn, mặt hợp tác hai bên cùng có lợi nổi trội hơn. Các mối
quan hệ tay đôi, tay ba giữa các nước lớn khác cũng tương tự như vậy. Quan hệ hợp tác nổi
trội hơn giữa các nước lớn được thể hiện rõ trong xu thế đối thoại, thương lượng để giải
quyết các tranh chấp, xung đột giữa các nước lớn với nhau, cũng như các vấn đề khu vực và
quốc tế khác, như cuộc xung đột ở Trung Đông, khủng hoảng hạt nhân ở I-ran, ở bán đảo
Triều Tiên. Cuộc đàm phán 6 bên (có 4 nước lớn tham gia) về vấn đề hạt nhân trên bán đảo
Triều Tiên là vô cùng khó khăn, phức tạp, qua nhiều năm đã đưa đến thành công trong năm
2007, làm cho thế giới như trút đi được một gánh nặng của sự lo âu về nguy cơ hạt nhân.
"Thùng thuốc súng" Trung Đông nóng bỏng như thế, nhưng năm 2007 nhìn chung "mùi thuốc
súng" nơi đây cũng không còn đậm đặc như các năm trước. Cuối tháng 11-2007, Hội nghị
hòa bình Trung Đông do Mỹ bảo trợ họp ở An-na-pô-lít (Mỹ) bao gồm 44 nước trong khu vực
Trung Đông và một số nước lớn khác, tuy không đem lại kết quả thực chất và trực tiếp nào,
nhưng cũng đặt nền móng để nối lại "lộ trình hòa bình Trung Đông" do nhóm "Bộ Tứ" bảo trợ.
Chính do quan hệ giữa các nước lớn tương đối hòa dịu, mặt hợp tác nổi trội hơn mâu thuẫn,
xung đột, và do nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế mà có thể khẳng định rằng, năm 2007,
hợp tác đấu tranh cho hòa bình, ổn định và phát triển bền vững vẫn là xu thế chủ đạo, là
dòng chính của thời đại. Kinh tế thế giới năm 2007 tiếp tục tăng trưởng, IMF dự báo tốc độ
tăng trưởng là 4,8%, chậm hơn năm 2006 (5,1%). Nguyên nhân có nhiều, đặc biệt do giá dầu
lửa - nguồn năng lượng chủ yếu của nền kinh tế toàn cầu tăng đến mức kỷ lục, gần
100USD/thùng vào dịp cuối năm. Ngoài ra còn do tác động của biến đổi khí hậu, tác động
của cuộc khủng hoảng bộ phận trong nền kinh tế Mỹ, khiến kinh tế Mỹ, Nhật Bản, châu Âu
tăng trưởng chậm. Trong khi các nền kinh tế lớn mới trỗi dậy như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc
tăng trưởng rất ấn tượng.
Với những thành tựu đạt được trong năm 2007, so sánh lực lượng sẽ ngày càng có lợi cho
các lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, chúng ta tin rằng tương
lai của thế giới sẽ ngày càng tươi sáng hơn.