PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dù dưới hình thái kinh tế xã hội nào,
vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục
tiêu phấn đấu của một nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân,
cũng như của từng đơn vị sản xuất.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, vốn sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết được Nhà nước tài trợ thông qua cấp phát vốn,
đồng thời Nhà nước quản lý về giá cả sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch, lãi Nhà nước thu
- lỗ Nhà nước bù. Do vậy các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không quan tâm đến
hiệu quả sử dụng vốn mà chỉ quan tâm đến các chỉ tiêu Nhà nước giao. Chính vì thế
dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, không bảo
toàn và phát triển được vốn hiện có. Chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
Nhà nước cùng tồn tại với các loại hình doanh nghiệp khác, có quyền tự chủ trong các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã năng động thích nghi với tình
hình mới, phát huy được tính chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Nhưng
cũng còn nhiều doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, gặp nhiều khó khăn trong quản lý
và sử dụng vốn. Vốn bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu lớn nhất của mọi doanh
nghiệp. Để không ngừng tăng lợi nhuận mà vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ, sản phẩm
tốt, giá thành hợp lý, doanh nghiệp vẫn đứng vững trong cạnh tranh, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ và hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó
quản lý và sử dụng vốn là vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết định.
Với sự cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt sau khi nước ta gia nhập WTO, hội nhập
ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, để các doanh nghiệp có thể tồn tại, đứng vững,
phát triển trên thị trường thì hiệu quả vốn là vấn đề nóng hổi cần được quan tâm. Là tế
bào của nền kinh tế, các doanh nghiệp làm ăn có lãi sẽ thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
và ngược lại. Để đạt được mục tiêu trên, một trong những vấn đề cần quan tâm hàng
đầu ở các doanh nghiệp hiện nay chính là hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là một trong
1
những yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trính sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử
dụng vốn sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh
nghiệp, huy động được đầy đủ vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đã là
khó nhưng quan trọng hơn là sử dụng lượng vốn đó như thế nào cho có hiệu quả. Điều
đó đòi hỏi phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không phải là khái niệm mới mẻ đặc biệt trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề này luôn được các doanh nghiệp, đơn vị sản
xuất thường xuyên quan tâm. Tham gia vào tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền
kinh tế nước ta đã và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế Thế giới và khu vực. Sự
kiện lịch sử đó đã tạo ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp trong nước, bên cạnh đó
cũng có không ít những khó khăn, thách thức lớn đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải
chuẩn bị tốt để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Qua quá trình công tác tại Công ty TNHH một thành viên Thăng Long GTC, tôi
đã nhận thấy tầm quan trọng của việc quản lý và sử dụng hiệu quả vốn trong sản xuất
kinh doanh, vai trò của vốn đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty TNHH một thành viên Thăng Long GTC” làm luận văn thạc sỹ. Qua đó
nghiên cứu, đánh giá thực trạng cũng như những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng vốn của công ty để rút ra những kết luận và bài học thực tiễn cho doanh nghiệp.
Từ đó tìm các giải pháp không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty TNHH
một thành viên Thăng Long GTC.
2. Mục đích nghiên cứu:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung.
Phân tích đánh giá thực trạng sử dụng vốn ở Công ty TNHH một thành viên
Thăng Long GTC.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
TNHH một thành viên Thăng Long GTC trong thời gian tới, giúp công ty phát triển
bền vững không ngừng bảo toàn và phát triển nguồn vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là
nguồn vốn Nhà nước.
2
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan:
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng trong hiệu quả sử dụng vốn, thời gian
qua đã có rất nhiều học viên của viện Mở có nhiều công trình nghiên cứu về hiệu quả
sử dụng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam. Những công trình này bao gồm: Luận
văn thạc sĩ “ Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Dịch vụ thương mại và
công nghiệp” của Tác giả Vũ Quốc Huy - năm 2013; “ Giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh tại Khách sạn Bộ Tài chính - Sầm Sơn - Thanh Hoá ” của Tác giả
Trịnh Hùng Long – năm 2013; “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty cổ
phần xây lắp điện Hải Phòng”của Tác giả Phạm Thắng Cảnh – năm 2013, “Nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của tập đoàn Hợp Nhất Việt Nam” của Tác giả Nguyễn Nhật Linh – năm
2012
Những công trình trên đã giải quyết được nhiều vấn đề cơ bản có liên quan tới
hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, có thể tóm tắt như sau:
- Phân tích, luận giải bản chất của hiệu quả sử dụng vốn, các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả sử dụng vốn;
- Đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn (ở tầm vĩ mô cũng
như ở một số doanh nghiệp cụ thể) và ảnh hưởng, tác động chung của chúng tới hiệu
quả và việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, trong đó có hiệu quả sử dụng vốn của doanh
nghiệp;
- Đề xuất các biện pháp để doanh nghiệp áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh, đặc biệt là hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Mặc dù hướng đề tài nghiên cứu không phải là mới, nhưng cho đến hiện tại
chưa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề sử dụng vốn tại Công ty TNHH một thành
viên Thăng Long GTC. Qua thực tế công tác tại Công ty TNHH một thành viên Thăng
Long GTC, tôi đã nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng có hiệu quả vốn
giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả theo hướng bền vững, bảo toàn và phát triển
nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn Nhà nước trong doanh nghiệp.
Chính vì thế, tôi đã vận dụng các kiến thức, phương pháp luận mà các tác giả đi
trước đã nghiên cứu để áp dụng trong quá trình nghiên cứu tại chính đơn vị mình đang
3
công tác. Ở luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty TNHH một thành viên Thăng Long GTC. Một vấn đề mà đang được Đảng,
Nhà nước cũng như các cấp, bộ, ngành rất quan tâm. Thông qua hệ thống hoá các kiến
thức, phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng vốn tại Công ty từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH một thành viên Thăng
Long GTC trong thời gian tới.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Nhận thức về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay như thế nào?
Tại sao phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH một thành viên
Thăng Long GTC?
Tại sao phải có giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
TNHH một thành viên Thăng Long GTC? Và giải pháp đó ra sao ?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu phân tích thực trạng sử dụng vốn để đánh giá những mặt tích
cực, những khó khăn, hạn chế từ đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của Công ty TNHH một thành viên Thăng Long GTC.
5.2.Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở các hoạt động sản xuất kinh doanh,
đặc biệt là các biện pháp sử dụng vốn mà Công ty TNHH một thành viên Thăng Long
GTC đã áp dụng trong giai đoạn 2011 – 2013 và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn tại công ty trong giai đoạn tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá và dự báo,…
Luận văn chủ yếu tập hợp tư liệu từ nguồn thông tin thứ cấp (các báo cáo và tài
liệu của công ty, các bài viết và các công trình nghiên cứu có liên quan…)
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
4
Hệ thống hoá cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp
trong điều kiện kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Phân tích, đánh giá đúng thực trạng sử dụng vốn tại Công ty TNHH một thành
viên Thăng Long GTC trong giai đoạn 2011 - 2013.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH
một thành viên Thăng Long GTC.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về sử dụng vốn tại Công ty TNHH một thành viên Thăng
Long GTC.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH một
thành viên Thăng Long GTC.
5
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. MỘT SỐ NHẬN THỨC CẦN THIẾT VỀ VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm vốn
Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được ném vào lưu thông nhằm mục đích
kiếm lời. Tiền được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, cuối cùng là để mua sắm
tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, để thực hiện một chu kỳ sản xuất kinh
doanh hay một dịch vụ nào đó với mục đích thu về số tiền lớn hơn số tiền ban đầu bỏ
ra. Vì vậy vốn mang lại thặng dư cho doanh nghiệp. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu
của quản lý là sử dụng vốn nhưng mang tính trừu tượng, hạn chế về ý nghĩa đối với
hạch toán và phân tích quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Theo C.Marx, vốn là tư bản, là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Từ đó vốn
được xem xét dưới giác độ giá trị là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Để tiến
hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiền ra để mua tư liệu sản xuất, sức lao động. Các yếu
tố này có vai trò khác nhau trong trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. C.Marx chia
các yếu tố này thành tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là một bộ
phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất: máy móc, thiết bị, nhà xưởng…
mà giá trị của nó đã chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ
phận tư bản tồn tại dưới hình thức lao động [2, tr.519]. Quan điểm này mang ý nghĩa
thực tiễn đến ngày nay nhưng còn hạn chế ở chỗ vốn luôn tạo ra giá trị thặng dư và
chỉ ở khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Các nhà kinh tế học đại diện cho các trường phái kinh tế khác nhau đã đưa ra
những quan điểm về vốn trong đó có quan điểm của P.Samuelson và D. Begg. Theo
P.Samuelson vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất
mới, là một trong 3 yếu tố đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
ngiệp (vốn, lao động, đất đai). Vốn ở đây được xem xét dưới hình thái hiện vật là TSCĐ
6
của doanh nghiệp. Khác với P.Samuelson trong cuốn “ kinh tế học ” của David Begg, tác
giả đưa ra hai định nghĩa về vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ
các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các loại
giấy tờ có giá trị khác của doanh nghiệp [1, tr.168].
Có thể thấy các quan điểm khác nhau về vốn ở trên một mặt thể hiện được
vai trò tác dụng trong điều kiện lịch sử cụ thể đối với các yêu cầu, mục đích nghiên
cứu cụ thể. Trong nền kinh tế ngày nay vốn được xem xét dưới góc độ là yếu tố đầu
vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là một quá trình sản xuất và
tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời gian tồn tại thì vốn của nó lại được
chuyển vào các quá trình sản xuất kinh doanh khác. Theo quan điểm này vốn là toàn
bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo vốn được biểu hiện bằng tiền mặt
lẫn các giá trị vật tư, hàng hoá, tài sản của doanh nghiệp. Vốn ở đây khác với tiền tệ
thông thường khác, tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất kinh
doanh, ngược lại nó không được coi là vốn khi chỉ được dùng để mua sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội.
Phân tích các quan điểm về vốn ở trên khái niệm về vốn cần thể hiện được các
điểm sau:
Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân
được tái đầu tư để phân biệt vốn đất đai, vốn nhân lực.
Vốn kinh doanh tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất:
(TSCĐ và tài sản dự trữ), và tài sản tài chính (Tiền, các khoản tương đương với tiền,
chứng khoán…) là cơ sở đề ra các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp
một cách có hiệu quả. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và sự tiến bộ
khoa học kỹ thuật thì TSCĐ không chỉ dừng lại ở máy móc thiết bị mà ngày càng phát
triển phong phú đa dạng, giữa vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của
doanh nghiệp: như nhãn hiệu, bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ…
Trong quá trình vận động, vốn không tách rời chủ sở hữu, mỗi đồng vốn phải
được gắn với một chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường chỉ có thể xác
định được vốn chủ sở hữu thì đồng vốn mới sử dụng hợp lý không gây lãng phí và đạt
kết quả cao. Vốn có giá trị về mặt thời gian. Một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị cao
7
hơn một đồng vốn ngày mai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tính toán lựa
chọn phương án đầu tư và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Vốn được quan niệm là một loại hàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
Những người có vốn có thể cho vay và những người cần vốn có thể đi vay, có nghĩa là
mua quyền sử dụng vốn của người có quyền sở hữu.
Vốn đưa vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời, đem lại lợi nhuận
cho doanh nghiệp trong tương lai. Vốn được biểu hiện bằng tiền, để biến đổi thành vốn
thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Trong quá trình vận động vốn có thể thay đổi
hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải
là đồng tiền. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn đó là mục tiêu
kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào, vì thế vốn phải được tích luỹ đến mức độ nhất
định.
1.1.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư,
nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả lương nhân viên… Đó là chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. Nhưng vấn đề đặt ra là chi phí
này phát sinh có tính chất thường xuyên, liên tục gắn liền với quá trình sản xuất sản
phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
một cách tối đa nhằm đạt tốt nhất mục tiêu kinh doanh. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ
việc thực hiện các định mức chi phí, hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí ở từng
khâu sản xuất và toàn doanh nghiệp, cần phải tiến hành phân loại vốn. Phân loại vốn có
tác dụng kiểm tra, phân tích quá trình phát sinh những chi phí phải bỏ ra để tiến hành
sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại vốn, tùy thuộc vào mỗi góc độ khác nhau
có cách phân loại vốn loại vốn khác nhau.
1.1.2.1. Căn cứ vào vai trò, đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển của vốn
* Vốn cố định
Vốn cố định (VCĐ) của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất kinh
doanh, là khoản đầu tư ứng trước hình thành nên tài sản cố định (TSCĐ) của doanh
nghiệp [5], [11]. Vì vậy quy mô VCĐ nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của
TSCĐ. VCĐ ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật vật chất và công nghệ,
8
năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại, những đặc điểm vận
động của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc
điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Từ mối liên hệ đó, ta có thể khái quát những
nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. VCĐ có đặc
điểm này là do TSCĐ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp và phát huy tác dụng trong
nhiều chu kỳ sản xuất. Vì VCĐ là hình thái biểu hiện bằng tiền của TSCĐ nên VCĐ
cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
+ Vốn cố định luân chuyển dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham
gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng
tính năng và công suất của nó bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn, và cùng với sự giảm
dần về giá trị sử dụng, thì giá trị của nó cũng bị giảm đi, theo đó VCĐ gồm hai bộ
phận:
Bộ phận thứ nhất: tương ứng với phần hao mòn của TSCĐ, được luân chuyển
và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được tích
luỹ lại thành quỹ khấu hao, quỹ khấu hao này được sử dụng để tái đầu tư TSCĐ nhằm
duy trì năng lực sản xuất cho doanh nghiệp.
Bộ phận thứ hai: là phần giá trị còn lại của vốn cố định được cố định trong
TSCĐ, đó chính là giá trị còn lại của TSCĐ.
+ Vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ sản xuất. Sau
mỗi chu kỳ sản xuất, phần VCĐ được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần tăng lên,
tương ứng với phần đầu tư ban đầu vào TSCĐ giảm xuống. Cho đến khi TSCĐ hết thời
gian sử dụng, giá trị TSCĐ được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì
VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Trong các doanh nghiệp, VCĐ là bộ phận quan trọng và chiếm tỷ trọng tương
đối lớn trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng, vốn sản xuất kinh doanh nói chung. Quy mô
của VCĐ và trình độ quản lý sử dụng VCĐ là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình
độ trang bị kỹ thuật của sản xuất kinh doanh. Nên việc sử dụng VCĐ có ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Vốn lưu động
9
Vốn lưu động (VLĐ) là số vốn ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về đối tượng lao
động (tài sản lưu động – TSLĐ) cho quá trình sản xuất kinh doanh [6], [11]. Nói cách
khác, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động của doanh nghiệp. Khác
với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất. Phần
lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản
phẩm, một số khác bị mất đi như các loại nhiên liệu.
Cùng với sự vận động của tài sản lưu động, vốn lưu động tham gia vào quá trình
sản xuất và chuyển qua nhiều hình thái khác nhau: Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu
động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hóa dự trữ. Qua giai đoạn
sản xuất, vật tư được đưa vào chế tạo các bán thành phẩm, thành phẩm. Kết thúc vòng
tuần hoàn, sau khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ ban
đầu của nó.
Vốn lưu động được phân loại như sau:
- Theo vai trò của vốn: vốn lưu động gồm vốn lưu động trong khâu dự trữ sản
xuất (giá trị nguyên nhiên vật liệu, ), trong khâu sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm), trong khâu lưu thông (giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền, nợ phải thu).
- Theo hình thái biểu hiện: vốn lưu động gồm vốn hiện vật (vật tư hàng hóa như
nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm, ) và vốn bằng tiền (các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền
gửi ngân hàng, đầu tư ngắn hạn, )
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của qúa trình sản xuất
kinh doanh. Do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc phân bổ trên
khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nên để tổ
chức hợp lý sự tuần hoàn của các tài sản của doanh nghiệp, để quá trình sản xuất kinh
doanh diễn ra liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư vào các hình thái khác
nhau làm cho các hình thái này có mức tồn tại hợp lý và đồng bộ.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận động của vật
tư. Trong doanh nghiệp, sự vận động của vốn phản ánh sự vận động của vật tư. Vốn
lưu động nhiều hay ít phản ánh số lượng vật tư hàng hóa dự trữ ở các khâu nhiều hay ít.
Mặt khác, vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số lượng vật tư sử dụng
10
có tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý hay
không. Vì thế, thông qua tình hình luân chuyển vốn lưu động còn có thể kiểm tra một
cách toàn diện việc cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp. Tổng số vốn lưu
động và tính chất sử dụng của nó có quan hệ chặt chẽ với những chỉ tiêu công tác cơ
bản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đảm bảo đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho sản
xuất, ra sức tiết kiệm vốn, phân bổ vốn hợp lý các giai đoạn luân chuyển, tăng nhanh
tốc độ luân chuyển vốn thì với số vốn ít nhất có thể đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Hoàn
thành tốt kế hoạch sản xuất tiêu thụ sản phẩm là điều kiện để thực hiện tốt nghĩa vụ với
ngân sách, trả nợ vay, thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Việc phân loại vốn theo căn cứ vào vai trò, đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển
của vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà quản lý. Vì tỷ trọng, cơ cấu, thành phần
của các loại vốn này trong các doanh nghiệp khác nhau cũng khác nhau. Nếu như trong
các doanh nghiệp thương mại tỷ trọng của vốn lưu động chiếm chủ yếu trong nguồn
vốn kinh doanh, thì doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng vốn cố định lại chiếm chủ yếu.
Trong hai loại vốn này vốn cố định chu chuyển được một vòng thì số lưu động đã
chuyển được nhiều vòng. Việc phân loại theo cách thức này giúp doanh nghiệp thấy
được cơ cấu, tỷ trọng của từng loại vốn. Từ đó doanh nghiệp chọn cho mình một cơ
cấu vốn hợp lý.
1.1.2.2. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Trong nền kinh tế thị trường muốn tiến hành sản xuất, doanh nghiệp phải huy
động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Xét trên phương diện nguồn hình thành, vốn được
chia thành vốn chủ sỡ hữu và nợ phải trả.
* Vốn chủ sở hữu ( hay còn gọi là vốn tự có)
Là vốn do doanh nghiệp sở hữu hoặc đại diện cho chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu
có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau tùy theo từng loại hình doanh nghiệp
[4], [11].
- Vốn do nhà nước cấp: Các doanh nghiệp nhà nước được ngân sách cấp một
phần hoặc toàn bộ vốn khi bắt đầu hoạt động, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn
do nhà nước cấp. Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có thể được ngân sách nhà
11
nước cấp bổ sung hoặc được tài trợ vốn thông qua việc cấp tài sản, tín dụng ưu đãi hay
giảm thuế, giảm phí…
- Vốn tự có: Là phần vốn do chủ doanh nghiệp, chủ đầu tư bỏ ra để đầu tư vào
kinh doanh khi doanh nghiệp mới thành lập hoặc đầu tư dự án.
- Vốn cổ phần: Hình thành do phát hành cổ phiếu trên thị trường khi sáng lập
công ty. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể tăng vốn cổ phần bằng cách
phát hành thêm cổ phiếu ra thị trường. Tuy nhiên, cần thận trọng tính toán đến các yếu
tố thuộc về môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư để việc phát hành thêm cổ phiếu
đạt hiệu quả cao.
- Vốn tự bổ sung: Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp có thể tự bổ sung vốn
từ các nguồn như quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ phát triển sản xuất,… trích từ lợi
nhuận hàng năm, hoặc từ chênh lệch giá được để lại, hay từ việc điều chỉnh lại cơ cấu
tài sản cố định của doanh nghiệp.
Quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ là điều kiện để doanh nghiệp hoạt động một
cách chủ động và độc lập, đồng thời là điều kiện để doanh nghiệp tham gia các hoạt
động đầu tư, tăng cường khả năng cạnh tranh và thu được nhiều nguồn lợi. Chính vì
vậy, một doanh nghiệp thành đạt luôn có phương án bổ sung, tăng trưởng vốn chủ sở
hữu.
* Nợ phải trả
Nợ phải trả là phần vốn doanh nghiệp được sử dụng nhưng thuộc sở hữu của chủ
thể khác. Doanh nghiệp có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau
đó doanh nghiệp phải hoàn trả cả gốc và lãi cho chủ sở hữu phần vốn đó [5], [11]
Nợ phải trả bao gồm các khoản vay dài hạn, vay ngắn hạn, các khoản thanh toán
cho cán bộ công nhân viên, phải trả nhà cung cấp, phải trả Nhà Nước và một số khoản
phải trả phải nộp khác.
Nợ phải trả là nguồn vốn rất quan trọng với doanh nghiệp, đây là nguồn vốn đáp
ứng cho nguồn vốn thiếu hụt trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Theo tính chất và thời hạn thanh toán, các khoản nợ phải trả bao gồm:
12
- Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ mà doanh nghiệp phải trả cho chủ nợ trong một
thời gian ngắn, dưới một năm, bao gồm các khoản vay ngắn hạn phải trả cho người
bán, thuế và các khoản nộp cho nhà nước, phải trả cho người lao động.
- Nợ dài hạn: là các khoản vốn mà doanh nghiệp nợ các chủ thể khác trên một
năm mới phải hoàn trả, bao gồm vay dài hạn cho đầu tư phát triển, nợ thuê mua tài sản
cố định, phát hành trái phiếu…
- Nợ khác: là các khoản phải trả như nhận ký quỹ, ký cược dài hạn, các khoản chi
phí phải trả khác.
Việc huy động vốn này rất quan trọng đối với doanh nghiệp để đảm bảo cung ứng
đầy đủ, kịp thời cho sản xuất kinh doanh. Sức ép về chi phí sử dụng vốn vay, thời hạn
hoàn trả vốn sẽ thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên,
việc sử dụng nguồn vốn này cũng có những mặt trái của nó. Doanh nghiệp phụ thuộc
vào nguồn vốn vay, tốn kém về chi phí, thời gian. Mặt khác , nếu không tính toán chính
xác và thận trọng thì hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị ảnh
hưởng bởi lãi suất tiền vay.
Thông thường, doanh nghiệp phải kết hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo đủ
vốn cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, và cách phân loại này giúp cho các
nhà quản lý có thể xác định được mức độ an toàn trong công tác huy động vốn, tổ chức
sử dụng vốn sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh,
vừa đảm bảo an toàn về mặt tài chính với chi phí sử dụng vốn bình quân là thấp nhất.
1.2.2.3. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn
* Vốn thường xuyên
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho toàn bộ tài sản cố định
của mình. Nguồn vốn vốn này bao gồm vốn chủ sở hữu và nợ dài hạn của doanh
nghiệp [6], [11].
Trong đó, nợ dài hạn là các khoản dài hạn hơn một năm hoặc phải trả sau một
kỳ kinh doanh, không phân biệt đối tượng cho vay và mục đích vay [6], [11].
* Vốn tạm thời
13
Đây là nguồn vốn dùng để tài trợ cho tài sản lưu động tạm thời của doanh
nghiệp [6], [11]. Nguồn vốn vay bao gồm: vay ngân hàng, tạm ứng, người mua vừa trả
tiền,…
Việc phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn giúp doanh nghiệp thấy
được yếu tố thời gian về vốn mà mình nắm giữ, từ đó lựa chọn nguồn tài trợ cho tài sản
của mình một cách thích hợp tránh tình trạng sử dụng nguồn vốn tạm thời để tài trợ cho
tài sản cố định.
1.1.2.4. Căn cứ vào hình thái biểu hiện
* Vốn hữu hình: bao gồm tiền và các loại giấy tờ có giá và những loại tài sản biểu
hiện bằng hiện vật khác nhau như đất đai,
* Vốn vô hình:
Là giá trị những tài sản vô hình như: vị trí địa lý của doanh nghiệp, bí quyết và
công nghệ chế tạo sản phẩm, mức độ uy tín của nhãn hiệu, sản phẩm trên thị trường,
Vốn vô hình có vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. Vì khi góp vốn liên doanh, pháp luật cho phép các hội viên có thể góp vốn liên
doanh, góp vốn bằng tiền mặt, vật tư máy móc, thiết bị, nhà xưởng, khi góp vốn các
tài sản phải được lượng hoá để quy về giá trị.
1.2. VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG SXKD CỦA DOANH NGHIỆP
Doanh nghiệp thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào, hoạt động trong bất kỳ lĩnh
vực nào và với quy mô nào thì ngay từ khi bắt đầu thành lập đến khi tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình đều cần có một lượng vốn nhất định. Vốn là điều
kiện tiền đề có ý nghĩa quyết định đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp đặc biệt
là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Sự cần thiết của vốn đối với doanh nghiệp
được thể hiện trên các khía cạnh sau:
1.2.1. Vốn là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp
* Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là doanh nghiệp đó
phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp
định. Là lượng vốn tối thiểu mà pháp luật quy định cho từng loại doanh nghiệp, khi đó
14
địa vị pháp lý mới được công nhận. Ngược lại, việc thành lập doanh nghiệp không thể
thực hiện được. Trường hợp trong quá trình hoạt động kinh doanh, vốn của doanh
nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định, doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt
động như phá sản, sáp nhập vào doanh nghiệp khác… Như vậy, vốn được xem là một
trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một
doanh nghiệp trước pháp luật.
* Về mặt kinh tế:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng
mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình sản xuất mà
còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục, thường xuyên.
Trong hoạt động tài chính sử dụng vốn có hiệu quả có ý nghĩa quyết định đối với
quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vai trò này thể hiện ngay
từ khi thành lập doanh nghiệp thiết lập các dự án đầu tư, và song hành với sự sống còn
của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp sử dụng vốn tốt thì nó sẽ mang lại lợi nhuận cao và ngược lại
nếu việc sử dụng vốn trì trệ, bất cập thì nó sẽ kìm hãm quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Như vậy để nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng vốn, doanh nghiệp
phải tuân thủ một trong các nguyên tắc sau:
- Sử dụng vốn có mục đích rõ ràng
- Sử dụng vốn có lợi và tiết kiệm nhất
- Sử dụng vốn một cách hợp pháp
- Kiểm tra các chỉ tiêu tài chính về an toàn và hiệu quả
- Tính toán hiệu quả đầu tư
- Mở rộng thị trường thông qua các chính sách bán hàng
- Kiểm tra tốt các chi phí hoạt động
1.2.2. Vốn quyết định sự ổn định, đảm bảo tính liên tục trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này càng thể hiện rõ trong
15
nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải
không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ… tất cả những yếu
tố này muốn đạt được đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh một cách thường xuyên liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được
thời cơ và có lợi thế cạnh tranh.
Để tiến hành tái sản xuất mở rộng sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh
nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh
nghiệp được bảo toàn và phát triển. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến việc
mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu
tư thâm nhập vào thị trường tiềm năng, từ đó tăng khối lượng tiêu thụ, nâng cao uy
tín của mình trên thương trường. Trong cơ chế bao cấp trước đây mọi nhu cầu về
vốn của doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà
nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất thấp của ngân hàng. Các doanh nghiệp chỉ
sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh. Điều này làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo
của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn
1.2.3. Vốn góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận song
song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để duy trì hoạt động của mình các
doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy
móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm của mình. Do đó
đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có vốn. Bởi vậy nhu cầu về vốn trở thành
động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định
cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn của doanh nghiệp. Mọi vận hành kinh tế đều
được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù từ cấp
độ gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới
dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản quyền…Vốn là cơ sở xác lập địa
vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp theo mục tiêu đã định.
16
Thực tiễn cho thấy, có nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của vốn doanh nghiệp
mới có thể sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Vấn đề sử dụng vốn sao cho có hiệu quả vẫn đang là vấn đề mà tất cả các nhà
quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. Để hiểu rõ hơn vấn đề này cần đi sâu
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
1.3. QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Để việc phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn thực sự có ý nghĩa, tức là để
nắm được đâu là nguyên nhân dẫn tới kết quả các chỉ tiêu (cao hay thấp) và từ đó có
những giải pháp cải thiện các chỉ tiêu, cần nắm được các đặc điểm của việc quản lý đối
với từng loại vốn. Về phương diện này, phân loại vốn căn cứ vào phương thức chu
chuyển vốn là đặc biệt có ý nghĩa.
1.3.1. Quản lý và sử dụng vốn cố định
Tài sản cố định là bộ phận tài sản có giá trị rất lớn, mang tính chất đầu tư lâu dài
của doanh nghiệp. Cải tiến việc sử dụng tài sản cố định có thể làm cho cùng một số
máy móc thiết bị giống nhau nhưng lại giúp hoàn thành khối lượng công việc lớn hơn;
từ đó, giúp tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác, cải tiến việc sử dụng tài
sản cố định còn có thể giúp hạ thấp được giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông.
Quản lý tài sản cố định bắt đầu từ việc xác định nhu cầu về tài sản cố định, lập
phương án mua, lựa chọn, theo dõi cả về hiện vật và giá trị, xác định khi nào cần nâng
cấp, sửa chữa, thay mới,… Để sử dụng TSCĐ có hiệu quả, doanh nghiệp trước hết phải
xác định quy mô và chủng loại tài sản cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh. Các
quyết định đưa ra đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ càng dựa trên cơ sở các
nguyên tắc và quy trình phân tích dự án đầu tư. Mua sắm quá nhiều TSCĐ mà không
sử dụng hết là sự lãng phí vốn, song nếu phương tiện không đủ so với lực lượng lao
động sẽ làm giảm năng suất lao động. Nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn cố định có thể
thấy các nguyên nhân của việc sử dụng vốn cố định không có hiệu quả thường là đầu tư
tài sản cố định quá mức cần thiết, tài sản cố định không sử dụng chiếm tỉ trọng lớn, sử
dụng tài sản cố định với công suất thấp hơn mức cho phép,…
Do đặc điểm của tài sản cố định nên việc quản lý tài sản cố định gắn liền với
việc quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định. Xây dựng và thực hiện các phương án khấu
17
hao tiên tiến, khoa học không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp không ăn dần vào vốn, có
mức giá thành sản phẩm hợp lý, mà còn là điều kiện để bù đắp, sửa chữa, nâng cấp và
sớm đổi mới máy móc thiết bị, củng cố phát triển năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Để quản lý và sử dụng hiệu quả số tiền trích khấu hao, doanh nghiệp cần dự kiến phân
phối sử dụng tiền trích khấu hao trong kỳ. Nói chung, điều này tùy thuộc vào cơ cấu
nguồn vốn đầu tư ban đầu để hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp.
Đối với các tài sản cố định được mua sắm từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh
nghiệp được chủ động sử dụng toàn bộ số tiền khấu hao lũy kế thu được để tái đầu tư,
đổi mới tài sản của mình. Khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại tài sản cố định, doanh
nghiệp có thể sử dụng linh hoạt số tiền khấu hao thu được để phục vụ các yêu cầu kinh
doanh sao cho có hiệu quả nhất.
Đối với các tài sản cố định được mua sắm từ nguồn vốn đi vay, về nguyên tắc,
doanh nghiệp phải sử dụng số tiền trích khấu hao thu được để trả vốn và lãi vay. Tuy
nhiên, trong khi chưa đến kỳ hạn trả nợ, doanh nghiệp cũng có thể tạm thời sử dụng
vào các mục đích kinh doanh khác để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay của
doanh nghiệp.
Do đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào nhiều kỳ sản xuất nên nguồn
vốn tài trợ cho việc mua sắm tài sản cố định chủ yếu là các nguồn dài hạn. Các nguồn
dài hạn này bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp như vốn của chủ đầu tư, vốn
được lấy từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao tài sản cố định, nguồn vốn vay dài hạn
như vay từ các tổ chức tín dụng, vay cán bộ công nhân viên,… Doanh nghiệp cần chọn
lọc và lựa chọn những nguồn ổn định nhất và có hiệu quả nhất vì thời gian thu hồi vốn
cố định là rất lâu nên không thể tránh khỏi những rủi ro bất thường.
1.3.2. Quản lý và sử dụng vốn lưu động
1.3.2.1. Quản lý vốn bằng tiền
Nhu cầu dự trữ tiền mặt trong doanh nghiệp thông thường là để đáp ứng nhu cầu
giao dịch hàng ngày như trả tiền hàng, trả lương, nộp thuế,…Ngoài ra, dự trữ tiền mặt
còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để đáp ứng các nhu cầu tiền mặt đột xuất và giúp
doanh nghiệp kịp thời nắm bắt các cơ hội bất ngờ như mua nguyên vật liệu, giảm giá
18
tức thời, hưởng chiết khấu của nhà cung cấp,…
Nhiệm vụ quản lý vốn tiền mặt không phải chỉ là đảm bảo cho doanh nghiệp có
đầy đủ lượng tiền mặt cần thiết đáp ứng nhu cầu thanh toán mà quan trọng hơn là tối
ưu hóa số ngân quỹ hiện có sao cho giảm được tối đa cả chi phí để thu tiền về khi
lượng tiền mặt xuống thấp và chi phí cơ hội do việc mất lãi suất tiền gửi đối với lượng
tiền dự trữ tại quỹ.
Nội dung quản lý vốn tiền mặt trong doanh nghiệp thông thường bao gồm:
- Xác định mức tồn quỹ tối thiểu:
Mức tồn quỹ tối thiểu cần được xác định sao cho doanh nghiệp có thể tránh
được rủi ro: không có khả năng thanh toán ngay làm mất đi cơ hội kinh doanh tốt, phải
gia hạn thanh toán nên phải trả lãi cao hơn, …
- Dự đoán và quản lý các luồng nhập, xuất ngân quỹ
Công việc này thường thể hiện ở việc tiến hành lập các bảng kế hoạch dòng
tiền. Bảng kế hoạch dòng tiền vừa được lập tổng hợp cho từng năm, tháng, vừa chi tiết
cho từng tháng và tuần; trong đó, thể hiện rõ dự kiến về các nguồn tiền doanh nghiệp
có thể thu và các khoản mà doanh nghiệp phải chi tiêu. Trên cơ sở so sánh các luồng
nhập và xuất ngân quỹ, doanh nghiệp có thể thấy được mức dư hay thâm hụt ngân quỹ;
từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi ngân quỹ như tăng tốc độ thu hồi các
khoản nợ phải thu, khéo léo trì hoãn các khoản nợ đang trong quá trình thanh toán, vay
vốn ngân hàng,… trong trường hợp thâm hụt hoặc thực hiện các khoản đầu tư trong
thời hạn cho phép để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong trường hợp thặng dư ngân
quỹ.
1.3.2.2. Quản lý vốn tồn kho dữ trự
Tồn kho dự trữ của doanh nghiệp là những tài sản mà doanh nghiệp lưu giữ
để sản xuất hoặc bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp tài sản tồn kho dự trữ
thường ở ba dạng: nguyên vật liệu; nhiên liệu dự trữ sản xuất; các sản phẩm dở
dang và bán thành phẩm, các thành phẩm chờ tiêu thụ. Tùy theo ngành nghề kinh
doanh mà tỷ trọng các loại tài sản dự trữ trên có khác nhau.
19
Việc quản lý tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan trọng, không
phải chỉ vì trong doanh nghiệp tồn kho dự trữ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong
tổng tài sản của doanh nghiệp mà điều quan trọng là nhờ xác định được mức tồn
kho dự trữ hợp lý giúp doanh nghiệp tiến hành kinh doanh thuận lợi, giúp doanh
nghiệp tránh được việc trả giá cao hơn cho việc đặt hàng với số lượng nhỏ và
những rủi ro trong việc chậm trễ hoặc ngừng trệ sản xuất do thiếu vật tư, thậm chí
phải cắt giảm bớt đơn đặt hàng do không sản xuất được. Nếu doanh nghiệp tính
toán không hợp lý có thể dẫn đến tình trạng dự trữ quá nhiều so với nhu cầu, sẽ
không thực hiện được nguyên tắc tiết kiệm chi phí vì dự trữ lớn dẫn đến ứ đọng vật
tư làm giảm giá, hỏng hóc, biến chất, làm tăng chi phí lưu kho, dẫn đến tình trạng
sử dụng vật tư lãng phí, giảm tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
1.3.2.3. Quản lý các khoản phải thu
Khi doanh nghiệp bán sản phẩm hoặc dịch vụ có thể được trả tiền ngay bằng
tiền mặt hoặc bán chịu, tức phải chờ một thời gian. Đó là hình thức cấp tín dụng cho
khách hàng. Một khoản phải thu được tạo lập khi doanh nghiệp cấp tín dụng cho khách
hàng. Khoảng thời gian của các khoản phải thu hay khoảng thời gian thu được tiền tùy
thuộc vào doanh số bán chịu nhiều hay ít và thời gian thu tiền bình quân là bao nhiêu.
Vì vậy, doanh nghiệp cần lập một chính sách tín dụng (tín dụng thương mại) và quản
trị hữu hiệu các khoản phải thu để tránh các khoản nợ khó đòi. Đồng thời, chính sách
tín dụng có liên hệ chặt chẽ đến tồn kho vì khi doanh nghiệp mở rộng các tiêu chuẩn
cấp tín dụng, doanh số bán hàng sẽ tăng, lượng tồn kho sẽ giảm và ngược lại. Vì vậy,
khi lập chính sách tín dụng, doanh nghiệp phải xem xét đến yếu tố tồn kho.
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, doanh ngiệp cần xem xét các khía cạnh: mức
độ uy tín của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng, tình trạng tài chính tổng
quát của doanh nghiệp, giá trị của tài sản dùng để bảo đảm tín dụng, số lượng sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ dự kiến tiêu thụ được, giá bán sản phẩm hàng hóa, các khoản chiết
khấu chấp nhận, các chi phí phát sinh thêm do việc tăng các khoản nợ, thời gian thu hồi
nợ bình quân, ảnh hưởng của chính sách tín dụng đối với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Để nhanh chóng thu hồi được các khoản phải thu, hạn chế thấp nhất chi phí liên
quan và giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp sau:
20
- Lập hạn mức tín dụng cụ thể đối với từng khách hàng căn cứ vào uy tín, tình
hình tài chính, tài sản bảo đảm của khách hàng; hạn mức bao gồm cả về số tiền và thời
gian được nợ.
- Có sự ràng buộc chặt chẽ về điều khoản thanh toán trong hợp đồng bán hàng
(ví dụ: nếu vượt quá thời hạn thanh toán trong hợp đồng thì khách hàng phải chịu mức
phạt lãi suất như lãi suất quá hạn của ngân hàng, yêu cầu đặt cọc, trả trước một phần
giá trị đơn hàng, ).
- Theo dõi chi tiết các khoản phải thu phát sinh và thường xuyên đốc thúc thu
hồi công nợ.
- Tìm ra nguyên nhân và có biện pháp thích hợp để xử lý các khoản nợ quá hạn:
gia hạn nợ, chấp nhận thanh toán từng phần, chấp nhận thanh toán bằng hàng hóa hoặc
yêu cầu tòa án kinh tế giải quyết.
1.4. HIỆU QUẢ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.4.1. Khái niệm và phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn
1.4.1.1. Khái niệm
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh
trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiệu quả kinh doanh còn được thể
hiện sự vận dụng khéo léo của các nhà quản trị doanh nghiệp giữa lý luận và thực tế
nhằm khai thác tối đa các yếu tố của quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị nguyên
vật liệu, nhân công để nâng cao lợi nhuận.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc
đối với doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn thể hiện hiệu quả kinh doanh nói chung và
trình độ quản lý vốn nói riêng. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử dụng các loại vốn. Đó là
sự tối thiểu hoá vốn cần sử dụng và tối đa hoá kết quả hay khối lượng nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh trong giới hạn nguồn nhân lực, vật lực, phù hợp với kinh tế nói chung [4] ,
[11].
21
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua hệ thống chỉ tiêu về khả năng
sinh lời độ luân chuyển vốn… Nó phản ánh quan hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá
trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ [4],[11].
Ta có công thức là:
G
Hv = ─── (1)
V
Trong đó:
Hv: Là hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
G: Là sản lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ hoặc doanh thu bán hàng
V: Là vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ
Theo công thức trên, Hv càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh càng cao. Việc nâng cao hiệu quả vốn của doanh nghiệp phải đảm bảo các điều
kiện sau:
- Phải khai thác nguồn lực một cách triệt để, nghĩa là không để nhàn rỗi không
sinh lời.
- Phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm.
- Phải quản lý vốn chặt chẽ, tức là không sử dụng vốn sai mục đích, không để
vốn thất thoát do buông lỏng quản lý.
1.4.1.2. Phương pháp phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để
nhanh chóng có biện pháp khắc phục những hạn chế và phát huy những ưu điểm của
doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Có hai phương pháp để phân tích tài chính
cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh
và phương pháp phân tích tỷ lệ.
* Phương pháp so sánh: Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong hoạt động
phân tích để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng
phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính
(thống nhất về thời gian, không gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…) và theo
mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được gọi là gốc về thời gian,
22
kỳ phân tích được gọi là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể đo bằng giá
trị tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là:
So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng
thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự suy giảm hay sự giảm sút trong hoạt
động sản xuất kinh doanh để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
So sánh giữa số thực hiện so với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu bình quân của ngành, của
các doanh nghiệp khác để đánh giá kinh doanh mình tốt hay xấu được hay không được.
So sánh chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể, so sánh
chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến động cả về số tương đối và tuyệt đối
của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán liên tiếp.
* Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của
đại lượng chỉ tiêu này trong các quan hệ tỷ lệ với các đại lượng của chỉ tiêu khác. Về
nguyên tắc thì phương pháp tỷ lệ đòi hỏi phải xác định được các ngưỡng, các định mức
để nhận xét, để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ
lệ của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các
nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của
doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về cơ cấu các loại sản phẩm hàng hoá của doanh
nghiệp, nhóm tỷ lệ về doanh thu bán hàng từ các sản phẩm hàng hoá, nhóm tỷ lệ về chi
phí theo khoản mục trong giá thành sản phẩm hàng hoá, nhóm tỷ lệ khả năng thanh
toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh
doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ
phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân
tích, lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp, người ta phải tính đến hao mòn vô hình và sự phát triển
không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật …
1.4.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp
1.4.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
* Tỷ suất sinh lời của tài sản
23
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Hệ số sinh lợi tổng tài sản = (2)
VKD bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng tài sản đầu tư thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận kế toán trước thuế thu nhập doanh nghiệp và lãi vay. Chỉ tiêu này
càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tốt, đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn [4], [5], [11].
* Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Đây là chỉ tiêu đo lường mức sinh lời của đồng vốn.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế VKD =
Doanh thu thuần
(3)
Vốn kinh doanh bình quân
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên VKD = (4)
VKD bình quân trong kỳ
Trong hai chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên VKD được các
nhà quản trị tài chính sử dụng nhiều hơn, bởi lẽ nó phản ánh số lợi nhuận còn lại (sau
khi trả lãi vay ngân hàng và thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước). Chỉ tiêu này
phản ánh 1 đồng VKD bình quân tham gia vào hoạt động SXKD của DN trong kỳ tạo
ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế được sinh ra do sử dụng bình quân một
đồng VKD [5], [6], [11].
* Lợi nhuận gộp từ kinh doanh = Doanh thu tuần – Giá vốn ( hoặc giá thành
sản phẩm tiêu thụ ) (5)
Hệ số này cho biết sự hoàn thiện của một doanh nghiệp về mặt sản xuất kinh
doanh cũng như khả năng tạo vốn bằng tiền. Nó là thước đo khả năng sinh lời thông
qua chỉ tiêu này cho biết chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp [7],[11].
* Tỷ suất lợi nhuận sau thuê trên vốn chủ sỡ hữu ( ROE)
Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận ròng cho các chủ nhân
của doanh nghiệp đó. Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện
của mục tiêu này [8], [11].
24
Tỷ suất lợi nhuận vốn CSH =
Lợi nhuận sau thuế
(6)
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu có thể tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận sau thuế, tức là cho thấy hiệu quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.
Cụ thể hơn, nó còn phản ánh một đồng doanh thu hoặc một đồng VKD bình quân có
thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp [4], [9], [11] thể hiện qua công
thức sau:
ROE =
Lợi nhuận sau thuế (NI)
(7)
Vốn chủ sở hữu bình quân (E)
abcROE
=
Lợi nhuận sau thuế
x
Doanh thu thuần
x
VKD bình quân
Doanh thu thuần
VKD bình quân Vốn CSH bình quân
* Vòng quay toàn bộ vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp trong một kỳ
quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này đánh giá được khả năng sử dụng tài sản
của doanh nghiệp hoặc doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản đã đầu tư. chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ vòng quay vốn kinh doanh càng lớn thể hiện hiệu quả kinh doanh
càng cao [9], [11].
Vòng quay vốn kinh doanh =
Doanh thu thuần trong kỳ
(9)
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
1.4.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
* Hệ số thanh toán ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn =
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
(10)
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đảm bảo của TSLĐ với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn
hạn là các khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải dùng tài sản
thực hiện của mình thanh toán bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền.
25