Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

hãy sử dụng mô hình 5 lực lượng để phân tích cơ cấu cạnh tranh của một ngành cụ thể.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.39 KB, 8 trang )

Họ và tên: Nguyễn Thị Minh
Lớp: K20z
Thái Nguyên, ngày 06 tháng 1 năm 2012
BÀI KIỂM TRA
MÔN: KINH TẾ QUẢN LÝ – BÀI SỐ 1
ĐỀ BÀI: Hãy sử dụng mô hình 5 lực lượng để phân tích cơ cấu cạnh tranh
của một ngành cụ thể.
Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện
nay, đã cung cấp một khung lý thuyết để phân tích. Trong đó, ông mô hình hóa các
ngành kinh doanh và cho rằng ngành kinh doanh nào cũng phải chịu tác động của năm
lực lượng cạnh tranh.
Mô hình “Năm lực lượng cạnh tranh” của ông được xuất bản lần đầu trên tạp
chí Harvard Business Review năm 1979 với nội dung tìm hiểu yếu tố tạo ra lợi nhuận
trong kinh doanh. Cho đến nay, mô hình này được xem là công cụ hữu ích và hiệu quả
để tìm hiểu nguồn gốc lợi nhuận và cung cấp các chiến lược cạnh tranh để doanh
nghiệp duy trì hay tăng lợi nhuận.
Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành sản
xuất bất kỳ chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh sau:
Hình 1: Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Michael Porter
1
Trải qua với 60 năm tồn tại và phát triển, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có
những đóng góp to lớn cho nền kinh tế. Số lượng và quy mô các Ngân hàng tăng lên
đáng kể, mạng lưới chi nhánh các Ngân hàng rộng khắp cả nước. Cuộc chay đua giành
thị phần huy động và thị phần tín dụng diễn ra bao năm nay với ưu thế thuộc về nhóm
ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD). Tuy nhiên xét về hiệu quả hoạt động,
các NHTMQD chưa thể bì kịp các đối thủ ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP).
Bên cạnh đó, trong tình hình thị trường tài chính – tiền tệ có nhiều biến động, hoạt
động của ngân hàng cũng đang phải đối mặt với vô số rủi ro. Nhưng khi khủng hoảng
kinh tế qua đi, với một thị trường tiềm năng còn lớn như Việt Nam, các ngân hàng sẽ
tập trung khai phá thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, cạnh tranh và rủi ro có thể sẽ
giảm đi. Bài tiểu luận này tập trung sử dụng mô hình 5 lực lượng để phân tích cơ cấu


cạnh tranh của ngành Ngân hàng Việt Nam. Bài viết có sử dụng nhiều tài liệu trên
trang Thesaigontime, các luận văn, khóa luận và kết quả các nghiên cứu về cạnh tranh
trong ngành ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn thầy Minh – giảng viên môn kinh
tế quản lý, chân thành cảm ơn các tác giả đã bỏ ra nhiều tâm huyết nghiên cứu về vấn
đề cạnh tranh trong lĩnh vực này.
1. Cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại
1.1 Về quy mô tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, mạng lưới giao dịch
1.1.1 Về quy mô tài sản
Có thể nhận thấy, ngành Ngân hàng vẫn đang trên đà phát triển, tổng tài sản của
các Ngân hàng không ngừng gia tăng giúp các Ngân hàng nâng cao thêm vị thế của
mình trong lĩnh vực Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Tổng tài sản của
ngành ngân hàng vẫn tập trung chủ yếu tại các ngân hàng thương mại quốc doanh bao
gồm BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank và một số ngân hàng thương mại cổ
phần lớn như ACB, Sacombank, Techcombank, Eximbank và MB. Tính đến tháng
6/2010, Ngân hàng Agribank vẫn dẫn đầu toàn ngành ngân hàng về giá trị tổng tài sản,
tiếp đến là BIDV, Vietinbank và Vietcombank. Trong nhóm các NHTM CP, ACB vẫn
dẫn đầu với tổng tài sản 174.743.479 triệu đồng.
Mặc dù có giá trị tuyệt đối lớn và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản ngành
ngân hàng nhưng tốc độ tăng trưởng của các ngân hàng nêu trên thấp hon nhiều so với
các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ. Tính đến hết tháng 6/2010, tổng tài sản của
ABBank ước đạt 31.743 tỷ đồng, của Maritime Bank là 84.000 tỷ đồng, Ocean Bank ở
mức 43.000 tỷ đồng, Đông Á Bank đã đạt hơn 46.105 tỷ đồng.
1.1.2 Về quy mô vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ
Vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ là nền tảng cho hoạt động ngân hàng, là tấm đệm
cho hoạt động kinh doanh mang tính rủi ro của ngân hàng. 6 tháng đầu năm 2010, tốc
độ tăng trưởng của vốn chủ sở hữu của các ngân hàng tương đối thấp và thấp hơn mức
tăng trưởng tổng tài sản, điều này chứng tỏ các ngân hàng Việt Nam đang phải đối mặt
2
với nhiều rủi ro hơn. Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thuộc khối NH TMQD vẫn
đạt giá trị và tỷ trọng lớn, cao nhất là Agribank; trong khối các NH TMCP thì

Eximbank là ngân hàng có mức vốn chủ sở hữu cao nhất đạt 13,667,930 tỷ đồng.
Trong cơ cấu nguồn vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thì vốn điều lệ và thặng dư vốn
cổ phần chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là các quỹ dự trữ như ở các ngân hàng
Agribank, BIDV, Vietcombank, Eximbank…
Theo nghị định 141/2006/NĐ-CP ban hành ngày 22/11/2006 về Ban hành danh
mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, đến ngày 31/12/2010, các NH
TMCP phải đạt mức vốn pháp định tối thiêu là 3,000 tỷ đồng. Trong khi các ngân
hàng thuộc khối NH TMQD đã đạt mức vốn pháp định tối thiểu thì nhiều NH TMCP
khác vẫn chưa đạt được yêu cầu này như Tiên Phong Bank…
1.1.3 Về mạng lưới giao dịch
Khi thị trường tài chính Việt Nam mở cửa theo lộ trình cam kết WTO, các ngân
hàng trong nước sẽ phải đối đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ đến từ các ngân hàng
nước ngoài nên việc mở rộng mạng lưới giao dịch là một trong các chiến lược được
nhóm ngân hàng này ưu tiên thực hiện.
Một nhóm các NHTMQD và NHTMCP lớn đã hoạt động lâu năm, có uy tín và
có nguồn vốn lớn nên đã sớm xây dựng được cho mình một mạng lưới các chi nhánh
và phòng giao dịch, phải phải kể đến các NHTM như Agribank, BIDV, Vietcombank,
Vietinbank và ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank…, đơn cử Agribank có tới
trên 2.230 chi nhánh và các điểm giao dịch, Vietinbank có 149 chi nhánh và 695
phòng giao dịch, BIDV có hơn 108 chi nhánh và 312 phòng giao dịch, Sacombank có
69 chi nhánh và 239 phòng giao dịch, Techcombank có 38 chi nhánh và 114 phòng
giao dịch… Ngược lại, nhóm các ngân hàng thương mại còn lại do nhiều nguyên nhân
như vốn điều lệ thấp, mới chuyển đổi mô hình, trước đây chỉ hoạt động trên những địa
bàn nhất định, chiến lược phát triển mạng lưới chưa hiệu quả… nên mạng lưới giao
dịch còn tương đối nhỏ so với nhóm trên, Liên Việt Bank có 7 chi nhánh và 10 phòng
giao dịch, Tiên Phong Bank có 5 chi nhánh và 15 phòng giao dịch. Trong thời gian tới,
nếu tình hình nên kinh tế ổn định, hoạt động ngân hàng phát triển thì số lượng phòng
giao dịch, chi nhánh của các NHTM ở Việt Nam sẽ tăng lên với một tốc độ vừa phải,
thấp hơn so với tốc độ tăng các năm trước đây.
1.2 Về hoạt động huy động vốn, tín dụng và các sản phẩm dịch vụ

1.2.1 Về huy động vốn
Trong 6 tháng đầu năm 2011, các ngân hàng vẫn gặp nhiều khó khăn trong huy
động vốn do áp lực phải giảm lãi suất cho vay và huy động. Áp lực này sẽ càng lớn
hơn khi các ngân hàng phải thực hiện giảm lãi suất theo lộ trình đã thỏa thuận của
Hiệp hội Ngân hàng và các NHTM trong các tháng cuối năm. Một thực tế là rất nhiều
ngân hàng nhỏ như PGBank, SHB, SCB,… để tăng huy động vốn đã tung ra rất nhiều
chương trình khuyến mãi rầm rộ, thực chất là một hình thức “lách luật” để không phải
3
tăng lãi suất huy động niêm yết mà vẫn thu hút được khách hàng. Trong khi đó, các
ngân hàng lớn "thừa vốn" chưa giải ngân hết nhưng lại không thể giảm lãi suất huy
động xuống dưới 11% vì lo không thể cạnh tranh được với các ngân hàng nhỏ với
nhiều hình thức khuyến mãi hấp dẫn. Có thể thấy thị trường tiền tệ đang có nghịch lý,
trong khi tín dụng tăng trưởng chậm nhưng ngân hàng lại phải cạnh tranh khốc liệt để
huy động vốn dẫn đến việc giảm lãi suất bị mắc kẹt. Ngân hàng lớn hiện đang thừa
vốn nhưng không thể cho các ngân hàng nhỏ vay lại khi "vướng" phải quy định không
được dùng quá 20% vốn liên ngân hàng làm vốn tín dụng.
Bảng 1: Thị phần huy động vốn của các nhóm NH
STT Loại hình TCTD
2010 (%) 3/2011 (%)
Tổng
số
VNĐ
Ngoại
tệ
Tổng
số
VNĐ
Ngoại
tệ
Toàn hệ thống

100 100 100
100 100 100
1 TCTD Nhà nước
49.7 52.6 40.4
48.3 51.5 37.7
2 Ngân hàng thương mại cổ phần 40.8 40.3 42.4
42.6 41.9 44.9
3 NH liên doanh, Chi nhánh NH
nước ngoài, NH 100% vốn n-
ước ngoài
7.5 4.8 16.4
7.1 4.3 16.6
4 Công ty tài chính, cho thuê tài
chính
0.9 1.0 0.8
0.9 1.0 0.8
5 Quỹ Tín dụng nhân dân
1.0 1.3 0.0
1.1 1.4 0.0
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
1.2.2 Về hoạt động tín dụng
Trong quý I năm nay lãi suất lên tới mức rất cao lãi suất (17-18%/năm, cá biệt
lên tới 19-20%/năm) gây khó khăn cho việc mở rộng tín dụng. Mặt bằng lãi suất hiện
nay tuy đã giảm nhưng vẫn còn tương đối cao đối với khả năng tiếp cận của doanh
nghiệp, đây sẽ tiếp tục là một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự sụt giảm
trong tăng trưởng tín dụng.
Nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ lớn hơn so với VNĐ, nguyên nhân là do lãi suất
cho vay VNĐ (16 - 18%/năm) cao hơn quá nhiều so với lãi suất cho vay ngoại tệ (4 –
5%/năm), dẫn đến việc các doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận rủi ro tỷ giá để đi vay
bằng ngoại tệ.

2. Nguy cơ Thay thế
Đối với khách hàng doanh nghiệp, nguy cơ ngân hàng bị thay thế không cao
lắm do đối tượng khách hàng này cần sự rõ ràng cũng như các chứng từ, hóa đơn trong
các gói sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Nếu có phiền hà xảy ra trong quá trình sử
dụng sản phẩm, dịch vụ thì đối tượng khách hàng này thường chuyển sang sử dụng
một ngân hàng khác vì những lý do trên thay vì tìm tới các dịch vụ ngoài ngân hàng.
4
Đối với khách hàng tiêu dùng thì lại khác, thói quen sử dụng tiền mặt khiến cho
người tiêu dùng Việt Nam thường giữ tiền mặt tại nhà hoặc nếu có tài khoản thì khi có
tiền lại rút hết ra để sử dụng.
Các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp trả lương qua tài khoản ngân hàng nhằm thúc
đẩy các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần làm minh bạch tài
chính cho mỗi người dân.
Nhưng các địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ lại đa số là các nhà hàng,
khu mua sắm sang trọng, những nơi không phải người dân nào cũng tới mua sắm.
Ngay ở các siêu thị, người tiêu dùng cũng phải chờ đợi nhân viên đi lấy máy đọc thẻ
hoặc đi tới một quầy khác khi muốn sử dụng thẻ để thanh toán. Chính sự bất tiện này
cộng với tâm lý chuộng tiền mặt đã khiến người tiêu dùng muốn giữ và sử dụng tiền
mặt hơn là thông qua ngân hàng.
Ngoài hình thức gửi tiết kiệm ở ngân hàng, người tiêu dùng Việt Nam còn có
khá nhiều lựa chọn khác như giữ ngoại tệ, đầu tư vào chứng khoán, các hình thức bảo
hiểm, đầu tư vào kim loại quý (vàng, kim cương…) hoặc đầu tư vào nhà đất. Không
phải lúc nào lãi suất ngân hàng cũng hấp dẫn người tiêu dùng. Chẳng hạn như thời
điểm này, giá vàng đang sốt, tăng giảm đột biến trong ngày, trong khi đô la Mỹ ở thị
trường tự do cũng biến động thì lãi suất tiết kiệm của đa số các ngân hàng chỉ ở mức
7-8% một năm.
3. Sức mạnh của khách hàng
Sự kiện nổi bật gần đây nhất liên quan đến quyền lực của khách hàng có lẽ là việc
các ngân hàng quyết định thu phí sử dụng ATM trong khi người tiêu dùng không đồng
thuận. Trong vụ việc này, ngân hàng và khách hàng ai cũng có lý lẽ của mình nhưng rõ

ràng nó đã ảnh hưởng không ít đến mức độ hài lòng và lòng tin của khách hàng.
Nhưng không vì thế mà ta có thể đánh giá thấp quyền lực của khách hàng trong ngành
ngân hàng tại Việt Nam.
Điều quan trọng nhất vẫn là: việc sống còn của ngân hàng dựa trên đồng vốn
huy động được của khách hàng. Nếu không còn thu hút được dòng vốn của khách hàng
thì ngân hàng tất nhiên sẽ bị đào thải. Trong khi đó, như đã nói ở phần trên, nguy cơ
thay thế của ngân hàng ở Việt Nam, đối với khách hàng tiêu dùng, là khá cao.
Với chi phí chuyển đổi thấp, khách hàng gần như không mất mát gì nếu muốn chuyển
nguồn vốn của mình ra khỏi ngân hàng và đầu tư vào một nơi khác.
4. Sức mạnh của nhà cung cấp
5
Khái niệm nhà cung cấp trong ngành ngân hàng khá đa dạng. Họ có thể là
những cổ đông cung cấp vốn cho ngân hàng hoạt động, hoặc là những công ty chịu
trách nhiệm về hệ thống hoặc bảo trì máy ATM. Hiện tại ở Việt Nam các ngân hàng
thường tự đầu tư trang thiết bị và chọn cho mình những nhà cung cấp riêng tùy theo
điều kiện.
Điều này góp phần giảm quyền lực của nhà cung cấp thiết bị khi họ không thể cung
cấp cho cả một thị trường lớn mà phải cạnh tranh với các nhà cung cấp khác. Tuy
nhiên khi đã tốn một khoản chi phí khá lớn vào đầu tư hệ thống, ngân hàng sẽ không
muốn thay đổi nhà cung cấp vì quá tốn kém, điều này lại làm tăng quyền lực của nhà
cung cấp thiết bị đã thắng thầu.
Quyền lực của các cổ đông trong ngành ngân hàng, những đại cổ đông có thể có tác
động trực tiếp đến chiến lược kinh doanh của một ngân hàng. Nhìn chung hầu hết các
ngân hàng Việt Nam đều nhận đầu tư của một ngân hàng khác.
Quyền lực của nhà đầu tư sẽ tăng lên rất nhiều nếu như họ có đủ cổ phần và việc sáp
nhập với ngân hàng được đầu tư có thể xảy ra. Ở một khía cạnh khác, ngân hàng đầu
tư sẽ có một tác động nhất định đến ngân hàng được đầu tư.
5. Các rào cản gia nhập
Nếu các ngân hàng mới dễ dàng gia nhập thị trường thì mức độ cạnh tranh sẽ càng lúc
càng gia tăng. Nguy cơ từ các ngân hàng mới sẽ phụ thuộc vào “độ cao” của rào cản

gia nhập. Theo các cam kết khi gia nhập WTO, lĩnh vực ngân hàng sẽ được mở cửa
dần theo lộ trình bảy năm.
Ngành ngân hàng đã có những thay đổi cơ bản khi các tổ chức tài chính nước ngoài có
thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng Việt Nam và sự xuất hiện của các ngân hàng
100% vốn nước ngoài. Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã gỡ bỏ dần các hạn chế về tỷ lệ
tham gia cổ phần trong ngành ngân hàng của các định chế tài chính nước ngoài theo
cam kết trong Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ.
Đã có năm ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép thành lập tại Việt Nam,
rào cản cho sự xuất hiện của các ngân hàng có nguồn gốc nội địa đang được nâng cao
lên sau khi Chính phủ tạm ngưng cấp phép thành lập ngân hàng mới từ tháng 8-2008.
Cường độ cạnh tranh của các ngân hàng càng tăng cao khi có sự xuất hiện của nhóm
ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng nước ngoài thường sẵn có một phân khúc
khách hàng riêng, đa số là doanh nghiệp từ nước họ. Họ đã phục vụ những khách hàng
6
này từ rất lâu ở những thị trường khác và khi khách hàng mở rộng thị trường sang Việt
Nam thì ngân hàng cũng mở văn phòng đại diện theo.
Ngoài ra, ngân hàng ngoại còn có không ít lợi thế như hạ tầng dịch vụ hơn hẳn,
dịch vụ khách hàng chuyên nghiệp, công nghệ tốt hơn (điển hình là hệ thống Internet
banking). Quan trọng hơn nữa, đó là khả năng kết nối với mạng lưới rộng khắp trên
nhiều nước của ngân hàng ngoại. Để cạnh tranh với nhóm ngân hàng này, các ngân
hàng trong nước đã trang bị hệ thống hạ tầng công nghệ, sản phẩm dịch vụ, nhân sự
khá quy mô.
Lợi thế của ngân hàng trong nước là mối quan hệ mật thiết với khách hàng có sẵn.
Ngân hàng trong nước sẵn sàng linh hoạt cho vay với mức ưu đãi đối với những khách
hàng quan trọng của họ.
Ngoài các quy định về vốn điều lệ, quãng thời gian phải liên tục có lãi, các ngân hàng
mới thành lập còn bị giám sát chặt bởi Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên điều đó sẽ
không thể ngăn cản những doanh nghiệp, đủ điều kiện, tham gia vào ngành ngân hàng
một khi Chính phủ cho phép thành lập ngân hàng trở lại.
Rào cản gia nhập còn được thể hiện qua các phân khúc thị trường, thị trường mục tiêu

mà các ngân hàng hiện tại đang nhắm đến, giá trị thương hiệu cũng như cơ sở khách
hàng, lòng trung thành của khách hàng mà các ngân hàng đã xây dựng được.
Một khi các ngân hàng hiện tại đã xây dựng được cho mình một thương hiệu bền
vững, với những sản phẩm, dịch vụ tài chính hiệu quả và khác biệt cộng với một cơ sở
khách hàng đông đảo và trung thành, chi phí chuyển đổi (switching cost) để lôi kéo
khách hàng của ngân hàng mới thành lập sẽ cực kỳ cao và do đó họ bắt buộc phải cân
nhắc thật kỹ trước khi quyết định gia nhập thị trường hay không.
Thực tế trên thị trường ngành ngân hàng Việt Nam cho thấy chi phí chuyển đổi nhìn
chung không cao do các ngân hàng chưa thật sự tạo được điểm khác biệt về chiến lược
sản phẩm, dịch vụ.
Một yếu tố có thể làm tăng chi phí chuyển đổi lên một chút và tạo một lợi thế cạnh
tranh cho các ngân hàng đang hoạt động là hệ thống phân phối. Các ngân hàng thành
lập sau này sẽ gặp khá nhiều rắc rối trong việc tìm một địa điểm ưng ý để đặt văn
phòng chính cũng như các chi nhánh văn phòng giao dịch bởi vì các vị trí đẹp và tiện
lợi đều đã bị các ngân hàng đang hoạt động dành mất.
Tuy vậy, các ngân hàng thành lập sau này vẫn có thể dựa vào lợi thế công nghệ để phát
triển hệ thống kinh doanh của mình thông qua Internet banking hoặc hệ thống ATM.
7
Nhìn vào ngành ngân hàng Việt Nam hiện tại trong bối cảnh Việt Nam cũng như thế
giới đang bị bao trùm bởi cuộc khủng hoảng kinh tế, rào cản gia nhập khá cao khiến
cho nguy cơ xuất hiện ngân hàng mới trong tương lai gần là khá thấp.
Nhưng một khi kinh tế thế giới hồi phục cộng với sự mở cửa của ngành ngân hàng
theo các cam kết với WTO và các tổ chức khác, sự xuất hiện của các ngân hàng mới là
một điều gần như chắc chắn.
Không chỉ các đối thủ hiện tại mới tạo ra nguy cơ đe dọa các doanh nghiệp trong một
ngành, mà khả năng các hãng mới có thể gia nhập ngành cũng ảnh hưởng đến cuộc
cạnh tranh. Xét về mặt lý thuyết, bất cứ công ty nào cũng có thể tham gia hoặc rút lui
khỏi thị trường, nếu tồn tại “cổng vào” và “cổng ra” tự do. Khi đó, lợi nhuận của
ngành sẽ là không đáng kể. Tuy nhiên trên thực tế, mỗi ngành có những biện pháp
riêng để bảo vệ mức lợi nhuận cao của các đơn vị đã có mặt trong thị trường, đồng

thời ngăn cản các đối thủ tiềm năng gia nhập vào thị trường đó. Những biện pháp này
được gọi là các rào cản gia nhập.
Xu hướng trong ngành ngân hàng
Hiện nay Việt Nam đang có quá nhiều ngân hàng nhưng chưa có một ngân hàng
thực sự mạnh tầm cỡ quốc tế. Nhìn chung, các ngân hàng đang đua nhau mở rộng quy
mô mạng lưới để huy động nhiều vốn (phát triển theo chiều rộng). Việc này dẫn đến
tình trạng các ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt với nhau trong hoạt động tín dụng
mà quên mất các sản phẩm và dịch vụ tiện ích kèm theo (chiều sâu). Đồng thời, các
ngân hàng mở rộng quy mô nhưng do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho nên
công tác quản trị lại không theo kịp quy mô phát triển.
Khủng hoảng kinh tế cũng mang lại rất nhiều khó khăn cho ngành ngân hàng,
một số ngân hàng đã không thể duy trì được mức tăng trưởng trong năm vừa qua. Đây
chính là cơ sở để nhiều chuyên gia về sáp nhập (M&A) đưa ra nhận định rằng xu
hướng sáp nhập trong ngành ngân hàng đang đến gần.
Tuy nhiên, ngành ngân hàng là một trong những ngành nghề nhạy cảm, do vậy
việc sáp nhập chỉ có thể xảy ra trong vòng một, hai năm nữa khi ngành ngân hàng đã
được mở nhiều cửa hơn theo cam kết với WTO.
8

×