Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành quận tân phú, thành phố hồ chí minh giai đoạn 2005 – 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.23 KB, 120 trang )

- 1 -
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế và chuyển dòch
cơ cấu kinh tế ngành 1
1.1 Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành 1
1.1.1 Cơ cấu kinh tế 1
1.1.2 Cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành 2
1.1.3 Đặc điểm của cơ cấu kinh tế ngành 6
1.2 Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành 8
1.2.1 Thực chất chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành 9
1.2.2 Yêu cầu của chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 13
1.2.3 Các nhân tố cơ bản quy đònh chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành 18
1.3 Vai trò chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp
hóa,
hiện đại hóa 27
1.3.1 Đònh hướng phát triển ngành trong tổ chức quản lý kinh tế 27
1.3.2 Quy đònh phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động kinh tế 28
1.3.3 Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 30
Chương 2. Thực trạng cơ cấu ngành và chuyển dòch cơ cấu ngành
ở quận Tân Phú TP.HCM 33
2.1 Đặc điểm kinh tế xã hội của quận Tân Phú TPHCM 33
2.2 Thực trạng cơ cấu và chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành 35
2.2.1 Cơ cấu kinh tế theo loại hình tổ chức kinh doanh 35
2.2.2 Cơ cấu ngành phản ánh qua giá trò sản xuất 38
2.2.3 Cơ cấu kinh tế phản ánh qua đóng góp ngân sách đòa phương 44
2.2.4 Cơ cấu kinh tế phản ánh qua kim ngạch xuất khẩu 45
2.2.5 Cơ cấu ngành phản ánh qua các ngành hàng chủ lực 46
- 2 -
2.3 Nguyên nhân, bài học kinh nghiệm chuyển dòch cơ cấu ngành 47


2.3.1 Nguyên nhân 47
2.3.2 Bài học kinh nghiệm 50
Chương 3. Một số giải pháp chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành
ở quận Tân Phú TP.HCM 53
3.1 Mục tiêu phát triển kinh tế của quận 53
3.1.1 Mục tiêu kinh tế của quận 54
3.1.2 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn 56
3.2 Những quan điểm cơ bản 59
3.2.1 Phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh
và bền vững 59
3.2.2 Quan điểm lòch sử cụ thể 59
3.2.3 Quan điểm toàn diện 60
3.2.4 Quan điểm hiệu quả kinh tế – xã hội 60
3.2.5 Quan điểm đònh hướng chuyển dòch cơ cấu ngành 61
3.3 Các giải pháp chủ yếu 64
3.3.1 Phân công lại lao động, phát triển ngành nghề theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa 64
3.3.2 Thu hút vốn, đầu tư vốn cho chuyển dòch cơ cấu kinh tế 74
3.3.3 Giải pháp về thu hút và phát triển nguồn nhân lực 77
3.3.4 Giải pháp về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội 80
3.3.5 Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý 86
Kết luận 88
Tài liệu tham khảo
Phần phụ lục

- 3 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế một tất yếu khách quan trong quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế tạo nên sự chuyển đổi căn
bản nền kinh tế trên nhiều lónh vực: Phân công lại lao động xã hội, chuyển dòch
các nguồn lực sử dụng trong quá trình sản xuất, gia tăng năng lực sản xuất, tăng
sản phẩm xã hội, góp phần thỏa mãn nhu cầu ngày càng tốt hơn.
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam diễn ra trên nhiều lónh vực khác
nhau như: cơ cấu vùng, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu nhiều thành phần, cơ cấu ngành;
trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Chuyển dòch cơ cấu ngành để phân bổ
hợp lý tài nguyên, sắp xếp lại lao động phù hợp các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội là vấn đề có ý nghóa chiến lược quan trọng. Nghò quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững,
chuyển dòch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hóa”.
Đối với Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh chuyển dòch cơ cấu ngành, cơ
cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy lợi thế tương đối của quận, giải quyết việc
làm, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thò
trường… có ý nghóa cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội
của quận.
Nằm trong đòa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua,
quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành quận Tân Phú đã có những chuyển
biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều vấn đề phát sinh gây khó khăn cho quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế
- 4 -
ngành của quận như: xây dựng chiến lược, vốn, đào tạo nguồn nhân lực và
những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan. Để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề
trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành quận Tân Phú,
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2005 – 2020”, làm Luận văn Thạc só Kinh
tế; chuyên ngành Kinh tế chính trò của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Bàn về chuyển dòch cơ cấu ngành kinh tế có nhiều công trình nghiên cứu
khác nhau đã công bố như: “Hướng chuyển dòch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí

Minh”, của Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; “Chuyển dòch cơ cấu ngành
công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hóa” của Nguyễn Ân… Tuy nhiên, nghiên cứu về chuyển dòch cơ cấu kinh tế
ngành trên đòa bàn các quận ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có quận Tân
Phú chưa có đề tài nào công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1.Mục đích
Mục đích của đề tài là vạch ra các quan điểm và giải pháp đảm bảo quá
trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý hiệu quả trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Một là, khái quát hóa những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế. Từ đó xác đònh nội dung, yêu cầu trong quá trình chuyển dòch
cơ cấu kinh tế ngành quận Tân Phú.
Hai là, phân tích hiện trạng của cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dòch
cơ cấu ngành nói riêng trên các mặt đònh tính, đònh lượng, những thành quả đã
đạt được, những hạn chế trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội
- 5 -
của quận. Trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho quá trình
chuyển dòch cơ cấu kinh tế của quận trong thời gian tới.
Ba là, xác đònh những quan điểm, những mục tiêu đònh hướng cơ bản làm
cơ sở đề xuất những giải pháp chủ yếu đảm bảo cho quá trình chuyển dòch cơ
cấu kinh tế ngành quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh một cách hợp lý, hiệu
quả.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu,
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Cơ cấu kinh tế ngành, chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trên đòa bàn quận
Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian đòa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; về thời

gian từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý của chủ nghóa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơ cấu kinh tế và chuyển dòch cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế ngành. Các văn kiện
của Đảng cộng sản Việt Nam về chuyển dòch cơ cấu kinh tế. Các nguyên lý của
kinh tế chính trò Mác - Lênin.
5.2.Nguồn tài liệu tham khảo.
Các tác phẩm kinh điển của Karl Marx, F.Engels, V.I. Lenine về cơ cấu
kinh tế và chuyển dòch cơ cấu kinh tế; Kinh tế chính trò Mác – Lênin, các Văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tư liệu của Viện chiến lược phát triển,
Bộ Kế hoạch Đầu tư, Báo cáo của Ủy Ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
Báo cáo của Ủy Ban nhân dân quận Tân Phú.
- 6 -
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghóa duy vật biện
chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử. Vận dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế -
xã hội nói chung, phân tích, tổng hợp kết hợp lô gích và lòch sử, số liệu thống kê
từ Ủy Ban Nhân dân Quận Tân Phú
6. Đóng góp của đề tài
Một là, hệ thống hóa về mặt lý luận cơ cấu kinh tế, chuyển dòch cơ cấu
kinh tế ngành và vai trò của chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trong tổ chức
quản lý. Từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm trong tổ chức quản lý
quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành ở quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Hai là, vạch ra các quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hóa, phát triển kinh tế ở quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh
một cách hiệu quả.
Ba là, cung cấp những tư liệu cần thiết cho các cơ quan, đơn vò trên đòa

bàn quận Tân Phú cũng như Thành phố Hồ Chí Minh, trong công tác dự báo, xây
dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung và các ngành
kinh tế nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung cơ
bản của luận văn được kết cấu thành 3 chương, có 87 trang.




- 7 -
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ NGÀNH
1.1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu là “sự tổ chức và sắp xếp nhiều bộ phận ghép lại” [6,428]. Cơ cấu
kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa các nhân tố, các bộ phận, cấu thành một chỉnh
thể nhất đònh của nền kinh tế “tổng thể các ngành, lónh vực bộ phận kinh tế có
quan hệ hữu cơ tương đối ổn đònh hợp thành” [6,610]. Cơ cấu kinh tế theo nghóa
rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lónh vực kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và
hướng phát triển các vùng kinh tế.
Trong một nền kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem xét ở nhiều góc độ khác
nhau: cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu theo ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu theo
vùng, cơ cấu theo đơn vò hành chính lãnh thổ, cơ cấu theo thành phần kinh tế;
trong đó cơ cấu theo ngành kinh tế kỹ thuật mà trước hết là cơ cấu công - nông
nghiệp là quan trọng nhất. Karl Marx cho rằng: “ Cơ cấu kinh tế của xã hội là
toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất đònh của
các lực lượng sản xuất vật chất”. Sở dó như vậy, vì ở mỗi trình độ khác nhau của

lực lượng sản xuất sẽ quyết đònh nhũng quan hệ sản xuất khác nhau, mối quan
hệ giữa các bộ phận cấu thành cũng khác nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế khác
nhau, đặc biệt là cơ cấu ngành, bởi gắn với mỗi ngành sản xuất khác nhau có tư
liệu sản xuất khác nhau, tổ chức quản lý khác nhau…Các bộ phận này cấu thành
lực lượng sản xuất vật chất của một xã hội nhất đònh.
- 8 -
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã
hội ở Việt Nam là xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý gồm: 1, cơ cấu ngành:
phát triển các ngành nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đồng thời tăng tốc độ phát triển các ngành công
nghiệp, mở rộng khu vực dòch vụ, từng bước đưa nền kinh tế phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại; 2, cơ cấu thành phần kinh tế; 3, cơ cấu kinh tế vùng.
1.1.2. Cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành.
Cơ cấu ngành là mối quan hệ tỷ lệ và sự tác động qua lại giữa các ngành
và giữa các bộ phận hợp thành trong ngành của nền kinh tế quốc dân. “Cơ cấu
kinh tế ngành: là quan hệ tỷ lệ gắn bó hữu cơ, vừa nương tựa vào nhau, vừa chế
ước lẫn nhau giữa các ngành và các phân ngành cũng như giữa các doanh nghiệp
trong nội bộ ngành và phân ngành. Cơ cấu ngành là bộ phận động nhất trong cơ
cấu kinh tế nói chung” [16,17].
Cơ cấu nội bộ ngành là mối quan hệ tỷ lệ trong nộâi bộ của mỗi ngành.
Đối với cơ cấu ngành nông nghiệp là mối quan hệ tỷ lệ giữa trồng trọt, ngành
chăn nuôi, thủy sản, dòch vụ cho sản xuất nông lâm, ngư nghiệp. Đối với ngành
công nghiệp là mối quan hệ tỷ lệ giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công
nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và các ngành công nghiệp khác; xu
hướng vận động của chúng là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp có thiết bò và
công nghệ hiện đại, tỷ trọng hàm lượng lao động chất xám, lao động trí tuệ trong
các sản phẩm; giảm các ngành có trang thiết bò lạc hậu, công năng thấp, giảm
các sản phẩm có dung lượng lao động hao phí nhiều lao động cơ bắp
Nếu dựa vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật có thể phân chia thành các ngành
kinh tế lớn như sau: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, thương mại,

dòch vụ v.v Trong mỗi ngành lại có thể phân chia thành các phân ngành; chẳng
hạn ngành công nghiệp có: cơ khí, điện lực, hóa chất…Nếu phân chia theo tính
- 9 -
chất tác động vào đối tượng lao động sẽ có các ngành: ngành khai thác (nông
nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác), các ngành chế biến và các ngành
dòch vụ.
Cơ cấu của mỗi ngành và cách phân chia ngành có nhiều quan điểm khác
nhau, tùy theo cách tiếp cận của mỗi nước trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, dựa vào tiêu chuẩn chung các nước trên thế giới đã chia
thành 3 ngành: thứ 1, nông, lâm, ngư nghiệp; thứ 2, khai thác, xây dựng, chế
biến; thứ 3, là các ngành còn lại.
Sự hình thành cơ cấu ngành của mỗi nền kinh tế do trình độ phát triển của
nền sản xuất xã hội, phân công lao động xã hội và hợp tác về sức sản xuất của
nền sản xuất xã hội từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện. “Nếu chỉ xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể
gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như nông nghiệp,
công nghiệp…, là sự phân công lao động chung, và sự phân chia những ngành sản
xuất ấy thành loại và thứ - là sự phân công lao động đặc thù, còn sự phân công
trong xưởng thợ - là sự phân công lao động cá biệt” [11, 405]
Chính sự phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực
lượng sản xuất, nền sản xuất xã hội xuất hiện nhiều ngành nghề mới. Đối với
những nước trong giai đoạn đầu khi cơ sở vật chất kỹ thuật còn có những hạn
chếâ nhất đònh, sức sản xuất, năng lực sáng tạo những thành tựu mới của khoa
học kỹ thuật công nghệ còn nhiều hạn chế, kỹ thuật chỉ đóng ở vai trò thứ yếu,
thì nhân tố quan trọng tài nguyên thiên nhiên, vốn, sức lao động …là nguồn gốc
của sự phát triển và tăng trưởng kinh tế, được tập trung chủ yếu vào ngành thứ 1
và ngành thứ 2, là những ngành lấy sản phẩm trực tiếp từ tự nhiên và chế biến
sản phẩm tự nhiên.
- 10 -
Lòch sử đã có một thời gian tương đối dài, ngành chủ đạo, trụ cột sự phát

triển của các nền sản xuất xã hội là nông nghiệp hoặc công nghiệp. Song khi lực
lượng sản xuất phát triển, sự thay đổi về công cụ lao động và đối tượng lao động
cho thấy hàm lượng khoa học kỹ thuật, công nghệ và thông tin tăng lên rất
nhiều. Sự phát triển đó dẫn đến thay đổi đầu vào của các yếu tố sản xuất, phân
bổ các ngành nghề ngày càng nghiêng về các ngành công nghệ mới và phục vụ
có hàm lượng lao động chất xám, lao động trí tuệ cao.
Việc phân tích cơ cấu ngành của nền kinh tế không chỉ dừng lại ở những
biểu hiện về mặt lượng (số lượng ngành, tỷ trọng), mà quan trọng hơn là phân
tích được mặt chất của cơ cấu: ví trí, vai trò của ngành hiện tại trong nền kinh tế
và hướng phát triển trong tương lai của chúng. Sự tương tác giữa công nghiệp và
nông nghiệp trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, khả năng hướng ngoại
gắn với xu thế quốc tế hóa, toàn cần hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ giữa
cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ, vùng kinh tế để phát huy lợi thế tuyệt đối và
lợi thế tương đối của mỗi vùng và cơ cấu thành phần kinh tế
Ở nước ta, quá trình mở rộng và phát triển ngành nghề, phân công lại lao
động xã hội, đã đem lại những thành công nhất đònh, vừa góp phần xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật, vừa giải quyết việc làm, tạo ra nhiều sản phẩm ổn đònh và
nâng cao đời sống nhân dân trong thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, việc bố trí cơ cấu
kinh tế có những sai lầm không nhỏ nhất là cơ cấu ngành; trong giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ nguồn vốn còn hạn hẹp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu;
song do nóng vội chủ quan, rập khuôn máy móc, phát triển ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp cơ khí, nhiều công trình “thế kỷ” ra đời, nhưng nguồn vốn
không đáp ứng, không phù hợp với thực tiễn nước ta dẫn đến lãng phí, hiệu quả
kinh tế rất thấp, một nước sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kết cấu hạ
tầng thấp kém; dẫn đến sản xuất sa sút đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn…
- 11 -
Nhận thức rõ vấn đề này, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ
trương đổi mới, trong đó đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế
hàng hóa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện ba chương trình
mục tiêu: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đã đưa nền

nền sản xuất phát triển, có được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn đònh và nâng
cao đời sống nhân dân.
Quá trình đó, thực hiện công nghiệp hóa với các nội dung: cách mạng
khoa học kỹ thuật, công nghệ; chuyển dòch cơ cấu kinh tế phân công lại lao động
một cách hợp lý, với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện
cụ thể của nước ta trong từng giai đoạn từng thời kỳ, mà “bộ xương” của nó là
“cơ cấu công - nông nghiệp - dòch vụ” gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3.Đặc điểm của cơ cấu kinh tế ngành.
Cơ cấu kinh tế ngành mang tính khách quan, tính khách quan này do trình
độ của lực lượng sản xuất quy đònh. Cơ cấu ngành là một kết cấu kinh tế khách
quan, nhất là trong điều kiện kinh tế thò trường, thích ứng với khả năng và nhu
cầu ản xuất sản phẩm do các ngành tạo ra. Tính khách quan của cơ cấu kinh tế
ngành trước hết do phân công lao động xã hội, sự
phân chia lao động xã hội thành những ngành nghề sản xuất khác nhau để sản
xuất ra sản phẩm có công dụng khác nhau quy đònh. Phân công lao động xã hội
dẫn đến xuất hiện các ngành, lónh vực, bộ phận kinh tế gắn liền với sự phát triển
của lực lượng sản xuất sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỷ lệ cân đối tương
ứng giữa các bộ phận, tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá
trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng yêu cầu đó.
Như vậy, cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành nói riêng, trước hết
tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động
- 12 -
xã hội. Song lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất trong
một phương thức sản xuất, và quyết đònh đối với quan hệ sản xuất. Thực chất
của quan hệ sản xuất được biểu hiện trên ba mặt: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lý hay trao đổi hoạt động lao động cho nhau và
quan hệ về phân phối sản phẩm.
Trong quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có tính chất
quyết đònh đối với ngành kinh tế, bởi tư liệu sản xuất nào sẽ có các đối tượng lao

động và tư liệu lao động tương ứng, để phát triển các ngành kinh tế cụ thể đối
với tư liệu sản xuất đó nhằm tạo ra sản phẩm thích ứng đối với mỗi ngành. Hơn
thế quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết đònh quan hệ tổ chức quản lý hay
trao đổi hoạt động lao động cho nhau và quan hệ phân phối sản phẩm; nghóa là
quy đònh việc phát triển ngành nghề.
Cơ cấu kinh tế mang tính lòch sử, nó thường xuyên vận động biến đổi làm
cho số lượng và tỷ trọng các ngành nghề thay đổi. Sở dó như vậy vì gắn với mỗi
giai đoạn phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, của phân công lao động,
có quan hệ sản xuất khác nhau tạo nên sự biến đổi số lượng, tỷ trong và vai trò
khác nhau của các ngành nghề. Hơn thế, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
là hai mặt thống nhất trong một phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản
xuất là nội dung là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, lực lượng sản xuất luôn
vận động và biến đổi; quan hệ sản xuất phải vận động và biến đổi theo nó. Do
vậy, cơ cấu kinh tế thay đổi là một điều tất yếu.
Việc nắm vững tính lòch sử và tính khách quan của cơ cấu kinh tế có ý
nghóa đặc biệt quan trọng. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng xác đònh
cơ cấu kinh tế và chuyển dòch cơ cấu ngành, thích ứng với từng giai đoạn để tận
dụng có hiệu quả tối đa năng lực sản xuất sẵn có, nhân tố có ý nghóa quyết đònh
- 13 -
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế của đất nước trong mỗi giai
đoạn, mỗi thời kỳ.
Xu hướng chung về sự biến động cơ cấu kinh tế ngành trên thực tế phản
ánh tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất công, nông nghiệp giảm, ngành dòch vụ
phi vật chất tăng lên trong nền kinh tế quốc dân. “Ở Mỹ ngay từ năm 1955 số
lao động dòch vụ và văn phòng đã nhiều hơn số lượng công nhân trực tiếp sản
xuất. Trong các thời kỳ 1960 -1989, tỷ trọng số lao động làm việc trong các
ngành thứ nhất và thứ hai trong tổng lao động cả nước Mỹ giảm bình quân hàng
năm tương ứng là 3,3% và 1,3%, trong khi đó tỷ trọng lao động trong ngành thứ
ba tăng bình quân 1,2%” [17, 105-106]
Xu hướng biến động của cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình tái sản xuất

xã hội đã được Karl Marx phân tích trong lý luận tái sản xuất tư bản xã hội và
đã rút ra ba kết luận quan trọng đảm bảo quá trình tái sản xuất xã hội, thứ nhất
I(v+m)>IIC; thứ hai, I(c+v+m)>IC + IIC; thứ ba, II(c+v+m) <I(v+m)+II(v+m).
V.I.Lenin kế thừa và phát triển nguyên lý của Karl Marx, phân tích nền
sản xuất xã hội trong điều kiện tái sản xuất mở rộng và cho rằng: sản xuất
TLSX để sản xuất ra TLSX phát triển nhanh nhất, thứ đến sản xuất ra TLSX để
sản xuất ra TLTD và cuối cùng là sản xuất ra TLTD.
“Tôi thiết tưởng rằng nếu giai cấp công nhân hiện đang nắm được những
ngành cực kỳ quan trọng của đại công nghiệp mà tập trung chú ý phát triển
những ngành quan trọng nhất, thì nó sẽ được lợi hơn là nền tiểu công nghiệp, tuy
rằng theo tỷ lệ thì nền tiểu công nghiệp phát triển nhanh hơn” [7,100].
1.2. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành
Đối với mỗi quốc gia, yêu cầu của sự phát triển luôn đòi hỏi phải có một
cơ cấu kinh tế hợp lý, nghóa là phải có sự xác đònh mối quan hệ giữa các ngành,
- 14 -
các vùng, các thành phần kinh tế …và ngay giữa các bộ phận trong cùng một
ngành kinh tế. Những mối quan hệ này thể hiện cả trên hai mặt chất và lượng.
Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay đang có những biến đổi sâu sắc, cách
mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra một cách mạnh mẽ, sâu rộng đã và
đang cuốn hút các nước ở nhiều mức độ khác nhau trong quá trình quốc tế hóa,
toàn cầu hóa về mặt kinh tế. Những biến đổi đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh
cho các nước, vừa đặt ra những thử thách gay gắt, nhất là đối với những nước lạc
hậu về kinh tế.
Tân Phú, một quận được tách ra từ quận Tân Bình của Thành phố Hồ Chí
Minh, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên cơ sở vật
chất kỹ thuật còn yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, nguồn lao động
còn rất dồi dào; vì vậy việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là một tất yếu khách quan nhằm tổ chức lại sản xuất, phân
công lại lao động, sử dụng lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối phát huy thế
mạnh của quận, khai thác tiềm năng sẵn có thúc đẩy sản xuất của quận phát

triển. Mục đích cuối cùng của việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế phải đạt được mục
tiêu hàng đầu là tăng trưởng nhanh, đủ việc làm, phân phối công bằng hợp lý.
Chuyển dòch cơ cấu ngành là nội dung cốt lõi, là nhân tố quan trọng của
chuyển dòch cơ cấu kinh tế, là nhân tố quan trọng nhất quyết đònh hiệu quả của
nền kinh tế quốc dân nói chung và quận Tân Phú nói riêng.
1.2.1. Thực chất chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành.
Do đặc trưng của cơ cấu ngành là một quá trình kinh tế “luôn vận động”
nhất là trong kinh tế hàng hóa, kinh tế thò trường. Vì vậy, việc phân tích cơ cấu
ngành cần thấy rõ tính quy luật của sự vận động và luôn đặt ra phương hướng
chuyển dòch cơ cấu ngành, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế trong từng
giai đoạn.
- 15 -
Chuyển dòch cơ cấu ngành thực chất là thực hiện một cuộc cách mạng về
phân công lao động xã hội, phân bố lại dân cư, phân bố lại ngành nghề, để sử
dụng các nguồn tài nguyên, lao động, vật tư, tiền vốn, nhằm mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế vừa mang tính lòch sử vừa mang
tính khách quan.
Thực chất chuyển dòch cơ cấu ngành là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu, chưa
phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện hiện đại. Nhằm đa dạng
hóa ngành nghề, đa dạng hóa chủng loại và chất lượng sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Chuyển dòch cơ cấu ngành là một tất yếu khách quan, bởi sức ép của thò
trường và yêu cầu phát triển kinh tế, sản xuất xã hội không bao giờ ngừng và do
vậy không thể ngừng việc sản xuất các tư liệu sản xuất và các tư liệu tiêu dùng;
vì vậy phải có sự thay đổi ngành tạo sản phẩm thích ứng với yêu cầu phát triển
của nền kinh tế, tất yếu phải chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành.
Chuyển dòch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích có
đònh hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn. Sự
phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao
động xã hội dẫn đến tất yếu sự thay đổi các bộ phận, các nhân tố của quá trình

sản xuất, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển dòch
cơ cấu kinh tế ngành hợp lý và có hiệu quả ngày càng cao.
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành là nội dung quan trọng, cơ bản, lâu dài
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xác đònh phương hướng và giải
pháp chuyển dòch đúng sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp năng lực nội sinh, khai
thác triệt để có hiệu quả cao khả năng và thế mạnh của các ngành, các thành
phần kinh tế, các vùng trong nền kinh tế cả nước.
- 16 -
Xu thế chung của thế giới cũng như Việt Nam về cơ cấu ngành: ngành
nông nghiệp không ngừng thu nhỏ về phạm vi, tỷ trọng ngày càng giảm trong
nền kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp từ mở rộng đến thu hẹp; ngành dòch
vụ, du lòch, thương mại không ngừng mở rộng và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn
trong toàn bộ GNP.
Chuyển dòch cơ cấu ngành, trước hết và chủ yếu tùy thuộc vào thực trạng
sự biến động của lực lượng sản xuất và đòi hỏi của thò trường. Trong những điều
kiện cụ thể nhất đònh về mặt không gian và thời gian, chuyển dòch cơ cấu ngành
của một quốc gia hay vùng, lãnh thổ là tùy thuộc vào xu hướng vận động phát
triển của kinh tế - xã hội. Biểu hiện của nó là sự thay đổi tỷ trọng của từng
ngành trong GDP của quốc gia hay vùng đó.
Chuyển dòch cơ cấu ngành là quá trình làm tối ưu hóa cơ cấu ngành. Đối
với nền kinh tế quốc dân, đó là sự vận động và biến đổi của các ngành của khu
vực I, II, III, theo chiều hướng tăng tỷ trọng khu vực II và III cả về số tuyệt đối
và tương đối, giảm tỷ trọng các ngành khu vực I trong GDP, giảm cả về số lượng
lao động, việc làm.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, chuyển dòch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp là hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp ổn đònh với chất lượng cao,
bảo đảm an ninh lương thực; phát triển các vùng cây công nghiệp cây ăn quả
gắn với công nghiệp chế biến; nâng cao chất lượng, hiệu quả và tăng tỷ trọng
ngành chăn nuôi trong nông nghiệp, phát huy lợi thế ngành thủy sản, tạo thành
ngành xuất khẩu mũi nhọn.

Phấn đấu đạt mức tăng trưởng nông nghiệp hàng năm khoảng 4,5%. Tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17%, tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá
trò nông nghiệp tăng lên 30%. Thủy sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn. Kim ngạch
- 17 -
xuất khẩu nông lâm thuỷ sản đạt khoảng 8-9 tỷ USD, trong đó thủy sản khoảng
3 tỷ USD.
Đối với các ngành công nghiệp, xây dựng và kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
Phát triển các ngành công nghiệp như: dầu khí, luyện kim, hóa chất cơ bản, phân
bón, vật liệu xây dựng, cơ khí; các ngành công nghiệp dựa vào công nghệ cao,
nhất là công nghệ thông tin, viễn thông điện tử, đặc biệt phát triển công nghệ
phần mềm.
Phát triển nhanh các ngành có khả năng phát huy lợi thế chi phí thấp,
hiệu quả cao, cạnh tranh chiếm lónh được thò trường trong và ngoài nước như chế
biến nông lâm thủy sản, may mặc, giày dép, điện tử, một số sản phẩm cơ khí và
hàng tiêu dùng …
Cùng với việc hoàn chỉnh nâng cấp các khu công nghiệp khu chế xuất
hiện có, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp
lớn và khu kinh tế mở. Phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp
nhỏ, vừa và lớn cả trong nước và ngoài nước. Tăng cường công tác kiểm tra chất
lượng sản phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp…
Tốc độ tăng trưởng giá trò gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) trung
bình trong 10 năm tới phấn đấu đạt 10 -10,5% /năm. Đến năm 2010, công nghiệp
và xây dựng chiếm 40 - 41% GDP và thu hút khoảng 23 -24% lao động có việc
làm; sản phẩm công nghiệp chiếm khoảng 70 - 75% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Sản xuất đạt 69 - 71 tỷ kwh điện; 34 -35 triệu tấn dầu thô quy đổi; 12 triệu tấn
xăng dầu; cơ khí chế tạo đáp ứng 40% nhu cầu trong nước, tỷ lệ nội đòa hóa
trong lắp ráp 60 - 70%.
Đối với các ngành dòch vụ, phát triển mạnh các loại hình dòch vụ như
thương mại, vận tải, bưu chính, viễn thông, du lòch, tài chính - tiền tệ và dòch vụ
kỹ thuật tư vấn… với chất lượng ngày càng cao góp phần giải quyết việc làm,

- 18 -
chuyển dòch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động phù hợp với quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong toàn bộ các ngành kinh tế chú trọng ngành kinh tế dòch vụ, phấn
đấu đối với ngành này, tính theo giá trò gia tăng đạt nhòp độ tăng trưởng bình
quân hàng năm 7-8% và đến năm 2010 chiếm 42-43% GDP, khoảng 26-27%
tổng lao động xã hội.
1.2.2. Yêu cầu của chuyển dòch cơ cấu ngành trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sở dó chuyển dòch cơ cấu ngành phải gắn với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, nhất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn lên
hàng đầu vì nước ta hiện nay vẫn là nước nông nghiệp, dân số nông nghiệp
chiếm 80% và lao động nông nghiệp chiếm 70%. Vì nông nghiệp là nguồn cung
cấp lương thực, nguyên liệu, nguồn xuất khẩu quan trọng, đồng thời là thò trường
tiêu thụ lớn nhất hiện nay.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết sẽ tạo ra các tư liệu lao động
mới, quan trọng và cơ bản nhất là công cụ lao động để đưa năng suất lao động
tăng lên, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
vừa trang bò thêm các yếu tố của quá trình sản xuất nhất là tư liệu lao động vừa
nâng cao chất lượng của các yếu tố đó. Đây là cơ sở để tạo các tư liệu lao động
và đối tượng lao động mới, mở rộng và phát triển ngành nghề, cơ sở quan trọng
cho chuyển dòch cơ cấu ngành.
Như trên đã phân tích, công nghiệp hóa nâng cao chất lượng các yếu tố tư
liệu sản xuất, đòi hỏi phải nâng cao trình độ sức lao động mà hệ quả của nó sẽ
giảm được nguồn lao động trong lónh vực nông nghiệp năng suất thấp đang
chiếm một tỷ trọng lớn ở nước ta hiện nay, chuyển một bộ phận lao động nông
- 19 -
nghiệp sang các ngành công nghiệp, dòch vụ, thương mại, tạo việc làm, nâng cao
thu nhập ổn đònh và nâng cao đời sống nhân dân.
Xuất phát từ đặc trưng của cơ cấu ngành là quan hệ tỷ lệ gắn bó hữu cơ,

vừa nương tựa vào nhau vừa chế ước lẫn nhau giữa các ngành và các phân
ngành. Do đó chuyển dòch cơ cấu ngành cần giải quyết rất nhiều các mối quan
hệ và tác động qua lại lẫn nhau; chẳng hạn giữa cơ cấu ngành với cơ cấu thành
phần kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ….
Kết hợp cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ nhằm phát huy lợi thế
tương đối và lợi thế tuyệt đối của vùng trong việc phát triển ngành. Kết hợp cơ
cấu ngành với cơ cấu thành phần kinh tế là nhằm huy động các thành phần kinh
tế tham gia phát triển các ngành kinh tế, phát triển các vùng lãnh thổ. “Chỉ khi
nào ngành vận tải và nền đại công nghiệp, đã hoàn toàn được khôi phục, khiến
giai cấp vô sản có thể cung cấp cho nông dân, nhằm đổi lấy sản phẩm nông
nghiệp, tất cả những vật phẩm công nghiệp mà nông dân cần dùng cho bản thân
họ, thì khi đó, đứng về quan điểm xã hội chủ nghóa mà nói, sự liên minh giữa
những người tiểâu nông và giai cấp vô sản mới trở nên hoàn toàn đúng đắn và
vững chắc”.[8,8]
Mối quan hệ giữa cơ cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ thể hiện thông
qua các mối quan hệ theo hướng: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp; thành
thò với nông thôn. Kết hợp chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp theo vùng.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng. Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường…
Sự phát triển của phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến chuyển dòch
cơ cấu ngành: “Sự phân công lao động xuất phát từ sự phân chia các nghề
nghiệp rất khác nhau và đi đến một sự phân công trong đó nhiều công nhân chia
nhau chế tạo cùng một sản phẩm như trong công trường thủ công. Ở những dân
- 20 -
tộc đã có một trình độ văn minh nào đó, chúng ta thấy có ba loại phân công lao
động: loại thứ nhất, mà chúng ta gọi sự phân công lao động chung, thì phân chia
những người sản xuất ra thành người làm ruộng, người làm công nghiệp và người
đi buôn, sự phân công đó phù hợp với ba ngành nghề chủ yếu trong nền sản xuất
quốc dân; loại thứ hai mà người ta gọi sự phân công đặc thù, là sự phân chia mỗi
ngành lao động thành nhóm…loại phân công thứ ba, loại cuối cùng mà người ta

có thể gọi là sự phân chia công việc hoặc lao động theo đúng nghóa của nó…”[12,
405 -406]
Chuyển dòch cơ cấu ngành trước hết là tạo ra nhiều ngành nghề mới trên
cơ sở đó vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động vừa đi nhanh vào một
số ngành, lónh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao, phát triển mạnh công
nghệ chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da giày, cơ khí điện tử, công nghệ
phần mềm.
Chuyển dòch cơ cấu ngành là chuyển dòch tỷ trọng cả về lượng và chất từ
ngành này sang ngành khác nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao, vừa phù hợp
với xu thế chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi đòa phương trong
từng giai đoạn cụ thể khai thác có hiệu quả năng lực nội sinh của mình.
Đối với quận Tân Phú, chuyển dòch cơ cấu ngành phải dựa vào lý luận và
thực tiễn các ngành nghề hiện có, Quận phải chiến lược xây dựng và phát triển
có chọn lọc một số ngành công nghiệp quan trọng: cơ khí chế tạo, hóa chất cơ
bản, vật liệu xây dựng, với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện vốn, công
nghệ, nguồn lao động, thò trường, phát huy được những lợi thế của quận, với hiệu
quả ngày càng cao.
Thích ứng với quá trình chuyển dòch cơ cấu ngành, chú trọng phát triển
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với ngành, nghề đa dạng, phong phú. Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dòch vụ, thương mại, các loại hình vận
- 21 -
tải, bưu chính, viễn thông, du lòch, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn
pháp lý, thông tin thò trường. Đây là một trong những ngành kinh tế nổi bật hiện
nay của quận Tân Phú Thành phố Hồ Chí Minh.
Chuyển dòch cơ cấu ngành, trong kinh tế thò trường cần đặc biệt chú ý
trong việc nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động thương mại để mở rộng thò
trường, thích ứng với nhu cầu tiêu dùng đa dạng và phong phú; tiếp cận thò
trường trong nước, khu vực và thế giới.
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền kinh tế quốc dân, phải tạo ra một cơ cấu kinh tế tốt nhất, cơ cấu

kinh tế hợp lý giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Một cơ cấu kinh tế được
xây dựng; muốn vậy, chuyển dòch cơ cấu ngành phải tuân theo những yêu cầu
sau đây:
1. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành phải phù hợp yêu cầu phát triển kinh
tế. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, tính quy luật của chuyển dòch cơ cấu
ngành là ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong GDP, cả về số lượng tuyệt
đối lẫn tương đối, công nghiệp và dòch vụ ngày càng tăng, trong đó đặc biệt là
ngành dòch vụ.
2. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành phải phù hợp với xu thế tiến bộ của
khoa học công nghệ, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, đúng như dự báo của Karl Marx: “Khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp”.
3. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành phải khai thác tối đa tiềm năng của
đất nước. Đây là một đòi hỏi khách quan tất yếu, nhất là đối với những nước
chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghóa với cơ sở vật chất kỹ thuật lạc
hậu chậm phát triển, nguồn lực còn rất dồi dào cả về tài nguyên thiên nhiên đặc
- 22 -
biệt là nguồn lực lao động. Chuyển dòch cơ cấu ngành chính là quá trình phát
triển và mở rộng phân công lao động xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia
mà là phân công lao động quốc tế, nhất là trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu
hóa hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành tuân theo tính
quy luật của nó sẽ phát huy được năng lực nội sinh, tận dụng tối đa năng lực
ngoại sinh, tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
4. Chuyển dòch cơ cấu ngành, phải đáp ứng thực hiện tốt sự phân công và
hợp tác quốc tế theo xu hướng quốc tế hóa sản xuất và đời sống. Trong thời đại
ngày nay, vấn đề quốc tế hóa đời sống nhanh hơn quốc tế hóa sản xuất rất
nhiều, nếu chuyển dòch cơ cấu kinh tế chậm không những không phát huy được
lợi thế tương đối mà có thể còn dẫn đến một hậu quả khó lường, đó là nền kinh
tế phồn vinh giả tạo, phụ thuộc vào các nước khác. Do vậy tính quy luật là thực

hiện tốt phân công và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu kinh tế mở.
5. Chuyển dòch cơ cấu ngành gắn liền với chuyển dòch cơ cấu đội ngũ lao
động. Lòch sử phát triển của các nền sản xuất xã hội đã chứng minh tiến trình đó
cho thấy tỷ trọng lực lượng lao động trong lónh vực nông nghiệp so với tổng lao
động xã hội ngày càng giảm cả về tuyệt đối lẫn tương đối; còn lónh vực sản xuất
công nghiệp trong giai đoạn chuyển đổi từ văn minh nông nghiệp sang văn minh
công nghiệp tỷ trọng lao động tăng cả về tuyệt đối và tương đối; tuy nhiên càng
về sau khi nền kinh tế phát triển tỷ lệ này giảm đi tương đối cho các ngành dòch
vụ, du lòch, thương mại phát triển.
1.2.3. Các nhân tố cơ bản quy đònh chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành.
Chuyển dòch cơ cấu ngành để phát triển các ngành kinh tế chòu tác động
của rất nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố khách quan và chủ quan, những
nhân tố thuộc về tự nhiên, nhân tố thuộc về xã hội, về kỹ thuật, về trình độ phát
triển ở trong nước cũng như quốc tế, sau đây là những nhân tố cơ bản:
- 23 -
Chính sách kinh tế.
Chính sách kinh tế là toàn bộ các biện pháp kinh tế của nhà nước trong tổ
chức quản lý nền kinh tế. Chính sách kinh tế là sự vận dụng tự giác các quy luật
kinh tế khách quan. Chính sách kinh tế được thể hiện trên nhiều lónh vực khác
nhau:
Trước hết chuyển dòch cơ cấu liên quan trực tiếp đến việc phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, do vậy phải thực hiện nhất quán chính sách kinh
tế nhiều thành phần theo đònh hứơng xã hội chủ nghóa, tao mọi điều kiện thuận
lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh phát triển
ngành nghề.
Hoàn thành về cơ bản việc chuyển đổi cơ cấu, sắp xếp tổ chức lại và đổi
mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nứơc, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Hình thành đồng bộ các loại thò trường đi đôi với việc tạo lập khung khổ
pháp luật, bảo đảm sự quản lý và giám sát của nhà nứơc. Phát triển thò trường

tiền tệ. Chính sách tiền tệ, đây là nhân tố hàng đầu, nhân tố đóng vai trò quan
trọng đối với quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành. Sở dó như vậy vì vốn là
điều kiện tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất. Trong bất cứ nền sản xuất
xã hội nào cũng đòi hỏi nguồn vốn phải đạt được đến một mức độ nhất đònh,
nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quá trình thực
hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển lực lượng sản xuất; chuyển
dòch cơ cấu kinh tế phân công lại lao động xã hội.
Phát triển thò trường bất động sản. Phát triển các thò trường dòch vụ như
dòch vụ khoa học - công nghệ, dòch vụ tư vấn pháp luật , tư vấn quản lý, thò
trường sản phẩm trí tuệ …xúc tiến nhanh hình thành thò trường kinh doanh và
thương mại điện tử.
- 24 -
Tăng cường hiệu lực các công cụ, chính sách quản lý vó mô, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới công tác kế hoạch hóa nâng cao
tính đònh hướng và dự báo nâng cao chất lượng của các quy hoạch và kế hoạch
gắn quy hoạch, kế hoạch với thò trường.
Điều chỉnh chính sách đầu tư nhà nước theo hướng tăng cường đầu tư phát
triển nguồn nhân lực, đầu tư kết cấu hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển
dòch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn
thu, thực hiện công khai minh bạch về hoạt động kinh doanh và thu nhập trong
xã hội, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa nhà nứơc và xã hội.
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn đònh kinh tế vó mô,
kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển,
bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Chủ động xây dựng lộ trình
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả mở rộng kinh tế đối ngoại.
Xây dựng chiến lược đầu tư trên cơ sở phát huy lợi thế tuyệt đối và tương
đối, nâng cao nặng lực cạnh tranh theo đònh hướng xuất khẩu. Tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho đầu tư và chế biến xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Xây dựng

chiến lược thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và FDI phù hợp với
yêu cầu phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ động và chuẩn bò tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác song
phương và đa phương mà nứơc ta đã cam kết hoặc đang đàm phán là cơ sở để
mổ rộng phân công và hợp tác quốc tế chuyển dòch cơ cấu ngành, đặc biệt chú ý
trong khuôn khổ ASEAN, hiệp đònh thương mại Việt Mỹ…
- 25 -
Chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo khoa học công
nghệ. Đây là một trong những chính sách quan trọng nhân tố có ý nghóa quyết
đònh đối với chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành. V.I. Lênin đã khẳng đònh: “ Lực
lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người công nhân là người lao động”.
Cần có chính sách tài chính đối với giáo dục đào tạo, thu hút các nguồn lực trong
nước và ngoài nước.
Tăng cường tiềm lực và đóng góp của khoa học công nghệ vào phát triển
kinh tế xã hội. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng
dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh Đảm bảo nguồn nhân
lực về chất lượng và số lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, chuyển dòch cơ cấu kinh tế ngành nghề. Chính sách đào tạo sử
dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài.
Chính sách xã hội, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách kinh tế với
chính sách bảo vệ môi trường. Tăng cường đầu tư vốn con người thông qua việc
phát triển hệ thống giáo dục đào tạo, trong đó chú trọng đào tạo nghề, phát triển
hệ thống khoa học công nghệ…
Nguồn nhân lực.
Sức lao động là một yếu tố sản xuất cơ bản, yếu tố sản xuất trực tiếp tạo
ra sản phẩm xã hội. V.I. Lênin đã khẳng đònh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là người công nhân, người lao động”. Chính vì vậy, nếu
có một nguồn nhân lực dồi dào với chất lượng cao, có cơ cấu nguồn nhân lực
hợp lý giữa các ngành là cơ sở tốt nhất cho việc chuyển dòch cơ cấu kinh tế

ngành.
Trong điều kiện hiện nay, có những nước trên thế giới sự phát triển dân
số theo hình chóp đã phải huy động nguồn nhân lực từ nhiều nước khác nhau
mới đảm bảo duy trì nền sản xuất. Độ lớn của dân số và tốc độ tăng dân số có

×