Tải bản đầy đủ (.ppt) (11 trang)

quốc tế cộng sản 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.28 KB, 11 trang )


Friedrich Engels
(1820 - 1895)
HỌC PHẦN: KHÁI
QUÁT LỊCH SỬ THẾ
GIỚI CẬN ĐẠI
Đề tài: QUỐC TẾ CỘNG
SẢN 2 (1889 - 1914)
GVHD: Thạc sỹ LÊ
TÙNG LÂM
SVTH: Nguyễn Công
Đoàn, Nguyễn Văn
Phước, Nguyễn
Thanh Tú

QUỐC TẾ CỘNG SẢN II (1889 - 1914)
1.Hoàn cảnh lịch sử.
- Sau công xã Pa – ri (1871), Quốc tế I giải tán
(15/7/1876), PTCN bắt đầu thời kỳ tập hợp lực lượng
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống CNTB trong
tương lai.
- Dưới tác động của việc truyền bá chủ nghĩa Mác, ở
các nước Châu Âu, Châu Mĩ đã thành lập được các
Đảng công nhân, Đảng xã hội nhằm đấu tranh cho
giai cấp công nhân như các Đảng: Đảng XHDC Đức
– 1869, rồi lần lượt các Đảng của công nhân xuất
hiên ở Hà Lan – 1870, ở Đan Mạch – 1871, ở Mỹ -
1876, Pháp – 1879…vv

- Do nhu cầu đòi hỏi, tình đoàn kết quốc tế của giai
cấp vô sản cùng với những điều kiện trên đã thúc


đẩy việc thành lập tổ chức quốc tế mới – Quốc tế II
(Liên minh quốc tế của các Đảng xã hội)
- Những năm 1880 – 1890, PTCN thế giới phát triển
mạnh mẽ, điển hình như cuộc đấu tranh của 40.000
công nhân ở Chicagô (Mỹ) vào ngày 1/5/1886 bãi
công đòi ngày làm 8 giờ. Phong trào công nhân các
nước quyên góp, ủng hộ công nhân nước khác bãi
công, ủng hộ các nước bị xâm lược, lên án chính
phủ các nước tư bản đi xâm lược phát triển ngày
càng mạnh mẽ và lan rộng.

2.Sự thành lập Quốc tế II
- Ngày 14/7/1889, ngày kỷ niệm 100 năm phá ngục Bastille,
Đại hội công nhân quốc tế khai mạc tại Hội trường Pêtôren
(Pa-ri) với sự có mặt tham dự của 395 đại biểu ở hầu hết các
nước Châu Âu và ở Mỹ, Áchentina.
- Paul Lafargue, nhà lãnh đạo của những người xã hội chủ
nghĩa Pháp, thay mặt Ban tổ chức đọc lời chào mừng và khai
mạc Đại hội. Lời khai mạc có đoạn viết: Các đại biểu khắp
châu Âu, châu Mỹ tập hợp tại đây đoàn kết lại không phải
biến ngọn cờ ba màu, hay ngọn cờ dân tộc nào khác mà đoàn
kết dưới ngọn cờ đỏ của giai cấp vô sản quốc tế''.
- Khẩu hiệu của Đại hội là ''Vô sản tất cả các nước đoàn kết
lại”.
Paul Lafargue (15/1/1842 –
25/11/1911)

3.Hoạt động của Quốc tế II
- Đại hội đã thảo luận 4 vấn đề chính: 1- Hoạt động hợp pháp
của giai cấp công nhân. 2- Việc thủ tiêu đội quân thường

trực. 3- Lấy ngày 1/5 làm ngày biểu dương lực lượng của giai
cấp công nhân. 4- Đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị.
- Đại hội II tại Brúcxen (8/1891) Đại hội Brúcxen chú ý nhiều
đến việc xác định con đường đấu tranh vì quyền lợi hàng
ngày của giai cấp công nhân, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu
kết hợp chặt chẽ cuộc đấu tranh vì quyền lợi trước mắt với
cuộc đấu tranh cho mục tiêu cuối cùng của giai cấp công
nhân.
- Đại hội III tại Duyrích (8/1893) Đại hội Duyrích cũng ra lời
kêu gọi giai cấp vô sản quốc tế hãy không ngừng và kiên
quyết phản đối âm mưu gây chiến tranh. Đại hội đề nghị rất
cụ thể đối với các nghị sĩ xã hội chủ nghĩa cần bỏ phiếu có
nguyên tắc chống ngân sách chiến tranh, đòi giảm chi phí
cho đội quân thường trực và xoá dần đội quân thường trực.

- Đại hội IV tại Luân Đôn (7/1896) Các lãnh tụ của các đảng
công nhân cho rằng cần lên án chính sách thuộc địa của chủ
nghĩa tư bản vì bất cứ lý do nào, chủ nghĩa thực dân chỉ là
nhằm mở rộng khu vực bóc lột tư bản, phục vụ lợi ích giai
cấp tư sản. Đại hội lên án bọn vô chính phủ và đuổi chúng ra
khỏi Quốc tế II.
- Đại hội V tại Pari (năm 1900) vấn đề thuộc địa lại được đưa
ra thảo luận và trở thành một trong những vấn đề chính của
Đại hội. Trong bối cảnh đã xảy ra các cuộc chiến tranh đế
quốc đầu tiên, Đại hội Pa-ri năm 1900 đã có quyết nghị đúng
đắn, lên án chính sách thuộc địa của các nước đế quốc kêu
gọi giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới đấu
tranh chống lại những cuộc chiến tranh ăn cướp và kêu gọi
thành lập các đảng xã hội chủ nghĩa ở các thuộc địa


- Đại hội VI tại Amxtecđam (năm 1904) Đại hội đã thảo luận
những nguyên tắc quốc tế của sách lược xã hội chủ nghĩa.
Đây là vấn đề mà những người mác xít phải đấu tranh gay gắt
với bọn cơ hội - xét lại. Bọn xét lại cho rằng không cần thiết
phải đưa ra nguyên tắc đó.
- Đại hội VII tại Stútga (năm 1907) Cuộc thảo luận ở Đại hội về
vấn đề thuộc địa là một cuộc đấu tranh gay go quyết liệt giữa
những người mác xít với bọn cơ hội - xét lại. Bởi vì bọn này
đã ủng hộ công khai chính sách nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, đối lập với chủ nghĩa Mác về vấn đề thuộc địa.
- Đại hôi VIII tại Côpenhaghen (8/1910) Đại hội Côpenhaghen
năm 1910 một lần nữa phân tích vấn đề đấu tranh chống
nguy cơ chiến tranh và chủ nghĩa quân phiệt. Đại hội kêu gọi
các đảng xã hội, các tổ chức công nhân các nước xuống
đường biểu tình, đoàn kết chặt chẽ chống chiến tranh xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc.

- Đại hội IX tại Balơ (năm 1912) Đại hội Balơ đã ra được bản
tuyên ngôn có tính chất lịch sử của phong trào công nhân
quốc tế kêu gọi công nhân các nước chống chiến tranh, đoàn
kết chặt chẽ tạo nên sức mạnh chống chủ nghĩa đế quốc.
- Đây là đại hội bất thường, khi mà các cuộc xung đột đang
xảy ra tại Ban-căng dẫn đến chiến tranh đế quốc. Tuyên ngôn
mà đại hội thông qua ngày 25/11/1912, bị bọn cơ hội giấu kín
trong văn phòng Quốc tế II. Vì vậy mà Lê-nin gọi là “Tuyên
ngôn trên giấy”

5.Vai trò của Quốc tế II
- Quốc tế II có vai trò to lớn trong việc đấu tranh chống
những phần tử cơ hội làm cho Quốc tế II giữ vững bản chất

vô sản và cách mạng, hoạt động theo đúng mục tiêu đề ra.
- Là tổ chức phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác, Quốc tế II
đã góp phần truyền bá lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học
vào giai cấp vô sản và phong trào công nhân quốc tế.
- Quốc tế II nâng cao ý thức giáo dục, giác ngộ giai cấp vô
sản vì mục tiêu đấu tranh trong điều kiện mới với những hình
thức phù hợp, nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột.
- Quốc tế II định hướng cho các Đảng cách mạng vạch rõ
nguồn gốc, bản chất, của chiến tranh đế quốc, hiểu được
chiến tranh và hòa bình, biến chiến tranh thành nội chiến
cách mạng.

5.Nguyên nhân tan rã của Quốc tế II
Sau khi Engels qua đời ngày 5/8/1895, phái cơ hội bắt đầu tấn
công vào chủ nghĩa Mác và phái cơ hội dần chiếm ưu thế
trong Quốc tế II. Đứng đầu là Eduard Bernstein (người Đức).
Quốc tế II bị phân liệt thành 3 phái khác nhau.
- Phái “tả” do Lê-nin đứng đầu gồm Đảng Bônsêvích Nga, đại
biểu xã hội ở Đức, Bungari, BaLan…đã đấu tranh không mệt
mỏi chống lại bọn cải lương xét lại, chống phái “giữa” trong
Quốc tế II.
E.Bernstein (6/1/1850 – 18/12/1932)
- Phái “giữa” gồm Cauxky, Trôtxky, Mactôp…ủng hộ chiến
tranh đế quốc, tuyên truyền cho giai cấp công nhân không
nên đấu tranh với giai cấp tư sản.
Karl Johann Kautsky (16/10/1854 –
17/10/1938)

- Phái “hữu” đại diện là Plêkhanốp, Sayđenman công khai
ủng hộ chiến tranh đế quốc.

Năm 1914, chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Đa số các
lãnh tụ của các đảng trong Quốc tế II ủng hộ chính phủ từ bỏ
quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao dộng đứng
về phía giai cấp tư sản. Đến dây Quốc tế II tan rã, như Lê-nin
nhận định “Quốc tế II đã chết vì bị chủ nghĩa cơ hội đánh
bại”.
Chỉ có Đảng Bôn sê vích do Lê-nin lãnh đạo đã thực hiện
được khảu hiệu của Lê-nin đưa ra: “Biến chiến tranh đế
quốc thành nội chiến cách mạng” đãn đến cuộc cách mạng
tháng Mười năm 1917.
V.I.Lê - nin (22/4/1870 – 24/1/1924)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×