Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

đặc điểm của các cuộc xung đột khu vực trong quan hệ quốc tế hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.49 KB, 23 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

KHÓA LUẬN
BỘ MÔN: CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
ĐỀ TÀI
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC XUNG ĐỘT KHU VỰC
TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Minh
Lớp : CT35G
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2011
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NATO : Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
BRICS : Nhóm các nước Brasil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi
ASEAN : Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
EU : Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu
UNDP : Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
LHQ : Liên hợp quốc
LTTE :Những con hổ giải phóng Tamil
FARC : Lực lượng vũ trang cách mạng Columbia
LỜI MỞ ĐẦU
Sau Chiến tranh Lạnh, hệ thống quan hệ quốc tế bước vào một thời kỳ lịch
sử quá độ mới. Thế giới văn minh đang ở thế kỷ XXI, nhưng chưa có ngày
nào im tiếng súng. Sau khi trật tự hai cực đổ vỡ, thế giới diễn ra những quá
trình hợp tác - đấu tranh - xâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau vô cùng phức
tạp để thiết lập một trật tự thế giới mới - trật tự theo hướng đa cực. Xuất phát
từ lợi ích chiến lược cơ bản, các quốc gia đều tiến hành điều chỉnh, bổ sung
chiến lược đối ngoại nhằm giành được vị trí có lợi, hoặc ít ra là không bất
lợi nhất trong đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Một xu hướng nổi bật hiện
nay là các nước vừa hợp tác vừa đấu tranh, thậm chí xung đột với nhau trong


các mối quan hệ song phương cũng như đa phương. Sự tương đồng và khác
biệt về lợi ích, quan điểm ý thức hệ, lịch sử, văn hoá giữa các quốc gia
luôn là nhân tố chủ yếu tác động và chi phối vấn đề hợp tác và xung đột.
Bên cạnh những nỗ lực duy trì hòa bình, mở rộng hợp tác để phát triển, nhân
loại vẫn đang phải chứng kiến nhiều cuộc xung đột quốc tế lớn, nhỏ trong
khu vực và trên thế giới. Do vậy, khi nói về xu thế hòa bình, hợp tác và phát
triển, không thể không phân tích và dự báo những tác động, ảnh hưởng của
các cuộc xung đột quốc tế cũng như khả năng xảy ra các cuộc xung đột mới
trong tương lai.
Trong khi đó, thế giới còn bị chấn động thêm bởi hàng loạt cuộc xung đột
khu vực, xung đột nội bộ. Từ năm 1945 đến nay mặc dù không có cuộc
chiến tranh thế giới nào xảy ra, nhưng lại có hơn 60 cuộc chiến tranh vừa và
nhỏ bằng vũ khí thông thường và cả vũ khí tinh khôn" - vũ khí công nghệ
cao đã làm hàng triệu người bị thiệt mạng. Dường như chiến tranh lạnh vẫn
lấp ló đâu đó chưa chịu rời hẳn thế giới này.
Các cuộc chiến tranh vừa và nhỏ có nhiều hình dạng khác nhau mỗi nơi một
vẻ, nhưng tựu lại, có thể chia thành 7 loại: Chiến tranh khu vực, các cuộc nổi
dậy, các hoạt động khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh từ
những mâu thuẫn quyền lợi kinh tế giữa các quốc gia dân tộc có chủ quyền,
chiến tranh do những tham vọng chính trị và các cuộc nội chiến. Các cuộc
chiến tranh này đã thay nhau ngự trị khắp nơi. Hầu hết các cuộc chiến tranh
nói trên đều bắt đầu từ vấn đề dân tộc hoặc có liên quan đến vấn đề dân tộc.
Nhiều cuộc chiến tranh có nguy cơ bị kéo dài trong khi nhiều nguy cơ xung
đột mới đang đe dọa hàng triệu dân lành.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ XUNG ĐỘT VÀ CÁC NGUYÊN
NHÂN DẪN TỚI XUNG ĐỘT.
1. Khái niệm về xung đột và sự khác nhau giữa xung đột và chiến tranh.
1.1. Khái niệm
Trong các khái niệm về xung đột, thường không có sự khác nhau nhiều về mặt

nội dung. Trong quan hệ quốc tế có hai khái niệm tương đối phổ biến:
Khái niệm thứ nhất: xung đột là sự khác nhau về kết quả mong muốn trong một
tình huống mặc cả nào đó.
1
Khái niệm thứ hai: xung đột là một tình trạng xã hội nảy sinh khi hai hay nhiều
chủ thể cùng theo đuổi những mục đích riêng biệt hoặc trái ngược nhau.
2
Xung đột quốc tế là sự tương tác có tính cưỡng bức, được thể hiện rõ giữa các
quốc gia, các cộng đồng đối kháng với nhau. Đó là quá trình các bên xung đột
tìm cách làm tổn hại, gián đoạn hoạt động hoặc tiêu diệt lẫn nhau. Xung đột quốc
tế mang tính rất đa dạng, được biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau. Có thể là
chiến tranh thế giới, chiến tranh khu vực, chiến tranh giữa hai quốc gia hoặc
trong lòng một quốc gia có sự can thiệp, hậu thuẫn của các lực lượng bên ngoài,
hoặc cũng có thể là những cuộc bạo động, chính biến, những cuộc khủng hoảng
chính trị, ngoại giao, quân sự, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, những bất đồng
quan điểm, các cuộc chạy đua tranh giành ảnh hưởng.
1.2. Sự khác nhau trong xung đột và chiến tranh.
Xug đột và chiến tranh khác nhau trong tính chất và nức độ mâu thuấn.
Chiến tranh là sự liên quan đến bạo lực, xung đột chỉ có thể đẫn đến việc sử dụng
bạo lực quân sự hoặc là không.
Chiến tranh thường sử dụng dụng bạo lực quân sự trên quy mô lớn, gây hậu quả
lớn cho xã hội. xung đột quân sự được sử dụng để chỉ những đụng độ nhỏ, không
gây sự tàn phá hay tổn thất lớn về tính mạng.
Sự khác nhau về tính chất và lực lượng của chủ thể tham gia: Chủ thể tham gia
xung đột có thể là các cá nhân, các nhóm, quốc gia… Với những màu sắc từ kinh
tế, văn hóa, chính tri-xã hội. Chủ thể tham gia chiến tranh chủ yếu là giữa các
đơn vị chính trị có thể là quốc gia, vùng lãnh thổ hay đảng phái, phe nhóm chính
trị trong một nước.
Giữa xung đột và chiến tranh có điểm giống nhau: cả hai đều xuất phát từ mâu
thuẫn trong mục đích, nhận thức hay hành vi giữa các bên liên quan.

1
Quan hệ quốc tê: những khia cạnh lý thuyết và vấn đề. Tr 199. NXB chinh trị quốc gia.
2
Quan hệ quốc tê: những khia cạnh lý thuyết và vấn đề. Tr 199. NXB chinh trị quốc gia.
2. Các nguyên nhân dẫn đến xung đột khu vực.
Nguyên nhân để xảy ra xung đột rất đa dạng, nó có thể vô tình, cũng có thể là cố
tình, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là biểu hiện bên ngoài của một khối bom đã tích tụ
đủ lâu cho thời điểm bùng nổ.
Xung đột quốc tế còn do các nguyên nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động
giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế, trước hết là giữa các quốc gia, các cộng
đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ làm cho
các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng được tăng cường, mở rộng và
chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các mâu thuẫn, xung đột có điều
kiện nảy sinh và phát triển.
Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến xung đột quốc tế chủ yếu xuất phát từ hai yếu
tố chính, đó là nguyên nhân bên ngoài và nguyên nhân bên trong
2.1 Nguyên nhân bên ngoài.
Giữa các quốc gia, các cộng đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ làm cho các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng
được tăng cường, mở rộng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các
mâu thuẫn, xung đột có điều kiện nảy sinh và phát triển.
Nguyên nhân của xung đột quốc tế trước hết gắn liền với đặc điểm cấu trúc hệ
thống chính trị thế giới, bối cảnh quốc tế và khu vực. Đa số các cuộc xung đột
quốc tế hiện nay đều liên quan đến sự thay đổi trật tự thế giới, sự phân bố lực
lượng và các trung tâm quyền lực trên thế giới. Năm 1991, với sự tan rã của Liên
Xô, trật tự thế giới hai cực chấm dứt.
3
Thế giới bước vào giai đoạn mới - giai
đoạn hình thành trật tự thế giới mới. Tham vọng của Mỹ muốn thiết lập một trật
tự thế giới một cực do Mỹ lãnh đạo đã vấp phải sự phản ứng quyết liệt của các

nước, nhất là các nước có mong muốn thiết lập trật tự thế giới đa cực, một thế
giới bình đẳng và dân chủ. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới luôn đi kèm
với quá trình chia tách và tập hợp lực lượng. Nhiều liên kết bị tan rã hoặc thay
đổi hình thức hoạt động, đồng thời nhiều liên kết mới được hình thành. Điều này
thể hiện rõ qua các quá trình chính trị thế giới sau Chiến tranh lạnh: sự tan rã của
Liên Xô, của Liên bang Nam Tư, sự thành lập các quốc gia mới, sự mở rộng Liên
minh châu Âu, mở rộng phạm vi hoạt động của NATO, sự ra đời của liên minh
an ninh, phòng thủ tập thể của các nước trong không gian Liên Xô cũ, của Tổ
chức Hợp tác Thượng Hải, Nhóm BRIC, Nhóm các nước phát triển và mới nổi
G20, sự củng cố của ASEAN với mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN Tuy
nhiên, các quá trình này cũng luôn đi kèm với những bất đồng, mâu thuẫn giữa
các bên và trong nhiều trường hợp kết thúc bằng các cuộc xung đột.
3
/>dot-quoc-te-bai-toan-van-chua-co-loi.aspx
Bên cạnh đó, quá trình hình thành trật tự thế giới mới cũng là dịp để các quốc gia
nhìn nhận, xem xét, đánh giá lại vị trí, vai trò của mình trong hệ thống thế giới và
trong khu vực. Việc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giữa
Trung Quốc và Mỹ, việc nhóm các nước lớn như Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Bra-xin
vận động thay đổi cơ cấu của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thể hiện mong
muốn thay đổi vị trí của mình trên thế giới và khu vực. Các nhà nghiên cứu quan
hệ quốc tế đã chứng minh rằng, khi có sự mất cân bằng các chuẩn mực để xem
xét vị trí của một quốc gia trong hệ thống chính trị thế giới, khi một quốc gia có
thể có vị trí cao trong hệ thống chuẩn mực này, nhưng lại có vị trí yếu hơn hoặc
thấp hơn trong hệ thống chuẩn mực khác cũng là lúc xung đột quốc tế có thể xảy
ra. Nguyên nhân của xung đột quốc tế thường xuất phát từ sự mất cân bằng cấu
trúc trong hệ thống chính trị thế giới, do sự xuất hiện của các "quốc gia muốn
thay đổi”. Sức mạnh của các quốc gia này lớn mạnh đến mức gần bằng các
cường quốc có vai trò chủ đạo trên thế giới, tuy nhiên ảnh hưởng chính trị của họ
lại bị hạn chế. Do vậy, họ có xu hướng vận động để làm thay đổi tình huống đó.
Ngoài ra, các quốc gia vừa và nhỏ cũng dễ bị lôi cuốn vào các tình huống xung

đột, khi trật tự thế giới thay đổi, hoặc có sự biến đổi lớn trong tương quan lực
lượng quốc tế. Trong trường hợp đó, các quốc gia này bị mất sự định vị rõ ràng
về vị trí của mình trong cấu trúc quan hệ quốc tế, trong việc xác định các định
hướng quan hệ, tập hợp lực lượng quốc tế và có xu hướng vận động để kết thúc
tình trạng đó. Đây là ngòi nổ cho các cuộc xung đột quốc tế. Tiêu biểu là những
xung đột ở khu vực Đông Âu, vùng Cáp-ca-dơ, Trung Á và Trung Đông hiện
nay.
Xung đột quốc tế còn do các nguyên nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động
giữa các chủ thể của quan hệ quốc tế, trước hết là giữa các quốc gia, các cộng
đồng dân tộc, tôn giáo. Toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ làm cho
các quốc gia hợp tác, quan hệ với nhau ngày càng được tăng cường, mở rộng và
chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đó cũng là tiền đề để các mâu thuẫn, xung đột có điều
kiện nảy sinh và phát triển
2.2: Nguyên nhân bên trong.
Xung đột quốc tế còn có các nguyên nhân và điều kiện phát triển từ ngay trong
mỗi quốc gia. Bắt đầu từ những nguyên nhân bên trong, nhưng sớm hay muộn
các cuộc xung đột này đều bị quốc tế hóa với sự tham gia, can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp của các nhân tố quốc tế.
4
Ở một số nước, những lực lượng chống đối
chính quyền bên trong còn nhận được sự hậu thuẫn của các thế lực bên ngoài.
4
/>Trong số các nguyên nhân bên trong dẫn đến xung đột, đặc biệt cần chú ý đến các
yếu tố:
Sự tồn tại trong mỗi quốc gia những nhóm dân tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ có sự
phân chia ranh giới hành chính tương đối rõ ràng. Điều này thường xảy ra ở các
nước theo thể chế liên bang, ở các nước có các vùng dân tộc tự trị hoặc ở các
nước có việc phân chia biên giới hành chính dựa vào các nguyên tắc lãnh thổ dân
tộc hoặc ngôn ngữ, tín ngưỡng. Đó là các trường hợp như nước cộng hòa Trê-
xni-a (Liên bang Nga), Cô-xô-vô (Xéc-bi-a), vùng Kê-bếch (Ca-na-đa), vùng Tân

Cương (Trung Quốc)
5
Sự phát triển chênh lệch giữa các địa phương kết hợp với sự tập trung cao độ ở
trung ương. Trong một quốc gia có những vùng khác nhau về tín ngưỡng, văn
hóa, dân tộc, sự phát triển quá chênh lệch giữa các vùng dễ dẫn đến hậu quả
dân chúng ở vùng đó mất đi cảm giác “quốc gia thuần nhất”, mà chỉ còn cảm
giác dân tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ thuần nhất. Đây là điều kiện “lý tưởng” cho
sự xuất hiện và phát triển các tư tưởng, các tổ chức chia rẽ, ly khai.
Trong đất nước có sự thay đổi chính trị, kinh tế lớn, dẫn đến sự ra đời của các thế
lực chính trị, kinh tế mới.Trong nhiều trường hợp, sự xuất hiện của các thế lực
này dẫn đến những bất ổn trong đời sống chính trị, kinh tế các nước do xu hướng
muốn bảo vệ quyền lợi hoặc muốn tạo ra sự thay đổi có lợi cho mình. Sự bất ổn
về chính trị, kinh tế càng làm cho các mâu thuẫn trở nên sâu sắc và phát triển
thành các xung đột lớn.
Sự yếu kém của bộ máy chính quyền, sự kém phát triển của văn hóa hòa giải
trong xã hội, của cơ cấu dân chủ có vai trò bảo đảm sự điều phối và giải quyết
các tình huống mâu thuẫn, xung đột, nhất là sự yếu kém của hệ thống luật pháp,
của cơ cấu trung gian, hòa giải không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột
khi nó mới xuất hiện.
Những khó khăn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, những hạn chế các
quyền cơ bản của con người về tự do, dân chủ, tín ngưỡng không được giải
quyết một cách cơ bản, kịp thời sẽ dẫn đến những cuộc bạo loạn, xung đột.
Những cuộc xung đột xảy ra ở các quốc gia Trung Á, Trung Đông và Bắc Phi
hiện nay đều bắt đầu từ những nguyên nhân bên trong đó và đang trở nên ngày
càng gay gắt, khó giải quyết.
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC CUỘC XUNG ĐỘT KHU VỰC
TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI.
5
/>dot-quoc-te-bai-toan-van-chua-co-loi.aspx
1. Xung đột về lãnh thổ.

Tranh chấp lãnh thổ là nguyên nhân phổ biến và khó giải quyết nhất trong quan
hệ giữa các quốc gia. Lãnh thổ, biên giới quốc gia liên quan đến không gian sinh
tồn và phát triển của đất nước là yếu tố quan trọng nhất đối với mọi quốc gia.
Vấn đề biên giới, lãnh thổ cũng thường gắn với quá trình lịch sử lâu dài, phức tạp
trong quan hệ giữa các nước, các cộng đồng dân tộc.
Biểu hiện qua các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ; các cuộc xâm chiếm lãnh thổ.
Tranh chấp lãnh thổ cũng là nguồn gốc của xung đột khu vực Châu Á - Thái Binh
Dương, là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp tới
khu vực này. Paul Huth, nhà nghiên cứu cấp cao của viện nghiên cứu các vấn đề
xã hội thuộc đại học Michigan, cũng là một trong những học giả Mỹ nghiên cứu
lĩnh vực tranh chấp lãnh thổ quốc tế nói rằng: "khi nghiên cứu nền chính trị quốc
tế, bạn sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng, tự cổ chí kim, tranh chấp lãnh thổ luôn
là nguyên nhân quan trọng dẫn đến mọi cuộc xung đột.
6
Mặc dù người ta vẫn bàn
đến độc lập dân tộc của một quốc gia nào đó đang bị suy giảm, chủ quyền đang
đến hồi kết; thế nhưng, nếu bạn biết những ranh giới lãnh thổ nào đang xảy ra
tranh chấp thì bạn sẽ biết được cái cốt lõi của điểm nóng ấy ở đâu".
Tranh chấp Biển Đông được gọi là "cuộc tranh chấp lãnh thổ trên phạm vi toàn
cầu". Từ thập niên 70 của thế kỷ 20, các nước liên quan đều lên tiếng yêu cầu chủ
quyền đối với Biển Đông, một số nước còn xây dựng chiến lược quốc phòng mới,
đẩy mạnh thiết lập lực lượng hải quân và không quân, thiết chặt kiểm soát quân
sự, tăng cường khai thác tài nguyên Hiện trạng này dẫn đến sự căng thẳng leo
thang trong khu vực Biển Đông. Những thập niên 70 và 80, Trung Quốc và Việt
Nam đã từng xảy ra hai cuộc xung đột vũ trang đẫm máu trên vùng Biển Đông
7
.
Tình hình căng thẳng trên Biển Đông khiến cho toàn khu vực, thậm chí các nước
trên thế giới đều tỏ thái độ lo sợ và quan tâm đặc biệt tới an ninh khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Biển Đông trở thành "vùng biển nguy hiểm" và là "quả bom

công kích lớn" toàn khu vực này.
Ngoài tranh chấp Biển Đông thì tranh chấp chủ quyền đảo Điêu Ngư Trung -
Nhật, hay vấn đề về chủ quyền "Bốn đảo phía bắc" Nhật - Nga, tranh chấp
quần đảo Dokdo Nhật - Hàn cũng đều là vấn đề quan tâm hàng đầu của dư
luận thế giới. Mặc dù khu vực tranh chấp chỉ là những "nốt chấm nhỏ" hiển
thị trên bản đồ, nhưng đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương lại có ý
nghĩa vô cùng lớn, nó liên quan đến mối quan hệ chính trị giữa các nước mà
mỗi vấn đề đều có nguy cơ phát nổ bất cứ lúc nào. Xung đột đảo Điêu Ngư
6
/>chau-a-thai-binh-duong
7
/>chau-a-thai-binh-duong
xảy ra triền miên giữa Trung Quốc và Nhật luôn là điểm nóng của toàn thế
giới, hay trong cuộc đối kháng và tranh luận ngoại giao kịch liệt giữa Hàn và
Nhật về quần đảo Dokdo năm 1996, Hàn Quốc thậm chí đã khiến cho tình
hình trở nên căng thẳng hơn khi tổ chức thực hiện cuộc tập trận hải - không
quân quy mô tương đối lớn.
Đặc điểm tranh chấp lãnh thổ khu vực Châu Á ngay từ khi bắt đầu hay trong
quá trình diễn ra đều bị chi phối bởi nhân tố chính trị. Khi chính trị giữa các
nước liên quan rơi vào tình trạng căng thẳng thì biểu hiện đầu tiên cũng là
cốt lõi của mọi cuộc xung đột luôn là tranh chấp lãnh thổ.
Nếu không có biện pháp giải quyết hợp lý thì điều này chính là mầm mống
gây nên tình trạng căng thẳng giữa các nước, thậm chí là xung đột vũ trang.
Ngoài ra còn có nhiều đặc điểm tương đồng trong các cuộc tranh chấp lãnh
thổ, đặc biệt là phương hướng nhìn nhận vấn đề hay biện pháp giải quyết
một cuộc tranh chấp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình giải quyết cho
cuộc tranh chấp liên tiếp sau nó, dẫn đến hiện trạng gọi là "phản ứng dây
chuyền". Ngoài ra còn có các cuộc xung đột khác như : cuộc chiến tranh do
Mỹ phát động ở I-rắc, cuộc xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin, Ấn Độ và
Pa-ki-xtan (vùng Ca-sơ-mia), Nhật Bản và Hàn Quốc (đảo Đốc Đô), Nhật

Bản và Nga (đảo Cu-rin), tranh chấp chủ quyền các đảo ở Biển Đông, Thái
Lan và Cam-pu-chia (Đền Prết Vi-hia)
2. Xung đột về chính trị
Lợi ích dân tộc là tiêu chí hàng đầu của các quốc gia trong việc giải quyết các
vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kì chiến tranh lạnh, khi thế giới bị chia làm
hai phe do hai siêu cường khống chế, lợi ích dân tộc nhiều khi bị đặt xuống dưới,
thậm chí bị hi sinh để bảo vệ “lợi ích quốc tế” của mỗi phe. Sau khi chiến tranh
lạnh chấm dứt, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu. Mỗi quốc gia dù lớn hay
nhỏ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để thể hiện quan điểm, thái độ riêng đối với
các vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy, điều đó được thể hiện trong thái độ của các
nước đối với các vấn đề quốc tế lớn hiện nay như: vấn đề chống khủng bố quốc
tế, cuộc chiến tranh ápganixtan, chiến tranh Irắc, vai trò của Liên Hợp Quốc, vấn
đề môi trường, vấn đề hạt nhân, nhân quyền… và hàng loạt những vấn đề khác.
Sự tập hợp lực lượng trở nên cơ động, linh hoạt, tuỳ theo từng vấn đề, từng thời
điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
trên cơ sở đảm bảo tốt nhất cho lợi ích dân tộc.
Các cuộc xung đột liên quan đến sự khác biệt về hệ tư tưởng; qua sự hỗ trợ, can
thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc nội bộ của nước khác; sự phá hoại,
xuyên tạc tình hình của các nước khác; sự ủng hộ, giúp đỡ các nhóm đối lập; tiến
hành lật đổ chính quyền, xây dựng các chính phủ bù nhìn Sự chống phá của các
thế lực thù địch đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các
nước xã hội chủ nghĩa, các cuộc “cách mạng sắc màu”, các cuộc bạo loạn, đảo
chính chính trị đã và đang diễn ra ở khu vực Trung Á, Trung Đông, Bắc Phi hiện
nay là những dẫn chứng tiêu biểu cho các xung đột có nguyên nhân chính trị. Đã
hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu
thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư
bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình”
với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên…
Biên giới của thời kỳ chiến tranh lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài
Loan. Để chống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn

biến hoà bình mà còn dùng biện pháp bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế,
đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền…Tuy nhiên, sự
tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế
trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các nước có hệ thống chính trị xã hội
đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với
Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối kháng về ý thức hệ song sự đối
kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế như trong thời
kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” và
“chống diễn biến hoà bình”.Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương diện
và là một quá trình đấu tranh lâu dài.
3. Xung đột về kinh tế.
kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của các quốc gia và
trở thành động lực chính của xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh
sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, các quốc gia đều
nhận thấy vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận dụng mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Cách đặt vấn đề về an ninh, quốc phòng
và kinh tế về cơ bản đã khác so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia không còn tuỳ thuộc vào sức mạnh quân sự, chính trị mà sức mạnh
kinh tế nổi lên hàng đầu và trở thành trọng điểm. Đồng thời, làn sóng tập hợp các
quốc gia trong các tổ chức khu vực địa lý, từ tiểu khu vực đến đại khu vực thành
những khu vực mậu dịch tự do đang diễn ra dồn dập ở hầu khắp các châu lục,
thậm chí liên châu lục.
Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển (mâu
thuẫn Bắc - Nam) tiếp tục diễn ra gay gắt.
Khoảng cách giữa các nước giầu với các nước nghèo ngày càng lớn. Theo báo
cáo của UNDP, tổng thu nhập kinh tế thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI, vào khoảng 25.000 tỉ đôla Mĩ, trong đó các nước phát triển Mĩ, EU
và Nhật chiếm tới 88%. Phần còn lại là của trên 100 nước đang phát triển.
8

Sự
cách biệt giàu nghèo ngày càng lớn đã, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn
định, an ninh và sự thịnh vượng chung của thế giới. Tình trạng nghèo khổ, bất
bình đẳng, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bùng lên đã khiến cho quy mô của chủ
nghĩa khủng bố lan tràn trên khắp các lục địa, với những hình thức hết sức đa
dạng. Mâu thuẫn về khoảng cách giàu nghèo còn diễn ra trong nội bộ từng nước,
đặc biệt là trong các nước tư bản phát triển. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nâng cao
chất lượng cuộc sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội… ở các nước tư bản diễn
ra ngày càng mạnh mẽ.
sự bao vây, cấm vận thương mại; phong tỏa hàng hóa; thiết lập hàng rào thuế
quan, bảo hộ hàng hóa; độc quyền sản xuất, phương pháp bán hàng Đó là sự
bao vây, cấm vận của Mỹ đối với Cu-ba, Triều Tiên, các biện pháp trừng phạt
kinh tế đối với Li-bi, I-ran Các cuộc xung đột này cũng thường xuyên xảy ra
giữa các trung tâm kinh tế, thương mại thế giới như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản,
Trung Quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế, thương mại đang diễn ra
mạnh mẽ, những cuộc xung đột kinh tế sẽ còn tiếp diễn với mức độ và quy mô
lớn hơn.
4. Xung đột về xắc tộc, tôn giáo.
Đây là mâu thuẫn đã từng tồn tại từ lâu đời trong lịch sử nhân loại. Trên thế
giới, nhiều quốc gia buộc phải dùng đến biện pháp “cực chẳng đã” để giải
quyết những xung đột tôn giáo, sắc tộc. Trong nhiều trường hợp, người ta đã
không lường trước được mức độ nguy hiểm của âm mưu tạo cớ gây xung đột
tôn giáo, sắc tộc của các thế lực thù địch thông qua các vụ việc cụ thể. Khi
tình hình đã khó kiểm soát, hiệu quả của các “biện pháp mạnh” rất dễ gây
phương hại không đáng có trong các mối quan hệ đa phương quốc tế, ảnh
hưởng đến tiến trình bảo vệ và phát triển của một quốc gia.
Thế giới từng chứng kiến những xung đột giữa Ấn Độ giáo, Ki-tô giáo và
Phật giáo với Hồi giáo tại Ấn Độ; giữa Ki-tô giáo và Hồi giáo tại Ni-giê-ri-a
và In-đô-nê-xi-a; giữa các tín đồ Tin lành (một nhánh của Ki-tô giáo) với
chính Ki-tô giáo ở Bắc Ai-len (Ireland); giữa những kẻ nổi loạn người Hồi

giáo với cảnh sát chính quyền ở miền Nam Thái Lan; xung đột giữa sắc tộc
Lou Nuer và Murle ở miền Nam Xu-đăng… Riêng ở Trung Quốc, xung đột
tôn giáo, sắc tộc cũng đã từng xảy ra, phá hoại sự thống nhất và ổn định phát
triển đất nước. Nổi bật nhất là xung đột giữa Phật giáo Tây Tạng (phương
Tây gọi là Lạt-ma giáo), giữa Hồi giáo Tân Cương… với chính quyền địa
phương và Trung ương.
8
/>Xung đột sắc tộc, tôn giáo vốn được biết đến như những hậu quả của chính sách
“chia để trị” của chủ nghĩa thực dân, đồng thời còn bắt nguồn từ sự bất bình đẳng
về kinh tế, chính trị, văn hoá, việc tranh giành ảnh hưởng quyền lực giữa các
nhóm sắc tộc, sự xúi giục, kích động của một số thế lực bên ngoài… Sau khi
chiến tranh lạnh kết thúc, trong xu thế dân chủ, đa nguyên, đa đảng, các cuộc
xung đột sắc tộc, tôn giáo bùng nổ, lan rộng và diễn ra ngày càng quyết liệt ở các
khu vực khác nhau trên thế giới. Trong đó, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có điều
kiện tăng cường hoạt động và trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa khủng bố quốc
tế hiện nay. Xu hướng chính của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là chống Mỹ và
các nước phương Tây thân Mĩ, nhưng lấy thủ đoạn khủng bố làm vũ khí. Chính
sách đối ngoại hiếu chiến của chính quyền Mĩ đã khiến cho Mĩ trở thành đối
tượng của chủ nghĩa khủng bố ở khắp mọi nơi trên thế giới. Khủng bố quốc tế có
tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế, gây bất ổn định trong nội bộ quốc gia,
đồng thời tác động đến hoà bình, an ninh khu vực nói riêng và trên thế giới nói
chung. Tình hình sẽ trở nên đặc biệt phức tạp khi khủng bố và chống khủng bố
trở thành công cụ của nhà nước này chống lại nhà nước khác, làm căng thẳng
quan hệ quốc tế, thể hiện qua sự xung đột giữa các cộng đồng tôn giáo; sự va
chạm giữa các giá trị tôn giáo; theo dõi vì tín ngưỡng; phân biệt, ngược đãi tôn
giáo, tín ngưỡng. Tiêu biểu là xung đột giữa các nhóm đạo Hồi ở I-rắc, giữa các
nước A-rập (Hồi giáo) và I-xra-en (Do Thái giáo), xung đột ở miền Nam Thái
Lan (Hồi giáo - Phật giáo), Phi-lip-pin (Hồi giáo - Thiên Chúa giáo), xung đột
quốc tế liên quan đến việc đăng tải các bức biếm họa Đấng tiên tri Mô-ha-mét
trên báo chí một số nước ở châu Âu Ngoài ra, nhiều tổ chức vũ trang, khủng bố

hiện nay đang có xu hướng núp bóng dưới vỏ bọc tôn giáo, lợi dụng các vấn đề
tôn giáo để thực hiện các hoạt động chính trị của mình. Sự kiện tấn công khủng
bố vào nước Mỹ ngày 11-9-2001, cuộc chiến chống khủng bố quốc tế hiện nay
do Mỹ phát động, các vụ tấn công khủng bố ở Nga, Anh, Tây Ban Nha, Ấn Độ,
Pa-ki-xtan đã cho thấy tính chất phức tạp, khó lường của hình thức xung đột
này.Các cuộc xung đột tôn giáo cũng rất phức tạp và khó giải quyết, do liên quan
đến các chuẩn mực giá trị, đạo đức của các cộng đồng dân tộc, có lịch sử lâu dài
và thường liên quan đến nhiều quốc gia, ở các khu vực khác nhau trên thế giới.
5. Xung đột về tài nguyên.
Trong những năm gần đây, căng thẳng trên thế giới phần lớn chính là do sự tranh
giành các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đó là kết luận của Viện quốc tế nghiên
cứu vì hòa bình Stockholm trong bản báo cáo được công bố ngày 7/6/2011.
9
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ trên thế giới tăng cao và những biến đổi khí hậu đã
gây nên tình trạng khan hiếm ở nhiều nơi. Cho nên, cuộc tranh giành các nguồn
tài nguyên thiên nhiên ngày càng gay gắt và đó chính là nguyên nhân chính gây
căng thẳng ở nhiều nơi trên thế giới. Nói cách khác, các nguồn tài nguyên nay là
yếu tố chính của các cuộc xung đột.
Cho nên, các cuộc tranh giành các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng gay
gắt và đó chính là nguyên nhân chính gây căng thẳng ở nhiều nơi trên thế giới.
Nói cách khác, các nguồn tài nguyên nay là yếu tố chính của các cuộc xung đột
Trong những năm gần đây, các nguồn tài nguyên nay là yếu tố chính của các
cuộc xung đột.
Hiện tại, nhu cầu năng lượng của các nước phát triển và các nước đang phát triển
không ngừng tăng cao, đã khiến các nước cạnh tranh khốc liệt hòng giành được
nguồn năng lượng khu vực Trung Á, từ đó từng bước đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu
năng lượng khu vực này. Trước mắt, Nga, Mỹ, Liên minh châu Âu EU và Trung
Quốc được coi là những khách hàng quan trọng của nguồn năng lượng Trung Á.
Ngoài ra, Iran, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ cũng có nhu cầu khá lớn đối với
năng lượng Trung Á.

Nhu cầu tiêu thụ tăng vọt trên thế giới, đặc biệt là của hai nước khổng lồ Ấn Độ
và Trung Quốc, đã khiến cuộc tranh đua tìm các nguồn tài nguyên thêm sôi động,
kể cả ở vùng Bắc Cực, đồng thời khiến cho giá cả tăng cao, đặc biệt là thực
phẩm. Ông Melvin tiên đoán là từ đây đến năm 2020, giá lương thực có thể tăng
gấp đôi. Nên nhớ rằng các vụ bạo động tại các nước như Tunisia hay Ai Cập, dẫn
đến phong trào Mùa Xuân Ả Rập phần lớn là biểu tình phản đối giá lương thực
tăng cao, khiến dân nghèo càng thêm đói rách.
10
Còn tại Libya, sở dĩ Trung Quốc và Nga đang tiếp xúc với phe nổi dậy chính là vì
hai nước này đang muốn giữ phần tại quốc gia xuất khẩu dầu hỏa đứng hàng thứ
9 thế giới, bởi vì Bắc Kinh và Matxcơva thấy rằng đại tá Kadhafi sẽ không còn
bám trụ được lâu nữa, trước áp lực về ngoại giao và quân sự của quốc tế.
biểu hiện qua việc tranh chấp nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là nguồn lợi hải
sản, khai thác dầu mỏ, khí đốt thềm lục địa; gây ô nhiễm nguồn nước, xây dựng
9
/>xung-dot.htm
10
/>cuoc-xung-dot.htm
cầu cống, đập thủy lợi, thủy điện trên các dòng sông; gây ô nhiễm không khí, nạn
khói mù; áp dụng các tiêu chuẩn môi trường khắt khe nhằm vào các hàng hóa
nhập khẩu.
Cũng chính do cơn khát nhiên liệu mà Trung Quốc nay tỏ ra ngang ngược hơn
trên Biển Đông và vụ đụng độ với tàu Bình Minh 02 ngày 26/5 là chuyện tất yếu,
bởi lẽ Bắc Kinh gần như muốn độc quyền thăm dò và khai thác dầu khí ở vùng
Biển Đông, kể cả trong thểm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Sự vận động của các quan hệ quốc tế hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa đã
làm xuất hiện ngày càng nhiều các chủ thể quan hệ chính trị quốc tế mới, không
truyền thống, chủ thể “ngoài chủ quyền”, “ngoài quốc gia”. Đó là các tổ chức
quốc tế liên chính phủ và phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế, tài chính, các công
ty xuyên quốc gia, các tập đoàn

truyền thông, các cộng đồng dân tộc, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức không
chính thức, bất hợp pháp (kể cả các tổ chức tội phạm, maphia, khủng bố ), các
lãnh tụ, cá nhân. Với sự tham gia của nhiều chủ thể mới, nhiều mối quan hệ mới
đã nảy sinh và phát triển, xung đột quốc tế do vậy cũng xuất hiện nhiều hơn, khó
giải quyết hơn.
6. Xung đột vũ trang.
Trên quy mô toàn cầu, trước hết phải kể tới cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng
bố quốc tế do Mỹ và các đồng minh tiến hành bắt đầu từ sau vụ tấn công của
những kẻ khủng bố vào New York và Washington ngày 11/9/2001. Liên Hợp
Quốc và nhiều quốc gia khác cũng tích cực tham gia cuộc chiến này.
11
Theo những dự đoán bi quan, phương Tây rất khó giành được chiến thắng
cuối cùng trong cuộc chiến này vì những mô hình dân chủ mà họ đưa ra rất
khó bắt rễ vào những nền văn minh với những truyền thống khác.Trên lãnh
thổ châu Âu cho tới nay vẫn nổi lên cuộc xung đột giữa Moskva với Tbilisi,
nảy sinh vì những vấn đề bóc tách thành những nước cộng hòa độc lập của
Abkhazia và Nam Ossetia (nền độc lập này đã được Nga và Nicaragua công
nhận). Trong năm 2008, cuộc xung đột này đã bước vào giai đoạn "nóng
bỏng" mà đỉnh cao là những đụng độ vũ trang vào cuối tháng 8 năm ngoái.
Hiện nay, quan hệ ngoại giao giữa Moskva với Tbilisi vẫn chưa được cải
thiện đáng kể. Bản thân Tổng thống Gruzia, Mikhail Saakashvili, vốn luôn
kỳ vọng vào phương Tây, đặc biệt là vào Washington, cũng không có thiện
chí làm lành với Moskva và điều này luôn ẩn chứa những bùng nổ tiêu cực
trong tương lai.
11
/>Tại Iraq liên tục tiếp diễn những đụng độ quân sự giữa chính phủ nước này
với lực lượng nổi dậy địa phương và tàn dư Al-Qaeda. Chiến sự ở đây đã bắt
đầu từ năm 2003, sau khi liên quân quốc tế do Washington đứng đầu tràn
vào lật đổ chế độ của Tổng thống Saddam Hussein và chiếm đóng lãnh thổ
Iraq. Can dự trực tiếp hoặc gián tiếp tới xung đột vũ trang ở Iraq có hàng

chục quốc gia trên thế giới.
Cũng trong năm 2008, Israel đã có nhiều hoạt động quân sự chống lại các tổ
chức mà người Do Thái cho là khủng bố như HAMAZ và Hezbollah…
Xung đột giữa Israel với những phần tử khủng bố kiên quyết không chịu
công nhận sự tồn tại chính đáng của quốc gia Do Thái đã kéo dài từ năm
1975 và bắt nguồn chủ yếu từ những lý do lãnh thổ và tôn giáo. Bị lôi kéo
can dự vào cuộc xung đột này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp có cả Liên
Hợp Quốc, Syria, Lebanon, Ai Cập, Iran, Jordan, Mỹ, Liên minh châu Âu và
Nga.
Cuộc xung đột vũ trang lớn tiếp theo diễn ra ở Afghanistan, bắt đầu từ năm
1978 tới nay và càng ngày càng có dấu hiệu trở nên căng thẳng hơn. Có khá
nhiều nguyên nhân dẫn tới cuộc xung đột này, chủ yếu mang tính chất sắc
tộc, tôn giáo và lãnh thổ.
Sau khi chế độ Taliban bị lật đổ và chính quyền của Tổng thống Hamid
Kazai, những kẻ thù chính yếu trong cuộc chiến này là tàn quân của Taliban
và Al-Qaeda. Liên quan tới cuộc xung đột này có LHQ, NATO, Mỹ, Iran,
Nga, Pakistan, Tadjikistan, Kyrgyzstan, Uzbekistan. Tổng thống Mỹ Barack
Obama mới đây đã phải quyết định tăng thêm 17 nghìn quân cho chiến
trường Afghanistan. Theo lời tướng David McKiernan, chỉ huy lực lượng
Hoa Kỳ và NATO ở Afghanistan, nói một ngày sau khi Tổng thống Obama
loan báo tăng thêm 17 nghìn quân, dù đã được tăng viện như vậy nhưng tình
hình năm nay vẫn là rất khó khăn đối với liên quân quốc tế ở đây.
12
Tại châu Á, xung đột quân sự lớn là việc Ấn Độ chống lại những phần tử li
khai ở Kashmir. Nguyên nhân của cuộc xung đột này là những cố gắng trở
thành một quốc gia độc lập của một số thế lực tại Kashmir. Chiến sự diễn ra
từ năm 1986. Bị lôi cuốn vào cuộc xung đột này ở những mức độ khác nhau
có LHQ, Pakistan và một loạt những quốc gia khác. Nhìn chung, cho tới
hôm nay vẫn không le lói một giải pháp chính trị nào cho cuộc xung đột này.
12

/>Một quốc gia Nam Á khác là Sri Lanca cũng đang phải tiến hành các hoạt
động quân sự ác liệt chống lại tổ chức Những con hổ giải phóng Tamil
(LTTE). Nhiều nước trên thế giới coi tổ chức này là một lực lượng khủng
bố, chính tổ chức này đã "đầu têu" ra việc sử dụng đánh bom liều chết. Xung
đột vũ trang tiếp diễn từ năm 1978.
Đầu năm 2009, quân đội của chính phủ Sri Lanca đã giành được một loạt
những thắng lợi quan trọng và gần như đã giành được quyền kiểm soát trên
vùng lãnh thổ mà trước đây LTTE vẫn làm chủ. LTTE đã bị đẩy lùi vào khu
vực rừng rậm phương Bắc đang ngày càng bị thu hẹp dần.
Thế nhưng, trong những ngày gần đây, LTTE vẫn gượng lại được và tiến
hành các đợt ném bom ngay trên bầu trời thủ đô Colombo, làm ít nhất là 2
người chết và 45 người bị thương. Nguyên nhân dẫn tới cuộc xung đột này
là ở khía cạnh sắc tộc và tôn giáo - về mặt danh nghĩa, tổ chức Những con
hổ giải phóng Tamil chiến đấu vì nền độc lập của quốc gia Tamil Ilam.
Bị lôi kéo can dự vào cuộc xung đột này có Ấn Độ và ở mức độ thấp hơn, cả
LHQ. Đã có khoảng 75 nghìn người bị thiệt mạng ở Sri Lanca vì những
đụng độ vũ trang như thế trong gần 30 năm qua.
13
Tại châu Mỹ La tinh, căng thẳng nhất là những đụng độ quân sự giữa chính
phủ Columbia với các lực lượng vũ trang đối lập khác nhau, trước hết là với
lực lượng vũ trang cách mạng Columbia (FARC). Từ năm 1964, FARC đã
đứng lên tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang vì lý tưởng của mình. Giai đoạn
gay cấn nhất của cuộc đấu tranh này là bắt đầu từ năm 1978.
Những nguyên nhân chính dẫn tới xung đột vũ trang là các yếu tố tư tưởng,
xã hội và cả hình sự (liên quan tới buôn bán ma tuý). FARC kiếm tiền bằng
hai phương thức bắt cóc các con tin để đòi tiền chuộc và bảo trợ cho các ông
trùm cocain. FARC hoạt động trên lãnh thổ Columbia, Venezuela, Panama
và Ecuador. Washington đứng về phía chính phủ Columbia.
Một xung đột vũ trang khác ở Columbia là giữa chính phủ nước này với
Quân đội Giải phóng Dân tộc. Nguyên nhân chủ yếu của cuộc xung đột này

là các vấn đề tư tưởng và hình sự (liên quan tới buôn bán cocain).
Lục địa đói nghèo nhất hành tinh là châu Phi cũng là nơi diễn ra nhiều đụng
độ quân sự đẫm máu và dai dẳng nhất. Xung đột vũ trang gay gắt nhất ở "lục
địa Đen" là giữa chính phủ Cộng hòa Dân chủ Congo với các tổ chức vũ
13
/>trang của các bộ lạc cũng như với các nhóm lính đánh thuê người nước
ngoài.
Chính quyền trung ương ở đây rất cố gắng kiểm soát những khu vực hẻo
lánh của đất nước nhưng không mấy thành công. Những nguyên nhân chính
của cuộc xung đột này là các yếu tố sắc tộc và kinh tế xã hội. Bị lôi cuốn vào
cuộc xung đột tiếp diễn từ năm 1997 này có các quốc gia châu Phi khác,
Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Phi và Pháp.
Cũng ở "lục địa Đen" còn có cuộc xung đột vũ trang dai dẳng ở Nigeria, bắt
đầu từ năm 1970. Những nguyên nhân chính dẫn tới cuộc xung đột này có
yếu tố sắc tộc, tôn giáo và kinh tế. Tại các tỉnh miền Bắc Nigeria, đại đa số
dân chúng là các tín đồ Hồi giáo, đòi hỏi áp dụng phổ cập giáo lý Sharia.
Thường xuyên tại Nigeria bột phát những vụ đụng độ giữa các tín đồ cực
đoan Hồi giáo và Thiên chúa giáo, các vụ hỗn loạn và khủng bố. Ngoài ra,
các nhóm vũ trang bộ lạc khác nhau cũng rất nóng máu trong các hoạt động
nhằm giành quyền kiểm soát lớn hơn đối với kinh doanh dầu mỏ.
Tại Somali tập trung những vụ đụng độ vũ trang giữa các phe phái chính trị
khác nhau. Nguyên nhân của cuộc xung đột bắt đầu từ năm 1978 này là các
yếu tố sắc tộc và hình sự. Tại Somali, nơi không có một chính quyền trung
ương đủ mạnh, có nhiều nhóm bộ lạc và mafia muốn độc chiếm quyền lực.
Can dự vào việc vãn hồi trật tự ở Somali có LHQ, Mỹ, Rthiopia và Sudan…
Sudan là một trong những quốc gia liên đới tới khá nhiều cuộc xung đột vũ
trang ở "lục địa Đen". Tại Sudan hiện cũng đang diễn ra cuộc chiến chống
lại Quân đội Giải phóng Sudan và Phong trào vì bình đẳng và công bằng.
Thực chất đây là cuộc chiến giữa miền Bắc theo Hồi giáo với miền Nam
theo Thiên chúa giáo (thủ phủ Darfur) đang muốn li khai bằng mọi giá.

Cuộc xung đột có những nguyên nhân mang tính sắc tộc và tôn giáo.
Trên thế giới vẫn đang đỏ lửa hàng chục các cuộc xung đột vũ trang khác mà
theo nhiều nguyên nhân, mức độ căng thẳng của chúng đã suy giảm nhưng
trong một điều kiện nào đó, hoàn toàn có thể lại "nổi lửa lên em" một cách
gay gắt nhất.
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA XUNG ĐỘT KHU VỰC TRONG QUAN
HỆ QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
1. Tác động đến an ninh khu vực.
Xung đột khu vực ảnh hưởng rất lớn đến tình hình an ninh khu vực hiện nay,
Ta có thể xem xét ảnh hương của xung đột đến khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương.
Việc chọn lựa phương hướng phát triển và biện pháp giải quyết tranh chấp lãnh
thổ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ
giữa các nước và nền hòa bình phát triển của toàn khu vực. Phạm vi ảnh hưởng
rộng và số lượng lớn các nước có liên quan trong tranh chấp lãnh thổ Châu Á -
Thái Bình Dương là đặc điểm khác biệt so với các khu vực khác. Trong phạm vi
khu vực có tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật Bản, Trung Quốc và các nước
ASEAN, giữa các nước ASEAN; hay phạm vi ngoài khu vực giữa Nga và Nhật,
Mỹ và toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng đều tồn tại rất nhiều vấn đề
liên quan đến quyền lợi các nước, không chỉ ảnh hưởng tới các nước tham gia mà
còn tác động sâu rộng đến hòa bình và an ninh của toàn bộ khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương.
Tranh chấp đảo Điêu Ngư là vấn đề nổi cộm trong quan hệ Trung - Nhật,
gây căng thẳng trong mối quan hệ hai nước. Tranh chấp Biển Đông là thước
đo mức độ căng thẳng hay ôn hòa trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN.
Tranh chấp lãnh thổ cũng chính là nguyên nhân cơ bản mà Nhật và Nga đến
nay vẫn chưa có bất kỳ tiếng nói chung hay một văn bản ký kết liên quan
nào, và "Bốn đảo phía bắc" biến thành vật cản kìm hãm sự phát triển quan
hệ Nhật - Nga. Cũng như vậy, tranh chấp Nhật - Hàn đã đẩy quan hệ hai
nước xuống chiều sâu của sự trì trệ.

Các nước liên quan đến tranh chấp lãnh thổ khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN, v.v đều là những thành
viên trọng yếu của khu vực này, do đó mối quan hệ giữa các nước có ảnh
hưởng quan trọng, quyết định tới sự tồn tại, hòa bình và ổn định của toàn
khu vực. Trung Quốc là quốc gia đang trỗi dậy, có tác động ngày càng lớn
trong vấn đề của khu vực cũng như của thế giới. Nhật là cường quốc kinh tế
đang đầu tư đẩy mạnh sang lĩnh vực chính trị và quân sự. Các nước ASEAN
không ngừng phát triển sau chiến tranh lạnh, hoạt động tích cực và phát huy
hiệu quả trong nền chính trị, kinh tế, an ninh toàn khu vực. Nếu quan hệ hai
nước Trung - Nhật xấu đi sẽ gây ảnh hưởng lớn đến cục diện an ninh khu
vực; chất lượng quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến hòa bình và ổn định khu vực. Do vậy, nếu các nước đã nêu trên vì
mục đích tranh chấp lãnh thổ gây ra mâu thuẫn hoặc xung đột vũ trang sẽ
không chỉ phá hoại mối quan hệ phát triển bình thường hóa vốn có, mà còn
khiến cho an ninh khu vực rơi vào tình trạng bất ổn định, tổn hại nghiêm
trọng đến hòa bình và phát triển của toàn bộ khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương.
2. Tác động đến quan hệ giữa các quốc gia.
Xung đột khu vực làm thay đổi quan hệ giữa các quốc gia không chỉ riêng
trong khu vực mà nó còn ảnh hưởng tới tất cả các quốc gia trên thế giới.
Trong xung đột của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương đã làm nổi bật lên
tầm ảnh hưởng của xung đột khu vực đối với các cường quốc trên thế giới
Như chúng ta đã biết khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là cái nôi của sự
giao thoa về lợi ích và sức mạnh của các nước lớn. Bốn nước Trung, Mỹ,
Nhật và Nga đóng vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề chung của
toàn khu vực. Quan hệ giữa các nước này quyết định đến cục diện chính trị
của toàn khu vực. Đồng thời, diễn biến tranh chấp lãnh thổ khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cục diện quan hệ bốn
nước này, thậm chí đến nền an ninh của toàn thế giới.
Thứ nhất, một số tranh chấp lãnh thổ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

phát sinh từ mối quan hệ giữa nước lớn và nước lớn. Ví dụ như tranh chấp
đảo Điêu Ngư Trung - Nhật hay tranh chấp "Bốn đảo phía bắc" Nhật - Nga,
phương hướng phát triển và biện pháp giải quyết ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển quan hệ song phương của các nước này. Hay ví dụ như, tranh chấp
"Bốn đảo phía bắc" giữa Nhật và Nga trước nay luôn như "cái gậy đặt trong
cổ họng" cản trở sự phát triển lâu dài quan hệ Nhật - Nga, nếu không giải
quyết được vấn đề này thì việc thiết lập quan hệ song phương mật thiết Nhật
- Nga là điều không thể có. Tranh chấp đảo Điêu Ngư Trung - Nhật cũng là
cái bóng kìm hãm quan hệ hai nước phát triển. Do đó cần xuất phát từ lợi ích
tổng thể trong quan hệ song phương tốt đẹp, từ đó cùng suy ngẫm và tìm ra
biện pháp giải quyết.
Thứ hai, một số nước lớn mặc dù không phải là nước có liên quan đến tranh
chấp lãnh thổ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương song lại có lợi ích thiết
yếu trong khu vực tranh chấp này. Diễn biến tranh chấp lãnh thổ toàn khu
vực từ đó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến quan hệ nước đó và những nước có
tranh chấp.
Ngay chính một số vùng tranh chấp trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nền kinh tế và chiến lược
phát triển, là đối tượng quan tâm đặc biệt của các nước lớn. Ví dụ như đảo
Điêu Ngư có giá trị kinh tế lớn và chiến lược phát triển quan trọng đối với
hai nước Trung - Nhật, Biển Đông được gọi là "trái tim của khu vực Đông
Nam Á", là "Địa Trung Hải khu vực Châu Á", v.v trong đó nguồn thủy sản
và nguồn tài nguyên dầu khí phong phú, có đường hàng hải thuận tiện và
lượng hàng hoá thương mại chuyển qua hàng năm tấp nập, không chỉ có ý
nghĩa quan trọng đối với an ninh và phát triển của các nước xung quanh
Biển Đông mà còn là mối quan tâm đặc biệt về lợi ích của các nước lớn, đặc
biệt là các siêu cường quốc.
Mỹ có lợi ích chiến lược chính trị, kinh tế, an ninh, v.v quan trọng trong
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, cũng là khu vực hoạt động của hạm đội
Thái Bình Dương Mỹ. Các nước Mỹ, Nhật, Philippines đã ký kết hiệp ước

liên minh quân sự, xây dựng căn cứ quân sự tại Okinawa Nhật, đồng thời
còn hợp tác quân sự và quốc phòng dưới nhiều hình thức với các nước xung
quanh khu vực Biển Đông khác. Nếu tranh chấp Biển Đông leo thang hoặc
phát sinh xung đột mới trong tranh chấp Trung - Nhật, thì vấn đề không còn
thuộc phạm vi giải quyết giữa Trung Quốc và các nước ASEAN hay giữa
Trung Quốc và Nhật nữa. Khi đó, Mỹ cũng có khả năng tham gia và quan hệ
Trung - Mỹ không thể không bị ảnh hưởng.
Tiếp nữa, các mối quan hệ song phương như quan hệ Trung - Mỹ, quan hệ
Trung - Nhật, quan hệ Nhật - Mỹ, quan hệ Trung - Nga, hay quan hệ Nhật -
Nga, v.v sẽ nắm vai trò quyết định cục diện chính trị và an ninh khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Diễn biến trong tranh chấp lãnh thổ khu vực dù
ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến bất kỳ mối quan hệ song phương nào
cũng đều kéo theo "phản ứng dây chuyền" cho những mối quan hệ khác, từ
đó ảnh hưởng đến diễn biến cục diện chính trị và an ninh của toàn bộ khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mặt khác, các nước này cũng là lực lượng
thống trị chủ đạo trên quy mô toàn thế giới nên sự ảnh hưởng không chỉ giới
hạn trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương mà còn ảnh hưởng sâu rộng
đến cục diện thế giới cũng như hòa bình và an ninh thế giới.
KẾT LUẬN
Ở nhiều khu vực trên thế giới, xung đột cục bộ và tình trạng bất ổn vẫn tiếp tục
diễn ra. Tuy nhiên, những xung đột này khó có khả năng lan rộng, lôi cuốn sự đối
đầu trực tiếp của các nước lớn, chủ yếu là do các nước lớn hiện nay đều có lợi ích
lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hoà bình để phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa khủng bố quốc tế trở thành mối đe doạ tiềm tàng
đối với an ninh chung của thế giới. Những biến đổi của tình hình quốc tế như đã
nêu ở trên làm cho xu thế đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế trở thành xu thế phổ
biến của các quốc gia.
Do đời sống kinh tế quốc gia đã và đang được quốc tế hoá cao độ, do nhu cầu
phát triển kinh tế, các quốc gia đều phải năng động, linh hoạt thực hiện đa dạng
hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia một cách

hiệu quả nhất.
Những xu thế trên tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên những động lực cộng hưởng
làm thay đổi sâu sắc nền kinh tế và diện mạo của quan hệ quốc tế sau chiến tranh
lạnh.
Tình hình đó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới phải có cách nhận thức đúng
và kịp thời để hoạch định một chính sách đối ngoại phù hợp với trào lưu chung
của thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
Trên thực tế, các mối quan hệ này mới chỉ có ý nghĩa ở cấp khu vực, chưa có
phạm vi và ảnh hưởng toàn cầu. Đương nhiên trong xu thế chung của thế giới,
các mối quan hệ này cũng mang đặc trưng: vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa phối
hợp vừa mâu thuẫn Trong từng thời điểm cụ thể, có thể mặt này hay mặt kia nổi
lên chiếm ưu thế, nhưng xét đến cùng thì hợp tác vẫn là cơ bản, cạnh tranh mâu
thuẫn có thể gay gắt nhưng khó dẫn tới xung đột hay chiến tranh.
Như vậy, hợp tác và xung đột là phạm trù có tính quy luật của đời sống quan hệ
quốc tế hiện đại, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và đều xuất phát từ lợi ích của
mỗi quốc gia-dân tộc. Vừa hợp tác, vừa xung đột giữa các nước lớn có thể coi là
một phương thức quan hệ nhằm đảm bảo cho những lợi ích mà các nước này đã,
đang và mong muốn có được. Trong hợp tác đã hàm chứa sự cạnh tranh, xung đột
và trái lại trạng thái xung đột, cạnh tranh trong những hình thức phù hợp có vai
trò thúc đẩy quá trình hợp tác lên một cấp độ mới. Vì lẽ đó, xung đột và hợp tác
trong quan hệ quốc tế, trong quan hệ giữa các cường quốc sẽ luôn vận động và
phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với xu thế toàn cầu hóa
đa bình diện, đầy nghịch lý và rất sôi động hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. QUAN HỆ QUỐC TẾ: Những khía cạnh lý thuyết và vấn đề. NXB Chính
trị quốc gia.
2. An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa. NXB Chính trị quốc gia.
3. Cuộc xung đột Israel và Ả Rập. NXB thông tấn.
4. />quan-he-quoc-te-sau-chien-tranh-lanh.html
5. />6. />lanh-tho-toi-an-ninh-khu-vuc-chau-a-thai-binh-duong

7. />kien/2011/12419/Xung-dot-quoc-te-bai-toan-van-chua-co-loi.aspx
8. />cua-cac-cuoc-xung-dot.htm
9.
/>ns050608173143
10. />11. />111112.html
12. />MỤC LỤC

×