Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Đồ án: Ngành thép việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.53 KB, 76 trang )

Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Lời mở đầu

Nớc ta đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nớc công
nghiệp có trình độ phát triển khá. Chiến lợc 10 năm 2001-2010 là đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nền tảng cho một nớc công nghiệp trong
giai đoạn sau. Chiến lợc 10 năm này phải hớng tới việc đa đất nớc phát triển
nhanh và bền vững, xây dựng nền kinh tế tự chủ, chủ động hội nhập có hiệu
quả với kinh tế quốc tế và tiếp tục đổi mới sâu rộng hơn nữa.
Ngành thép là một ngành công nghiệp năng then chốt trong nền kinh
tế quốc dân, là đầu vào cho rất nhiều các ngành công nghiệp khác.
Thép đợc đánh giá là vật t chiến lợc không thể thiếu của nhiều ngành
công nghiệp và xây dựng có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp
CNH-HĐH đất nớc. Ngành thép liên quan tới rất nhiều ngành kinh tế khác
nh khai khoáng (than, dầu, khí đốt, quặng sắt ), ngành điện Ngành thép
cũng liên quan tới các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu,vật t để phục vụ
cho hoạt động phát triển sản xuất của mình nh: xây dựng, chế tạo, đồ gia
dụng, giao thông vận tải
Ngoài việc là vật liệu trực tiếp cho các ngành, thép còn có vai trò
gián tiếp trong việc phát triển ngành nông nghiệp thông qua tác động vào
ngành công nghiệp chế tạo máy móc thiết bị vật t cho nông nghiệp. Một vai
trò quan trọng không thể không kể đến là thép phục vụ cho công nghiệp
quốc phòng.
Ngoài ra ngành thép góp phần giải quyết việc làm cho hàng chục vạn
lao động.
Nh vậy, thép là nguồn vật liệu chính để sản xuất các t liệu sản xuất
và t liệu tiêu dùng. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển
các ngành có liên quan. Trong giai đoạn hiện nay khi nớc ta đang trong
công cuộc CNH-HĐH nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng và tốc độ đô thị
hoá gia tăng mạnh mẽ thì thép trở thành vật liệu ngày càng quan trọng và
phổ biến.


Trong thời gian qua thị trờng thép Việt Nam cũng nh thế giới có
nhiều biến động lớn. Ngành thép Việt Nam đang đứng trớc thử thách khắc
nghiệt và đã có dấu hiệu phát triển không theo quy hoạch, không tính lợi
ích lâu dài gây ảnh hởng nghiêm trọng tới sự phát triển tổng thể của ngành
thép. Điều này có nguy cơ làm lãng phí các nguồn lực đầu t và lâu dài có
1
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
thể ảnh hởng mạnh tới toàn nền kinh tế nói chung. Nớc ta có tiềm năng lớn
về tài nguyên khoáng sản. Có thị trờng trong nớc rộng lớn, rất đa dạng về
gang thép và đang phát triển với tốc độ nhanh. Thị trờng này còn bao gồm
cả vùng Đông Nam á rộng lớn, nhất là các nớc xung quanh không có điều
kiện phát triển gang thép nh ta. Chúng ta có khả năng xây dựng ngành gang
thép từ thợng nguồn với những dây chuyền sản xuất khép kín hiệu quả kinh
tế cao, sức cạnh tranh mạnh, vốn đầu t chấp nhận đợc. Tuy nhiên, nhìn vào
thực trạng ngành thép hiện nay thấy còn nhiều bất cập từ cả phía Nhà nớc
và doanh nghiệp. Hậu quả là những biến động trong thị trờng gần đây đã
khiến không ít các doanh nghiệp lao đao. Tình thế ngành thép Việt Nam
cần có sự phân tích kỹ lỡng. Trớc hết phải nhìn thẳng vào thực trạng ngành
thép Việt Nam đang nh thế nào. Có điểm mạnh, điểm yếu nào, năng lực
cạnh tranh ra sao trong thời điểm hiện nay cũng nh trong tơng lai khi Việt
Nam tham gia đầy đủ vào AFTA, WTO và các tổ chức khác. Cũng cần phải
phân tích tình hình khu vực và thế giới, so sánh tơng quan với Việt Nam
xem cơ hội cho chúng ta có còn không và phát triển nh thế nào. Trong bản
thân các ngành công nghiệp Việt Nam cũng nên có sự phân tích để có sự
phân bổ hợp lý các nguồn lực đầu t cho từng ngành công nghiệp giúp đất n-
ớc phát triển nhanh nhng cân đối. Từ đó, Nhà nớc và các doanh nghiệp có
những chính sách cụ thể gì giúp cho ngành thép phát triển và hội nhập quốc
tế thành công.
Từ những vấn đề nêu trên, một nghiên cứu toàn diện và có nhận định
đúng đắn cũng nh đa ra những giải pháp tổng thể về mặt vĩ mô và cả vi mô

về ngành thép Việt Nam là cần thiết. Bài khoá luận này sẽ giải quyết một
phần vấn đề đó. Trong khuôn khổ bài khoá luận sẽ chỉ phân tích sâu về thực
trạng ngành thép Việt Nam, những kết quả, tồn tại; thuận lợi cũng nh khó
khăn để từ đó phân tích khả năng cạnh tranh của ngành thép cũng nh đa ra
những quan điểm phát triển cho ngành thép trong dài hạn và giải pháp cụ
thể cho các doanh nghiệp. Dựa trên nội dung đó bài khoá luận đợc chia làm
3 chơng:
Chơng 1: Quá trình hình thành và phát triển ngành công nghiệp
thép Việt Nam
Chơng 2: Ngành thép Việt Nam đứng trớc thách thức hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới
2
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Chơng 3: Những giải pháp phát triển ngành thép trong quá trình
hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
Những phân tích, nhận định và các ý kiến nêu ra dựa trên quan điểm
toàn diện và biện chứng và có sự tham khảo chọn lọc từ các bài nghiên cứu
trớc. Những ý kiến này còn cha đầy đủ do cha tính đợc tất cả các yếu tố ảnh
hởng đến một ngành công nghiệp cũng nh sự cạnh tranh vốn đầu t giữa các
ngành cần đợc u tiên phát triển. Hi vọng rằng sẽ có những nghiên cứu sâu
sắc và toàn diện về toàn thể ngành thép cũng nh các ngành công nghiệp
khác của Việt Nam để giúp có đợc định hớng phát triển đúng đắn trong quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Tôi xin gửi lời biết ơn chân thành tới các thầy cô trờng Đại học
Ngoại Thơng và đặc biệt thầy giáo hớng dẫn PGS. TS. Lê Đình Tờng đã
giúp đỡ tôi hoàn thành khoá luận này.
Chơng 1: quá trình hình thành và phát triển ngành
công nghiệp thép việt nam
1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngành thép Việt Nam
Ngành thép Việt Nam bắt đầu đợc xây dựng từ đầu những năm 60,

khu Liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đã cho ra lò mẻ
gang đầu tiên năm 1963. Song do chiến tranh và khó khăn nhiều mặt, 15
năm sau khu liên hợp gang thép Thái Nguyên mới có sản phẩm cán. Năm
1975, nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng do CHDC Đức giúp đã đi vào sản
xuất. Công suất thiết kế của cả khu Liên hợp gang thép Thái Nguyên lên 10
vạn tấn/năm.
Năm 1976, khi đất nớc thống nhất, công ty luyện kim đen Miền Nam
đợc thành lập trên cơ sở tiếp quản các nhà máy luyện cán thép mini của chế
độ cũ để lại ở thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hoà, với công suất khoảng
80.000 tấn thép cán/năm.
Từ 1976 1989, ngành thép gặp nhiều khó khăn do kinh tế đất nớc
khủng hoảng và nguồn thép từ Liên Xô và các nớc XHCN vẫn còn dồi dào
nên ngành thép không phát triển, chỉ duy trì mức sản lợng 40.000- 85.000
tấn/năm.
3
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Từ năm 1989- 1995, thực hiện chủ trơng đổi mới, của Đảng, ngành
thép bắt đầu có tăng trởng, sản lợng thép trong nớc đã vợt ngỡng 100.000
tấn/năm.
Năm 1990, Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nặng
đợc thành lập, thống nhất quản lý ngành sản xuất thép trong cả nớc. Đây là
thời kỳ phát triển sôi động, nhiều dự án đầu t chiều sâu và liên doanh với n-
ớc ngoài đợc thực hiện. Các ngành và các thành phần kinh tế khác đua nhau
làm thép mini. Sản lợng thép cán năm 1995 đã tăng gấp 4 lần so với năm
1990, đạt 450.000 tấn/năm và bằng mức Liên Xô cung cấp cho ta hàng năm
trớc 1990.
Tháng 4/1995, Tổng công ty Thép Việt Nam theo mô hình Tổng công
ty 91 đợc thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty Thép Việt Nam thuộc
Bộ Công nghiệp và Tổng công ty Kim khí thuộc Bộ Thơng mại.
Thời kỳ 1996- 2003: ngành thép vẫn giữ đợc tốc độ tăng trởng khá

cao, tiếp tục đợc đầu t mới và đầu t chiều sâu, đã xây dựng và đa vào hoạt
động nhiều dự án liên doanh. Sản lợng thép cả nớc trong năm 2002 đã đạt
2,38 triệu tấn. Đây là thời kỳ có tốc độ tăng sản lợng mạnh nhất. Hiện nay,
lực lợng tham gia sản xuất và gia công chế biến thép trong cả nớc rất đa
dạng, bao gồm nhiều thành phần kinh tế, ngoài Tổng công ty thép Việt
Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc các ngành, địa phơng khác còn có các
liên doanh, các công ty cổ phần, công ty 100% vốn nớc ngoài và các công
ty t nhân.
2.Tình hình sản xuất của ngành thép Việt Nam
2.1. Ngành thép còn ở điểm xuất phát thấp
Ngành thép đợc đầu t xây dựng cơ sở đầu tiên từ năm 1959. Hơn 40
năm qua do chiến tranh và nhiều khó khăn nên gần đây mới đợc quan tâm
đầu t. Thời kì trớc do cơ chế bao cấp và đợc sự giúp đỡ của Liên Xô và các
nớc XHCN, thép chỉ đợc sản xuất cầm chừng còn lại đợc nhập khẩu với giá
u đãi. Trong một thời gian dài hầu nh không đợc đầu t nâng cấp và đầu t
mới nên trình độ hết sức lạc hậu.
Từ khi Liên Xô và các nớc SEV tan rã khó khăn diễn ra trong cả nớc
trong đó có ngành thép. Phải đến những năm 90 sau khi có chủ trơng đổi
mới kinh tế đất nớc ngành thép mới đợc quan tâm. Năm 1995, Tổng công ty
thép đợc thành lập, đến nay mới hoạt động đợc 8 năm, mặc dù đã hết sức
cố gắng đầu t nhiều hạng mục công trình mới,nâng cấp nhiều thiết bị cũ
4
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
song cho đến nay các nhà máy vẫn còn trong tình trạng lạc hậu nhỏ bé phân
tán, mới đợc coi là đang trong giai đoạn đầu phát triển (trong khi các nớc
trong khu vực đã phát triển trớc ta khoảng 10 năm nhng có công suất lớn,
và cơ cấu sản phẩm đầy đủ).
2.2. Quy mô, năng lực sản xuất, cơ cấu sản phẩm
Hin nay, thộp sn xut trong nc ch yu l thộp xõy dng, cũn
cỏc loi thộp c chng hu nh phi nhp khu. Ch tớnh riờng nm nay,

nhu cu trong nc cn khong 5 triu tn thộp cỏc loi, trong ú sn xut
trong nc mi khong 2,73 triu tn, phn ln l thộp xõy dng; lng
thộp tm, thộp lỏ, thộp ch to phi nhp khu khong 2,3 triu tn.
Mặt hàng sản xuất còn đơn điệu, chỉ có khả năng sản xuất các sản
phẩm dài (thép thanh tròn, dây, hình nhỏ cho xây dựng và chế biến một số
sản phẩm dẹt (tôn mạ, ống hàn, cắt uốn) và gia công sản xuất ống hàn, tôn
mạ hình uốn nguội,cắt xẻ từ sản phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài
trong nớc cũng phần lớn đợc cán từ phôi thép nhập khẩu, khả năng tự sản
xuất phôi trong nớc còn nhỏ bé. Các loại thép dẹt và thép chất lợng cao cha
đợc đầu t xây dựng, cha có cơ sở tập trung chuyên sản xuất thép đặc biệt
phục vụ chế tạo, cơ khí, quốc phòng mà chỉ sản xuất ở quy mô nhỏ tại một
số nhà máy cơ khí và một số nhà máy của Tổng công ty thép Việt Nam. Ch-
a có thiết bị cán nóng, cán nguội để sản xuất thép tấm, thép lá. Chất lợng
sản phẩm thấp, trừ sản phẩm của khu vực liên doanh có chất lợng khá hơn.
Sự mất cân đối trong các loại sắt thép sản xuất hiện nay đặt ra cho ngành
thép phải chọn mặt hàng phù hợp với nhu cầu của thị trờng để đầu t trong
thời gian tới. Nhu cầu thị trờng ngày càng lớn và đa dạng nhng hiện nay cơ
cấu sản phẩm cha đáp ứng đợc nhu cầu.
Trong giai đoạn 1991-2002 ngành thép đã đạt đợc một số kết quả nh
sau:
Sản lợng thép sản xuất tăng nhanh trong thời kỳ 1991-1995 (Bình
quân 30%/năm) và tiếp tục gia tăng ở giai đoạn sau 1996-2002.
Thị trờng thép Việt Nam trong thời gian trớc năm 2001 có
nhiều biến động và có sự mất cân đối trong cung cầu một số loại sắt thép.
Nhìn chung, các loại thép cán cung đều cha đáp ứng cầu.
Bảng 1: Sản xuất và tiêu thụ thép cán trên thị trờng Việt Nam
5
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Năm Sản lợng sản
xuất

Tiêu dùng Đáp
ứng
Nhập khẩu
1.000 T % tăng 1.000
T
% tăng (%) 1.000T % % tăng
NK
1991 149 350 -57.43 201 42.57
1992 196 31.54 540 54.29 -63.70 344 36.30 71.14
1993 243 23.98 800 48.15 -69.63 557 30.38 61.92
1994 280 15.23 990 23.75 -71.72 710 28.28 27.47
1995 450 60.71 1100 11.11 -59.09 650 40.91 -8.45
1996 900 100.00 1400 27.27 -35.71 500 64.29 -23.08
1997 1050 16.67 1700 21.43 -38.24 650 61.76 30.00
1998 1150 9.52 1900 11.76 -39.47 750 60.53 15.38
1999 1270 10.43 2090 10.00 -39.23 820 60.77 9.33
2000 1400 10.24 2300 10.05 -39.13 900 60.87 9.76
Trung
bình
27.83 21.78 -51.33 48.66 19.35
Nguồn: Tính toán từ các số liệu của Bộ Công Nghiệp và VSC
Bảng trên cho thấy sản lợng thép cán của Việt nam trong những năm
90 đã tăng đáng kể về tuyệt đối, mức tăng trung bình hàng năm là 27,83%.
Trong đó tăng nhanh vào năm 1996 do một số liên doanh nh Vinakyoei,
VPS, Vinausteel, NatsteelVina, đợc đầu t 1995 và cuối 1996 đi vào sản
xuất. Tuy sản lợng sản xuất tăng nhng không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
mặc dù nhu cầu tiêu dùng chỉ tăng trung bình hàng năm 21,78%. Nh vậy,
nhìn tổng thể thì trong những năm 90, việc đầu t cho ngành sản xuất thép
cán thành phẩm phục vụ sản xuất cha tơng ứng. Khả năng sản xuất trong n-
ớc chỉ đáp ứng trung bình 51,33%. Để bù đắp phần thiếu hụt cho tiêu dùng

trong nớc, thời gian qua Việt nam đã cho phép nhập khẩu một khối lợng
khá lớn thép cán (trung bình 48,66%) với tốc độ tăng nhập khẩu bình quân
hàng năm là 19,35%. Tốc độ tăng nhập khẩu thép cán cao hơn tốc độ tăng
trung bình nhập khẩu nguyên vật liệu của nền kinh tế Việt Năm 10 năm qua
là 16,78%. Nh vậy, nhìn về lâu dài thì nhập khẩu thép cán cho tiêu dùng
trong nớc vẫn tiếp tục và chiếm tỷ lệ lớn.
Những sản phẩm của công nghiệp thép hiện tại chỉ là sản phẩm dài
(thanh, dây, hình nhỏ) dùng cho xây dựng. Dự báo trong năm 2003 nhu cầu
thép của cả nớc khoảng 5 triệu tấn, trong đó trong nớc sản xuất khoảng 2,73
triệu tấn chủ yếu là thép xây dựng. Nhu cầu nhập khẩu thép tấm, thép lá,
thép chế tạo khoảng 2,3 triệu tấn. Vì lẽ này, thép cán sản xuất tại Việt nam
thừa đối với các loại thép xây dựng, chất lợng thấp nhng thiếu các loại thép
hình, thép tấm, thép carbon cờng độ thấp và thép carbon cờng độ cao, là
6
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
đầu vào của các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, đóng toa xe, cấu kiện kim
loại. Hiện tại, sản lợng thép xây dựng đang tồn kho rất lớn trong khi đó một
loạt các nhà máy đang đợc tiếp tục xây dựng. Trong 7 tháng đầu năm công
ty HPS lỗ 7 tỷ đồng, SSE lỗ 20 tỷ đồng, thậm chí công ty thép Ninh Bình
còn phải rao bán nhà máy dù mới xây dựng. Đến nay danh sách nhà máy
cán thép đã lên đến con số 28. Công suất các nhà máy cán thép khoảng 4
triệu tấn trong khi nhu cầu khoảng 2,7 triệu tấn. Cơ cấu mặt hàng sản xuất
trong nớc không hợp lý đã buộc các doanh nghiệp kinh doanh thép một mặt
phải tìm thị trờng cho sản phẩm thép xây dựng không chỉ trên thị trờng Việt
nam mà còn cả thị trờng xuất khẩu. Mặt khác, nhập khẩu thép cho các
ngành sản xuất khác cũng buộc phải thực hiện với yêu cầu bảo đảm hiệu
quả. Tình hình này đặt ra bài toán điều chỉnh cơ cấu đầu t sản xuất các mặt
hàng thép cán cho ngành thép Việt Nam trong những năm tới.
Năng lực sản xuất và sản lợng thép thô của Việt Nam quá nhỏ bé, chỉ
đáp ứng đợc khoảng 15% nhu cầu phôi thép cho cán thép xây dựng thông

thờng (sản xuất khoảng 450000 tấn phôi /năm). Trong đó lợng phôi sản
xuất từ lò điện dùng thép phế liệu chiếm trên 90%, chỉ gần 10% phôi đợc
sản xuất từ quặng sắt-gang lò cao ở khu gang thép Thái Nguyên. Các doanh
nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài cha tham gia sản xuất phôi thép.
Sản xuất phôi từ quặng sắt hầu nh cha phát triển (Trừ lò cao 100 m3
và một số hạng mục đầu t do Trung Quốc giúp đỡ ở Thái Nguyên) nên
nguồn quặng sắt trong nớc cha đợc khai thác lớn, cha đợc nghiên cứu sâu.
Hiện tại so với các nớc trong khu vực, Việt Nam cha đợc liệt vào nớc
có sản xuất thép vì sản lợng thép thô quá thấp.
Trang thiết bị ngành thép Việt Nam tính đến trớc năm 2001 đợc phân
bổ thành ba khu vực chính theo bảng sau đây:
Bảng 2: Phân bổ các cơ sở sản xuất và trang thiết bị kỹ thuật
ngành thép Việt Nam
Khu vực và đơn vị Công
suất

(T/Năm)
Địa điểm Trang thiết bị (toàn
khu vực)
Tổng Cty Thép VN
Cty Gang thép TN
Cty Thép Miền Nam
760.000
240.000
460.000
Thái
nguyên
2 lò cao cỡ nhỏ 100m3
22 lò điện hồ quang cỡ
nhỏ 6-30t/mẻ


Chỉ tính riêng các nhà máy cán thép
7
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Cty Thép Đà Nẵng
Cty Kim khí Miền
Trung
40.000
20.000
Biên Hoà
Đà Nẵng
Đà Nẵng
4 máy đúc liên tục
5 máy cán thép tròn kiểu
bán liên tục
7 máy cán mini thủ công
Liên doanh
Vinakyoei
VSC-POSCO
Vinausteel
NatsteelVina
Thép Tây Đô
850.000
240.000
200.000
180.000
110.000
120.000
BR-VT
Hải Phòng

Hải Phòng
Thái
nguyên
Cần thơ
2 máy cán thép tròn hiện
đại liên tục.
3 máy cán thép tròn kiểu
bán liên tục
2 nhà máy sản xuất ống
hàn cỡ nhỏ
5 nhà máy sản xuất tôn
mạ kẽm, mạ mầu vàgia
công cắt uốn thép tấm,
lá.
Khu vực khác
Khoảng 22 DN cơ sở
sản xuất thuộc công
nghiệp địa phơng và
NQD, 250 cơ sở t nhân
(hộ gia đình)
946.000
3-20.000
Trên khắp
các địa ph-
ơng cả nớc
Gồm hàng trăm máy cán
mini và hàng chục dây
chuyền gia công thép
Nguồn: Cơ sở chung cho việc tái cấu trúc chính sách đối với ngành
công nghiệp thép Việt Nam trong quá trình hội nhập.

2.3. Trình độ công nghệ và máy móc thiết bị
Máy móc thiết bị sản xuất thép trong những công ty của Tổng công
ty thép Việt Nam từ những năm 60,70 đến nay vẫn đang hoạt động (các
thiết bị này đã cũ, lạc hậu, hết khấu hao, ít đợc đổi mới hiện đại hoá. Các
thiết bị đợc đầu t gần đây cũng chỉ thuộc loại trung bình công nghệ, trang
thiết bị hiện có nên đã có những thiết bị luyện thép, cán thép của thế giới,
mức độ tự động hoá thấp. Đến nay, ngành thép đã đợc đầu t và đổi mới, gia
công sau cán hiện đại. Tuy nhiên nhìn chung công nghệ sản xuất của toàn
ngành vẫn dới trình độ trung bình tiên tiến của thế giới.
Bảng 3: So sánh một số chỉ tiêu cơ bản của ngành luyện cán thép
Việt Nam và thế giới
8
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Chỉ tiêu Đơn vị N/M
nội
địa
Liên
doanh
Thế
giới
So sánh (%)
1 2 3 4 5 7= 3/5 8=4/5
Luyện thép
Thời gian nấu Phút 180 50 360.00
Tiêu dùng thép phế Kg/tấn 1250 1100 113.64
Tiêu dùng điện Kwh/tấn 900 350 257.14
Tiêu hao điện cực Kg/tấn 8 2 400.00
Cán thép
Tốc độ cán* m/s 14 38 110 12.73 34.55
Tiêu hao phôi tấn/tấn 1.11 1.05 1.03 107.77 101.94

Tiêu hao dầu Kg/tấn 65 48 25 260.00 192.00
Tiêu hao điện* Kwh/tấn 143 142 80 178.75 177.50
Nguồn: Qui hoạch phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2010,
Metal Bulletin, nhiều số; Phiếu điều tra về ngành công nghiệp thép Việt
Nam.
Nhìn vào các chỉ tiêu cơ bản của các cơ sở luyện thép Việt Nam
(Bảng 3) cho thấy các nhà máy luyện thép nội địa của Việt nam đang hoạt
động trong tình trạng công nghệ rất lạc hậu. Chỉ tiêu thời gian nấu cao hơn
360% so với thế giới. Các chỉ tiêu tiêu hao thép phế, điện và điện cực đều
quá cao, đặc biệt là tiêu hao điện bằng 257,14% so với thế giới. Với công
đoạn cán, các nhà máy nội địa có tốc độ cán chỉ bằng 12,73% tốc độ cán
của các nhà máy trên thế giới. Các chỉ tiêu tiêu hao đều cao hơn. đặc biệt,
chỉ tiêu tiêu hao dầu và điện là 260% và 178,75% so với thế giới. Tình trạng
lạc hậu của công nghệ sản xuất thép rõ ràng sẽ tác động động đến giá thành
sản phẩm, chất lợng và tính cạnh tranh của sản phẩm thép Viêt Nam trong
tơng lai. Do tình trạng công nghệ và thiết bị lạc hậu nên ngành công nghiệp
thép Việt Nam hiện nay chỉ sản xuất đợc các loại thép các bon thông thờng.
Một số thép chất lợng đợc sản xuất nhng cha thể đánh giá thực sự đạt tiêu
chuẩn chất lợng nào. Trong khi đó, nhu cầu thép cho một quốc gia thờng
cần đến 60% thép xây dựng và kết cấu, thép các bon thông thờng chỉ cần
khoảng 10%. Vì vậy, thép sản xuất trong nớc hiện nay chủ yếu cung ứng
cho nhu cầu xây dựng các công trình nhỏ và thị trờng nông thôn.
Kết hợp với bảng phân bổ các cơ sở sản xuất và trang thiết bị kỹ
thuật ngành thép Việt Nam ở trên ta thấy đợc bức tranh toàn cảnh cho thấy
9
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
trình độ công nghệ và trang bị kỹ thuật của ngành thép Việt Nam còn rất
nhiều điểm tối.
Để làm rõ hơn, xin lấy ví dụ công ty Gang thép Thái Nguyên. Là đơn
vị lâu đời nhất của ngành thép, đợc thành lập năm 1963. Do tình trạng lạc

hậu của thiết bị và trình độ hạn chế của công nhân nên trong thời gian qua,
TISCO luôn nằm trong tình trạng thua lỗ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu
thụ đợc. Năng suất lao động thấp là một vấn đề quan trọng của công ty, nếu
so sánh với các công ty Nhật Bản thì sản lợng thép trung bình của một công
nhân công ty Gang thép Thái Nguyên thấp hơn 15 lần của công nhân công
ty Nippon (Nhật Bản). Vì vậy, TISCO cần phải nhanh chóng cắt giảm những
lao động thiếu kỹ năng, không đợc đào tạo lại kịp thời và những cơ sở sản
xuất không hiệu quả cần phải loại bỏ.
Trình độ công nghệ và trang thiết bị của toàn ngành thép cũng lạc
hâu tơng tự TISCO. Công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn số trang thiết bị của
ngành công nghiệp thép Việt Nam, tập trung ở các nhà máy đã tồn tại lâu
năm cả ở Miền bắc và Miền Nam. Công nghệ tiên tiến chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ,
chủ yếu trong khâu cán của các nhà máy liên doanh với các hãng Nhật Bản
và Hàn Quốc nh Vinakyoei, VSC-POSCO, Việt ý, Hoà Phát, Thép Ninh
Bình, Phú Mỹ
Theo số liệu điêu tra trong năm 2000 cho thấy tình hình công nghệ
và trang thiết bị của ngành thép Việt Nam (xem biểu đồ). Và theo Bộ Kế
hoạch và Đầu t, đến năm 2002 công nghệ lạc hậu vẫn chiếm tới 63% năng
lực sản xuất và 53% sản lợng toàn ngành thép và sản phẩm thép của Việt
Nam hiện có giá thành khoảng 280 USD/tấn trong khi các nớc ASEAN có
giá tơng ứng là 250 USD/tấn
10
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Sơ đồ 1: Trình độ công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp thép
Việt Nam năm 2000
Công nghệ
tiên tiến
15%
Công nghệ
trung bình

10%
Công nghệ
lạc hậu
75%
Nguồn gốc công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp thép Việt
Nam cũng cho thấy mức độ lạc hậu. Hơn 33% có nguồn gốc từ Trung quốc
và 20% có nguồn gốc từ Nga và các nớc SNG đều đợc đa vào Việt Nam
cách đây khoảng 40 - 50 năm, mức độ lạc hâu khoảng 3 - 4 thế hệ. Công
nghệ và thiết bị của các nớc thuộc E.U đợc đa vào các cơ sở sản xuất ở
Miền Nam trớc 1975 cũng rất lạc hậu. Một số công nghệ và thiết bị tiên
tiến và trung bình đợc đa vào thông qua con đờng liên doanh chủ yếu chỉ
tập trung ở khâu hạ nguồn của ngành thép.
Trung Quốc
33%
Nga và SNG
20%
Các n ớc
khác
10%
Nhật Bản
15%
E.U.
9%
Hàn quốc
13%
Sơ đồ 2: Nguồn gốc công nghệ và thiết bị của ngành công nghiệp
thép Việt Nam năm 2000

2.4. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
11

Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
So với khối liên doanh và thế giới,chi phí sản xuất của VSC thuộc
loại cao nhất. Do công nghệ kém, tiêu hao năng lợng và vật chất đầu vào
lớn nên chỉ tính riêng phần tiêu hao vật chất quy ra tiền của VSC đã gấp 2
lần so với thế giới và gấp 1,5 lần so với liên doanh. Thêm vào đó lực lợng
lao động của VSC quá lớn và bộ máy hành chính cồng kềnh cũng làm giá
thành 1 tấn thép bị đẩy lên cao. So với thép của Nga và Tâu âu, giá thép
của Việt Nam có giá bán cao hơn từ 10-14%, còn so với liên doanh thì cao
hơn từ 4-5% và cao hơn các nớc trong khu vực từ 20-25$/t. Lợi thế về giá
nghiêng thép nớc ngoài gây nên khó khăn lớn cho sản phẩm thép trong nớc
trong cuộc cạnh tranh ở hiện tại và một số năm trớc mắt.
Vấn đề gắn liền với cung cầu sản xuất trong nớc của ngành công
nghiệp thép Việt Nam là khả năng cạnh tranh về giá. Do những bất cập
trong khâu tổ chức sản xuất và nhập khẩu phôi thép cũng nh tình trạng
trang thiết bị lạc hâụ, năng suất lao động thấp nên giá thành thép cán sản
xuất trong nớc hiện nay rất cao, khó cạnh tranh với thép nhập khẩu. Hiện tại
các loại thép cán xây dựng cung đã vợt cầu nhng giá khá cao. Trong năm
2000, giá thép xây dựng do các cơ sở Việt nam sản xuất thờng cao hơn 10 -
15% so với giá thép nhập khẩu CIF cảng Việt Nam từ Nga và các nớc SNG
(từ 25 - 38 USD/tấn) và cao hơn giá thép nhập khẩu CIF cảng Việt nam của
Nhật Bản, Hàn Quốc và các nớc Tây Âu khoảng 5% ( từ 10 - 12 USD/tấn).
Nh vậy cạnh tranh về giá ngay trên thị trờng Việt nam đã là một bất lợi cho
các doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng. Nếu trong thời gian tới, giá thép
xây dựng của Việt Nam giảm đợc 10 - 15 USD/tấn thì sức ép cạnh tranh
trên thị trờng nội địa sẽ giảm, và điều này phù hợp với lộ trình loại bỏ các
hàng rào thơng mại theo thoả thuận AFTA. Nếu giảm 20 - 25 USD/tấn thì
sẽ có khả năng cạnh tranh trên thị trờng thép khu vực và thế giới. Theo các
chuyên gia của VSC thì khả năng này chỉ đạt đợc dựa vào việc khấu hao
thấp hoặc hết khấu hao của một số cơ sở sản xuất cũng nh khi các doanh
nghiệp mới đầu t sản xuất đã trả hết nợ vay. Còn các yếu tố giảm giá khác

nh tăng năng suất lao động, giảm chi phí quản lý, tăng công suất thực tế của
các nhà máy thì đòi hỏi thời gian dài hơn.
Bảng số liệu cho thấy nếu sản xuất thép cán từ phôi nhập khẩu thì cả
Công ty Gang thép Thái nguyên lẫn Công ty Thép Miền Nam đều có giá
thành thấp hơn, chủ yếu là do giá phôi nhập khẩu thấp hơn sản xuất trong n-
ớc. Tuy nhiên trong năm 2003 giá phôi thép nhập khẩu lại tăng đột biến
khiến việc sản xuất phôi thép trong nớc thu đợc hiệu quả.
12
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Bảng 4: Giá thành thép cán sản xuất trong nớc trong năm 2000.
Đơn vị: VND/tấn
Chỉ tiêu Thép Thái nguyên Thép Miền Nam
Phôi nhập
khẩu
Nguyên
liệu trong
nớc
Phôi nhập
khẩu
Nguyên liệu
trong nớc
Chi phí NVL 2.969.775 3.031.823 2.832.410 2.989.210
Chi phí NL, động lực 213.031 213.031 216.099 216.099
Kháu hao TSCĐ 142.151 142.151 81.548 81.548
Lơng 41.561 41.561 56.720 56.720
BHXH& y tế 8.312 8.312 2.061 2.061
Chi phí QLý 264.930 264.930 333.023 333.023
Gía thành phân xởng 3.639.761 3.701.809 3.521.862 3.678.662
Gía bán tối thiểu* 3.821.749 3.886.900 3.697.955 3.862.595
Gía phôi nhập khẩu 2.744.000 2.660.000

Gía phôi /thỏi sx 2.800.000 2.800.000
* Giá bán tối thiểu tính trên cơ sở chi phí tiêu thụ và lãi bằng 5% giá
thành phân xởng.
Nguồn: VSC
2.5. Phân bố và tổ chức sản xuất
Việc phân bố và tổ chức sản xuất ở trong tình trạng manh mún, rời
rạc. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều dựa trên những cơ sở vốn có từ trớc mà
không đợc nghiên cứu qui hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ
ngành thép đó là các khâu phải đọc nối kết liên tục và thuận lợi về giao
thông vận tải. Các sơ sở sản xuất của Tổng công ty Thép Việt Nam cũng
trải dài từ Bắc vào Nam trên cơ sở của các cơ sở cũ. Các nhà máy cán thép
liên doanh thì đợc phân bổ hợp lý trên cơ sở nguồn nguyên liệu và yếu tố
đầu vào cho khâu cán và tiêu thụ thành phẩm. Chẳng hạn ba liên doanh cán
thép lớn nhất của Việt Nam đều đặt địa điểm sản xuất tại Bà rịa-Vũng tàu
và Hải Phòng đều gần nguồn nguyên liệu nhập khẩu và gần nguồn khí đốt
nhng nếu xét về lâu dài khi có nguồn nguyên liệu trong nớc thì địa điểm
này bộc lộ hạn chế. Đối với khu vực công nghiệp thép địa phơng và ngoài
quốc doanh thì phân bổ hết sức tuỳ tiện. Việc phân bổ hết sức tuỳ tiện các
cơ sở sản xuất ngành thép đã vi phạm nguyên tắc kỹ thuật tổng thể của sản
xuất thép. Để nâng cao hiệu quả của ngành sản xuất thép, các cơ sở sản
xuất thuộc các khâu khác nhau cần bố trí trên cùng một địa điểm, các khâu
sản xuất phải kế tục liên tiếp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Sẽ là không
hiệu quả và kém tính cạnh tranh nếu sản xuất thép tấm ở các cơ sở phía Bắc,
13
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
làm nguội và cứng lại, vận chuyển hàng nghìn km tới các cơ sở cán nóng ở
phía Nam.
2.6. Đầu t sản xuất phôi và cán thép
Đầu t sản xuất thép ở Việt Nam mất cân đối nghiêm trọng giữa năng
lực sản xuất phôi và cán thép. Theo tài liệu của hiệp hội thép Việt Nam,

hiện tổng công suất của các nhà máy thép đã đạt gần 5 triệu tấn/năm, vợt
nhu cầu sử dụng tới 80%. Năm 2002, các nhà máy bình quân hoạt động
60% công suất, nhng sản lợng vẫn đạt khoảng 2,8 triệu tấn. Tuy nhiên, sản
lợng phôi sản xuất trong nớc đạt gần 500.000 tấn/năm, đáp ứng khoảng
15% nhu cầu. Tức ngành thép phát triển với tốc độ phi nớc đại trên đôi chân
phụ thuộc tới 80% vào ngời khác.Trong khi đó, nhu cầu phôi thép cho các
cơ sở cán thép của tất cả các khu vực đều tăng trong những năm gần đây
đẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong bản thân ngành thép.
Sự mất cân đối trên đây trớc hết là do đầu t vào khâu sản xuất phôi
đòi hỏi vốn lớn, thời gian đi vào sản xuất và hiệu suất thu hồi vốn thấp. Một
lý do khác là giá trị gia tăng của khâu sản xuất phôi thấp, lợi nhuận thấp
nên các doanh nghiệp sản xuất trong nớc không đủ khả năng đầu t còn các
doanh nghiệp nớc ngoài thì không muốn đầu t. Chỉ hai doanh nghiệp bị
giao trách nhiệm mới đầu t luyện phôi là TISCO và SSC (sau có thêm thép
miền Trung), đáp ứng đợc trên dới 50% nhu cầu bản thân. Theo các chuyên
gia phân tích, các dự án luyện phôi ở Việt Nam chỉ có thể tồn tại khi gắn
liền hạch toán cùng các dự án cán thép. Nếu bóc riêng luyện phôi thì lỗ là
chính (vì công nghệ lạc hậu, quy mô manh mún, chắp vá). Đã vậy, vốn đầu
t cho luyện phôi đắt gấp bốn lần cán thép. Về kinh doanh đơn thuần, không
một đơn vị nào muốn sản xuất phôi.
Việt Nam bớc vào nền kinh tế thị trờng, nhu cầu xây dựng trong đó
có thép xây dựng luôn tăng với tốc độ rất cao. Nhà nớc có chủ trơng phát
triển ngành này nên đã đặt những chính sách bảo hộ hết sức hậu hĩnh,
mong tạo cơ hội cho ngành đủ lông, đủ cánh trớc khi hội nhập. Đó là
đánh thuế thép nhập khẩu 40% và đặt 10% phụ thu. Với chính sách bảo hộ
trên, quả thật đầu t sản xuất thép là hốt bạc. Thống kê của hiệp hội thép cho
thấy, hầu hết các cơ sở cán thép từ công nghệ châu Âu đến thủ công đều lãi
lớn. Các loại hình kinh tế, các ngành, các cấp vì thế hăm hở lao vào sản
xuất thép cán.
14

Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Thêm vào đó, mặt hàng phôi thép đợc khuyến khích nhập khẩu cho
sản xuất thay thế nhập khẩu ở khâu cán nên không đợc bảo hộ (thuế suất
3% sau đó tăng lên 7% và lên 10%) vì vậy các nhà đầu t, kể cả đầu t trong
nớc không có lợi. Khác với khâu sản xuất phôi, sản phẩm cán trong những
năm vừa qua nhu cầu tăng cao, chủ yếu là thép xây dựng nên khả năng tiêu
thụ sản phẩm nhanh. Hơn nữa, đầu t vào khâu cán không cần nguồn vốn lớn
nên không chỉ các doanh nghiệp Trung Ương, các doanh nghiệp địa phơng
mà cả các công ty t nhân đều có thể đầu t. Thêm vào đó, các công ty nớc
ngoài cũng tìm thấy lợi thế trong khâu này nên đã đầu t nhiều dới hình thức
liên doanh. Tất cả những lý do trên đã làm sai lệch tình hình đầu t sản xuất
giữa hai khâu luyện và sản xuất phôi với khâu cán thép.
Theo chiến lợc phát triển ngành thép đến năm 2020, năm 2000, Việt
Nam chỉ cần 1,9 triệu tấn thép thanh (thép xây dựng đơn giản), đến năm
2005 khoảng 3,3 triệu tấn. Song song là lợng phôi có tốc độ tăng trởng
15%/năm và đạt 1,5 triệu tấn vào năm 2005. Tuy nhiên, thực hiện hai chỉ
tiêu này có hai tốc độ hoàn toàn khác nhau. Theo biểu đồ thống kê của hiệp
hội thép, năm 1990 khi chỉ có TISCO và SSC hàng năm cung cấp cho cả n-
ớc sản lợng thép 100.000 tấn. Nhng trong vòng 10, các doanh nghiệp này
đã không ngừng cải tạo, tăng quy mô lớn gấp nhiều lần, cộng thêm gần 20
doanh nghiệp ra đời (đó là cha tính hàng chục doanh nghiệp quy mô dới
50.000 tấn/ năm), đa tổng công suất lên 5 triệu tấn/năm, gấp 50 lần so với
năm 1990 và vợt mức cung năm 2005 gần 2 triệu tấn. Hiện nay, số dự án
nữa sắp đi vào hoạt động và đến năm 2004 tổng công suất của cả nớc có thể
lên đến 6 triệu tấn/năm. Theo giấy phép đầu t của các dự án cán thép, những
nhà máy này đều phải sản xuất phôi khi bớc vào giai đoạn hai. Tuy nhiên,
khi mà giai đoạn hai đã qua nhiều năm rồi nhng cũng cha doanh nghiệp nào
đả động đến chuyện luyện phôi. Chỉ tiêu đến năm 2005 đạt 1,5 triệu tấn chỉ
có VSC phải lo và hiện chơng trình này mới đang khởi động. Ông Phạm Chí
Cờng, phó chủ tịch hiệp hội thép cho biết, ngay khi thép xây dựng cung sắp

vợt cầu (năm 2000), VSC, Bộ Công nghiệp, thậm chí cả Thủ tớng Chính
phủ đã có công văn chỉ đạo các ngành, các địa phơng ngừng cấp phép cho
các dự án cán thép, nhng hàng loạt các nhà máy mới ở Hải Phòng, Ninh
Bình vẫn tiếp tục mọc lên. Và đến nay thì quy hoạch của ngành thép đã
không đợc nh mong muốn của những ngời lập ra nó.
Do sai lệch về đầu t thiết bị nên năm 2002 Việt Nam vẫn phải nhập
khẩu gần 2 triệu tấn phôi cho sản xuất thép thanh trong nớc. Đến khi giá
15
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
phôi thép tăng bất thờng khiến các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí còn thua lỗ. Giá phôi thép nhập khẩu trong tháng 9 ở mức 283-285
USD/tấn và hiện nay đã cao hơn khoảng 35USD/tấn. Nhiều doanh nghiệp
phải chấp nhận bán thép dới giá thành để hạn chế tồn kho (ớc tính khoảng
230.000 tấn) gây thua lỗ. Chỉ có TISCO và SSC là lãi vì tự sản xuất đợc một
phần phôi thép và thuế nhập khẩu phôi đã tăng lên 10%. Bảo hộ trong một
giai đoạn để phát triển là cần thiết, nhng ngành thép đã không đợc bảo hộ
đúng mức cho phần gốc tức là luyện phôi. Phơng thức quản lý ngành lại cha
đủ sức chi phối chính chiến lợc của mình nên sự bảo hộ đã không đạt đợc
mục đích đề ra. Hàn Quốc, Đài Loan tuy cũng có nền công nghiệp thép
non trẻ nhng do sớm đầu t một cục cho lĩnh vực luyện phôi nên nay họ đã
là những đại gia trong ngành luyện kim. Còn Việt Nam chỉ chú trọng
phần ngọn, tức là sản xuất thép thành phẩm trớc, luyện phôi sau. Vấn đề đặt
ra là cần phải xác định trong 5 - 10 năm tới, nhập khẩu phôi thép cho sản
xuất trong nớc vẫn là chủ yếu nhng cũng cần từng bớc nâng cao tỷ lệ cung
cấp trong nớc.
Tóm lại, từ sự phân tích hiện trạng ngành công nghiệp thép Việt nam
trên các mặt tình trạng kỹ thuật, phân bổ đầu t và cơ cấu sản xuất sản phẩm
cũng nh biến động của thị trờng thép Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một
số đánh giá sau:
- Qui mô của ngành công nghiệp thép Việt nam còn nhỏ bé, trang

thiết bị kỹ thuật của ngành rất lạc hậu, trừ một số liên doanh có thể đạt trình
độ trung bình tiên tiến. Công nghệ sản xuất thiếu đồng bộ. Cơ cấu sản phẩm
sản xuất bất hợp lý, chất lợng thấp.
- Sự mất cân đối giữa khâu sản xuất phôi và khâu sản xuất thành
phẩm rất nghiêm trọng, làm cho quá trình điều chỉnh cơ cấu phải rất dài và
đầu t vốn lớn.
- Chi phí sản xuất cao do nhiều nguyên nhân làm cho giá sản phẩm
cao, điều đó làm cho ngành thép Việt Nam mất khả năng cạnh tranh về giá.
- Ngành thép Việt Nam cho đến nay phát triển không theo một qui
hoạch tổng thể, manh mún, cần phải sắp xếp lại.
3. Đặc điểm về tổ chức sản xuất của ngành thép Việt Nam
3.1. Cơ cấu cung cầu
Ngành công nghiệp thép Việt Nam có sản lợng và tiêu thụ thép thấp
hơn so với các nớc ASEAN khác và các nớc tiên tiến. Mặt khác ngành công
16
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
nghiệp lại không bị thiệt hại nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
trong khu vực, nhu cầu vẫn tiếp tục tăng.
Sản xuất thép xây dựng cung đã vợt xa nhu cầu trong khi sản xuất
các loại thép đặc biệt trong các ngành cơ khí lại thiếu rất nhiều. Trong tơng
lai khi công nghiệp phát triển nhu cầu các loại thép đó sẽ rất lớn nếu không
có chính sách phát triển hợp lý thì cung sẽ không theo kịp với mức tăng của
nhu cầu, nhập khẩu sẽ tăng nhiều. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là thép lá.
Ngoài nhập khẩu thép thành phẩm, nhập khẩu thép phôi, bán thành phẩm
của thép thanh, cũng đang tăng.
Nguyên nhân cho sự gia tăng nhập khẩu thép dẹt và thép phôi là do
các thiết bị sản xuất của Việt Nam thiên về các quy trình công nghệ giai
đoạn hoàn thiện, và cấu thành sản phẩm cũng có nhiều hạn chế. Thiết bị
luyện gang có hai lò cao với dung tích 100 m3, trong đó có duy nhất một lò
đang hoạt động. Công trình cải tạo, nâng cấp TISCO do Trung Quốc tài trợ

sẽ đa công suất lên 165.000 tấn gang/năm và 240.000 tấn phôi thép/năm.
Toàn bộ việc sản xuất thép đều đợc dựa trên lò điện, các nhà máy cán chỉ có
thể sản xuất các thép thanh, không có máy cán sản phẩm các thép lá. Ngoài
ra năng lực thiết bị sản xuất tôn mạ kẽm từ thép lá nhập khẩu là 332.000
tán/năm và sản xuất ống hàn thép lá là 293.000 tấn/năm (năm 2000).
Trong khi ngành công nghiệp thép hầu nh hoàn toàn phụ thuộc vào
nhập khẩu thép phôi và thép lá thì thép tròn và tôn mạ kẽm đã từ thiếu vào
đầu những năm 90 chuyển sang sản xuất d thừa.
3.2. Sản xuất thép bởi ba khối doanh nghiệp
Ngành công nghiệp thép Việt Nam bao gồm ba khối doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Nhà nớc trực thuộc VSC, các liên doanh với nớc ngoài
của VSC hoặc doanh nghiệp thành viên, các doanh nghiệp trong nớc không
nằm trong VSC. Ngoài ra, còn có một số doanh nghiệp 100% vốn nớc
ngoài.
3.2.1. VSC và các doanh nghiệp thành viên
VSC là doanh nghiệp Nhà nớc chịu trách nhiệm về sản xuất thép và
phân phối thép ở Việt Nam. VSC đợc thành lập vào năm 1990 do các doanh
nghiệp chính của miền Nam và miền Bắc đợc sáp nhập lại. VSC đợc tái
thành lập và tổ chức lại căn cứ theo quyết định số 255/TTg ngày 24/9/1995
17
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
của Thủ Tớng Chính phủ, nghị định 03/CP ngày 25/1/1996 và giấy phép
đăng ký kinh doanh số 109612 ngày 5/2/1996.VSC là một trong số 17 tổng
công ty 91. Chính phủ kiểm soát việc bổ nhiệm lãnh đạo cũng nh đầu t quy
mô lớn của VSC, VSC lại kiểm soát hoạt động của các đơn vị thành viên.
Mặt khác, cả VSC và các doanh nghiệp thành viên đều có chế độ hạch toán
độc lập.
VSC bao gồm 5 doanh nghiệp sản xuất: Công ty Gang thép Thái
Nguyên, Công ty thép Miền Nam, Công ty thép Đà Nẵng, Công ty vật liệu
chịu lửa và khai thác đất Trúc Thôn; Các liên doanh với nớc ngoài, 8 doanh

nghiệp thơng mại: Công ty kim khí Hà Nôi, Công ty kim khí TP Hồ Chí
Minh, Công ty kim khí Hải Phòng, Công ty kim khí Bắc Thái, Công ty kinh
doanh thép và vật t Hà Nội, Công ty kinh doanh thép và thiết bị công
nghiệp, Công ty kim khí và vật t tổng hợp Miền Trung, Trung tâm hợp tác
lao động với nớc ngoài , 2 đơn vị nghiên cứu phát triển và đào tạo: Viện
luyện kim đen, Trờng đào tạo nghề cơ điện luyện kim Thái Nguyên.
Cevimetal mặc dù là một doanh nghiệp thơng mại nhng cũng có nhà máy
cán. Về năng lực sản xuất, VSC có 2 lò cao cỡ nhỏ với năng lực sản xuất là
368.600 tấn thép/năm và cán 760.000 tấn/năm. Ngoài ra TISCO còn có một
mỏ than và một mỏ sắt. ở Việt Nam, duy nhất chỉ có các doanh nghiệp
thành viên của VSC là có quy trình luyện gang và thép. Các doanh nghiệp
sản xuất có các đặc điểm và tồn tại nh sau.
Tồn tại thứ nhất là về phơng thức sản xuất:. Tồn tại này có thể chia
làm ba điểm nh sau:
Một là thiết bị và công nghệ đều có quy mô nhỏ và lạc hậu. Các thiết
bị chủ yếu của TISCO, SSC, Đà Nẵng Steel, Cevimetal đều không đạt đến
quy mô phù hợp đối với thiết bị sản xuất thép. Do đó không phát huy đợc
hiệu quả sản xuất quy mô lớn, năng suất thấp. Các doanh nghiệp thành viên
của VSC có 20 lò điện, lò lớn nhất cũng chỉ đạt công suất 96.000 tấn/năm,
tất cả các lò còn lại đều dới 50.000 tấn. Ngoài ra lò cao duy nhất của Việt
Nam thuộc sở hữu của TISCO cũng chỉ có dung tích thực tế là 100 m3.
Trong khi đó ở những nớc tiên tiến, lò cao thờng có dung tích trên 2.000
m3, trong những năm gần đây tiêu chuẩn trung bình đã vợt quá 3.000 m3.
Trong các công nghệ đang đợc sử dụng có rất nhiều công nghệ đã lạc hậu.
Chẳng hạn tại nhà máy cán của Cevimetal, mặc dù là một nhà máy mới đợc
xây dựng vào năm 1996, vẫn còn những thao tác nguy hiểm nh: dùng gậy
sắt để kéo thép phôi trong khâu cán thô. Tại các doanh nghiệp cán thép nhà
18
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
nớc khác, trong các thao tác với thép phôi hay cuộn thép dây vẫn có nhiều

khâu đòi hỏi lao động nặng nhọc hoặc kinh nghiệm thao tác thủ công.
Hai là quy trình sản xuất không đồng bộ: Xu hớng này đặc biệt rõ
ở TISCO. TISCO có vị trí gần mỏ sắt phía sâu trong đất liền do đó có thể
tiếp cận nguyên liệu một cách dễ dàng. Tuy nhiên, TISCO vẫn phải mua vào
thép phế cũng nh thép phôi nhập khẩu. Ngoài ra trong khâu nấu gang, gang
đợc làm nguội một lần rồi sau đó lại đợc cho vào lò điện nên phát sinh tổn
thất về năng lợng cộng thêm chi phí vận chuyển trên đất liền sẽ làm giá
thành tăng cao. Hiện nay với sự giúp đỡ của Trung Quốc, TISCO đang tiến
hành nâng cấp và cải tạo nhà máy, nhằm mục đích giải quyết vấn đề về cân
bằng năng lực sản xuất tại các công đoạn khác nhau.
Tiếp theo là tồn tại về vận hành sản xuất: TISCO có tỷ lệ tiêu hao
than là 1,17t/t, nhng nguyên nhân không chỉ về mặt thiết bị mà còn do khâu
vận hành cha đợc hoàn thiện một cách khoa học. Ngoài ra trong điều kiện
Việt Nam, thép phế trớc khi đợc đa vào lò điện cha đợc tuyển lựa kỹ lỡng,
vẫn còn chứa nhiều gỉ ảnh hởng đến chất lợng sản phẩm cũng nh hiệu suất
điện năng trên một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên do thị trờng Việt Nam
không đòi hỏi chất lợng cao nên hiện nay điều này không ảnh hởng đên
việc bán sản phẩm.
Tồn tại thứ t là công nhân d thừa: đặc biệt trong trờng hợp của
TISCO. Dới hệ thống kế hoạch hoá tập trung theo mô hình Liên Xô cũ, có
rất nhiều các bộ phận trung gian và phúc lợi trong cơ cấu tổ chức của
TISCO dẫn đến số lợng công nhân quá d thừa. Hiện nay TISCO đang tiến
hành tinh giảm biên chế nhng vẫn còn khoảng 10.000 công nhân viên. Ng-
ợc lại trong trờng hợp của SSC, đây vốn là một doanh nghiệp t nhân đợc
Nhà nớc tiếp quản sau giải phóng nên có ít bộ phận trung gian. Do đó số l-
ợng công nhân viên chỉ có khoảng 4.000 ngời.
Năng suất lao động tính trên đầu ngời tại các doanh nghiệp trực
thuộc VSC năm 1999 là 13,4 tấn tại TISCO, 68 tấn tại Đà Nẵng Steel, 73
tấn tại SSC. Những con số này rất tơng phản với các con số tơng ứng ở Nhật
Bản. Năng suất của công ty thép Nippon sử dụng lò cao là 887 tấn, còn

năng suất của công ty Kyoei Seiko sử dụng lò điện là 1.987 tấn. Năng suất
của Việt Nam quá thấp so với tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại các doanh nghiệp thành viên của VSC đều có những tồn tại
lớn về cơ cấu sản xuất, nhng giữa các doanh nghiệp cũng có sự chêng lệch
lớn. Đối với TISCO, thách thức lớn nhất là công nghệ lạc hậu và công nhân
19
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
d thừa, còn đối với Đà Nẵng Steel và Cenvimetal là vấn đề quy mô của nhà
máy quá nhỏ. Công nghệ thiết bị của SSC so với các đơn vị khác tơng đối
hiện đại, ngoài ra do vị trí nằm tại Miền Nam là nơi chiếm 65% lợng thép
tiêu thụ nội địa nên chiếm u thế trong cạnh tranh. Hiệu suất sử dụng thiết bị
của SSC cũng đứng đầu. Một số nhà máy của SSC đang hoạt động hết công
suất. Có thể nói rằng, SSC có sức cạnh tranh tơng đối mạnh trong số các
doanh nghiệp Nhà nớc. Tuy nhiên đây cũng là một phần do bảo hộ mậu
dịch
3.2.2. Liên doanh có vốn đầu t nớc ngoài
Các liên doanh có vốn đầu t nớc ngoài đang hoạt động trong lĩnh vực
cán thép dài, ống hàn, tôn mạ kẽm. Vina Kyoei và VSC-POSCO có thiết bị
cán liên hoàn theo tiêu chuẩn của các nớc tiên tiến, còn các doanh nghiệp
khác có thiết bị cán cỡ nhỏ bán liên hoàn. Các thao tác cơ bản đều đợc tự
động hóa, không có những công đoạn nguy hiểm hay đòi hỏi phải có kỹ
năng thủ công.
Các doanh nghiệp cán kéo thép dài đều sử dụng thép phôi nhập khẩu.
Trong chiến lợc của các doanh nghiệp này có hai hớng: một là sử dụng các
công nghệ tiên tiến để sản xuất thép có chất lợng cao và bán với giá cao, hai
là sử dụng các thiết bị rẻ tiền để sản xuất thép có chất lợng trung bình và
bán với giá thấp. Vina Kyoei là ví dụ cho hớng thứ nhất, còn Vinausteel là
ví dụ cho hớng thứ hai.
Sản phẩm của Vina Kyoei có giá cao hơn các doanh nghiệp khác tại
Miền Nam do doanh nghiệp này sử dụng thiết bị sản xuất tinh vi nh máy

các tự động của Nhật Bản, phối hợp máy cán ngang và các máy cán thẳng
đứng. Vận hành ổn định do công tác quản lý đợc tiến hành bởi các công
nhân đợc đào tạo ở Nhật Bản. Nhấn mạnh chất lợng sản phẩm là giá trị đối
với ngời tiêu dùng, Vina Kyoei tự đề ra mục tiêu trở thành Honda trong
ngành công nghiệp thép.
Vinausteel mua máy cán thép từ Đài Loan, khấu hao đợc kiểm soát
và gánh nặng vay ngân hàng đợc giảm nhẹ do thiết bị rẻ.
Các liên doanh đợc hởng các biện pháp khuyến khích bao gồm các u
đãi về thuế, nhng vẫn chịu những gánh nặng do các nhân tố khác nhau
chẳng hạn nh chi phí tăng cao. Vina Kyoei vì lo lắng về điện cung cấp nên
mặc dù ở ngay sát nhà máy điện Phú Mỹ vẫn sử dụng máy phát điện độc
lập. Và trong trờng hợp của Vinausteel đóng trên đất Hải Phòng, Vinausteel
20
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
cho rằng chi phí vận tải từ cảng Hải Phòng đến nhà máy và các chi phí khác
khá cao.
SSSC và POSVINA là các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu t nớc
ngoài của SSC sản xuất tôn mạ kẽm có quy mô lớn nhất trong lĩnh vực tôn
mạ kẽm. Cả hai doanh nghiệp đều sản xuất các sản phẩm tiêu chuẩn trên
dây chuyền thiết bị rẻ tiền. Dây chuyền mạ kẽm của SSSC nhập từ
Malaysia, còn dây chuyền của POSVINA do doanh nghiệp tự sản xuất.
Thiết bị rẻ tiền giúp cho hai doanh nghiệp này có chi phí lãi vay ngân hàng
và khấu hao thiết bị nhỏ. Tuy nhiên, do không đợc trang bị lò ôxy nên hai
doanh nghiệp này không sản xuất đợc các sản phẩm cao cấp phục vụ cho
điện gia dụng, xe hơi. Tuy vậy, SSC vẫn sản xuất thép dẹt có màu, trong
phạm vi có thể đang cố gắng thực hiện sản xuất các sản phẩm có giá trị gia
tăng cao.
3.2.3. Các doanh nghiệp không liên quan đến VSC
Các doanh nghiệp không có liên quan đến VSC, nếu không kể
VinaTaPhong là doanh nghiệp 100% vốn đầu t nớc ngoài, chia làm ba loại.

Loại thứ nhất là các doanh nghiệp cơ khí Nhà nớc không nằm trong ngành
công nghiệp thép. Loại thứ hai là các doanh nghiệp t nhân có sản lợng hàng
năm là từ một vài nghìn tấn cho đến 20.000 tấn. Loại thứ ba là hộ sản xuất
gia đình có quy mô rất nhỏ. Nguyên nhân các doanh nghiệp không liên
quan đến VSC tham gia vào ngành công nghiệp thép là do sự ngừng nhập
khẩu thép từ Liên Xô cũ vào đầu những năm 90. Một số ngời cho rằng có
một số hộ gia đình trớc đây trong một thời gian dài đã từng có hoạt động
sản xuất thép trớc cả thời hiện đại.
Theo kết quả điều tra của VSC trong số các doanh nghiệp này, các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nớc có thiết bị phân tích và đăng ký chất l-
ợng sản phẩm với cơ quan hữu quan. Tuy nhiên các doanh nghiệp t nhân và
tổ sản xuất không có thiết bị phân tích. Các doanh nghiệp này ít quan tâm
đến chất lợng sản phẩm và sản xuất sản phẩm bằng cách đun chảy thép phế
trong lò cảm ứng hay cắt cán những khối thép bằng các thiết bị đơn giản mà
không điều chỉnh các yếu tố thành phần. Theo VSC trong năm 1999, trong
số 1.400.000 tấn thép tiêu thụ trong thị trờng nội địa, có đến 30% là sản
phẩm không đạt tiêu chuẩn. Đây là một nguyên nhân trong các vấn đề hiện
nay về an toàn của các công trình kiến trúc.
21
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Nguyên nhân dẫn đến các sản phẩm thép không đạt tiêu chuẩn lu
thông trên thị trờng nằm ở cả hai phía ngời tiêu dùng và phía ngời sản xuất.
Về phía nhà sản xuất, một số doanh nghiệp làm giả nhãn mác để cho sản
phẩm của mình giống nh các sản phẩm của các doanh nghiệp Nhà nớc. Mặt
khác, cũng có nhiều ngời sử dụng trong xây dựng mà không quan tâm đến
chất lợng sản phẩm.
Năm 1999, Chính phủ đã ban hành quy định về chất lợng và yêu cầu
các nhà sản xuất thép xây dựng phải đăng ký chất lợng và dán nhãn do một
cơ quan có chức năng của Chính phủ phát hành. Tuy nhiên, việc buôn bán
các sản phẩm thép không đạt tiêu chuẩn vẫn sẽ gia tăng.

3.3. Lu thông, phân phối thép
Trong quá khứ, do sự tồn tại của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
vẫn tồn tại một mối quan hệ lâu dài giữa các doanh nghiệp trực thuộc VSC
và các doanh nghiệp sử dụng thép quy mô lớn. Mặt khác điều đáng chú ý là
có rất nhiều những nhà bán lẻ và bán buôn quy mô nhỏ ở Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác có cửa hàng bán lẻ ở ngay mặt đ-
ờng. Hình thức giao hàng thông thờng là giao tại nhà máy, khách hàng phải
thuê công ty vận tải để nhận hàng từ kho của nhà máy.
Do sự bãi bỏ độc quyền Nhà nớc trong thơng mại về thép tạo điều
kiện cho nhiều đại lý tham gia vào các giao dịch nội địa cũng nh nhập khẩu.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nớc ngoài vẫn cha đợc phép nhập khẩu và bán
sản phẩm nhng đợc phép mở văn phòng đại diện.
Trực thuộc VSC có tám công ty kim khí hoạt động buôn bán các sản
phẩm nội địa cũng nh nhập khẩu, nhng tỷ trọng của thép nhập khẩu đã và
đang tăng lên. Hiện nay những công ty kim khí chủ lực của VSC vẫn đóng
một vai trò lớn trong lu thông phân phối thép.
Tuy nhiên, trong hoạt động của các công ty kim khí lại có sự không
thống nhất. Một mặt các công ty kim khí không tích trữ thép phôi nhập
khẩu nhằm tránh rủi ro và do đó, không phát huy đợc chức năng điều chỉnh
cung và cầu về thép phôi. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự
leo thang gía của thép phôi trong gia đoạn thị trờng phát đạt. Mặt khác, các
công ty kim khí phải thực hiện các chính sách của Chính phủ hay ổn định
thị trờng, chẳng hạn nh dự trữ thép dẹt hay tiến hành các giao dịch không
có lãi nếu các giao dịch này có tác dụng ổn định thị trờng.
22
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Thực tế cho thấy một số các đại lý bán buôn, bán lẻ có quy mô nhỏ là
khách hàng hay đối thủ cạnh tranh của các công ty kim khí, có rất nhiều
công ty kim khí kinh doanh không ổn định khiến cho các liên doanh cố
gắng xây dựng một mối quan hệ lâu dài với các đại lý phân phối đáng tin

cậy. Vina Kyoei hỗ trợ về mặt kinh doanh cho các đại lý chỉ định đồng thời
thông qua các đại lý xây dụng uy tín về thơng phẩm của mình. Kết quả là
khách hàng đã đánh giá cao thơng hiệu của Vina Kyoei và đã chỉ định sử
dụng sản phẩm của công ty này.
Tóm lại, nếu nhìn vào toàn thể quá trình sản xuất và lu thông phân
phối của ngành thép Việt Nam, luân chuyển hàng hoá có quy mô nhỏ và
không ổn định. Các thiết bị trong các nhà máy thép có quy mô nhỏ và thiếu
đồng bộ. Ngoài ra các khâu thu mua nguyên vật liệu, chế tạo và bán sản
phẩm đều không thông suốt. Các doanh nghiệp đảm nhiệm một phần nhất
định của công đoạn có quy mô nhỏ. Với những lý do trên, một nền tảng sản
xuất quy mô lớn vẫn cha đợc thành lập. Đây là một tình hình khó khăn
nghiêm trọng đối với một ngành công nghiệp cần phát triển quy mô. Có sự
chênh lệch về công nghệ trong bản thân các công ty Nhà nớc và cả với t
nhân hoặc liên doanh với nớc ngoài.
23
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Chơng 2: Ngành thép Việt Nam đứng trớc thách thức
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
1. Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép
Việt Nam hiện nay
1.1. Các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp công nghiệp
Khả năng cạnh tranh chịu tác động của rất nhiều các yếu tố chủ quan
và khách quan.
Theo đánh giá của UNCTAC (Hội nghị LHQ về thơng mại và phát
triển ) thì các yếu tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh bao gồm công
nghệ,nhân lực, vốn, chính sách thơng mại, đối thủ cạnh tranh mới. Trong đó
thì công nghệ, nhân lực, vốn đợc coi là các nhân tố chủ quan mà doanh
nghiệp có thể thay đổi đợc thông qua đầu t, huy động vốn. Những yếu tố
này sẽ ảnh hởng đến chất lợng, chủng loại, giá cả sản phẩm hàng hoá để

quyết định sản phẩm có thể gia nhập thị trờng hay không? Còn chính sách
thơng mại và đối thủ cạnh tranh mới là những nhân tố khách quan mà
doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ để thích ứng và đề ra đợc chiến lợc cạnh
tranh cho mình.
Theo WEF ( Diễn đàn kinh tế thế giới ) các yếu tố đó là sự mở cửa
của nền kinh tế, vai trò của nhà nớc, khả năng tài chính của doanh nghiệp,
cơ sở hạ tầng, công nghệ, quản lý, lao động và thể chế. Nh vậy WEF đề
cao vai trò của sự mở cửa cho rằng đây là yếu tố cơ bản để mở rộng thị tr-
ờng. (WEF chú trọng đến thị trờng nớc ngoài hơn thị trờng trong nớc sau đó
mới đến sự tác động của nhà nớc và các yếu tố thuộc về cơ quan của doanh
nghiệp).
Theo nhà kinh tế học M. Porter các yếu tố ảnh hởng đến khả năng
cạnh tranh là điều kiện về các yếu tố đầu vào, điều kiện về cầu, các nguồn
liên quan, các ngành hỗ trợ, chiến lợc cấu trúc và mức độ cạnh tranh.
Ngoài các yếu tố này thì thời cơ và đặc biệt là vai trò của nhà nớc đ-
ợc xem nh những điều kiện tổng hợp thúc đẩy hoặc hạn chế tác động của
các yếu tố trên và tác động gián tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Nh vậy, thông qua ba quan điểm đánh giá nêu trên có thể tổng kết lại
các yếu tố ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm
các yếu tố đầu vào (thuộc về yếu tố chủ quan của doanh nghiệp ) nh : công
24
Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
nghệ, lao động, quản lý, tổ chức sản xuất Đây là những yếu tố có ảnh h-
ởng trực tiếp đến sản lợng, chất lợng, giá cả sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
sản xuất để từ đó tạo ra điều kiện cho doanh gia nhập thị trờng. Yếu tố thứ 2
đợc coi là yếu tố khách quan bao gồm những yếu tố thuộc về chính sách
của nhà nớc, thuộc về thị trờng (cung - cầu) và các đối thủ cạnh tranh.
Những yếu tố này không trực tiếp tạo ra giá trị cho sản phẩm nhng là những
điều kiện cho sản phẩm của một doanh nghiệp có thể thâm nhập và chiếm

lĩnh thị trờng. Đây là những yếu tố gián tiếp và khách quan mà một doanh
nghiệp muốn cạnh tranh thành công cần phải nghiên cứu kỹ.
Nh vậy ngoài sự tác động gián tiếp của các yếu tố khách quan, đầu t
là chìa khoá để mở ra và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vì
đầu t là điều kiện cơ bản nhất để hình thành các yếu tố đầu vào các yếu
tố cấu thành sản phẩm.
Khi xem xét trên bình diện quốc gia, lợi thế cạnh tranh của một quốc
gia đợc hình thành bởi sự tơng tác của các yếu tố:
1. Các điều kiện sản xuất sẵn có (lao động, tài nguyên, vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên )
2. Các điều kiện của thị trờng nội địa
3. Các ngành công nghiệp bổ trợ có liên quan
4. Chiến lợc, cơ cấu các doanh nghiệp và sự cạnh tranh trong nội
bộ quốc gia.
5. Các quyết sách và điều hành của chính phủ
6. Các nhân tố ngẫu nhiên.
Trong 6 nhân tố này thì 4 nhân tố đầu là quan trọng nhất. Phân tích
điều kiện và thực tế ngành thép Việt Nam khi tham gia khu vực mậu dịch tự
do AFTA và xa hơn là WTO thì lợi thế cạnh tranh gần nh không có.
1.2. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thép Việt Nam hiện nay
Dựa trên lý luận ở trên và những số liệu thu thập đợc ta có thể thấy
năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam rất yếu.
a. Về khoáng sản cho phát triển ngành thép theo những nghiên cứu sơ
bộ nớc ta có trữ lợng thấp so với một số nớc ASEAN.
b. Lao động của ngành thép Việt Nam đông về lợng và kém về chất.
Đội ngũ chuyên gia lành nghề và công nhân có tay nghề cao ít. Đây là tình
trạng chung của lao động Việt Nam. Theo chỉ số phát triển nguồn nhân lực
(HDI) năm 2000 Việt Nam đứng thứ 116 trong khi đó Philippin đứng thứ
25

×