Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Giai bai tap ve mach dien co bien tro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.87 KB, 41 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nghị Quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng ta lần thứ 2 khóa VIII
(Nghị quyết TW 2) đã chỉ rõ : “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục- đào
tạo,khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo
của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”.
“ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học ; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho HS” là định hướng đổi mới PPDH, được khẳng định trong nghị quyết của
ban chấp hành Trung ương Đảng lần 4 khóa VII, trong nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần 2 khóa VIII và được pháp chế hóa trong điều
24.2 của Luật Giáo dục.
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ
môn nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan trọng,
bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính tích cực
của HS có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục
phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động, việc khơi dậy phát
triển ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương pháp tự học là con đường
phát triển tối ưu của giáo dục. Cũng như các môn học khác, học Vật lý lại
càng cần phát triển năng lực tích cực, năng lực tư duy của HS để không phải
chỉ biết mà còn phải hiểu để giải thích hiện tượng Vật lý cũng như áp dụng
kiến thức và kỹ năng vào các hoạt động trong cuộc sống gia đình và cộng
đồng.
Trang 1
Trong khuôn khổ trường THCS, bài tập Vật lý thường là những vấn đề
không quá phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lô gíc, bằng tính
toán hoặc thực nghiệm dựa trên cơ sở những quy tắc Vật lý, phương pháp Vật


lý đã qui định trong chương trình học. Nhưng bài tập Vật lý là một khâu quan
trọng trong quá trình dạy và học Vật lý. Việc giải bài tập Vật lý giúp HS củng
cố đào sâu, mở rộng kiến thức cơ bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ
năng kỹ xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, là biện pháp quí báu để phát
triển năng lực tư duy của HS, có tác dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng,
đạo đức lớn. Vì thế trong việc giải bài tập Vật lý mục đích cơ bản cuối cùng
không phải chỉ tìm ra đáp số, tuy điều này cũng quan trọng và cần thiết, mục
đích chính của việc giải là ở chỗ người làm bài tập hiểu được sâu sắc hơn các
khái niệm, định luật Vật lý, vận dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong
cuộc sống, trong lao động.
Qua thực tế giảng dạy Vật lý ở trường THCS nói chung và bộ môn Vật
lý 9 nói riêng, tôi nhận thấy HS còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng khi giải
các bài tập Vật lý, điều này ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Trong chương trình và nội dung sách giáo khoa việc rèn luyện kỹ năng
giải bài tập Vật lý bậc THCS gần như chưa được chú trọng, vì trong cả 3 năm
học Vật lý 6, 7,8 không có giờ bài tập, luyện tập nào; ở lớp 9 chỉ có 6 tiết bài
tập (cả năm). Dẫn đến l kết quả là HS bậc THCS về kỹ năng giải bài tập Vật
lý còn nhiều hạn chế hay nói cách khác là còn rất yếu. 100% GV cho rằng: “
Không có thời gian dành cho việc rèn luyện kỹ năng giải bài tập cho HS”.
Nên phần lớn HS chưa nắm được phương pháp giải bài tập Vật lý, nhất là bài
tập định lượng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi thấy rằng việc rèn luyện kỹ năng cho
HS giải bài tập là việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi chọn và rút ra cho
mình một vài kinh nghiệm “ Hướng dẫn học sinh giải bài tập về mạch điện
có biến trở”.
Trang 2
Từ việc hướng dẫn,giải và làm bài tập về : “ Biến trở”, HS khối 9 nói
chung và HS giỏi nói riêng đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm cần
thiết khi giải loại mạch điện có biến trở. Qua đó góp phần giúp HS bớt đi
những lo lắng khi học Vậy lý, mà HS còn được rèn luyện:

- Kỹ năng tóm tắt bài toán để xây dựng phương pháp giải.
- Kỹ năng vận dụng những kiến thức vật lý đã học.
- Kỹ năng tính toán.
- Củng cố kiến thức toán học thông qua việc giải bài tập Vật lý.
Từ đó tư duy của học sinh sẽ được phát triển một cách toàn diện hơn.
“ Hướng dẫn học sinh giải bài tập về mạch điện có biến trở” là việc
làm không đơn giản, song với những kinh nghiệm có được, tôi hy vọng sẽ
giúp cho các em giảm bớt khó khăn khi tiếp xúc với dạng bài tập về mạch
điện khó ở lớp 9. Nhất là khi được học trong đội tuyển học sinh giỏi cấp
trường, cấp huyện và làm tiền đề cho các em khi các em bước vào chương
trình THPT với bộ môn Vật lý vô cùng phong phú về mạch điện. trong đó có
những mạch như mạch đối xứng, mạch cầu… không hề đơn giản với người
dạy, người học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Hình thành cho học sinh một cách tổng quan về phương pháp giải một
bài tập về “ Mạch điện có biến trở”, từ đó các em có thể vận dụng một cách
thành thạo và linh hoạt trong việc giải các bài tập thuộc dạng này, nâng cao
hiệu quả của bài tập, giúp các em nắm vững kiến thức để vận dụng vào cuộc
sống một cách thiết thực và có hiệu quả.
III. ĐỐI TƯỢNG – PHẠM VI – THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp giải bài tập Vật lý về “Mạch
điện có biến trở”.
2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện với học sinh một số lớp
ở khối 9 trường THCS Chu Văn An – Đak Pơ – Gia Lai.
Trang 3
3. Thời gian thực hiện: Năm học 2008 – 2009
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu lí luận về phương pháp giải bài tập Vật lý.
2. Nghiên cứu lí luận về sử dụng bài tập Vật lý trong dạy học Vật
lý.

3. Nghiên cứu chương trình nội dung kiến thức “ Phần Điện học”ở
các bài học Vật lý cấp THCS.
4. Nghiên cứu tình hình dạy và học Vật lý. Đặc biệt quan tâm đến
hoạt động sử dụng bài tập Vật lý.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
1/ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm dạy học.
2/ Phương pháp điều tra, phân tích, so sánh.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ sau;
- Phương pháp trò chuyện với đồng nghiệp, học sinh.
- Phương pháp đọc sách và tài liệu tham khảo
VI. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU:
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phục vụ công tác giảng dạy học sinh lớp 9
của trường THCS Chu Văn An – huyện Đakpơ- tỉnh Gia Lai
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp 8, 9 môn vật lý
2/ Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS
3/ Đổi mới phương pháp dạy và giải bài tập vật lý trung học cơ sở
4/ Sách giáo khoa và sách bài tập vật lý lớp 9
5/ Ôn tập Vật lý 9- Luyện thi vào lớp 10 chuyên Lý- Nhà xuất bản trẻ.
Trang 4
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
- Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu, khắc sâu thêm phần lý thuyết
và đặc biệt giúp học sinh có phương pháp giải bài tập. Biết vận dụng kiến
thức vật lý để giải quyết các nhiệm vụ học tập và những vấn đề thực tế của
đời sống là thước đo mức độ hiểu biết, kĩ năng của mỗi học sinh.
- Bài tập vật lý giúp học sinh hiểu sâu hơn những qui luật vật lý, những
hiện tượng vật lý, tạo điều kiện cho học sinh vận dụng linh hoạt, tự giải quyết

những tình huống cụ thể khác nhau, để từ đó hoàn thiện về mặt nhận thức và
tích lũy thành vốn riêng của mình.
- Muốn làm được bài tập vật lý, học sinh phải biết vận dụng các thao
tác tư duy, so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa để xác định được
bản chất vật lý, trên cơ sở đó chọn ra các công thức thích hợp cho từng bài tập
cụ thể. Vì thế bài tập vật lý còn là phương tiện tốt để phát triển tư duy, óc
tưởng tượng, sáng tạo, tính tự lực trong suy luận.
- Bài tập vật lý là hình thức củng cố, ôn tập mở rộng hoặc đi sâu vào
các trường hợp riêng lẻ của định luật mà nhiều khi nếu nhắc lại nhiều lần ở
phần lý thuyết có thể làm cho học sinh nhàm chán.
- Khi làm bài tập, học sinh bắt buộc phải nhớ lại kiến thức đã học và
vận dụng, đào sâu kiến thức, do vậy đứng về mặt điều khiển hoạt động nhận
thức của học sinh thì đây là phương tiện tự kiểm tra kiến thức, kĩ năng của
học sinh. Trong việc giải bài tập, nếu học sinh tự giác, say mê tìm tòi thì nó
còn có tác dụng rèn luyện cho các em những đức tính tốt như tinh thần tự lập,
vượt khó, tính cẩn thận, tính kiên trì, và đặc biệt tạo niềm vui trí tuệ học tập.
II. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC GIẢI BÀI TẬP VẬT LÝ CỦA HỌC
SINH
Qua nhiều năm giảng dạy vật lý ở trường THCS Chu Văn An, đối với
học sinh vấn đề giải và sửa các bài tập vật lý gặp không ít khó khăn vì học
Trang 5
sinh thường không nắm vững lý thuyết, không có giờ luyện tập, bài tập ở lớp
(phân phối chương trình lý 8) hoặc nếu có thì rất ít ( lý 9), chưa có kỹ năng
vận dụng kiến thức vật lý. Vì vậy các em giải bài tập một cách mò mẫm,
không có định hướng rõ ràng, áp dụng công thức máy móc và nhiều khi
không giải được, có nhiều nguyên nhân:
- Học sinh chưa biết phương pháp để giải bài tập vật lý.
- Chưa có những kỹ năng toán học cần thiết để giải bài tập vật lý.
- Chưa xác định được mục đích của việc giải bài tập và tìm ra từ câu
hỏi điều kiện của bài toán, xem xét các hiện tượng vật lý nêu trong đề bài tập

để từ đó nắm vững bản chất vật lý, tiếp theo là xác định mối liên hệ giữa cái
đã cho và cái phải tìm.
III. HƯỚNG DẪN HỌC SINH GIẢI BÀI TẬP VỀ MẠCH ĐIỆN
CÓ BIÊN TRỞ :
Với những lý luận trên, muốn giải bài tập vật lý ta cần thực hiện các
bước sau:
Các bước cơ bản:
Bước 1: Viết tóm tắt các dữ kiện:
- Đọc kỹ đề bài (khác với thuộc đề bài), tìm hiểu ý nghĩa của thuật ngữ,
có thể phát biểu tóm tắt ngắn gọn chính xác.
- Dùng ký hiệu tóm tắt đề bài cho gì ? hỏi gì ? thống nhất đơn vị. Dùng
hình vẽ để mô tả lại tình huống, minh họa nếu cần.
Bước 2: Phân tích nội dung làm sáng tỏ bản chất vật lý, xác lập mối
liên hệ của các dữ kiện có liên quan tới công thức nào của các dữ kiện xuất
phát và rút ra cái cần tìm xác định phương hướng và vạch kế hoạch giải.
Bước 3: Chọn công thức thích hợp, kế hoạch giải: thành lập các
phương trình nếu cần, chú ý có bao nhiêu ẩn số thì có bấy nhiêu phương trình.
Bước 4: Lựa chọn cách giải cho phù hợp, tôn trọng trình tự, phải theo
để thực hiện các chi tiết của dự kiến, nhất là khi gặp những bài tập phức tạp.
Trang 6
Thực hiện cẩn thận các phép tính. Để tránh sai số (nếu có) nên thay bằng chữ
đến biểu thức cuối cùng mới thay bằng số.
Bước 5: Kiểm tra, xác nhận kết quả và biện luận:
- Kiểm tra lại xem trị số của kết quả có đúng không, có phù hợp với
thực tế không ? Kiểm tra lại các phép tính.
- Nếu có điều kiện, xem thử còn có cách giải nào khác ngắn gọn hơn,
hay hơn không ?
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm bộ môn Vật lý bậc THCS và tham gia
bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Vật lý cấp trường, cấp huyện.Tôi thấy rằng
khác với môn toán học là khi nâng cao môn Vật lý lên đôi chút là học sinh đã

gặp nhiều khó khăn( với lý do đã nêu ở phần đặt vấn đề).
Trước những khó khăn gặp phải và xuất phát từ những mục tiêu nói
trên tôi xây dựng một chuyên đề giảng dạy cho học sinh về “Mạch điện có
biến trở” bao gồm hai chuyên đề nhỏ.
- Chuyên đề 1: Dành cho HS đại trà đó là “ Biến trở được mắc nối tiếp với
phụ tải”. Với phương pháp giải là : lập phương trình bậc nhất- hệ phương
trình bậc nhất và lập phương trình bậc hai.
- Chuyên đề 2: Dành cho HS khá, giỏi đó là “ Biến trở được dùng như một
điện trở biến đổi” ở đây biến trở được mắc vừa nối tiếp vừa song song trong
mạch điện.
Trong thực tế đời sống “Mạch điện có biến trở” được sử dụng khá rộng
rãi ở một số lĩnh vực như: thay đổi độ sáng của đèn, thay đổi vận tốc của quạt,
thay đổi công suất của máy, thay đổi công suất của loa …
I/ Xây dựng lý thuyết về biến trở:
a) Khái niệm về biến trở( SGK Vật lý 9 – Bài 10 trang 28 nhà XBGD)
b) Biến trở dược mắc nối tiếp:

Trang 7
R
-
+
N
M
C
B
A
C
c)Biến trở được mắc vừa nối tiếp vừa song song:
d)Biến trở được mắc vào mạch cầu:
II/ Hướng dẫn học sinh giải bài tập về mạch điện có biến trở.

Chuyên đề 1: “Biến trở được mắc nối tiếp với phụ tải”.
Ví dụ 1: (Bài 2 SGK Vật lý 9 trang 32)
Một bóng đèn khi sáng bình thường
Có điện trở là R
1
= 7,5

và cường độ
Dòng điện chạy qua khi đó I = 0,6 A. Bóng
Đèn được mắc nối tiếp với biến trở và chúng được mắc vào hiệu điện thế U =
12V.Phải điều chỉnh con chạy C để R
AC
có giá trị R
2
= ? để đèn sáng bình
thường?
Hướng dẫn Bài giải
Khi đèn sáng bình thường

I
đ
=
0,6 A

I
tm
= 0,6A (vì mạch nt)


A

RR
U
R

6,0
12
=
+
=
Từ đó HS tìm ra R
2
+ R
1
và rút
ra R
2
khi thay R
1
= 7,5

Theo đầu bài: R
1
=R
đ
=7,5

và I
đm
= 0,6A
Để đèn sáng bình thường


I
đ
= 0,6A, vì
Đ nối tiếp với R
AC


I
tm
= 0,6A.
Áp dụng định luật Ôm cho đoạn mạch nối
tiếp, ta có: R
2
+ R
1
=
)(20
6,0
12
Ω==
tm
I
U
)(5,125,720
2
Ω=−==⇒ RR
AC
Vậy phải điều chỉnh con chạy C sao cho
R

AC
= 12,5

thì khi đó đèn sẽ sáng bình
thường.
Trang 8
. .
U
A
B
D

-
+
X
N
M
C
C
B
A
-
+
X
C
B
A
N
M
R

2
R
1
N
M
D
C
B
A
Ví dụ 2: Cho mạch điện như hình vẽ
U
AB
= 12V, khi dịch chuyển con
chạy C thì số chỉ của am pe kế thay đổi từ 0,24A đến 0,4A. Hãy tính giá trị
R
1
và giá trị lớn nhất của biến trở ?
Hướng dẫn Bài giải
Khi C dịch chuyển

số đo của
ampe kế thay đổi từ 0,24A đến
0,4A nghĩa là gì?
+ Khi C trùng A

R
AC
= 0

R

MN
= R
1
(nhỏ nhất)

I = 0,4A
là giá tri lớn nhất. Lúc đó R

=
R
1
. Biết I và U ta tính được R
1
.
+ Ngược lại, khi C trùng với B

R
AC
= R
o

R
MN
= R
1
+R
o


I

= 0,24A là giá trị nhỏ nhất

R

= R
1
+ R
o
. Vì đã biết U, I và R
1
ta sẽ tính được R
o
là điện trở lớn
nhất của biến trở.
1.Tính R
1
: Khi con chạy C trùng với A

R

= R
1
( vì R
AC
=0) và am pe kế khi đó chỉ
0,4A.

)(30
4,0
12

12
1
Ω====⇒=
I
U
RRVU
MN
tđMN
Vậy R
1
= 30

2.Tính điện trở lớn nhất của biến trở:
Khi C trùng với B

R

= R
1
+R
o
có giá trị
lớn nhất

I đạt giá trị nhỏ nhất

I=0,24 A
Ta có:
)(50
24,0

12
1
Ω===+
I
U
RR
MN
o
Mà R
1
= 30



R
o
= 50 – 30 = 20(

)
Vậy giá trị lớn nhất của biến trở là 20


Ví dụ 3: Cho mạch điện ( như hình vẽ).
Bóng đèn loại 6V – 3,6W,
U
MN
= 12V không đổi.
1- Khi điện trở của biến trở R
x
= 20


. Hãy tính công suất tiêu thụ của
đèn và cho biết độ sáng của đèn khi đó như thế nào ?
2- Muốn đèn sáng bình thường phải điều chỉnh con chạy sao cho R’
x
= ?
Bài giải:
1-Khi R
x
= 20


R

= R
đ
+ R
x
= R
đ
+ 20 (vì mạch nối tiếp).
Trang 9
A
M
A
B
C
R
1
N

R
x
M
N
C
X
+
-

)(4,0
30
12
)(302010)(10
6,3
6
2
2
A
R
U
IR
P
U
R

MN

đm
đm
đ

===⇒Ω=+=⇒Ω===
Công suất tiêu thụ của đèn khi đó là: P
đ
= I
2
. R
đ
= 0,4
2
. 10 = 1,6 (W)
Ta thấy P
đ
< P
đm
nên đèn sáng yếu hơn mức bình thường.
2- Để đèn sáng bình thường
)(6,0
6
6,3
A
U
P
I
đm
đm
đm
===⇔
.
Vì Đ nt R
x

nên I
đ
là I’
tm


I’
tm
=0,6A

R’

= R
đ
+ R’
x
=
)(20
6,0
12
'
Ω==
tm
MN
I
U


R’
x

= 20 – R
đ
= 20 – 10 = 10 (

)
Vậy để đèn sáng bình thường thì phải điều chỉnh con chạy C sao cho
R’
x
= 10 Ω.
Ví dụ 4: Cho mạch điện ( như hình vẽ)
Khi con chạy C ở vị trí A thì vôn kế chỉ 12V
Khi con chạy C ở vị trí B thì vôn kế chỉ 7,2V.
Tính giá trị điện trở R. (Biết trên biến trở có ghi 20

- 1A)
Hướng dẫn: Tương tự như VD
2
, khi C trùng với A

vôn kế chỉ giá trị lớn
nhất nghĩa là chỉ U
MN
và khi đó R

= R ( vì R
AC
= 0). Khi C trùng với B

R
AC

bằng số ghi trên biến trở

Học sinh dễ dàng giải được bài toán.
Bài giải:
- Khi con chạy C trùng với A ta có: R
AC
= 0

R

= R và khi đó vôn kế chỉ
12V nghĩa là U
MN
= 12V.
- Khi con chạy C trùng với B ta có: R
AC
= 20

( bằng số ghi của biến trở) và
khi đó vôn kế chỉ 7,2V

U
R
= 7,2V

U
AC
= U
MN
– U

R
= 12 – 7,2 = 4,8(V)


)(24,0
20
8,4
A
R
U
I
AC
AC
AC
===
Vì mạch nối tiếp nên I
R
= I
AC
= 0,24 A .
Vậy :
)(30
24,0
2,7
Ω===
R
R
I
U
R

Trang 10
M
N
R
A
B
C
R
x
+
-
V
Trên đây là một số ví dụ tiêu biếu cho dạng bài tập về mạch điện có
biến trở mắc nối tiếp với phụ tải . Để giải thành thạo loại bài tập này, học sinh
cần rút ra cho mình một vài kinh nghiệm sau:
1- Điện trở tương đương của đoạn mạch R

= R
tải
+ R
x
, trong đó R
x
là phần điện trở tham gia của biến trở.
2- I
Rx
là cường độ dòng điện trong mạch chính và U
Rx
= U
tm

- U
tải
.
3- Khi con chạy C trùng với điểm mà lúc đó R
x
= 0 thì R

= R
tải
(là
giá trị nhỏ nhất của điện trở toàn mạch) và khi đó I đạt giá trị lớn nhất( vì
hiệu điện thế toàn mạch không đổi).
4- Ngược lại , khi con chạy C trùng với điểm mà toàn bộ điện trở của
biến trở tham gia vào mạch thì lúc đó R

= R
tải
+ R
x
( là giá trị lớn nhất của
R

) và khi đó I đạt giá trị nhỏ nhất ( vì hiệu điện thế toàn mạch không đổi)
Chuyên đề 2: (giành cho HS khá, giỏi)
Dạng 1: “Biến trở được mắc vừa nối tiếp, vừa song song”.
Với dạng bài tập này biến trở được dùng như một điện trở biến đổi, ta
phải sử dụng bất đẳng thức
x
R≤0(
)

o
R≤
trong đó R
o
là điện trở toàn phần của
biến trở. Và học sinh phải biết vẽ lại mạch điện tương đương để dễ dàng sử
dụng định luật Ôm trong mạch nối tiếp và mạch song song.
Ví dụ 5: ( Bài 11.4b SBT Vật lý 9)
Cho mạch điện (như hình vẽ), đèn sáng bình Đ
thường với U
đm
= 6V và I
đm
= 0,75A. Đèn được
mắc với biến Trở có điện trở lớn nhất bằng 16

và U
MN
không đổi bằng 12V. Tính R
1
= R
AC
của
biến trở để đèn sáng bình thường .
Hướng dẫn Bài giải
- Trước hết học sinh phải vẽ lại
được mạch điện và khi đó:
(Đ // R
AC
) nt R

CB
Trong đó : R
AC
= R
1

Sơ đồ mới: Đ
Ta có: R
CB
= 16 –R
1
Trang 11
C
.
.
B
M
N
A
+
-
R
1
C
B
+
.
M
N
-

A
C
16-R
1
X
+ Khi đèn sáng bình thường


U
đ
= U
AC
= ?

U
CB
= ?
+ I
đ
+ I
AC
= I
CB
Trong đó:

1
R
U
I
AC

AC
=

1
16
;
R
UU
I
đ
CB


=


đ
I⇒
(*)
16
11
R
UU
R
U
đđ


=+


Học sinh giải phương trình (*)

tìm được R
1
Vì đèn sáng bình thường nên U
đ
= 6V và
I
đ
= 0,75A

U
AC
= U
đ
= 6V

11
6
RR
U
I
đ
AC
==
Vì (Đ//R
AC
)nt R
CB



I
đ
+ I
AC
= I
CB


CB
I
1
16 R
UU
đ


=
Ta có PT:
1
6
R
I
đ
+
1
16
612
R−


=
Hay
11
16
66
75,0
RR −
=+
1111
16
22
4
1
16
66
4
3
RRRR −
=+⇔

=+⇔

R
1
(16-R
1
) + 8(16-R
1
) = 8R
1


16R
1
- R
2
1
+ 128- 8R
1
= 8R
1


R
2
1
= 128

R
1
=
128

)(3,11 Ω≈
Vậy phải điều chỉnh con chạy C để R
AC
=
R
1
= 11,3


thì đèn sáng bình thường.
Ví dụ 6:
Cho mạch điện ( hình vẽ).
Biến trở có điện trở toàn phần R
o
= 12

.
Đèn loại 6V – 3W ; U
MN
= 15V (không đổi)
a- Tìm vị trí con chạy C để đèn sáng bình thường.
b- Khi dịch chuyển con chạy về phía A độ sáng
của đèn thay đổi như thế nào?
Bài giải:
Tương tự như ví dụ 5
Mạch điện được vẽ lại:
Trang 12
I A R
o
B
N
C
I
x
A
R
x
C
R

o
- R
x
C B
M
-
N
+
(R
x
// Đ) nt R
o
– R
x

Đặt R
AC
= x (

) điều kiện : 0 < x < 12
Thì R
CB
= 12 – x (

)
a- Khi đèn sáng bình thường: U
đ
= U
đm
= 6V và P

đ
= P
đm
= 3W

)(5,0
6
3
A
U
P
I
đ
đ
đ
===⇒
. Vì (Đ//R
AC
) nt R
CB


I
đ
+ I
AC
= I
CB
và U
AC

= U
đ

U
CB
= U
MN
– U
đ
= 15 – 6 = 9(V)
Áp dụng định luật Ôm trong mạch nối tiếp và song song:
x
UU
x
U
I
đMNđ
đ


=+
12
hay
xx −
=+
12
96
2
1


xxxx 18)12(12)12( =−+−⇔


xxxx 181214412
2
=−+−⇔


014418
2
=−+⇔ xx

15225'22514481' ==∆⇒=+=∆

)(6
1
159
1
Ω=
+−
=x
;
24
1
159
2
−=
−−
=x
(loại)

Vậy phải điều chỉnh con chạyC để R
AC
= 6

thì khi đó đèn sáng bình thường.
b- Khi dịch chuyển con chạy C về phía A

R
x
giảm dần , nhưng ta chưa thể
kết luận về độ sáng của đèn thay đổi như thế nào được; mà ta phải tìm cường
độ dòng điện qua đèn thay đổi như thế nào khi con chạy C dịch chuyển về
phía A

biện luận độ sáng của đèn.
Ta có:
)(12
3
6
2
2
Ω===
đm
đm
đ
P
U
R

x

xx
x
x
x
R
MN
+
−+
=−+
+
=
12
14412
12
12
12
2

cường độ dòng điện qua mạch:
14412
)12(15
2
++−
+
==
xx
x
R
U
I

MN
MN

Vì R
AC
// Đ nên I
x
= I – I
đ

xR
R
I
I
Ac
đ
đ
x
12
==


xI
II
đ
đ
12
=




x
x
II
x
x
I
I
xI
I
xI
I
đ
đđđ
+
⋅=⇒
+
=⇒+=⇒=−
12
12
1
1212
1
Trang 13

x
x
xx
x
x

x
xx
x
I
đ
144
12
15
14412
15
12
14412
)12(15
22
++−
=
++−
=
+

++−
+
=
Ta thấy khi C về phía A thì x giảm

)
144
12(
x
x ++−

tăng lên

I
đ
giảm đi.
Vậy độ sáng của đèn giảm đi(đèn sẽ tối dần)khi dịch chuyển con chạy C vềA.
Dạng 2: “ Biến trở trong mạch cầu”
Ví dụ 7: Cho mạch điện như hình vẽ.
Biết R
1
= 3

; R
2
= 6

, AB là biến trở
có con chạy C và điện trở toàn phần
R
o
=18

. U
MN
không đổi và bằng 9V.
Điện trở của vôn kế vô cùng lớn.
a- Xác định vị trí con chạy Cđể vôn kế chỉ số 0?
b- Tìm vị trí của con chạy C để vôn kế chỉ 1V.
Bài giải:
a- Tìm vị trí của con chạy C để vôn kế chỉ số 0

Khi vôn kế chỉ 0 V

MN là mạch cầu cân bằng.
Cách 1: Ta dùng công thức điện trở:
Đặt R
AC
= x(

) (0 < x < 18) . Khi đó: R
CB
=18 – x (

)
Áp dụng công thức:
xxR
R
R
R
CBAC

=⇒=
18
63
21

xx 6)18(3 =−⇔

xx 6354
=−⇔


)(6549 Ω=⇒=⇔ xx

Vậy vị trí của con chạy trên AB sao cho R
AC
= 6

thì vôn kế chỉ 0 V.
Cách 2: Vì R
V
vô cùng lớn nên
MN trở thành 2 mạch song song
độc lập như hình vẽ.
Ta có:
Trang 14
.
M
D
V
R
1
R
2
A
B
C
N
R
1
R
2

R
3
R
4
A C
C
B
M

MN
UU ⋅
+
=
63
3
1

MN
U
x
U ⋅=
18
3
Để vôn kế chỉ 0 V

U
1
= U
3


3
1
MN
U
U =


)(6
3
1
18318
Ω=⇒=⇒=⋅ x
x
U
U
x
MN
MN
b- Tìm vị trí của C để vôn kế chỉ 1 V.
Ta có:
MN
UU ⋅
+
=
63
3
1
)(3
3
9

3
V
U
MN
===
không phụ thuộc vào vị trí con chạy C.
Nên để vôn kế chỉ 1V thì U
AC
phải chênh lệch với U
1
là 1V.
Do đó có 2 đáp số cho U
AC
: U
AC
= 2V hoặc U
AC
= 4V.

MNAC
U
x
U ⋅=
18
.
* Trường hợp U
AC
= 2V ta có phương trình:
29
18

=⋅
x

)(42
2
Ω=⇒= x
x
* Trường hợp U
AC
= 4V ta có phương trình:
)(84
2
Ω=⇒= x
x
Vậy để vôn kế chỉ 1V thì con chạy C có 2 vị trí trên AB để sao cho:
R
AC
= 4

hoặc để R
AC
= 8

.
*) Những bài học kinh nghiệm mà HS cần phải được rút ra khi học và giải
loại bài tập này là:
Biến trở là một điện trở biến đổi.
1- Phải vẽ lại mạch điện để bài toán đơn giản.
2- Đưa bài toán về dạng giải bài toàn bằng cách lập phương trình qua
công thức của mạch điện cân bằng.

3- Chọn R
AC
là ẩn, biểu diễn R
CB
theo ẩn là R
AC
Chú ý: R
AB
= R
o
không đổi ( số ghi trên biến trở)
R
CB
= R
o
– R
AC


R
AC
= x thì (
0
0 Rx ≤≤
)
Các qui tắc toán học cần thành thạo:
Trang 15
- Giải hệ phương trình bậc nhất.
- Giải phương trình bậc hai một ẩn số
IV.HƯỚNG DẪN HỌC SINH HỌC TẬP VẬT LÝ Ở NHÀ.

Qua thực tế giảng dạy vật lý ở trường THCS, tôi nhận thấy với cấu trúc
của chương trình Vật lý THCS là hầu hết không có hoặc có rất ít các tiết bài
tập, thời lượng của một tiết học trên lớp có hạn, học sinh chủ yếu tiếp thu kiến
thức về lý thuyết một cách cơ bản hoặc giải các bài tập đơn giản và số tiết học
chỉ có 1 tiết/ tuần đối với các lớp 6,7,8 và 2 tiết / tuần đối với lớp 9. Như vậy
không có đủ lượng thời gian để giáo viên mở rộng và nâng cao kiến thức và
kỹ năng giải bài tập cho học sinh. Do đó, một trong những biện pháp thường
xuyên được luyện giải nhiều dạng bài tập khác nhau, cũng như tiếp xúc với
các dạng bài tập có tính chất mở rộng và nâng cao, để từ đó học sinh có thể
vận dụng một cách linh hoạt các cách giải từng dạng bài tập đó là :
“ Hướng dẫn học sinh học tập Vật lý ở nhà.”
Việc học sinh tự học ở nhà có một ý nghĩa lớn lao về mặt giáo dục,
giáo dưỡng. Nếu việc học ở nhà của học sinh được tổ chức tốt sẽ giúp các em
thói quen làm việc tự lực , giúp các em nắm vững tri thức, có kỹ năng , kỹ
xảo. Ngược lại nếu việc học ở nhà của học sinh không được quan tâm tốt sẽ
làm cho các em quen thói cẩu thả , có thái độ tắc trách đối với việc thực hiện
nhiệm vụ của mình dẫn đến nhiều thói quen xấu cản trở đến việc học tập.
Công việc học tập ở nhà của học sinh có những đặc điểm riêng sau:
+ Tiến hành trong một thời gian ngắn, không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù đấy là công việc chính giáo viên giao cho học sinh phải tự
mình hoàn thành, tự kiểm tra công việc mình làm.
+ Công việc này được thực hiện tuần tự theo hứng thú, nhu cầu và năng lực
của học sinh.
+ Dễ bị chi phối bởi ngoại cảnh khác.
Trang 16
Có thể coi quá trình học tập của học sinh ở nhà bao gồm các giai đoạn:
trước hết phái nhớ lại những điều đã học ở lớp sau đó rèn luyện sáng tạo. Mỗi
giai đoạn có một nội dung công việc cụ thể.
Việc học tập của học sinh ở nhà phụ thuộc phần lớn việc dạy học trên lớp của
giáo viên. Vì vậy giáo viên cần phải căn cứ vào tình hình tiếp thu kiến thức

của học sinh mà giao cho các em những công việc có tính chất bổ sung phục
hồi tài liệu đã học như: nghiên cứu sách giáo khoa, vẽ hình …
Trong khi dạy vấn đề nào đó cần suy nghĩ việc giao cho học sinh các
bài tập ở nhà. Chính việc giao bài tập một cách có hệ thống đảm bảo cho việc
học tập của học sinh có một quy luật chặt chẽ, nhờ đó mà học sinh có thể tự
lực giải quyết các bài tập kể cả những bài tập khó, vì đã có sự chuẩn bị ở các
bài tập dễ. Việc học sinh hoàn thành tốt các bài tập ở nhà không những giúp
các em nắm vững tri thức đã học cũng như rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo cần
thiết, mà còn giúp các em chuẩn bị tốt nhất cho việc tiếp thu kiến thức mới.
Vì thế bên cạnh những bài làm phục hồi, luyện tập và sáng tạo trên cơ sở kiến
thức đã học cần phải giao cho học sinh những bài mang những yếu tố chuẩn
bị cho việc tiếp thu tri thức mới. Có như vậy mới đảm bảo được việc tiếp thu
một cách tích cực, tự lực đối với những tri thức mới.
Ta có thể giao bài tập cho học sinh bằng nhiều hình thức:
+ Giao bài tập trong thời gian truy bài đầu giờ.
+ Giao bài tập sau tiết học
+ Giao bài tập theo hệ thống bài tập SGK, SBT, sách tham khảo …
+ Giao bài tập theo dạng, theo chuyên đề.
Một biện pháp quan trọng nữa để đảm bảo công tác hướng dẫn học ở
nhà có kết quả là cần có những biện pháp kiểm tra, động viên, khích lệ kịp
thời và phù hợp:
+ Kiểm tra vở ghi, vở bài tập.
+ Cho điểm khuyến khích những học sinh có nhiều cố gắng hoặc
chuyển biến trong học tập, …
Trang 17
V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các bước trên để hướng dẫn
học sinh giải các bài tập định lượng môn vật lývà hướng dẫn học sinh giải bài
tập về mạch điện có biến trở, tôi nhận thấy học sinh nắm vững lý thuyết hơn,
khi giải bài tập có định hướng rõ ràng, nắm được cách giải bài tập vật lý, biết

cách suy luận áp dụng công thức phù hợp, tính toán nhanh, chính xác. Trong
quá trình học vật lý học sinh dần dần biết cách phát hiện chiếm lĩnh kiến thức
mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống, chất lượng học tập của học
sinh không ngừng được nâng lên.
Cụ thể như sau:
Năm học
Dưới Trung
bình
Trung bình Khá Giỏi Ghi chú
2006-2007 1,1% 55,9% 23,5% 20,6%
2007-2008 1,5% 50,0% 28,8% 19,7%
2008-2009 1,4 % 24,5% 42,3% 31,8 %
Số liệu
HK I
Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi:
Năm học Cấp trường Cấp huyện Cấp Tỉnh Ghi chú
2006-2007 4 em 2em
1em
(giải KK)
2007- 2008 5em 3em
1em
(giải Nhì)
2008-2009 4em 3em /
Chưa thi cấp
Tỉnh

C. KẾT LUẬN
I.BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trang 18
Trong quá trình giảng dạy bộ môn vật lý ở trường THCS việc hình

thành cho học sinh phương pháp, kỹ năng giải bài tập Vật lý nói chung, kỹ
năng giải bài tập có biến trở nói riêng là hết sức cần thiết, để từ đó giúp các
em đào sâu, mở rộng những kiến thức cơ bản của bài giảng, vận dụng tốt kiến
thức vào thực tế, phát triển năng lực tư duy cho các em, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục , cụ thể là:
+ Giúp học sinh có thói quen phân tích đầu bài, hình dung được các sự
kiện Vật lý xảy ra trong bài toán sau khi tìm hướng giải.
+ Trong một bài tập giáo viên cần hướng dẫn cho HS nhiều cách
giải( nếu có thể). Để kích thích sự hứng thú, say mê học tập cho học sinh rèn
thói quen tìm. tòi lời giải hay cho một bài toán Vật lý.
+ Khắc sâu cho học sinh nắm chắc các kiến thức bổ trợ khác. Cùng các
bài học kinh nghiệm đã phần nào bồi dưỡng cho học sinh một mảng kiến thức
về mạch điện có biến trở.Đây là phần kiến thức Vật lý, toán học khá hóc búa
và lý thú, phần nào đáp ứng được nhu cầu của học sinh khá giỏi, đồng thời
giúp học sinh có một tư duy sâu sắc hơn về mạch điện nói riêng và vật lý nói
chung cùng kỹ năng vận dụng kiến thức toán học mà học sinh bậc THCS còn
nhiều lúng túng do thời lượng dành cho việc giải bài tập trong chương trình
Vật lý cải cách quá ít ỏi.Qua đề tài này , mục tiêu của nó còn giúp học sinh
cuối bậc THCS làm tiền đề bước vào chương trình Vật lý bậc THPT ở phía
trước đang chờ đón các em.
Để làm được điều này:
- Giáo viên cần tự bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn,thường
xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp.
- Nắm vững chương trình bộ môn toàn cấp học.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nghiên cứu kỹ các kiến thức cần
nhớ để ôn tập, nhớ lại kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, lần lượt nghiên
cứu kỹ các phương pháp giải bài tập sau đó giải các bài tập theo hệ thống từ
Trang 19
dễ đến khó, so sánh các dạng bài tập để khắc sâu nội dung kiến thức và cách
giải trên cơ sở đó học sinh tự hình thành cho mình kỹ năng giải bài tập.

Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã rút ra được từ thực
tế trong quá trình giảng dạy bộ môn vật lý ở trường THCS nói chung, cũng là
kinh nghiệm rút ra được sau khi thực hiện đề tài này nói riêng.
II. KÊT LUẬN CHUNG
Dạy học nhằm góp phần quan trọng để hình thành nhân cách con
người lao động mới, sáng tạo, thích nghi với xã hội ngày càng phát triển. Do
vậy phương pháp dạy học bộ môn phải thực hiện được chức năng nhận thức,
phát triển và giáo dục, tức là lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn sao cho
học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và vận dụng tri thức vào thực
tiễn.
Đặc biệt Vật lý là một môn khoa học thực nghiệm đòi hỏi phát huy cao
độ tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức
.Chính vì vậy lựa chọn phương pháp dạy học bộ môn vật lý, người giáo viên
cần căn cứ vào phương pháp đặc thù của khoa học lấy hoạt động nhận thức
của học sinh làm cơ sở xuất phát.
Sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu, được sự quan tâm giúp đỡ của
Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn ,của đồng nghiệp tôi đã thực
hiện thành công việc: “hướng dẫn học sinh giải bài tập về mạch điện có
biến trở- Cấp THCS” với mong muốn: Phát triển năng lực tư duy, rèn luyện
kỹ năng ,kỹ xảo cho học sinh , học sinh thấy được những ứng dụng quan
trọng trong đời sống và kỹ thuật trong việc học tập bộ môn Vật lý .Nhằm
nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục nói chung.
Tuy nhiên vì điều kiện thời gian, cũng như tình hình thực tế nhận thức
và điều kiện học tập của học sinh ở địa phương nơi tôi đang công tác và năng
lực của cá nhân có hạn, nên việc thực hiện đề tài chắc chắn không tránh khỏi
Trang 20
thiếu sót. Kính mong các đồng chí và các bạn đồng nghiệp, trao đổi và góp ý
để giúp tôi hoàn thiện hơn trong chuyên môn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Tân An, ngày 12 tháng 3 năm 2009.
NGƯỜI VIÊT.
PHẠM VĂN HÒA
Trang 21
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu 1
B. Nội dung
I.Cơ sở lý luận 5
II.Thực trạng về việc giải các bài tập vật lý của học sinh 5
III.Hướng dẫn học sinh giải bài tập về mạch điện có biến trở 6
IV.Hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý ở nhà 16
V.Kết quả đạt được ……………………………………………………… 18
C. Kết luận
I. Bài học kinh nghiệm …………………………………………………… 19
II. Kết luận chung………………………………………………………… 20

Trang 22
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin chân thành
cảm ơn:
- Phòng Giáo dục huyện Đăkpơ đã phát động phong trào thi
đua viết sáng kiến kinh nghiệm, nhằm khuyến khích chúng tôi
những thầy cô giáo – nghiên cứu chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm
ngày càng làm giàu vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp để không
ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục.
Ban giám hiệu trường THCS Chu Văn An, bạn bè đồng nghiệp
đã nhiệt tình hướng dẫn góp ý cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi.
Trang 23
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang 24

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nghị Quyết hội nghị ban chấp hành TW Đảng ta lần thứ 2 khóa VIII
(Nghị quyết TW 2) đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục trong giai đoạn mới : “ Nhiệm
vụ cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha
gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong
sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc giữ gìn và phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và
phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe là những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên”.
Từ những vấn đề trên Quốc hội khóa X có Nghị quyết số 40, Chính phủ
có chỉ thị 14 và Bộ Giáo dục và Đào tạo có Quyết định số 43 nói về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy, hơn nữa
môn vật lý mà tôi đang giảng dạy là môn học đòi hỏi kỹ năng thực hành rất
cao, sức sáng tạo lớn. Song trong quá trình dạy học ở trường THCS Chu Văn
An tôi nhận thấy học sinh còn nhiều hạn chế trong việc vận dụng kiến thức đã
học để giải bài tập định lượng môn vật lý, giải bài tập còn rập khuôn, máy
móc, chưa chủ động sáng tạo, chưa tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập
dưới sự điều khiển của giáo viên, nhiều học sinh chưa có kỹ năng vận dụng
toán học để giải bài tập vật lý.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nói trên, tôi đã nghiên
cứu đề tài “Vài kinh nghiệm về giải bài tập định lượng môn vật lý ở trường
trung học cơ sở”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trang 25

×