Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN CÔNG tác bồi DƯỠNG học SINH GIỎI môn NGỮ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.61 KB, 17 trang )

Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN 9
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: TRƯỜNG THCS T NHIấN

A-Đặt vấn đề
I /Lý do chn ti
Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng bề bộn và
vô cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chơng là một mảng cuộc sống đà đợc nhà văn
chọn lọc phản ánh.Vì vậy môn văn trong nhà trờng có một vị trí rất quan trọng : Nó
là vũ khí thanh tao đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm hồn tình cảm của con ng ời,
nó bồi đắp cho con ngời trở nên trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. M.Goóc- Ki
nói : ''Văn học giúp con ngời hiểu đợc bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản
thân mình và làm nảy nở con ngời khát vọng hớng tới chân lý".Văn học "Chắp đôi
cánh" để các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền văn hoá, xây dựng
trong các em niềm tin vào cuộc sống , con ngời, trang bị cho các em vốn sống, hớng
các em tới đỉnh cao của chân, thiện mỹ.
Nhiệm vụ của ngời giáo viên dạy văn là phải làm cho học sinh hiểu đợc cái hay
cái đẹp cuả văn học, kích thích sự hứng thú học tập học văn cho học sinh .Một giờ
dạy văn là phải tạo ra đợc những rung động thẩm mỹ, sâu sắc khiến ngời ta say mê.
Song nhiệm vụ không kém phần quan trọng của giáo viên dạy văn ở trờng THCS là
rèn luyện kỹ năng văn học cho học sinh.Thực ra không phải từ khi đến trờng các em
mới có cảm xúc thẩm mỹ, mới có năng lực cảm thụ cái đẹp. Ngay từ thở còn nằm
trong nôi qua lời ru của bà, của mẹ, lớn lên nghe hát, nghe ngâm thơ ... Qua các
nghệ thuật ấy các em đà tiếp xúc với văn chơng. Vì thế đến trờng thông qua học tác
phẩm văn chơng những cảm xúc thẩm mỹ của các em phải đợc uốn nắn, sửa chữa và
bồi dỡng, nâng lên thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ đúng đắn. Điều đó muốn khẳng


định rằng bồi dỡng học sinh THCS không những là việc làm đúng đắn mà còn là
công việc có tầm quan trọng trong nhà trờng phổ thông. Nó góp phần phát hiện bồi
dỡng để tiến tới đào tạo một phẩm chất, một lực lợng lao động đặc biệt của xà hội,
lao động sáng tạo nghƯ tht. Nã kÝch thÝch cỉ vị m¹nh mÏ ý thức tự giác, lòng say
mê và ý chí vơn lên trong häc tËp, tu dìng cđa häc sinh nãi chung . Nó còn là một
việc làm thiết thực góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo
viên .

Trang

1


Trng THCS T Nhiờn

Nm hc 2010-2011

Vậy làm thế nào để công tác bồi dỡng học sinh giỏi đạtdợc kết quả cao ? Đây là
một công việc khó khăn đối với giáo viên dạy văn ở trờng THCS .Thực tế cho thấy,
những đồng chí giáo viên đợc phân công phụ trách båi dìng häc sinh giái thùc sù
hÕt søc lo l¾ng, trăn trở bởi họ đà bỏ ra nhiều công sức ,lăn lộn với học sinh mà hiệu
quả cha cao, chất lợng đội tuyển vẫn thấp. Là một giáo viên đà nhiều năm tham gia
công tác bồi dỡng học sinh giỏi tôi đà nắm bắt đợc tình hình này, tôi nhận thấy cần
quan tâm tới công tác bồi dỡng học sinh giỏi. Vì vậy, tôi đà chọn đề tài để nghiên
cứu, để có những suy nghĩ sâu sắc hơn về năng lực cảm thụ của học sinh .
Một lý do nữa khiến tôi chọn đề tài này là nhiu năm liên tục tôi đợc giao nhiệm
vụ bồi dỡng học sinh giỏi khối 9. Mặc dù kết quả cha cao, song đó cũng là một
thành công bớc đầu của tôi trong việc áp dụng những phơng pháp, biện pháp, hình
thức bồi dỡng học sinh giỏi.Tôi mạnh dạn đa ra để anh chị em đồng nghiệp tham
khảo, hi vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ này phần nào giúp anh chị em đồng

nghiệp tháo gỡ những vớng mắc về công tác bồi dỡng học sinh giái ë trêng THCS .

B/PHẦN NỘI DUNG
I/ Thực trạng
Hiện nay, phần lớn học sinh khơng thích học văn nên thường học qua loa, đối
phó, khơng nắm được các giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm,
khơng nhớ tác phẩm đó của ai, hồn cảnh sáng tác như thế nào? thậm chí nếu văn
tác phẩm là thơ thì cũng khơng thèm học thuộc (cho dù những bài thơ thật hay).
Những nét khái quát của tác phẩm khơng nắm được thì khơng có gì để viết, dẫn đến
bài viết nghèo ý; văn viết khô khan, trần trụi; nghĩ sao viết vậy chứ không biết gọt
dũa, không biết dùng các biện pháp tu từ thích hợp để cho bài viết sinh động.Thực
trạng này đã được nhiều người tâm huyết với nghề trao đổi trên diễn đàn của báo
Giáo dục & Thời đại, và lý do đưa ra cũng khá phong phú, đa dạng, song tập trung
chủ yếu vào các nguyên nhân sau:
II/ Nguyên nhân
-Người dạy văn chưa truyền được cái hay của tác phẩm văn chương sang cho
người học (kể cả cách cảm thụ cũng như kỹ năng viết những câu văn giàu hình
tượng)

Trang

2


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

-Chưa trang bị những kiến thức cơ bản về các thể loại văn học cho học sinh nên
phần lớn học sinh hiểu trong văn học cũng như ngồi đời, do đó dẫn đến tình trạng

khi làm văn “thấy sao viết vậy” ( nhất là trong văn miêu tả và văn tường thuật) mà
thiếu đi sự chọn lọc, làm cho bài văn trở nên trần trụi, sa vào “chủ nghĩa tự nhiên”.
-Chưa phân biệt được ngôn ngữ nói và ngơn ngữ viêt nên khi viết văn vẫn dùng
từ như ngơn ngữ nói.
Tất cả những lý do trên đây đã “góp phần khơng nhỏ” vào việc làm cho học sinh
thích học văn ngày càng ít đi, vì thế mà trong một khố học có hàng trăm em, nhưng
để chọn 3-5 em đi bồi dưỡng học sinh giỏi văn thì đúng là “nhân tài như lá mùa thu”
(đó là chưa kể có em giỏi văn nhưng lại muốn đi học bồi dưỡng kiến thức cho
những môn “thời thượng” hơn) cho nên để có học sinh giỏi văn thật khó lắm thay!
Từ thực tế trên, qua những việc đã làm của bản thân, tôi muốn được cùng các
đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi để ngày càng có nhiều học sinh “chịu” học văn hơn, do
đó , tơi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản thân tôi đã làm trong thời gian
qua như sau:
III/ Hướng giải quyết
Trình tự các bước từ khâu chọn học sinh đi bồi dưỡng đến việc hướng dẫn cách cảm
thụ và rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết văn như sau:
- Bước 1: Phát hiện những học sinh có khả năng cảm thụ văn học:
Qua một thời gian dạy, sau những bài kiểm tra và bài viết, em nào có cách diễn
đạt linh hoạt, không viết lại những nội dung mà giáo viên đã cho ghi khi học, khơng
theo khn mẫu nào...thì giáo viên nên khuyến khích, động viên (có thể cho điểm
cao, mặc dù bài viết chưa xứng đáng như thế) để các em mạnh dạn viết theo cách
hiểu, cách cảm của mình, có như thế mới phát huy được tính sáng tạo trong học
sinh. Mà muốn cho học sinh biết cảm thụ thì trước hết người dạy phải đem được cái
hay của văn chương đến cho người học, giúp cho học sinh kỹ năng cảm thụ cái hay
cái đẹp của tác phẩm qua những biện pháp tu từ mà tác giả đã dụng công sử dụng.
(lưu ý là những em đạt điểm cao trong các bài kiểm tra và các bài làm văn không
đồng nhất với những em ta sẽ chọn đi bồi dưỡng văn. Vì điểm cao là chỉ mới biểu
Trang

3



Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

hiện của việc nắm được kiến thức và đạt chuẩn theo đáp án chứ chưa hẳn là biết cảm
thụ)
Khi chọn nên lấy rộng hơn một chút để tránh bỏ sót. Sau khi đã bồi dưỡng một
thời gian,giáo viên đã phần nào biết được sức học của các em; biết được em nào
nhạy cảm, tinh tế trong cách hiểu, cách cảm thì có thể tổ chức thi đợt 1 để loại dần
(để dành thời gian tập trung cho việc bồi dưỡng những em còn lại)
Thường, những em học giỏi là những em luôn khát khao bay vào thế giới tri thức,
ham hiểu biết, muốn khám phá và đó cũng chính là những em biết thưởng thức cái
đẹp, có tâm hồn trong sáng, lãng mạn nên bài viết thường đậm chất nhân văn, vì thế
sau khi được tiếp xúc với những tác phẩm giàu tính nghệ thuật, thấm đẫm tinh thần
nhân đạo thì các em đã phần nào cảm thụ được cái hay của tác phẩm, chỉ cần giáo
viên hướng dẫn các em cách tiếp cận, cách khai thác là các em có thể chiếm lĩnh tác
phẩm(ở đây chỉ bàn về việc tiếp cận các tác phẩm là thơ).
-Bước 2: Giúp học sinh nhận biết một số “tín hiệu”để có cơ sở hiểu các tầng
nghĩa mà người viết muốn gửi gắm:
Để có quan điểm đúng khi tiếp cận tác phẩm, giáo viên cần cho học sinh thấy được
mối quan hệ giữa “cảnh” và “tình” trong dụng ý tả cảnh của tác giả.
Quan điểm đó đã được đại thi hào Nguyễn Du viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Ví dụ, khi miêu tả cái buồn, muốn làm cho người đọc thấy được cái buồn đang từng
ngày từng giờ gặm nhắm tâm hồn con người, làm cho người ta có cảm giác thời gian
trơi đi chậm chạp, dài lê thê... thì Nguyễn Du viết :
“Sầu đong càng lắc, càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Nhưng nếu tâm trạng vui thì thường chúng ta lại thấy nó trơi qua rất nhanh, cho nên
mới có cảm giác “Ngày xuân ngắn chẳng tày gang” là vì vậy.
Hoặc khi đọc “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến, ta không thấy câu từ
nào miêu tả nỗi buồn của tác giả nhưng đọc cả bài thơ lên ta lại cảm nhận được nỗi
Trang

4


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

buồn man mác đang bàng bạc khắp cỏ cây mây nước, như trùm lấy không gian tĩnh
lặng của làng quê nơi tác giả đang ngồi câu cá bởi cái vần “eo”(nước trong veo,bé
tẻo teo, khẽ đưa vèo) cùng với cách gieo vần độc đáo trong khuôn khổ của một bài
thất ngôn bát cú Đường luật. Và với cảnh đó, tình đó; phần nào giúp ta thấy được
thế sự của đất nước mình hồi bấy giờ.
Một ví dụ khác: trong “Ơng đồ” của Vũ Đình Liên, để khắc hoạ đậm nét thời
tàn tạ của Nho học (khi mà xu hướng Tây học đang dần dần lấn át xu hướng Hán
học), tác giả chỉ cần sử dụng một lát cắt của cuộc sống qua hình ảnh ơng đồ cùng
“mực tàu, giấy đỏ” vào những ngày tết đến xn về, nhưng ở những khổ thơ khác
nhau thì ơng đồ cũng hiện lên khác nhau. Người đọc sẽ nhận thấy thời hồng kim
của ơng đồ khi mà “bao nhiêu người thuê viết/ Tấm tắc ngợi khen tài/ hoa tay thảo
những nét / Như phượng múa rồng bay” và cũng dễ dàng nhận ra cái thời huy hồng
đó đang dần lùi xa, nhường chỗ cho sự tàn lụi (ông đồ vẫn ngồi đấy/ qua đường
không ai hay/ lá vàng rơi trên giấy/ ngồi trời mưa bụi bay) qua hình ảnh “lá vàng
rơi”, “mưa bụi bay” cùng với sự thời ơ, vơ cảm của dịng người đang hối hả đi sắm
tết (ông đồ vẫn ngồi đấy/ qua đường không ai hay/ lá vàng rơi trên giấy/ ngồi trời

mưa bụi bay.)
Tóm lại: giữa “cảnh” và “tình” có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau,cho nên
qua “cảnh” ta có thể hiểu “tình” và ngược lại qua “tình” ta cũng có thể hiểu “cảnh”
để từ đó có định hướng hiểu đúng tác phẩm.
- Bước 3: Yêu cầu học sinh nắm chắc tiểu sử tóm tắt của các tác giả và cung cấp
một số kiến thức lịch sử liên quan để có cơ sở hiểu đúng tác phẩm:
Nếu không nắm được tiểu sử tác giả và hồn cảnh sáng tác thì khi phân tích dễ có sự
lệch lạc, khơng hiểu đúng tác phẩm và nhất là khơng có kiến thức để viết phần mở
bài (nếu khơng nhớ năm sinh –năm mất thì cũng phải nhớ được thời đại tác giả
sống). Cịn nếú khơng nắm được các mốc lịch sử thì sẽ khơng có cơ sở để hiểu một
số tác phẩm. Ví dụ: nếu không biết năm 1954,nước ta tạm thời chia làm hai miền
bằng giới tuyến quân sự tạm thời ở sông Bến Hải thì sẽ khơng hiểu được những câu
thơ trong bài Ta đi tới của Tố Hữu :
Trang

5


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Lịng ta khơng giới tuyến
Lịng ta chung một Cụ Hồ
Lịng ta chung một thủ đơ
Lịng ta chung một cơ đồ Việt Nam.
Hoặc không nắm được nhân dân ta phải trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp
trường kỳ từ 1946-1954 thì cũng khơng hiểu tại sao lại có “Chín năm làm một Điện
Biên/Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” và cũng không hiểu đầy đủ “56 ngày đêm
khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt/ máu trộn bùn non gan khơng núng chí khơng

mịn” của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên phủ lịch sử.
*Đối với các tác giả: tương tự như vậy, nếu ta khơng hiểu về q trình hoạt động; về
thời đại tác giả sống; về phong cách, thể loại viết; về những đóng góp cho nền văn
học nước nhà thì cũng hạn chế đến việc hiểu đúng tác phẩm. Ví dụ: nếu như Tố Hữu
là người sớm bắt gặp lý tưởng Đảng,, sớm đi theo cách mạng thì Chế Lan Viên lại
phải mất một thời gian để “tìm đường, nhận đường” cho nên khi đến với cách
mạng, khi được trở về với vòng tay dang rộng của nhân dân đã phải thốt lên:
Con lại gặp nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa
Chiếc nơi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Hoặc cái ngông của nhà thơ Tản Đà lại được thể hiện qua:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hương thì có cửa nhà thì khơng
Suốt đời Nam-Bắc-Tây-Đơng
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly.
Tóm lại, muốn có kiến thức để viết bài và hiểu đúng tác phẩm thì việc hiểu tác giả
và nắm chắc các mốc lịch sử là điều không thể thiếu.
- Bước 4: Cho học sinh tiếp cận với những bài thơ, đoạn thơ hay:
Mục đích của việc này là tạo hứng thú và niềm đam mê học văn cho các em ( giáo
viên nên phân tích và chỉ cho học sinh thấy cái hay của những bài đó). Đặt ra cho
Trang

6


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011


học sinh câu hỏi: Bài thơ hay là do đâu?, những hình ảnh, những câu từ nào đã góp
phần làm nổi bật cái hay ? Nhờ biện pháp tu từ nào mà họ làm cho ta thấy được cái
hay của bài thơ, đoạn thơ đó...v.v. Muốn thế, khi tiếp cận đoạn thơ, ta hãy chú ý đến
: màu sắc, hình khối, đường nét, âm thanh mà tác giả đã sử dụng. Gọi tên được các
biện pháp tu từ và thấy được tác dụng của biện pháp tu từ đó, đồng thời chú ý đến
nhịp thơ: cách ngắt nghỉ, nhịp thơ dài hay ngắn; cách dung các từ láy (từ láy tượng
hình hay tượng thanh)...v.v.
Ví dụ: Ta sẽ có cảm giác một khơng gian bát ngát,trải ra mênh mông trước mắt
người đọc bởi những thanh bằng, cùng với vần “an” trong hai câu thơ của Tố Hữu:
“Em ơi! Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”
Nhưng lại có cảm giác éo le trắc trở của số phận một con người cũng như cảm giác
gập ghềnh, quanh co khúc khuỷu, nhiều ghềnh thác của con đường đời khi ta bắt gặp
những câu thơ: “tài cao phận thấp chí khí uất” hoặc “ Vó câu khấp khểnh ngựa xe
gập ghềnh”. Hoặc người đọc sẽ có cảm giác tự tin, thong dong khi “ta đi giữa ban
ngày/Trên đường cái ung dung ta bước” đồng thời cũng thấy được khí thế cuồn cuộn
như thác đổ triêu dâng của bộ đội ta qua nhịp thơ dồn dập: “Ta đi tới trên đường ta
bước tiếp/ Rắn như thép, vững như đồng/ đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp/ cao như
núi dài như sơng/ chí ta lớn như biển đơng trước mặt” như ở trong bài Ta đi tới của
Tố Hữu
Tương tự thế, hình tượng mang tính đặc tả, có sức gợi và gây ám ảnh lớn cho
người đọc như thơ của Nguyễn Ngọc Hưng nhờ từ “gầy”, từ “ốm” khi miêu tả hạt
lúa, củ khoai của một miền quê có thời tiết khắc nghiệt bởi “ Mùa đơng trời buốt
giá, mùa hạ nắng cháy da” của miền trung - q hương ơng- nơi cái địn gánh ,gánh
hai đầu đất nước: “ Q tơi hạt thóc đã gầy-Củ khoai cũng ốm, chưa đầy bát cơm”
Đọc lên, ta như thấy thấp thống bóng dáng vất vả của người nơng dân với “chân
đất, nón cời”; với “bóng cha lam lũ đi mở những đường cày”; với người mẹ “phơi
lưng cả ngày” dưới cái nắng như nung của miền trung khô cằn; với “bão tháng bảy”
với “mưa tháng ba” ...Và cũng vì thế mà giúp ta liên trưởng đến câu thơ của Nguyễn
Trang


7


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Bùi Vợi để từ đó mà biết nâng niu trân trọng những dé lúa, những củ khoai mà
người nông dân đã phải một nắng hai sương mới làm ra:
“Thầy đã giảng cho con về đất nước, nhân dân
Để khi mặc lành không quên người áo vá
Bưng bát cơm nhớ người trồng khoai, dỡ củ.
Câu ca dao đau đáu một đời”.
Và “câu ca dao đau đáu một đời” đó phải chăng là lời nhắc nhở: “ai ơi bưng bát cơm
đầy/ Dẻo thơm một hạt đứng cay muôn phần! mà ông cha ta từng đúc kết?
Ta biết “Trong thơ có hoạ” nên cách miêu tả màu sắc, âm thanh, đường nét,
hình khối ...cũng góp phần làm nên hình tượng thơ thật đặc sắc. Thử đọc khổ đầu
của bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải:
Mọc giữa dòng sơng xanh
Một bơng hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Ta như thấy trước mắt ta là một bức tranh của mùa xuân xứ Huế với hoa nở,
chim hót, sông xanh, trời rộng cùng với những “giọt âm thanh long lanh” của con
chim chiền chiện đang chao liệng trên bầu trời thanh bình, n ả. Vẻ đẹp nao lịng
đó chính là lời mời gọi tha thiết của những người con xứ Huế dành cho những ai
chưa một đặt chân đến mảnh đất thơ mộng này.

Còn đây là tác dụng của cách miêu tả màu sắc (màu xanh). Ta sẽ thấy các
gam xanh khác nhau của núi, của sông, của đồng, của biển...đủ để tác giả thốt lên
“Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ!” qua những câu thơ sau đây của Tố Hữu:
“Tơi lại nhìn như ánh măt trẻ thơ,
Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ!
Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển,
Xanh trời, xanh cả những ước mơ...”
Trang

8


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Đọc lên ta thấy bát ngát một màu xanh huyền thoại, làm toát lên vẻ đẹp diệu kỳ của
quê hương xứ sở với các gam xanh khác nhau đó là:
Màu xanh đằm thắm của quê hương
Màu xanh trong lành của sông núi
Màu xanh thăm thẳm của hồn người
Màu xanh khí phách của lịch sử
Màu xanh ấm áp của ruộng đồng
Màu xanh yên lành của không gian
Màu xanh bát ngát của biển cả
Màu xanh vời vợi của bầu trời
Màu xanh hy vọng của ước mơ
Màu xanh bình n,
Màu xanh giải phóng
Ngồi ra, giáo viên cần gợi cho học sinh biết liên tưởng: nếu có óc liên tưởng sẽ

dễ dàng giúp ta biết “huy động” những kiến thức mà ta đã có để vận dụng vào việc
phân tích & chứng minh cho vấn đề mình vừa phân tích
Ví dụ sau khi đã học “ Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng thì chỉ cần đọc “
Những đứa trẻ” của Mác Xim Goor Ki là chúng ta nghĩ ngay đến điểm chung của
hai nhân vật- hai con người có số phận giống nhau khi tuổi thơ, rồi lại tương đồng
nhau khi trưởng thành ( Là những nhà văn lớn, có nhiều đóng góp cho nền văn học
nước nhà)
Hoặc khi học đến bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu thì ta sẽ nghĩ ngay đến
chùm thơ trong tù ( của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Sóng
Hồng). Đặc biệt với hình ảnh “Ta nghe hè dậy bên lòng/ Mà chân muốn đạp tan
phòng hè ôi/ Ngột làm sao chết uất thôi/ Con chim tu hú ngồi trời cứ kêu”, thì ta lại
nghĩ đến hình ảnh “Đốt cho tiêu kiếp tù đày/ Cho bừng lửa hận, biết tay anh hùng/
Có về khơng, có về khơng?/ Bước mau, mau bước non sơng đợi chờ” của Sóng
Hồng. Cũng nhờ sự liên tưởng, giúp ta thấy được điểm chung của những người tù
cách mạng ở đây là muốn được ra tù để trở lại hoạt động cách mạng (khác với việc
Trang

9


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

mong muốn được ra tù của những người bình thường khác (vì “Nhất nhật ngục
trung-thiên thu tại ngoại”), mặc dù họ đã biết “ Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu/
Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Là gươm kề tận cổ, súng kề tai/ Là thân sống chỉ
coi còn một nửa” nhưng họ vẫn sẵn sàng đi theo cách mạng và nếu phải hy sinh thì
họ vẫn:“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng/ Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung
sướng/ Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành/ Và trong mơ thơm ngát lúa đồng

xanh/ Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng” (Tố Hữu – Trăng trối)
Trong sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta, biết bao thế hệ đã nối tiếp nhau
để ra trận, để diễn tả ý này thì mỗi nhà thơ cũng có một cách nói thể hiện sự độc đáo
của riêng mình, nếu như Hồng Trung Thông là :
“Tôi lại viết bài thơ trên báng súng.
Con đứng lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hơm nay viết tiếp người hơm qua”...
Thì Trinh Đường lại: “Cha còn đeo quân hàm
Con đã ra nhập ngũ
Một hòn đá Trường Sơn
Cha- con cùng gối ngủ”
Hoặc: “Xưa tiễn chồng cứu nước rười rượi tóc xanh
Giờ lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc”
Hay: “Mười năm trước mẹ tiễn anh con
Có giống hơm nay vằng vặc nửa trăng tròn?”
Tương tự như thế, trong ngữ văn 9, ở “Viếng lăng Bác”- khổ cuối, tác giả thể hiện
ước nguyện sống có ích và sự cống hiến. hình ảnh này lại giúp ta liên tưởng đến
khát vọng của Thanh Hải trong “ Mùa xuân nho nhỏ” (một mùa xuân nho nhỏ/lặng
lẽ dâng cho đời/ dù là tuổi hai mươi/ dù là khi tóc bạc). Cịn Nguyễn Cảnh Nhạc lại
ước:
“Ước làm một hạt phù sa
Trang

10


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011


Ước làm một tiếng chim ca xanh trời
Ước làm tia nắng vàng tươi
Ước làm một hạt mưa rơi ấm chồi”.
Tóm lại: Sự độc đáo của liên tưởng sẽ giúp nhiều cho ta trong việc khơi gợi trí
nhớ; vì thế, nếu có óc liên tưởng thì bài viết ý sẽ phong phú, minh chứng sẽ xác
đáng, diễn đạt sẽ linh hoạt, cho nên giúp ích rất nhiều cho việc viết văn.
- Bước 6: Rèn kỹ năng viết những câu văn giàu hình tượng
Ta biết rằng, những câu văn hay khơng nhiều và cũng khơng dễ có, mà nó
được chưng cất, được thanh lọc và được viết ra từ gan ruột của họ mà có khi ta phải
dạy, phải rèn cả mấy tháng trời, cả một quá trình, may ra mới có được.
Để giúp học sinh biết viết câu văn giàu hình tượng, trước hết tơi thường cho
học sinh nhận xét được sự khác nhau giữa hai câu văn có cùng một ý nhưng cách
diễn đạt khác nhau. Ví dụ:
1a:-Vụ tai nạn gây chết người trên đường Láng- Hoà Lạc do lái xe Đỗ Hồng Quân
gây ra đã bị những nhà chức trách làm sai lệch sự thật
1b/ Vụ tai nạn gây chết người trên đường Láng- Hoà Lạc do lái xe Đỗ Hồng Quân
gây ra đã bị người điều tra bẻ cong ngòi bút.
2a) Mỹ gây chiến tranh ở I Rắc bị thế giới lên án nhưng chúng vẫn cứ làm ngơ
không chịu rút quân
2b) Mỹ gây chiến tranh ở I Rắc bị thế giới lên án nhưng chúng vẫn khơng đếm xỉa
đến búa rìu dư luận.
3a) Chiến dịch Tây nguyên là chiến dịch mở màn cho đại thắng mùa xuân 1975.
3b) Tây Nguyên là chương đầu của bản anh hùng ca trong khúc khải hoàn mùa
xuân 1975.
4a) Mặc dù phải trải qua nhiều khó khăn thử thách nhưng cuối cùng Đảng cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
4b) Mặc dù cách mạng Việt Nam phải trải qua nhiều chông gai, song Đảng đã khéo
léo chèo lái con thuyền Việt Nam vượt qua những thác ghềnh của bão tố để cập bến
vinh quang...v.v.

Trang

11


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Sau khi cho học sinh đọc kỹ và so sánh 2 cách diễn đạt thì học sinh sẽ nhận ra
những câu (b) có cách diễn đạt giàu hình ảnh,gợi cảm và gây ấn tượng hơn.
Vậy nhờ đâu, do cách viết như thế nào mà cách viết thứ 2 lại sinh động hơn?
Giáo viên giúp học sinh thấy: do sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các biện pháp tu
từ; do sử dụng hợp lý các hình ảnh...v.v.
Đặc biệt phép tu từ được sử dụng rộng rãi hơn khi làm thơ, nên ta thấy đọc thơ bao
giờ cũng hay hơn, giàu hình tượng hơn. Ta thử đọc và cùng tìm hiểu cái hay của các
phép tu từ được sử dụng trong thơ để tìm ra cái hay của thơ (đây là lúc để cho học
sinh bước đầu thực hành):
Ví du: “Vì con, cơm áo mẹ nhường
Vì con, cha phải thất thường nắng mưa
Vắt mình đến kiệt sớm trưa
Dạ còn thắc thỏm lo chưa đủ đầy?
Xác ve mẹ tóp teo gầy,
Để trịn trịa nét thơ ngây con cười
Kể gì lặn ngọc biển khơi
Vì con, cha sẽ lên trời hái sao.
( Cho con- Nguyễn Ngọc Hưng)
Giáo viên cho học sinh nhận biết các “tín hiệu” cần thiết (có thể có các ý kiến khác
nhau) sau đó cùng các em thống nhất và chốt lại một số dấu hiệu như sau:
Cách dùng từ thật đắt: vắt, kiệt, thắc thỏm, xác ve, hái sao.

Cách sử dụng các biện pháp tu từ:
Biện pháp đảo ngữ: cơm áo mẹ nhường, tóp teo.
Dùng các điệp từ: vì con
Cách nói thậm xưng: lặn ngọc biển khơi, lên trời hái sao
Cách dùng từ láy giàu tính tượng hình (mà lại đối lập): tóp teo-trịn trịa…v…v
sau đó cho học sinh tập phân tích để làm rõ cái hay của đoạn thơ
Tương tự như thế, giáo viên chọn những đoạn thơ hay để học sinh tập tìm
hiểu (trước hết là những đoạn quen thuộc ở trong các bài như: Mùa xuân nho nhỏ,
Trang

12


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Viếng Lăng bác, Đồng chí...) khi HS đã quen thì mình lại yêu cầu cao hơn (đưa ra
những đoạn thơ hay mà lạ - kể cả ca dao - để vừa làm giàu vốn văn thơ, vừa rèn kỹ
năng phân tích).
Bước 5-Tiến hành viết bài:
Hàng buổi, sau khi đưa những đoạn thơ hay, giáo viên giúp học sinh định
hướng cách phân tích qua những dấu hiệu nghệ thuật để học sinh biết cảm thụ.Từ
những gì đã thu lượm được, học sinh vận dụng để viết tại lớp.Những bài viết này là
những bài văn ngắn (chỉ yêu cầu viết trong khoảng thời gian 45 phút) rồi giáo viên
đọc và trực tiếp sửa ngay cho từng em.Khi sửa phải tuỳ từng bài, tuỳ từng lỗi nhưng
phải trân trọng những ý tưởng mà các em đã đưa ra,rồi từ đó mình biết cách khơi
gợi, mở rộng, (tránh trường hợp chỉ cho học sinh viết bài mà giáo viên khơng hướng
dẫn hoặc hướng dẫn thật ít-vì như thế thì quá lãng phí thời gian). Thường, viết bài ở
lớp chất lượng khơng cao, vì thời gian có hạn nhưng vẫn phải rèn (đặc biệt là cần

cho học sinh làm quen với lượng thời gian tương ứng với dung lượng đề bài để khi
đi thi các em có thói quen chủ động)
Nói chung, cơng việc bồi dưỡng học sinh giỏi khơng thể có một giáo án nhất
nhất được vì những tình huống xảy ra trong từng buổi học sẽ khác nhau. Nghĩa là
người dạy phải linh hoạt, tuỳ từng em, tuỳ từng buổi học phát sinh ra tình huống nào
để mà chọn dạy cái gì, dạy như thế nào.
IV/ Kết quả đạt được:
Có thể nói dạy học cũng là một nghệ thuật, vì thế mỗi người sẽ có một “con đường
đi” khác nhau nhưng cái đích để đến thì đều giống nhau, đó là “thước đo” từ kết quả
của các kỳ thi học sinh giỏi các cấp do Huyện, Thành phố tổ chức. Tuy nhiên kết
quả đó chưa phải là tất cả nhưng cũng là một minh chứng để có cơ sở đánh giá công
sức của người dạy và người học (và tất nhiên ta cũng khơng loại trừ có những
trường hợp là nhờ may mắn). Riêng bản thân tôi, từ thực tế trong công tác giảng dạy
cũng như công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà tơi đã trình bày ở trên; hằng năm, nếu
có học sinh “chịu” đồng hành với mình thì đều gặt hái được những thành quả đáng
khích lệ (hàng năm chọn từ 3-4 em tham gia dự thi, mà có năm là 100% đều đạt cấp
Trang

13


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

huyện ). Tính từ năm học 2000- 2012 (là những năm trực tiếp giảng dạy và bồi
dưỡng ) thì số học sinh giỏi huyện là khoảng hơn 30 em. Qua mỗi kỳ thi, khi mà các
em đạt giải thì trong mỗi giáo viên niềm vui cũng nhân lên gấp bội, nhờ thế mà
mình càng tận tụy với nghề hơn. Ngồi ra, những em chưa có may mắn để đạt giải
thì cũng sẽ có những trưởng thành nhất định, kết quả của môn học khá hẳn lên, đặc

biệt là góp phần làm giàu về các mặt từ kiến thức đến kỹ năng để giúp các em thêm
hành trang vào đời cũng như làm bệ phóng để học lên các lớp trên.

C/ PHẦN KẾT LUẬN:
Có thể nói cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và giỏi mơn văn nói
riêng là việc làm rất khó. Có khi, có giáo viên giỏi nhưng khơng có “hồ” mà “gột”,
ngược lại khi có “bột” nhưng khơng phải ai cũng dễ dàng “gột nên hồ”. Cho nên để
có hai yếu tố đó đã khó, và làm cho hai yếu tố đó giao thoa với nhau lại càng khó
hơn (cứ giả sử, người dạy đã có tâm huyết, đủ tri thức để giảng dạy nhưng người
học khơng cùng đồng hành thì sẽ khơng có kết quả như mong muốn. Có thể coi đó
là hai yếu tố cần và đủ để làm nên thành công, nhưng thiết nghĩ yếu tố : năng lực
chuyên môn và trách nhiệm của người thầy vẫn là địi hỏi trước tiên và cấp bách
hơn, vì khi người thầy giỏi, biết cảm thụ văn chương, biết truyền cái hay của tác
phẩm đến cho người học thì sẽ giúp cho tâm hồn các em được thanh lọc, được bừng
tỉnh, dần dần các em sẽ tìm thấy hứng thú trong các giờ văn, từ đó mà u thích
mơn văn...Muốn vậy, người thầy phải nêu cao vai trò “tự học, sáng tạo” để tích luỹ
kiến thức cần thiết để vừa có kiến thức giảng dạy vừa đáp ứng với nhu cầu của xã
hội.

Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tơi trong q trình bồi
dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn tôi đã nhận thức được, đã, đang vận dụng và sẽ
cịn tiếp tục khơng ngừng tìm tịi,tư duy,tích cực sáng tạo trong q trình bồi dưỡng.
Tuy đó chỉ là những suy nghĩ mang tính chủ quan song ít nhiều với tơi thực sự đã có
những kết quả nhất định,tất nhiên là vì suy nghĩ chủ quan mang tính cá nhân nên

Trang

14



Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

khó tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy,tơi vẫn ln bổ sung cải tiến để kết quả bồi
dưỡng học sinh giỏi văn của bản thân tơi ngày một tốt hơn. Đó là phương châm
quan trọng của mọi giáo viên chúng ta trong sự nghiệp đổi mi giỏo dc, i mi
t nc hin nay.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Đề tài tôi thực hiện trên đợc đúc kết trong quá trình giảng dạy với kinh nghiệm
của bản thân. Tôi xin cam kết với quý ban đề tài do tôi viết hoàn toàn không có sự
sao chép.
T Nhiên ngày 2 tháng 4 năm 2011
Người thực hiện

Nguyễn Thị Kim Phượng

Môc lôc
Néi dung
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG
I . Thực trạng
II. Nguyên nhân
III. Hướng giải quyết
IV. Kết quả đạt được
C. PHẦN KẾT LUẬN:
Trang

Trang

1
1
3
3
3
4
15
16
15


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

Ý KIẾN NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ
1. Héi ®ång khoa học cấp trờng THCS Tự Nhiên:





2. Hội đồng khoa học Phòng Giáo dục và Đào tạo Thờng Tín:






Trang


16


Trường THCS Tự Nhiên

Năm học 2010-2011

…………………………………………………………………………………………
3. Héi ®ång khoa häc Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội:














Trang

17




×