Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hiện tượng người dân hà nội đến chùa nghe giảng kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.07 KB, 28 trang )

1. Gi ớ i thi ệ u chung v ề đề t ià
Tôn giáo l mà ột hiện tượng xã hội - văn hóa hết sức phổ biến trên
to n thà ế giới. Đã có lúc người ta nghĩ rằng tôn giáo sẽ dần dần tiêu vong
cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kinh tế xã
hội. Nhưng trên thực tế lại không như vậy. Đã có một thời gian tương
đối d i các hoà ạt động tôn giáo ở Việt Nam đã lắng xuống, nhưng hiện
nay cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường tôn giáo đang âm thầm
trỗi dậy với một sức sống ng y c ng mà à ạnh mẽ. Tìm hiểu được mức độ
phát triển của tôn giáo hiện nay như thế n o l mà à ột vấn đề không dễ
d ng. Trong khuôn khà ổ tiểu luận n y, tôi chà ỉ tiến h nh nghiên cà ứu một
vấn đề tôn giáo nhỏ l hià ện tượng người dân H Nà ội đến chùa nghe
giảng kinh, nhằm qua đó thấy được phần n o sà ự phát triển của Phật
giáo ở H Nà ội.
Đề tài triển khai trên 2 mục tiêu cơ bản sau:
♦ Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân của hiện tượng người dân đến
chùa nghe giảng kinh.
♦ Đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực của hiện tượng trên.
Không gian khảo sát là chùa Quán Sứ. Đây là một trong những chùa
lớn ở Hà Nội và là một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất không chỉ
ở Hà Nội mà còn trên phạm vi toàn quốc. Trụ sở của Giáo hội Phật giáo
Trung ương được đặt tại đây. Chùa còn là nơi thu hút đông đảo khách thập
phương về lễ. Đây cũng là nơi duy nhất có tổ chức giảng kinh đều đặn vào
các buổi sáng chủ nhật.
Đề tài nghiên cứu sử dụng những phương pháp chủ yếu sau đây:
- Phương pháp quan sát: Qua quan sát tham dự trong 5 buổi giảng
kinh, chúng tôi có được ước lượng số người đi nghe giảng kinh mỗi buổi,
thái độ người đi nghe giảng kinh, nội dung buổi giảng kinh.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, với lượng mẫu là 100
Bảng 1: Tóm tắt đặc điểm cơ bản của mẫu nghiên cứu
TT Tiêu chí Số lượng %
1


.
Giới:
1. Nam
2. Nữ
33
67
33%
67%
2
.
Tuổi
1. Từ 20-39 tuổi 11 11%
1
2. Từ 40-59 tuổi
3. Từ 60 tuổi trở lên
31
58
31%
58%
3
.
Học vấn
1. Chưa tốt nghiệp PTTH
2. Hết PTTH
3. Đại học và trên đại học
36
35
29
36%
35%

29%
Nội dung phiếu điều tra:
Bảng hỏi gồm 10 câu hỏi, chia làm 7 nhóm:
1. Thành phần những người đi nghe giảng kinh theo giới tính,
tuổi, trình độ học vấn.(Câu 1)
2. Tần suất đi nghe giảng kinh.(Câu 4)
3. Hình thức đi nghe giảng kinh (Câu 9).
4. Nguyên nhân đi nghe giảng kinh.(Câu 2,3)
5. Mục đích đi nghe giảng kinh(Câu 7)
6. Sự ảnh hưởng của việc nghe giảng kinh đối với hành động và
suy nghĩ của họ. (Câu 5, 6,10)
7. Sự đánh giá của họ về sự gia tăng số người đi nghe giảng kinh
trong 3 năm trở lại đây.(Câu 8)
- Phương pháp phỏng vấn sâu: chúng tôi đã tiến hành một số phỏng
vấn sâu với 2 nhóm đối tượng:
1. Người đi nghe giảng kinh.
2. Người giảng kinh- Hòa thượng Thích Thanh Tứ.
2
2. c ơ s ở l ý lu ậ n v à th ự c ti ễ n c ủ a đề t à i
2.1. Phật giáo và hoạt động Giảng Kinh của tôn giáo này.
Phật giáo là một trong ba tôn giáo thế giới. Có người nói Phật giáo là
một tôn giáo vô thần. Xét về một khía cạnh nào đó, điều này không sai.
Khởi nguyên của Phật giáo vốn chỉ là một trường phái triết học. Sau khi
Phật Thích Ca nhập diệt, các đệ tử của Ngài tập kết 4 kỳ Đại hội, soạn lại
các lời Giảng thành các quyển Kinh, tổ chức lại cơ cấu thiết chế, lúc đó,
Phật giáo mơí thực sự trở thành một tôn giáo. Tuy nhiên, dù là một trường
phái triết học hay là một tôn giáo, hoạt động giảng Kinh cũng là một hoạt
động không thể thiếu của đạo Phật.
Các buổi giảng Kinh có ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh quan, thế
giới quan và nhân cách của các Phật tử. Kinh Phật có ba loại chính, gọi là

Tam Tạng: Tạng Kinh ,Tạng Luật và Tạng Luận. Kinh là lời thuyết pháp
của Phật và các Bồ Tát, Luật là giới luật, Luận là lời bàn về Kinh và Luật.
ở nước ta, do các tư tưởng Phật giáo rất thích hợp với văn hoá-tâmlý
của người dân nói chung, nên sau khi du nhập vào Việt Nam (thế kỷ I sau
CN) Phật Giáo nhanh chóng trở thành một trong những hệ tư tưởng chính.
Tuỳ theo sự phát triển trong từng giai đoạn của Phật Giáo, hoạt động giảng
Kinh cũng có mức độ phổ biến khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động Giảng Kinh có xu hướng phát
triển mạnh ở các đô thị, đặc biệt ở Huế, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Nội
dung giảng kinh càng ngày càng gắn với đời hơn, được diễn đạt giản dị và
dễ hiểu hơn. Nội dung các buổi Giảng Kinh chủ yếu xoay 3 loại Kinh
chính:Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Niết Bàn.
Hoạt động Giảng Kinh dưới góc độ là một hiện tượng tín ngưỡng xã hội.
Hoạt động đến chùa nghe Giảng Kinh là một hiện tượng tín ngưỡng
xã hội. Trước hết, đây là một hiện tượng nảy sinh do sự vận động nội tại
của xã hội chứ không phải từ ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một
nhóm, một tổ chức nào. Trong thời kỳ bao cấp, do sự thống trị đơn nhất của
hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong đó có chủ nghĩa vô thần khoa học nên
tôn giáo đã lắng xuống. Do đó, hoạt động giảng kinh cũng chưa thu hút
được đông đảo người tham gia. Nhưng sau khi phá bỏ chế độ quan liêu bao
cấp, thực hiện chính sách mở cửa, tự do tín ngưỡng, tôn giáo có điều kiện
phát triển công khai. Đồng thời, cũng do sự phát triển phức tạp của xã hội,
con người nảy sinh nhu cầu tâm linh, nhu cầu có chỗ dựa về mặt tinh
thần.Do đó, tôn giáo(ở nước ta, chủ yếu là đạo Phật), có điều kiện truyền bá
giáo lý rộng khắp hơn. Nói tóm lại, sự phát triển của hoạt động đến Chùa
3
nghe giảng Kinh là xuất phát từ các thay đổi của xã hội, nó nằm ngoài ý
muốn chủ quan của con người và chỉ tồn tại trong những hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai, hoạt động đến chùa nghe Giảng Kinh không phải là hoạt
động của .riêng một nhóm nào. Trong thời gian gần đây, nó đã trở thành

một hiện tượng phổ biến trong các nhóm xã hội, dù xét dưới góc độ
nào:nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy rằng, trong tương lai, hoạt động này sẽ còn phát triển hơn nữa.
Hiện tượng đến chùa nghe Giảng Kinh còn có tính lịch sử. Như đã
nói ở trên, hiện tượng này chỉ nảy sinh trong trong những hoàn cảnh lịch sử
nhất định. Hiện tượng này đặc biệt phổ biến dưới triều đại Lý-Trần, khi
Phật giáo là quốc giáo của nước ta. Trong những năm chiến tranh, hoạt
động này lắng xuống một cách rõ rệt. Đặc biệt, trong thời kỳ bao cấp, nó
chỉ là hoạt động âm thầm của một nhóm nhỏ trong xã hội. Nhưng trong
thời gian gần đây, cụ thể là dưới chế độ kinh tế thị trường, nó đã phát triển
và trở thành một hiện tượng xã hội đáng quan tâm.
Hơn nữa, bản thân hiện tượng này còn có tính lịch sử do sự tồn tại đã
hàng chục thế kỷ của nó. Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ
thứ I, hiện tượng này đã thực sự gắn bó với những thăng trầm của lịch sử
nước ta.
ở đây, trong phạm vi một bài nghiên cứu xã hội học, chúng tôi chỉ
xét hiện tượng này trong bối cảnh cụ thể là giai đoạn hiện nay.
2.2.Một số khái niệm cơ bản
Kinh và Giảng kinh
“Kinh, còn gọi là Khế kinh, Kinh bản,là một trong 3 bộ phận của
Tam tạng(Kinh, Luật, Luận).Kinh là giáo pháp,là lời dạy của Phật” (Phật
học Đại Từ Điển-Đinh Phúc Bảo biên soạn-NXB Văn Vật,in lại năm
1984,Tr.1213 )
Theo từ điển Phật học (NXB TP Hồ Chí Minh 1997-T128-129)
thì Kinh l “ nhà ững b i già ảng về đạo lý do Đức Phật thuyết ra v chà ư
đệ tử góp nhặt lại đóng th nh bà ổn như: A Di Đ Kinh, Kim cang Kinh,à
Diệu pháp liên hoa Kinh v.v
Kinh nếu đọc theo chữ Phạn thì l Tu-à đa-la(sutras). Tiếng
Trung quốc l Khà ế kịnh tức l hià ệp kinh, vì kinh do Phật thuyết hiệp
với các căn cơ, dung hòa với các cỡ trí của các hạng chúng sanh. Kinh

phật phải đủ 5 nghĩa:
4
- Xuất sanh: Tất cả nghĩa lý đều do nơi kinh m xuà ất hiện ra.
- Tuyền dũng: Nghĩa lý thâm thuý v là ưu thông như nước suối chảy.
- Hiển thị: Nghĩa lý m u nhià ệm do nơi kinh chỉ bảo cho thấy rõ.
- Thằng mặc: Nghĩa lý trong kinh l m chà ừng mực cho chúng sanh tu
học, cũng tỷ như thợ mộc nhờ giây mực m àđẽo gỗ cho ngay.
- Kết man: Nghĩa lý tóm thâu, đơm kết như dây hoa ”
Còn theo cuốn "V o cà ổng chùa" của Thích Thanh Từ, thì kinh
được hiểu môn na l nhà ững lời của Đức Phật dạy.
Để truyền bá chánh pháp, người giảng kinh thường giảng dạy
những luận về Kinh cho Phật tử nghe.
Theo cuốn " Tôn giáo thế giới v Vià ệt Nam" của Mai Thanh
Hải (NXB Công an nhân dân-1998), thì Kinh sách đạo Phật l mà ột khối
đồ sộ về chữ nghĩa, về kiến thức, về quan niệm. Người ta thường gọi
kinh sách nh Phà ật l " Tam tà ạng kinh điển"(tripitaka) bao gồm: Kinh
tạng(sutra pitaka), Luật tạng( Vinaya pitaka)v Luà ận tạng(Abhidhamma
pitaka). To n bà ộ kinh điển nguyên gốc viết bằng chữ Phạn(sanscrit) và
chữ Pali l hai ngôn ngà ữ chính của ấn độ trước công nguyên.
Kinh tạng ghi lời Phật dạy về giáo lý. Kinh tạng có năm bộ
kinh lớn: Trường bộ kinh gồm tất cả các b i thuyà ết pháp d i cà ủa Phật;
Trung bộ kinh gồm các b i thuyà ết pháp d i trung bình; Tà ương ứng bộ
kinh gồm các b i xà ếp theo đề t i; à Tăng bộ kinh gồm các b i xà ếp theo
từng phép v à Tiểu bộ kinh gồm 15 b i kinh xà ưa nhất. Cả hai phái Đại
thừa v Tià ểu thừa đều công nhận năm bộ kinh n y l chính thà à ống; riêng
Đại thừa còn có nhiều kinh khác như: Hoa nghiêm, Diệu pháp Liên hoa,
Bát nhã, Lăng Nghiêm, Kim Cương, Di đ , à
Luật tạng ghi các giới luật do Phật định ra để l m khuônà
phép cho đời sống v cho vià ệc tu học của các đệ tử, nhất l à để giữ gìn
kỷ cương trong những người xuất gia đi tu.

Luận Tạng được các đệ tử xây dựng sau khi Phật qua đời;
mục đích Luận tạng l nhà ằm giới thiệu giáo lý nh Phà ật một cách có hệ
thống, động thời phê bình, uốn nắn những nhận thức sai trái v nhà ững
quan điễm xuyên tạc Đạo Phật.
Giảng kinh là phương thức chủ yếu để truyền bá giáo lý đạo Phật.
Người giảng Kinh thường được gọi là giảng sư. Một buổi giảng Kinh
thường do một giảng sư đứng lên thuyết pháp, các Phật tử ngồi dưới lắng
5
nghe. Không phải bất cứ vị tăng ni nào cũng có thể là giảng sư mà chỉ có
những vị tăng, ni đã tốt nghiệp Đại học Phật Giáo mới được giảng Kinh.
Đôi khi, chùa còn mời một số nhà nghiên cứu Phật học, am hiểu Kinh Phật
đến để giảng Kinh.
Nội dung buổi giảng Kinh thường xoay quanh Kinh Pháp Hoa, Lăng
Nghiêm, và Niết Bàn. Hoạt động Giảng Kinh thường diễn ra trong các
chùa.
Phật tử và người tin vào đạo Phật
Thông thường, không mấy có sự khác nhau giữa hai khái niệm Phật
tử và người tin theo đạo Phật. ở các nước khác, những người tin vào một
tôn giáo nào đó thường là tín đồ của chính tôn giáo đó. Nhưng riêng ở nước
ta, hai khái niệm này cần phải được phân biệt trên mặt nhận thức. Bởi vì,
đạo Phật ở nước ta không chỉ là một tôn giáo mà còn là một hệ tư tưởng mà
đã có thời là tư tưởng chính thống. Do đó, ảnh hưởng của đạo Phật ở nước
ta rất sâu rộng, không chỉ có các tín đồ đạo Phật tin theo mà cả những
người ngoại đạo cũng chịu ảnh hưởng ít nhiêù (theo nguồn tin của Giáo hội
Phật giáo, số người tin theo Đạo Phật chiếm 75% dân số, trong khi số Phật
tử chính thức chỉ chiếm khoảng 12,8%).
Phật tử, theo định nghĩa của chính tôn giáo này, là “con của Phật về
pháp giáo, đệ tử của Phật, tín đồ Phật Giáo nhờ Phật giáo hoá, hoặc nhờ
nghe Kinh do Phật thuyết mà chứng được Pháp tánh, noi theo Phương
pháp Phật truyền mà tu để đắc các quả đạo. (Từ điển Phật học-Tập 2,t.225)

Hiểu theo cách thông thường, Phật tử là những người đã được Giáo
hội Phật giáo công nhận.
Còn khái niệm những người tin theo đạo Phật thì rất rộng. Chỉ cần có
niềm tin vào đạo Phật hoặc sự tồn tại của Phật đã là người thuộc nhóm này.
Phật tử thì chắc chắn có niềm tin vào đạo Phật, nhưng những người có
niềm tin vào đạo Phật thì chưa chắc đã là Phật tử.
6
3. K ế t qu ả nghiên c ứ u
3.1. V i nét và ề chùa Quán Sứ
Chùa Quán Sứ ở tại 73 phố Quán Sứ-Quận Ho n Kià ếm-H Nà ội,
xưa l à đất của thôn An Tập, huyện Thọ Xương, trên lối ra v o ho ng à à
th nh Thà ăng Long,mạn cửa nam. Nguyên đây l ngôi chùa nhà ỏ nằm bên
"Quán Sứ"-nơi đón tiếp các sứ thần nước ngo i, à được triều đình Lê sơ
tạo dựng từ thế kỷ XV.
Năm 1934, Chùa l Hà ội quán của Phật giáo Bắc Kỳ. Từ năm 1942,
chùa nhiều lần được mở mang với quy mô kiến trúc rộng lớn, khang
trang v trà ở th nh trà ụ sở Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam.
H ng ng y , chùa à à đón tiếp h ng trà ăm lượt khách v o thà ăm quan,
lễ Phật Đặc biệt v o các ng y rà à ằm, mồng một, các ng y là ễ khác của
Phật giáo, h ng nghìn ngà ười tới Chùa Quán Sứ mỗi ng y.à
Hiện nay, Chùa Quán Sứ có tất cả 13 tăng ni: 3 ni v 10 tà ăng,
trong đó có 2 Hòa thượng. Ngo i ra nà ếu tính cả thị giảng l 20 ngà ười.
3.2. Thực trạng hoạt động giảng kinh
3.2.1. Về cơ cấu tổ chức của hoạt động giảng kinh.
Người khai sinh ra Phật giáo, Thích ca mâu ni, tuy không để lại
bất kỳ một cuốn sách n o nhà ưng những lời của ông đã được các đệ tử
ghi chép lại trong các cuốn Kinh v à được truyền bá rộng rãi nhờ hoạt
động giảng kinh. Chính việc tiến h nh già ảng kinh đã giúp Phật giáo
phát triển mạnh mẽ v thu hút à được nhiều tín đồ.
Vì vậy, hoạt động giảng kinh l hoà ạt động không thể thiếu của

Phật giáo. Việc tổ chức giảng kinh được giáo hội Phật giáo tất cả các
nước trên thế giới tiến h nh. à
Nhìn chung, ở H Nà ội, Giáo hội Phật giáo thường tổ chức giảng
kinh v o ba tháng "an cà ư kiết hạ"(từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy).
Tuy nhiên, không phải tất cả các chùa đều tổ chức giảng kinh, m chà ỉ
có ba chùa: Quán Sứ, B à Đá, Liên phái. Nhưng riêng chùa Quán Sứ có tổ
chức hoạt động giảng kinh v o các buà ổi sáng chủ nhật từ 8
h
đến 9
h
.
Hiện nay, việc giảng kinh tại chùa Quán Sứ thường do hòa
thượng Thích Thanh Tứ giảng. Các buổi giảng kinh của hòa thượng thu
hút trung bình 350-400 người nghe, có những buổi lên đến hơn nghìn
người ngồi kín sân chùa để nghe giảng kinh.
7
Các loại kinh chủ yếu được giảng là kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng
Nghiêm, Kinh Niết Bàn và một số loại kinh khác.
Kinh Pháp Hoa là tên gọi tắt của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, còn gọi
là kinh Diệu Pháp, Kinh Liên Hoa. Diệu Pháp là cái vi diệu, cái tinh tế
nhất. Liên Hoa là hoa sen, ý nói Kinh này đẹp đẽ trong sáng như hoa sen.
Trọng điểm của cuốn Kinh này là tuyên truyền quan điểm Tam Thừa
(Thanh Văn,Duyên Giác,Bồ Tát), thống nhất Tam Thừa về một mối và điều
hoà cách thuyết pháp của Tiểu Thừa, Đại Thừa. Cuốn kinh này nêu lên
rằng tất cả mọi chúng sinh đều có thể trở thành Phật.
Kinh Lăng Nghiêm, còn gọi là Đại Phật Đỉnh,Thủ Lăng Nghiêm
Kinh. Nội dung bộ kinh này nói rằng: tất cả mọi vật trong thế gian đều là
cái Tâm sáng suốt của Bồ Đề; Tâm thì tinh tế tròn trĩnh, bao hàm cả 10
phương.Chúng sinh do không rõ cái Tâm mình là Tính Tịnh Diệu Thể (một
thể linh diệu, trong sạch) nên rơi vào vòng sinh tử. Như vậy, cần phải làm

phương pháp thiền định để phá bỏ cái định kiến ấy. Cách tu luyện có từng
bước từ thấp đến cao, và mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giác ngộ toàn diện.
Kinh Niết Bàn có nội dung là về Niết Bàn. Nó nói về thế giới lý
tưởng của nhà Phật-nơi không còn khổ đau,luân hồi sinh tử. Niết Bàn có
nghĩa là “diệt”, “tịch diệt”, “vô vi” , Là sự đoạn tuyệt triệt để về nguồn
gốc phiền não để sinh ra cái nghiệp sinh tử. (theo Phật Học Đại Từ Điển
-Đinh Phúc Bảo biên soạn-NXB Văn Vật,in lại năm 1984,Tr.1213 )
Nội dung các buổi giảng kinh tuy l các kinh Phà ật nhưng để cho
người nghe dễ hiểu, ho thà ượng Thích Thanh Tứ thường lấy những ví
dụ rất cụ thể trong cuộc sống. Từ những lời Phật dạy, hòa thượng đưa
đến những cách ứng xử cho các Phật tử. Trong buổi giảng Kinh ng yà
21/3/1999, Hòa thượng có nói: ‘Kinh Phật v thà ế gian không xa, nó vốn
trùng khớp, do đó việc vận dụng giáo lý của Phật v o cuà ộc sống h ngà
ng y sà ẽ l m cuà ộc sống thực tế tốt đẹp hơn’. Hòa thượng Thích Thanh
Tứ khuyên các Phật tử: ‘Kinh cũng l nhà ững việc l m thà ực tế, nên học
để hiểu, hiểu để l m, tà ừ đó tránh ác l m à điều thiện v già ảm được ác
đạo’. Nhìn chung, buổi giảng kinh xoay quanh vấn đề khuyên con người
l m à điều thiện trừ bỏ điều ác.
Ngo i ra, à để giúp mọi người đến chùa hiểu rõ hơn về những lời
Phật dạy v phà ục vụ hoạt động giảng kinh, trong chùa Quán Sứ có b yà
bán rất nhiều tranh ảnh, sách báo của Phật giáo. Một quầy sách ngay
ngo i cà ổng chùa đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người muốn tìm hiểu
Đạo Phật v trong chùa ngay gà ần chỗ giảng kinh l nà ơi b y bán Tà ạp chí
Phật học v báo Giác Ngà ộ. Cũng còn cần kể đến một thư viện luôn mở
của phục vụ bất cứ ai muốn tìm hiềủ thêm về kinh Phật, m vià ệc l mà
8
thẻ thư viện ở đây hết sức dễ d ng.à
3.2.2. Th nh phà ần những người đi nghe giảng kinh v tà ần suất đi
nghe giảng kinh của họ.
a.Th nh phà ầ n ng ườ i đ i nghe gi ả ng kinh

Theo quan sát của chúng tôi mỗi buổi giảng kinh trung bình có 350
người, trong đó nam giới chiếm khoảng hơn 1/3 tổng số, còn lại l nà ữ
giới. Khoảng 80% số người đi nghe giảng kinh mặc áo nâu sồng.
Bảng 2
Th nh phà ần người đi nghe Gi ảng Kinh
(Xét theo lứa tuổi v trình à độ học vấn)
Độ tuổi
20-39 40-59 Trên 60
Trình độ học vấn
Dưới PTTH PTTH ĐH
&TrênĐH
Nam 15% 27.3% 57.7% 21.2% 21.2
%
57.6%
Nữ
9% 32.8% 58.2% 43.3% 41.7
%
15%
Qua số liệu trên,chúng tôi rút ra kết luận sau:
-V


độ
tu

i
: độ tuổi người đi nghe Giảng Kinh phổ biến l trên 60à
tuổi(chiếm gần 60%). ở đây không có sự khác biệt mấy giữa hai giới
(nam:57.7% ; nữ :58.2%). Về mặt tâm lý, ở độ tuổi n y thà ường có nhu cầu
tình cảm rất lớn, nhưng lại ít được thoả mãn do con cháu bận đi l m,à

khiến họ thấy cô đơn. Ngo i ra, phà ần lớn trong số họ l nhà ững người đã
thôi không l m vià ệc nên thời gian rảnh rỗi của họ khá nhiều. Vì vậy, đến
chùa, trong đó, việc đi nghe giảng kinh trở th nh mà ột nhu cầu cần thiết đối
với đời sống của họ.
Độ tuổi 40-59 chiếm trên dưới 30% số lượng người đi nghe giảng
Kinh. ở đây, tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới (nữ:32.8 %;nam:27.3%). Qua
điều tra ở phần
m

c
đ
ích
đ
i nghe gi

ng Kinh
trong bảng hỏi v phà ỏng
vấn sâu, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân của sự chênh lệch n y l do namà à
giới tầm tuổi n y và ẫn còn đang rất chú trọng công việc, họ ít có thời gian
hơn nữ giới. Mặt khác, nữ giới tầm tuổi n y thà ường có rất nhiều lo lắng,
xáo trộn trong tinh thần do có những thay đổi tâm sinh lý. Mặt khác, do họ
chủ yếu ở nh lo vià ệc nội trợ nên có điều kiện tham gia các hoạt động tôn
giáo, trong đó có việc đi nghe giảng kinh.
9
Độ tuổi từ 20-39 chiếm tỷ lệ thấp nhất. Điều n y cà ũng l dà ễ hiểu
bởi những người tầm tuổi n y thà ường có rất nhiều mối quan tâm như bạn
bè, tình yêu, gia đình v sà ự nghiệp. Hơn nữa, lứa tuổi n y thà ường tham
gia nhiều hoạt động tôn giáo như: đi chùa lễ Phật, tham gia lễ hội, h nhà
hương Do vậy, việc đi nghe giảng kinh không l hoà ạt động tôn giáo chủ
đạo của họ.

Tầm tuổi n y, tà ỷ lệ nam lại cao hơn nữ. Tìm hiểu sâu bằng bảng
hỏi v phà ỏng vấn sâu, chúng tôi được biết mục đích chính của những
người đi nghe giảng Kinh lứa tuổi n y chà ủ yếul tìm hià ểu đạo Phật,
nâng cao hiểu biết. Đây cũng l nguyên nhân khià ến chênh lệch tỷ lệ giữa
hai giới (nam giới tầm tuổi n y có thà ời gian v àđiều kiện hơn để đi nghe
giảng Kinh vì họ chủ yếu chỉ cần lo sự nghiệp, còn nữ giới ngo i côngà
việc xã hội, còn bận rộn với việc gia đình).
-
V

trình
độ
h

c v

n:
Có sự khác nhau khá lớn giữa hai giới
Nam giới, tỷ lệ người có trình độ học vấn cao (ĐH v trên à ĐH)
chiếm gần 60%. Còn tỷ lệ người có trình độ học vấn trung bình (tốt
nghiệp PTTH) v thà ấp (dưới PTTH) khá thấp (21.2%). Trong khi đó, tỷ
lệ người có trình độ học vấn cao của nữ giới rất thấp (15%), chủ yếu là
người có trình độ học vấn trung bình v thà ấp.
Nữ giới có trình độ học vấn cao phần lớn đều đã đạt được một
địa vị xã hội nhất định, nên họ thường rất bận rộn (gia đình v xãà
hội). Ngo i ra, nhà ững người n y thà ường sợ dị nghị từ phía gia đình,
đồng nghiệp, h ng xóm nên hà ọ ít đến chùa nghe giảng kinh.
Mặt khác, mỗi người đều có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến
họ đi nghe giảng kinh nên mục đích của họ khác nhau nhưng ở nam giới,
mục đích chủ yếu l tìm hià ểu về đạo Phật v muà ốn nâng cao hiểu biết,

còn ở nữ giới, mục đích cũng l tìm hià ểu đạo Phật nhưng sự tìm hiểu của
họ mang nhiều yếu tố tình cảm l chính. à
Do đó, trong những người đi nghe giảng kinh, tỷ lệ nam giới có
học vấn cao cao hơn ở nữ giới.
b.T ầ n su ấ t ho ạ t độ ng nghe gi ả ng Ki nh
Hoạt động giảng kinh được tổ chức đều đặn v o sáng chà ủ nhật
h ng tuà ần v buà ổi n o cà ũng thu hút đông người tham gia.
Để đánh giá tần suất đi nghe giảng kinh của họ, chúng tôi đặt ra
câu hỏi: "Ông( b ) có thà ường xuyên đi nghe giảng kinh không?", với bốn
chỉ báo sau: 1. thường xuyên; 2. 1,2 lần trong tháng; 3. V i tháng mà ột
lần; 4.Khi n o rà ỗi thì đi.
10
Theo độ tuổi chúng tôi thu được kết quả sau:
Sơ đồ tần suất đi nghe Giảng kinh ở từng độ tuổi
Qua sơ đồ trên, chúng tôi nhận thấy mỗi người ở những độ tuổi
khác nhau, trong những điều kiện khác nhau thì tần suất đi nghe giảng
kinh khác nhau.
Nhìn v o bià ểu đồ ,chúng ta thấy, tần suất phổ biến cho cả 3 độ tuổi
vẫn l à
th
ườ
ng xuyên
đ
i nghe gi

ng kinh
v à
khi n o rà

i thì

đ
i.
Như đã lý giải ở trên, những người ở độ tuổi 60 trở lên có điều
kiện về thời gian nên tần suất phổ biến của họ l à
th
ườ
ng xuyên.
Còn
đối với độ tuổi từ 20-39, 40-59, do bận nhiều công việc gia đình, xã hội
nên ít có thời gian. Vì vậy, chỉ có khi n o rà ỗi họ mới có thể đi nghe giảng
kinh.
Điều n y cho thà ấy, đại đa số người nghe Giảng Kinh đều thật sự
bị cuốn hút v o hoà ạt động n y. Nhià ều người đã nói rằng, đi nghe Giảng
Kinh đã trở th nh mà ột nhu cầu không thể thiếu được của cuộc sống.
3.2.3. Thái độ những người đi nghe giảng kinh
Theo quan sát, chúng tôi thấy: Buổi sáng, có những người đến rất
sớm, họ đi lễ Phật rồi v o trong già ảng đường ngồi, người thì nói
chuyện với nhau, người thì tụng kinh, Số lượng người đến tăng dần
v nhà ững người đến muộn phải lấy dép, ni lông, giấy báo ra ngồi ở sân
bên ngo i già ảng đường, số người ngồi ngo i có hôm lên tà ới gần 100
người, vì chỗ ngồi trong giảng đường không đủ, tuy nhiên có hôm chỉ
v i ba chà ục người. Nhìn chung, những người ngồi nghe rất trật tự, chăm
11
0%
20%
40%
60%
80%
100%
thuong xuyen

50%
44%
68%
1-2 lan/thang
7%
11%
15%
vai thang/1lan
3%
11%
5%
khi roi thi di
40%
34%
12%
20-40
tuoi
40-60
tuoi
tren 60
tuoi
chú lắng nghe, đặc biệt l nhà ững người ngồi trong giảng đường v namà
giới.
Trong lúc Ho thà ượng Thích Thanh Tứ giảng, có người ngồi rất
im lặng, lắng nghe từng lời của hòa thượng; có người lấy giấy bút ghi
chép hết sức cẩn thận; có người ngồi theo kiểu tọa sen vừa nghe vừa đan
len; lại có một số người vừa nghe vừa bình luận nhỏ to với nhau; có
người lại lần tr ng hà ạt Có thể nói có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu
cách tiếp nhận khác nhau. tuy nhiên, vẫn còn một số người vân phân
tâm, chưa thực sự chú ý v o b i già à ảng. Những người thực sự chú tâm v oà

b i già ảng phần lớn l nhà ững người ngồi trong giảng đường v nam già ới.
Còn những người chưa tập trung phần lớn l nhà ững người ngồi bên
ngo i già ảng đường, chủ yếu l nà ữ giới - họ thường thì thầm to nhỏ với
nhau rất vui vẻ. Đây l nhà ững người đi theo nhóm bạn bè. Việc đi nghe
giảng kinh chỉ l mà ột thói quen v mà ột phần l phong tr o.à à
Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều lắng nghe v tià ếp nhận
những điều nghe được thông thường thì không có người thắc mắc.
Dường như, họ cho rằng những điều họ đang nghe l à đúng đắn không
cần b n cãi gì thêm. Qua à đó, chúng tôi nhận thấy họ có niềm tin thực sự
v o à Đức Phật.
Những người đến nghe giảng kinh thường đi một mình, có một
số người đi theo nhóm. Tuy nhiên có những người đã biết nhau v khià
gặp nhau ở đó họ thường ngồi gần nhau v trao à đổi một số chuyện.
Những người đến đây l ho n to n tà à à ự nguyện, họ tập trung nhau lại
cùng vì một mục đích, v khi buà ổi giảng kinh kết thúc, tất cả mọi
người đều đứng dậy, im lặng, chắp tay trước ngực cúi ch o khi hòaà
thượng Thích Thanh Tứ đi ra. Sau khi hòa thượng đi rồi mọi người mới
chuẩn bị đi về. Tất cả mọi người đều tôn kính Hòa thượng Thích
Thanh Tứ, có một chuyện xảy ra vao buổi giảng kinh 2/5/1999, có một bà
chừng gần 60 tuổi, dường như có việc bận định đi về trước nhưng ngay
lập tức bị những người xung quanh nhắc nhở: Phải đợi Hòa thượng đi
đã rồi mới được về. Trước khi ra về mọi người thường ch o hà ỏi nhau,
có người còn bình luận thêm về những điều đã nghe được, có người
tiếp tục đi lễ Phật Nhìn chung, sau khi buổi giảng kinh kết thúc, không
ai có thái độ vội vã ra về, trông vẻ mặt mọi người rất vui vẻ, mãn
nguyện. Dường như, họ có vẻ luyến tiếc khi buổi giảng kinh kết thúc.
Còn trong buổi sáng hôm 21/3, chúng tôi được chứng kiến một
chuyện: Có một b sau khi nghe già ảng kinh đã để quên cái ô v có mà ột
ông đã đuổi theo khi b ra tà ới gần cổng v trà ả lại ô cho b . Ông nói: Và ừa
rồi hòa thượng đã giảng con nguời nên l m vià ệc thiện, vì thế Phật tử

chúng ta lấy nghĩa đối với nhau l chính.à
12
Qua những quan sát được như trên, chúng tôi rút ra một số kết
luận sau:
- Những người đi nghe giảng kinh l tà ự nguyện không có một
nhóm tổ chức n o.à
- Trong quá trình nghe giảng kinh, hầu hết mọi người đều hết sức
lắng nghe.
- Những điều họ nghe được, họ cố gắng áp dụng ngay v o thà ực
tế.
- Cách ứng xử của các Phật tử nhìn chung hết sức thân thiện và
nhiệt tình.
- Dường như những điều nghe được đã chi phối cả suy nghĩ lẫn
h nh à động của họ.
3.3. Nguyên nhân đi nghe giảng kinh
Phần lớn những người đến chùa nghe giảng kinh có sự tập trung,
chăm chú nghe giảng v à đi nghe giảng kinh một cách thường xuyên.
Vậy những nguyên nhân n o à đã đưa họ tìm đến chùa nghe giảng kinh?
Trong đợt điều tra mẫu, chúng tôi đã tìm được 4 nguyên nhân
chính sau:
-Do bạn bè rủ
-Do tin v o à đức Phật v muà ốn đến gần đức Phật
-Do có sự xáo trộn lớn trong cuộc sống
-Do muốn tìm hiểu đạo Phật
Với 4 nguyên nhân chính đó,chúng tôi đưa v o bà ảng hỏi th nh 4à
chỉ báo, mỗi người được hỏi được chọn tối đa l 3 trong sà ố 4 chỉ báo
đó. Kết quả như sau:
Bảng 3 :
Nguyên nhân đi nghe giảng kinh (xét theo độ tuổi)
Giớitín

h
Từ 20-40
tuổi
Từ 40-60
tuổi
Trên 60
tuổi
Bạn bè rủ
Nam 40% 6.25% 10,5%
Nữ
4.5% 14,5% 28,2%
Do tin v o à đức Phật v à
muốn đến gần đức Phật
Nam 6.25% 33,3% 21%
Nữ
20% 9% 30,8%
13
Do cú xỏo trn ln trong
cuc sng
Nam 3.1% 9.3% 10,5%
N
6.7% 18,2% 7,7%
Mun tỡm hiu o Pht
Nam 60% 66,7% 58%
N
80% 77,3% 33,3%
Theo kt qu thu c, phn ln cỏc cõu tr li l : i nghe ging
kinh l do mu n tỡm hiu o Pht. Sau ú mi l cỏc nguyờn nhõn: Do
tin v o c Pht v mu n n gn c Pht; do bn bố r; do cú xỏo
trn ln trong cuc sng.

Cú s khỏc nhau rt ln trong nguyờn nhõn i nghe ging Kinh
gia nam v n . C th nh sau: i v i nam gi i:
Nhỡn v o bi u trờn, ta thy nguyờn nhõn ch yu khin nam
gii i nghe ging kinh l vỡ mu n tỡm hiu o Pht. Mt Pht t ó
tõm s "mi cỏi u bin hoi, khụng trng tn, nhng o Pht ó
qua my nghỡn nm vn bn vng, vn sng mói trong lũng ngi, vn
phỏt trin. Vy o Pht phi cú mt iu gỡ ú c bit ?"
14
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
Biểu đồ 2:
Nguyên nhân đi nghe giảng Kinh (của nam giới)
Từ 20-40 tuổi
Từ 40-60 tuổi
Trên 60 tuổi
Từ 20-40 tuổi
40%
6.25%
3.10%
60%
Từ 40-60 tuổi
6.25%
33.30%
9.30%

66.70%
Trên 60 tuổi
10.50%
21%
10.50%
58%
Bạn bè rủ
Do tin vào
đức Phật và
muốn đến
Do có xáo
trộn lớn
trong cuộc
Muốn tìm
hiểu đạo
Phật
Mặt khác, qua phỏng vấn sâu, chúng tôi được biết một số người
đến với đạo Phật l do sà ự sụp đổ lý tưởng. Họ đã từng tuyệt đối tin
theo chủ nghĩa vô thần, b i trà ừ tôn giáo. Nhưng những biến động trong
cuộc sống đã khiến họ hoang mang dao động, nhiều khi l bà ế tắc. Họ
cảm thấy mất niềm tin v do à đó, muốn quay về với truyền thống. Mà
một trong những hệ tư tưởng truyền thống của nước ta l Phà ật giáo.
Hơn nữa, giáo lý đạo Phật có một cách lý giải về thế giới, về con
người v cuà ộc sống phù hợp với tâm lý-văn hoá người Việt, dễ l mà
người ta chấp nhận hơn các tôn giáo khác.
Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng, nam giới tìm đến đạo Phật là
do họ cảm thấy đạo Phật có nhiều điều để nghiên cứu v tìm hià ểu.
Ngo i ra, các lý do khác nhà ư: Bạn bè rủ, do tin v o à Đức Phật và
muốn đến gần Đức Phật, do có sự xáo trộn trong cuộc sống. Các lý do
n y chià ếm tỷ lệ không cao

Với lý do Bạn bè rủ, chủ yếu ở độ tuổi 20-39( 40%). Điều n y choà
thấy, giới trẻ đi nghe giảng kinh mang ý nghĩa "tình cờ" nhiều hơn là
xuất phát từ nhu cầu tự thân. Độ tuổi 40-59 v trên 60, à đi nghe giảng
kinh vì lý do n y chià ếm tỷ lệ thấp( 40-59: 6.25%; trên 60: 10,5%). Như
vậy, ở hai tầm tuổi n y nam già ới đi nghe giảng kinh chủ yếu l do bà ản
thân họ thực sự có nhu cầu.
Lý do Xáo trộn trong cuộc sống cũng chiếm tỷ lệ khá thấp, ít
người thừa nhận nguyên nhân n y( 20-39: 3.1%; 40-59: 9.3%; trên 60:à
10.5%). tuy nhiên, đây lại l mà ột nguyên nhân cơ bản khiến người ta
đến với tôn giáo nếu xét về mặt lý thuyết( Nguyên gốc tâm lý-xã hội
của tôn giáo: Con người bất lực trước cuộc sống nên đã tìm đến sự đền
bù hư ảo của tôn giáo). Mặt khác, qua điều tra mục đích đi nghe giảng
kinh, chúng tôi thấy rằng mục đích chính của nhiều người l à đi tìm sự
thanh thản. Như vậy, mặc dù không thừa nhận nguyên nhân n y nhà ưng
thực chất nhiều người đi nghe giảng kinh l do nhà ững xáo trộn trong
cuộc sống m hà ọ không thể giải quyết được.
Với lý do do tin v o à Đức Phật v muà ốn đến gần Đức Phật chiếm
tỷ lệ không cao (20-39: 6.25%; 40-59:17.5%; trên 60: 19%). Điều n y là à
do tư duy nam giới l tà ư duy logic, nặng về lý tính cho nên niềm tin v oà
Đức Phật như một vị thần có quyền lực siêu nhiên thường không cao.
Tuy nhiên, từ tuổi 40 trở lên, niềm tin v o à Đức Phật cao hơn nhiều so với
độ tuổi 20-39, điều n y l do hà à ọ tiếp xúc, va chạm nhiều với những bất
bình đẳng trong xã hội( đặc biệt l và ề vị thế xã hội), có nhiều điều họ
không thể tự chủ được khiến họ phải tìm đến sự giải thích bằng số
phận, bằng quyên lực siêu nhiên.
15
i v i n gi i
Qua biu trờn, chỳng ta cú th thy rng nguyờn nhõn ch yu
khin n gii i nghe ging kinh vn l do mu n tỡm hiu o Pht.
Tuy nhiờn, cú mt s khỏc nhau ln gia hai gii: tui 20-39 v

40-59, n gii i nghe ging kinh vỡ lý do n y cao h n nam gii trong khi
ú i vi tui trờn 60 li thp hn hn so vi hai tui trờn v so
vi nam gii. Nguyờn nhõn chớnh l tui trờn 60, ngi ta ó tng
tri nhiu do ú nhu cu tỡm hiu v lý gi i cuc sng khụng cũn mnh
m na. Mt khỏc, n gii tui n y thu c th h c-khi m xó h i
chu nh hng ca t tng Nho giỏo: coi ph n bt t i l cú c,
nờn ph n ớt c hc h nh. Vỡ th , h n vi hot ng ging kinh
nh mt nghi l tụn giỏo hn l tỡm hiu. Cũn vi tui t 20-59,
n gii cú nhiu iu kin hc h nh, m rng quan h xó hi vỡ th nhu
cu tỡm hiu v lý gi i cuc sng l r t ln.
Nguyờn nhõn n gii i nghe ging kinh do bn r chim t l
khỏ thp(20-39:4.5%; 40-59:14.5%; trờn 60:28.2%). Vi tui 60 tr
lờn, lý do n y chi m t l cao hn hn so vi hai tm tui trờn v so v i
nam gii tm tui n y. Nguyờn nhõn ch yu l do nhu c u tỡnh cm
ca n gii rt ln, nờn h cú xu hng hot ng theo nhúm. Mt khỏc,
tm tui n y gia ỡnh nhỡn chung ó n nh, cú nhiu thi gian ri
16
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
Biểu đồ 3:
Nguyên nhân đi nghe giảng kinh của nữ giới
(xét theo độ tuổi)
Từ 20-39 tuổi
4.50%
20%
6.70%
80%

Từ 40-59 tuổi
15%
9%
18.20%
77.30%
Trên 60 tuổi
28.20%
30.80%
7.70%
33.30%
Bạn bè rủ
Do tin vào
đức Phật và
Do có xáo
trộn lớn
Muốn tìm
hiểu đạo
nên họ có thể chú trọng hơn đến quan hệ xã hội , đặc biệt l quan hà ệ
bạn bè.
Với lý do tin v o à Đức Phật v muà ốn đến gần Đức Phật, tỷ lệ nữ
giới cao hơn hẳn so với nam giới( 20-39:6.7%; 40-59: 20.8%; trên 60:
51.3%). Điều n y l do tà à ư duy nữ giới l tà ư duy tình cảm nên rất dễ tin
v o thà ần thánh, v o quyà ền lực siêu nhiên.
Có một sự chênh lệch rất lớn giữa tầm tuổi 20-39 v tà ầm tuổi trên
60. Vì đây l hai thà ế hệ khác nhau, lớn lênn trong những bối cảnh lịch
sử khác nhau nên tư duy, tình cảm của họ khác nhau. Nữ giới ở tầm tuổi
20-39, sống trong bối cảnh đất nước đang đổi mới, vai trò của người
phụ nữ được coi trọng hơn, vì thế nhu cầu tự khẳng định của họ cũng
như sư năng động, tự tun của họ cũng cao hơn, họ chưa cần đến niềm
tin-một chỗ dựa tinh thần như nữ giới tầm tuổi trên 60.

Để khẳng định đúng đắn của thông tin n y, chúng tôi à đặt thêm
câu hỏi: “Ông(b ) à đã quy y Tam bảo chưa?"
Những người đi nghe giảng kinh phần lớn l nhà ững người đã quy
y Tam bảo(Quy tức l trà ở về, y l nà ương tựa. Tam bảo l Phà ật bảo, Pháp
bảo v Tà ăng bảo. Quy y Tam bảo l quay trà ở về nương tựa với Phật,
Pháp, Tăng). Nhưng có một vấn đề đặt ra l trong sà ố những nguời đi
nghe giảng kinh thì có bao nhiêu người đã quy y v trong sà ố đã Quy y đó
thì họ đi nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y hay Quy y trước rồi mới
đi nghe giảng kinh. Để giải đáp vấn đề n y, chúng tôi à đã đặt ra câu hỏi
"Ông(b ) à đã quy y Tam bảo chưa?" v “Nà ếu đã quy y, xin ông(b ) choà
biết thêm: Ông (b ) quy y trà ước rồi mới nghe giảng kinh hay nghe giảng
kinh truớc rồi mới quy y?”
Các câu trả lời được tổng kết như sau:
Bảng 4:
Nữ giới:
Từ20-40
tuổi
Từ40-60
tuổi
Trên 60
tuổi
Chưa quy y Tam bảo
50% 4,5 % 2,6%
Quy y trước rồi mới nghe giảng
kinh
16,6% 68,2% 69,2%
Nghe giảng kinh trước rồi mới quy
y
33,4% 30,8% 28,2%
Nam giới:

Từ20-40 Từ40-60
Trên 60
17
tuổi tuổi tuổi
Chưa quy y Tam bảo
60% 22,2 % 26,4%
Quy y trước rồi mới nghe giảng
kinh
20% 55,6% 36,8%
Nghe giảng kinh trước rồi mới quy
y
20% 22,2% 36,8%
Qua các số liệu thu được chúng tôi nhận thấy:
Trong độ tuổi từ 20-40, những người đi nghe giảng kinh phần lớn
l nhà ững người chưa quy y, trong đó số nữ giới chưa quy y chiếm tỷ lệ
thấp hơn so với nam giới. Đối với nữ giới trong số những người đi nghe
giảng kinh có 16,6% đã quy y Tam bảo trước rồi mới đi nghe giảng kinh,
33,4% nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y. Còn nam giới thì tỷ lệ giữa
những nguời đi nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y v Quy y trà ước rôì
mới nghe giảng kinh l nhà ư nhau(20%).
Đối với nữ giới ở độ tuổi từ 40 trở lên đi nghe giảng kinh thì phần
lớn đã Quy Y Tam bảo. Còn số lượng nam giới chưa Quy y Tam bảo
trong độ tuổi 40 trở lên chiếm khoảng hơn 1/5 tổng số nam.
Nhìn chung, số người Quy y Tam bảo trước rồi mới đi nghe giảng
kinh chiếm số đông hơn những người đi nghe giảng kinh trước rồi mới
Quy y. Những người đi nghe giảng kinh trước rồi mới quy y l nhà ững
người đã tìm hiểu về đạo Phật v hà ọ biết việc họ hiểu rõ việc đi quy y
Tam bảo cũng như các giáo lý của Phật giáo. Còn những người đi Quy y
Tam bảo trước khi đi nghe giảng kinh l nhà ững người tìm đến với đạo
Phật nhưng chưa thực sự hiểu đạo Phật. Như vậy, ban đầu như l mà ột

nghĩa vụ của một Phật tử họ đi nghe giảng kinh để hiểu về những điều
Đức Phật đã nói.
Như vậy, mặc dù xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau
nhưng nguyên nhân chủ đạo vẫn l tìm hià ểu đạo Phật.
3.4. Mục đích đi nghe giảng kinh
Phật giáo l mà ột tôn giáo nhưng cũng đồng thời mang tư tưởng
triết học sâu sắc. Do vậy, Phật giáo đã có sức thu hút lớn đối với mọi
tầng lớp dân cư ở mọi trình độ học vấn, từ những người chưa học hết
phổ thông đến những người có học vị cao từ bậc đại học trở lên. Mỗi
người tìm đến Đạo Phật với một lý do riêng v mà ục đích riêng.
Trong phạm vi đề t i nghiên cà ứu, chúng tôi chỉ đề cập đến mục
đích cơ bản của những người đi nghe giảng kinh.
Qua bảng hỏi, chúng tôi thu được kết quả như sau:
18
Bảng 5: Mục đích đi nghe giảng kinh (xét theo độ tuổi v già ới
tính)
Từ 20-39 tuổi Từ 40-59 tuổi Trên 60 tuổi
Tìm sự thanh thản
Nam 20% 44,4% 63,1%
Nữ
6.2% 45,4% 46,1%
Tìm một lẽ sống cao
đẹp hơn
Nam 10.1% 22.4% 26,3%
Nữ
33,3% 36,4% 20,5%
Tăng sự hiểu biết
Nam 60% 44,4% 30,8%
Nữ
33,3% 31,8% 30,8%

Tìm hiểu đạo Phật
Nam 40% 33,3% 30,8%
Nữ
66,6% 31,8% 38,5%
Tu dưỡng đạo đức,
tạo phúc đức cho con
cháu
Nam 14.8% 29.6% 10.5%
Nữ
2.6% 16% 31.2%
Qua bảng tổng kết trên, chúng tôi nhận thấy rằng: tuỳ thuộc v oà
độ tuổi v già ới tính m mà ục đích đi nghe giảng kinh l khác nhau.à
Những người đến chùa nghe giảng kinh không phải chỉ vì một mục
đích m có nhià ều mục đích khác nhau.
Mục đích Tìm sự thanh thản đối với cả hai giới nhìn chung là
cao, đặc biệt ở tầm tuổi từ 40 trở lên ( hơn 40%). Còn đối với độ tuổi
40 trở xuống, nhu cầu đi tìm sự thanh thản cao hơn nữ giới: nam
giới:20%, nữ giới 6.2%. Ngo i ra, qua phà ỏng vấn sâu, chúng tôi nhận
thấy nam giới ở độ tuổi n y à điều quan trọng đối với họ l sà ự nghiệp
nhưng trong quá trình l m vià ệc v phà ấn đấu, họ gặp khá nhiều trắc trở
nhưng họ không thể vượt qua được nhưng nếu chấp nhận thì họ không
l m à được. Vì thế, đi nghe giảng kinh l mà ột cách họ tiếp nhận nhân
sinh quan Phật giáo- điều n y l m hà à ọ cảm thấy thanh thản.
Mục đích Tìm một lẽ sống cao đẹp hơn chiếm một tỷ lệ không
cao đối với cả hai giới. Tuy nhiên, với nữ giới dưới 40 tuổi, mục đích
n y chià ếm trên 30 %, cao hơn so với nam giới v và ới độ tuổi khác. Vì
cuộc sống phức tạp, luôn luôn tồn tại sự đấu tranh, mâu thuẫn đã l mà
cho nhiều phụ nữ cảm thấy sợ cuộc sống hiện tại. Do vậy, họ đã đi tìm
một lẽ sống cao đẹp hơn qua việc tìm hiểu Đạo Phật.
Mục đích tăng sự hiểu biết v à tìm hiểu Đạo Phật l nhà ững mục

đích chính của những người đi nghe giảng kinh. Nhìn chung, tỷ lệ giữa
hai giới v à ở các lứa tuổi tương đối đồng đều. Có điều đáng quan tâm:
đối với độ tuổi 20-39, mục đích Tăng sự hiểu biết của nam giới cao hơn
nữ giới: nam giới 60%, nữ giới 33.3%. Trong khi đó cũng với độ tuổi
n y, mà ục đích Tìm hiểu đạo Phật của nữ giới lại cao hơn nam giới: nữ
giới 66.6%, nam giới 40%. Như vậy, cùng với nguyên nhân ban đầu đi
nghe giảng kinh l muà ốn Tìm hiểu Đạo Phật nhưng mục đích của nam
19
giới v nà ữ giới l khác nhau. Nam già ới đi nghe giảng kinh với mục đích
Tăng sự hiểu biết l chính, chà ứng tỏ việc tìm hiểu Đạo Phật l mà ột nhu
cầu của nam giới muốn l m phong phú thêm và ốn kiến thức đã có. Còn
nữ giới chỉ đơn thuần l muà ốn tìm hiểu đạo Phật thì mục đích cần
đạt tới l tìm hià ểu đạo Phật.
Mục đích Tu dưỡng đạo đức, tạo phúc đức cho con cháu không
phải l mà ộtmục đích chính. Mục đích n y chià ếm tỷ lệ cao ở nữ giới
độ tuổi trên 60 (31.2%)v nam già ới độ tuổi từ 40-59 (29.6%). Nữ giới
trên 60 tuổi do có nhiều thời gian v nhu cà ầu hướng về gia đình, con
cháu rất lớn. Mặt khác họ lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng về nhân-
quả nên họ mong muốn để lại phúc đức cho con cháu-m theo hà ọ đi
nghe giảng kinh l mà ột cách l m. Còn nam già ới từ 40-59 tuổi, sau một
thời gian bon chen với cuộc sống, giữa những cái được v cái mà ất trong
cuộc đời khiến họ suy nghĩ. Ngo i ra, tà ầm tuổi n y, và ề cơ bản nhiều
mặt của cuộc sống đã được ổn định. Do vậy, nam giới bắt đầu có xu
hướng quay về gia đình, suy nghĩ về gia đình, con cháu nên họ thấy
cần phải tu dưỡng đạo đức tốt hơn nữa để l m gà ương cho con cháu sau
n y.à
Tóm lại, tuy mỗi người đi nghe giảng kinh đều mong muốn đạt
được nhũng mục đích khác nhau, nhưng nhìn chung mục đích chính
của những người đi nghe giảng kinh l à Tăng sự hiểu biết v à Tìm hiểu
đạo Phật

3.5. Những ảnh hưởng của việc đến chùa nghe giảng kinh đối với
những người đi nghe.
Đa số những người đi nghe giảng kinh đi rất đều đặn, việc đi
nghe giảng kinh phần nhiều do thói quen, tuy nhiên những điều họ nghe
được cũng tác động đến suy nghĩ v h nh à à động của họ.
Những điều người nghe tiếp nhận trong các buổi giảng kinh chính
l giáo lý cà ủa Đạo Phật. Do vậy, những giáo lý đó dần dần trở th nh cà ơ
sở để mỗi người nhìn nhận, đánh giá, h nh à động v tác à động đến thế
giới xung quanh.
Để đánh giá được sự ảnh hưởng của việc đi nghe giảng kinh đối
với h nh à động v suy nghà ĩ của họ, chúng tôi đưa ra câu hỏi:" Ông(b ) cóà
thể cho biết những lời Phật dạy(qua các buổi giảng kinh có chi phối
h nh à động v suy nghà ĩ của ông(b ) không?" v 4 chà à ỉ báo: "Chi phối
ho n to n", "Chi phà à ối phần lớn", "Chỉ chi phối một phần n o", "Khôngà
chi phối" để những người được hỏi tự đánh giá. Kết quả được biểu
diễn theo biểu đồ:
20
Qua đó chúng tôi nhận thấy việc đi nghe giảng kinh có tác động
khá mạnh mẽ đến những người nghe. Phần lớn trong số họ chịu sự chi
phối khá mạnh mẽ. Suy nghĩ v h nh à à động của họ luôn được kiểm soát
để tuân theo những điều họ tin, họ hiểu.
Để thấy rõ hơn nữa về vấn đề n y, chúng tôi à đã phỏng vấn sâu
một số người để xem họ chịu ảnh hưởng như thế n o? Kà ết quả phần
lớn câu trả lời l nhà ững điều về Luật nhân quả, Luân hồi chi phối họ
khá mạnh mẽ.
“Đối với bản thân mình thì những điều m à Đức Phật dạy rất gần
gũi với thực tế, mình có thể đem áp dụng ngay v o trong cuà ộc sống h ngà
ng y nhà ư sống ngay thẳng, thật th . Ngo i ra, mình còn khuyên bà à ạn bè
không nên nói dối, bởi vì Gieo nhân n o gà ặt quả nấy " (nữ, 23 tuổi, sinh
viên)

"Trước khi đi nghe giảng kinh, tôi rất nóng nảy, chẳng hạn nếu có
ai nói gì động đến tôi l tôi nà ổi nóng nói họ ngay lập tức. Nhưng từ ng yà
đi nghe giảng kinh, hiểu được những điều mới, tôi cố kìm nén những sự
tức giận của mình vì mình đã đi nghe giảng kinh rồi, đã được Phật
giác ngộ, nên không trách những người không biết" (nữ, 65 tuổi, nghỉ
hưu)
"Nhiều lúc trong công việc gặp một số khó khăn hay nhiều khi cấp
dưới l m không nhà ư ý mình, từ ng y à đi nghe giảng kinh rồi tôi bỏ qua
nhiều chuyện nhỏ, nhiều khi thay vì nói họ tôi đã l m giúp hà ọ." (nam, 47
tuổi, doanh nghiệp)
21
Chi phoi hoan toan
Chi phoi mot phan
lon
Chi phoi mot phan
nao
10.5%
57.5%
32%
Qua một số tâm sự của những người đi nghe giảng Kinh, chúng tôi
nhận thấy rằng những điều m hà ọ tiếp thu được dường như mặc nhiên
họ cho l à đúng v luôn tìm cách áp dà ụng v o trong cuà ộc sống. Những
điều đó không những tác động đến bản thân họ m còn tác à động cả
đến những người xung quanh. Nhìn chung, những người được phỏng
vấn đều trả lời l hà ọ kìm chế được tính nóng giận.
Ngo i ra, có mà ột số người có niềm tin thực sự v o à Đức Phật, họ đi
nghe giảng kinh vì tin đó l nhà ững điều đúng đắn v giúp à được họ rất
nhiều trong cuộc sống, mặc dù sự giúp đỡ n y chà ủ yếu bắt nguồn từ
niềm tin.
"Tôi bị đau dạ d y, mà ỗi khi lên cơn đau chỉ cần nghĩ đến lời

Đức Phật dạy l tôi cà ảm thấy dễ chịu ngay" (nữ, 45 tuổi, buôn bán)
"Ng y trà ước tôi rất g y nhà ưng từ ng y à đi nghe giảng kinh tôi lên
được 5 cân". (nữ, 27 tuổi, nhân viên văn phòng)
Có thể thấy rằng những điều m nhà ững người đi nghe giảng kinh
tiếp nhận được đã tác động rất mạnh mẽ đến suy nghĩ v h nh à à động
của họ, thậm chí có thể l m thay à đổi cuộc sống của họ.
Qua bảng hỏi, chúng tôi thu được 97% số câu trả lời l hà ọ có đem
những điều Phật dạy để dạy dỗ con cháu, chủ yếu l dà ạy tu nhân tích
đức, l m à điều thiện, không nói dối,
Tóm lại, sự ảnh hưởng của Đạo Phật đến những người đi nghe
giảng kinh được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, ảnh hưởng đến
cách ứng xử trong các mối quan hệ với những người xung quanh. Thứ
hai, những người đi nghe giảng kinh đã truyền bá Đạo Phật đến những
người xung quanh dù l hà ọ có ý thuức hay không có ý thức về việc l mà
của mình theo dạng "mưa dầm thấm lâu"
3.6. Đánh giá tình hình
3.6.1. Mặt tích cực
Là một bộ phận không thể thiếu của đạo Phật, hoạt động giảng Kinh
là công cụ tác động chủ yếu để đạo Phật thiết lập những ảnh hưởng của
mình đến các Phật tử. Do đó, những ảnh hưởng tích cực của đạo Phật tới
con người và xã hội cũng chủ yếu được thực hiện thông qua việc Giảng
Kinh.
Chủ yếu có các mặt sau:
22
• Những ảnh hưởng tích cực của hiện tượng đi chùa nghe giảng
Kinh đến việc hình thành nhân cách con người:có nhiều quan niệm khác
nhau về nhân cách. ở đây,chúng tôi đề cập tới nhân cách như một hệ thống
tư duy và hành động, quan niệm và cách ứng xử của cá nhân con người
trước tự nhiên, xã hội và con người, trước thế giới bên ngoài cũng như
trong chính bản thân mình.

Trên cơ sở đó thì những tác dụng tích cực của hiện tượng đến chùa
nghe Giảng kinh đến nhân cách con người được biểu hiện ở 3 mặt. Mặt thứ
nhất là, các Phật tử biết chấp nhận sự biến đổi của xã hội và con người,
sống giản dị, trong sạch, có nề nếp.
Khác với những tôn giáo khác,phật giáo cho đời người là khổ,cuộc
đời là bể khổ. Mỗi khi gặp chuyện mất mát, chuyện đau buồn, mỗi khi gặp
chuyện không đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của mình, họ lại lấy đó
là nguồn an ủi. Ngày nay, người ta có nói khác đi, như nói con người
không chỉ có khổ mà còn có sướng vui, có sự an lạc trong trần gian, có hoà
bình, hạnh phúc trong dương thế nhưng với đại đa số Phật tử, họ vẫn cho
cuộc đời là khổ. Lý thuyết về “Tứ Diệu đế” ,về “Thập nhị nhân duyên” , về
nghiệp, về nhân -Quả là cơ sở tư tưởng cho các quan niệm trên.
Vì những lý do trên,người nghe giảng Kinh thường có lối sống hoà
nhã, giản dị ,không tranh quyền đoạt lợi, biết chấp nhận, không đòi hỏi.
Đây là thái độ cực đoan , là tinh thần thủ tiêu đấu tranh. Nhưng trong
những trường hợp cụ thể, thái độ trên lại có tác dụng thiết thực trong việc
điều hoà các mối quan hệ, tránh mâu thuẫn,xung đột.
“ Có người đã từng chửi tôi suốt 2 tiếng đồng hồ, tôi cũng mặc kệ.
Có người đã vay tiền của tôi rồi quỵt nợ, lấn đất nhà tôi, nhưng tôi cũng
chẳng cãi nhau với họ làm gì, mà cũng chẳng đem lòng thù oán họ. Trong
đời tôi,tôi đã thấy nhiều chuyện rồi, có những chuyện dường như nói ra
không chịu được. Nhưng rồi thì cũng qua. Phật cũng dạy rồi, lấy oán trả
oán, oán oán chất chồng, lấy ân trả oán, oán tự tiêu tan ” (nam, 51 tuổi,
đang đi làm)
Mặt thứ hai là, các Phật tử nói riêng và người đi nghe Giảng Kinh
nói chung đều có tư tưởng vị tha, bác ái, quan tâm tới nỗi khổ của người
khác và biết giúp người hoạn nạn. Chịu ảnh hưởng của Giáo lý Phật,họ
nhìn các sự vật trong mối quan hệ nhân-quả, xem cái gì cũng là kết quả của
cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Họ còn nhìn thế giới, xã hội và con
người trong dòng vận động không ngừng, ở đó, không có gì là tồn tại mãi

mãi, cái gì cũng đang ở trong một quá trình, với con người là sinh -lão-
bệnh-tử, với thế giới sinh vật là sinh-trụ-dị-diệt, với vũ trụ là thành-trụ-
hoại-không. Do đó, Phật giáo rất chú trọng cái tâm. Chính vì thế, những
23
người đi nghe giảng Kinh đều có xu hướng sống thiện rất rõ. Khi được hỏi
họ thường hay trao đổi, khuyên nhủ con cháu, bạn bè về điều gì, 98% số
người được hỏi trả lời rằng họ thường xuyên khuyên nhủ mọi người sống
có nhân nghĩa, thấy điều thiện thì làm, điều ác thì bỏ:
“Đã theo Phật thì không sân không si. Thấy người khổ thì thương,
chỉ tiếc không giúp được hết như mưa không khắp” (nữ, 62 tuổi, nghỉ hưu)
“Tu tâm tích đức để trở thành con người tốt đối với nhân loại, trung
thành với Tổ quốc và hiếu thảo với gia đình,ông bà, tổ tiên, cha mẹ” (nam,
67 tuổi, nghỉ hưu)
Giữ cái tâm được thiện, đối với họ ,điều đó không chỉ là làm theo
Phật để tâm hồn thanh thản mà còn là để cho con cháu hưởng phúc, cho
kiếp sau an nhàn, như một cụ bà 75 tuổi đã nói với chúng tôi: “Mình làm
thiện thì có lợi cho mình, kiếp này không được hưởng thì kiếp sau sẽ được
hưởng, mà con cái cũng được hưởng phúc đức. Mình làm ác thì bị quả
báo”
Cái tâm của con người là vô cùng quan trọng. Ngay trong quan hệ
giữa người và người từ xưa đến nay, nhân dân ta đều coi trọng chữ Tâm.
Đây là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trong đó có sự đóng góp
lớn lao của Phật giáo mà ta cần phát huy.
Mặt thứ ba là ,các Phật tử đều có ý thức tự giác rất cao. Có thể do ý
thức tôn giáo đòi hỏi tính cộng đồng, do đó,các tín đồ thường có ý thức rất
rõ về cái chung,và hành động theo cái chung. Điều này có thể nhận thấy rất
rõ khi tham dự các buổi giảng Kinh. Số lượng đi nghe trung bình mỗi buổi
giảng Kinh là khoảng 350 người, có khi lên tới gần 1000 người. Hơn
nữa,nhà chùa không có một tổ chức,thiết chế nào để quản lý số người này.
Thế nhưng,những buổi giảng Kinh luôn diễn ra trật tự, người nghe ai ngồi

đúng chỗ của người đó. Chúng tôi đã được chứng kiến cảnh Hoà thượng
Thích Thanh Tứ sau khi giảng Kinh bước ra. Cả đám đông đứng lên ,tự
động xếp thành hai hàng,chắp tay chào. Có một phụ nữ trung niên trước đó
đi giữa lòng đường(nơi Hoà Thượng sắp ra), lập tức bị người khác gọi lại
nhắc nhở, yêu cầu đứng vào hàng, đợi Hoà Thượng đi qua mới được về.
Nói tóm lại, Giáo lý Phật giáo đã và đang có những ảnh hưởng tích
cực đến nhân cách con người,mà chịu ảnh hưởng trực tiếp chính là người đi
nghe giảng Kinh.
-Trong quá trình tác động đến nhân cách người nghe, giáo lý Phật
giáo đã hình thành một thứ đạo đức là đạo đức Phật giáo. Không thể phủ
nhận được rằng, đạo đức Phật Giáo đã góp phần không nhỏ vào ổn định đời
sống xã hội. Ngũ Giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm,
24
không nói dối, không uống rượu) đã không chỉ khiến một số lượng đông
đảo Phật tử và người đi nghe giảng Kinh Phật sống thiện hơn,có ý thức
hơn, mà còn có tác động gián tiếp tới môi trường xung quanh những người
này(đồng nghiệp, con cháu, bạn bè ) thông qua chính bản thân họ.
Về thực chất, đó là những nguyên tắc đạo đức được hình thành nên
từ những yêu cầu của cuộc sống xã hộimà Phật Giáo nắm bắt được và vận
dụng vào việc thực hiện mục đích của mình. Vì vậy, sự thực hiện chúng,với
Phật tử là điều kiện giải thoát,còn với xã hội thì đưa đến hệ quả là làm cho
xã hội có cuộc sống thanh bình, có quan hệ lành mạnh-cục diện mà xã hội
phát triển nào cũng mong đạt được
Do đó, đạo đức Phật giáo nói chung có những nét phù hợp với đạo
đức xã hội. Cũng phải thừa nhận rằng,trong suốt gần 2000 năm ở Việt
Nam, Phật giáo đã có những ảnh hưởng nhất định,đạo đức con người Việt
nam từ xưa đến nay mang khá nhiều dấu ấn của đạo đức Phật giáo.
3.6.2 Mặt tiêu cực
Có thể coi Phật giáo như một lý thuyết về sự giải thoát bể khổ nhân
gian bằng cách đi vào tự ngã của cái Tâm bên trong, nhằm đạt tới sự sáng

suốt tối cao ở Niết Bàn. Học thuyết đó có sức mạnh đưa con người vào thế
giới thanh bạch “từ bi hỷ xả”. Nhưng nó thực hiện lý tưởng đó bằng cách
khước từ những ham muốn tự nhiên của con người, triệt tiêu sức sống hành
động của con người.
Đánh giá đạo Phật, Bác Hồ nói “Nếu có đức mà không có tài ví như
ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không làm lợi gì cho loài người”.
Thật vậy, giáo lý Phật giáo quá chú trọng cái Tâm, đề cao chữ
“Nhẫn” như một biện pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn, khiến lu mờ cá
tính con người, mất đi tính chủ động, sáng tạo vốn là bản chất của con
người xã hội. Đó là chưa kể đến việc giáo lý Phật giáo hình thành trong con
người cách nhìn đời có tính bi quan, pha trộn chút hư vô chủ nghĩa.
Mà trong điều kiện hiện nay, sau hơn 80 năm chiến tranh và hàng
chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống nước ta còn nghèo
nàn lạc hậu, nên rất cần đến sự phát triển. Phát triển ở đây là sự tăng trưởng
của kinh tế, sự nâng cao về đời sống vật chất và văn hoá. Để đạt được điều
đó, chúng ta cần đến những con người có tham vọng lớn, năng động, tự tin,
lạc quan và sáng tạo. Mà những phẩm chất này lại trái với các giáo lý đạo
Phật, như tham vọng trái với yêu cầu cấm dục-ly dục-vô dục, năng động
sáng tạo trái với tinh thần nhẫn nhục chịu đựng Ngày nay, tuy đạo Phật
đã cố gắng thay đổi theo chiều hướng nhập thế hơn, nhưng rõ ràng, trong
25

×