Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận chuyên nghành ctxh- thực trạng trẻ em lao động sớm hiện nay tại tp.vinh - nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.37 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
TÊN ĐỀ TÀI: CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM LAO
ĐỘNG SỚM TẠI PHƯỜNG CỬA NAM – TP.VINH – TỈNH
NGHỆ AN
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta biết, hiện nay không chỉ riêng Việt Nam mà ngay cả trên
thế giới đều tồn tại những đối tượng là trẻ em lao động sớm. Thực trạng này
xảy ra và ngày càng trở thành tiếng chuông báo động lớn của mỗi một quốc
gia. Trẻ em lao động sớm xuất hiện ở nhiều nơi, cả khu vực nông thôn và
thành phố, tuy nhiên số lượng lớn là bắt nguồn từ nông thôn. Ở nông thôn,
công việc chính của các em vẫn là những việc đồng áng, còn ở thành thị thì
tính chất công việc đa dạng hơn. Vì vậy, khi xã hội phát triển, an sinh được
đảm bảo thì sự tồn tại của nhóm đối tượng này là một điều không nên. Chúng
ta cần có biện pháp phù hợp để giúp đỡ những đối tượng này. Theo phân loại,
trẻ em lao động sớm được liệt vào danh sách trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Bởi vậy, việc giúp đỡ trẻ em lao động sớm không chỉ là trách nhiệm của riêng
một cá nhân, tổ chức nào mà là của toàn xã hội, trong đó nhân viên công tác
xã hội đóng một vai trò lớn trong tiến trình giúp đỡ trẻ em.
Qua đây tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến giảng viên Ông Mai
Thương, bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo
phường Cửa Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt báo
cáo này. Để thực hiện tốt tiểu luận này, tôi đã tiến hành nghiên cứu góp nhặt
kiến thức từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chắc chắn sẽ không tránh khỏi
thiếu sót, hi vọng được sự đóng góp chân thành của tất cả mọi người.
Vinh, ngày 26/ 05/ 2010
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
1
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
1. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, trẻ em là một phần quan trọng của xã hội, là tương
lai tươi sáng của đất nước, là tờ giấy trắng được xã hội dần dần vẽ lên trong


quá trình xã hội hóa. Trẻ em cũng như một số nhóm đối tượng khác dễ bị tổn
thương bởi những quy kết, tác động từ bên ngoài. Trẻ em cần dược hưởng
những gì tốt đẹp nhất, những nhu cầu về ăn, mặc, ở, học hành,và nhu cầu phát
triển an toàn. Vì vậy cần thiết chúng ta phải có những biện pháp cụ thể để
giúp trẻ em được sống với những nhu cầu chính đáng của mình. Trong hàng
loạt những vấn nạn đó tình trạng trẻ em bị bóc lột, bị lạm dụng sức lực, bị
ngược đãi, bị sang chấn tâm lý đang là vấn đề nhức nhối.
Đứng trước những vấn đề đó, với tư cách là người làm công tác xã hội
trong tương lai giúp đỡ nhóm yếu thế, tôi xin chọn đối tượng “trẻ em lao
động sớm” làm đề tài nghiên cứu trong đợt thực tế kiến tập lần này. Thông
qua đó tôi xin trình bày những hiểu biết của mình về trẻ em lao động sớm, và
vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ, can thiệp, giúp đỡ các em
có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và được hưởng những gì thuộc về các
em.
Vậy nguyên nhân do đâu mà các em phải sớm lao vào cuộc sống mưu
sinh mà quên đi tuổi thơ của mình?Và chúng ta phải làm gì để giúp cho trẻ
em có được cuộc sống tốt đẹp nhất? Câu hỏi này muốn trả lời được cần phải
có sự chung tay, góp sức của toàn xã hội, ý thức của tất cả mọi người dành
cho tương lai của Đất nước.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
2
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Trẻ em luôn là ưu tiên hàng đầu của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn
xã hội, hầu hết ai cũng có ý thức dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất, đảm
bảo cho trẻ em có được một cuộc sống đầy đủ cả về vật chất và tinh thần. Thế
nhưng, bóc lột sức lao động trẻ em hay tình trạng trẻ em phải lao động sớm
không phải là mới lạ với chúng ta, đây lại là vấn đề đặc biệt nhạy cảm của
những người làm Công tác xã hội.
Nghành Công tác xã hội (Social Work) cũng đã lập ra một chuyên

nghành mang tên “Công tác xã hội trẻ em” để nghiên cứu những vấn đề mà
trẻ em gặp phải, những nhu cầu mà trẻ em mong muốn, và giúp người lớn
hiểu những điều mà trẻ em chỉ nói ra bằng hành động, cử chỉ, hay ánh mắt.
Cũng đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về trẻ em, về các vấn đề như: nạn
bạo hành trẻ em, trẻ em lang thang – những cơ hội học tập, trẻ em bị sang
chấn tâm lý, và tình trạng lao động sớm ở trẻ em, trẻ em vi phạm pháp luật…
Nổi bật lên là những đề tài nghiên cứu được nhiều người biết đến và
công nhận như:
• Lao động trẻ em trên địa bàn TP. HCM – thực trạng và giải pháp
(TS. Đỗ Thị Loan – Viện nghiên cứu và phát triển TP. HCM)
• Chùm nghiên cứu về đề tài trẻ em (Viện nghiên cứu và phát triển
xã hội) trong đó đề cập đến vấn đề sức khỏe của trẻ em lao động sớm.
• Công tác xã hội với trẻ em lao động sớm (đăng tải trên diễn đàn
Vnsocialwork.net)
Và rất nhiều bài báo, bài tiểu luận của sinh viên các trường Đại học cũng
chọn lao động trẻ em làm đối tượng chính. Qua đó có thể thấy được mức độ
quan trọng của vấn đề là như thế nào.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
3.1. Ý nghĩa khoa học:
Đây là vấn đề đáng quan tâm của tất cả các cấp, các nghành và của toàn
xã hội, bởi trẻ em chính là tầng lớp sẽ kiến tạo nên một xã hội mới giàu mạnh
và văn minh hơn. Nhưng cũng trẻ em hiện nay đang gặp phải những vấn đề
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
3
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
dẫn đến hạn chế phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần. Thông qua đề tài
nghiên cứu này hi vọng rằng toàn xã hội sẽ quan tâm hơn đến những mầm
non tương lai của Đất nước, đặc biệt là những em có hoàn cảnh đặc biệt.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Khơi dậy trong mỗi người ý thức về chăm sóc và bảo vệ trẻ em, cho trẻ

em đựợc phát triển trong môi trường an toàn nhất. Trang bị những kiến thức
cơ bản nhất cho các bậc làm cha làm mẹ, những người lớn về nhu cầu phát
triển của trẻ thơ.
4. Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng:
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phải lao động sớm.
4.2. Khách thể:
Nhóm trẻ em từ 7 – 18 tuổi phải đi làm kiếm sống.
4.3. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu về thực trạng trẻ em lao động sớm ở TP. Vinh
4.4. Mục tiêu nghiên cứu:
- Những công việc các em phải làm
- Nguyên nhân vì sao các em phai lao động sớm.
4.5. Phạm vi nghiên cứu:
• Không gian: Khối 12 – phường Cửa Nam – TP. Vinh – tỉnh
Nghệ An.
• Thời gian: từ ngày 10 – 23/ 05/ 2010
5. Phương pháp nghiên cứu:
Qua một thời gian ngắn tìm hiểu, làm việc tại địa bàn phường Cửa Nam
chúng tôi đã sử dụng những phương pháp thu thập thông tin để có được
những thông tin chính xác nhất về những vấn đề nảy sinh ở đây:
• Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu.
• Phương pháp quan sát trong khi phỏng vấn.
• Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp.
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
4
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Chúng tôi đã tiến hành những phương pháp thu thập thông tin này với
các đối tượng là trẻ em lao động sớm, những người sử dụng lao động sớm,
cha mẹ các em, những người có thẩm quyền tại địa phương, và một số người

có liên quan khác.
6. Giả thuyết nghiên cứu:
• Trẻ em phải lao động sớm trên địa bàn phường Cửa Nam, Tp.
Vinh tập trung chủ yếu ở các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
• Nguyên nhân của tình trạng trẻ em lao động sớm gồm có:
hoàn cảnh kinh tế gia đình, sự thiếu nhận thức của các bậc làm cha làm mẹ,
những nguyên nhân từ xã hội, do bất cập của pháp luật, sự yếu kém của các
cơ quan quản lý.
• Hậu quả của tình trạng trẻ em lao động sớm: các em phải bỏ học
chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống.
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
5
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các lý thuyết làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu:
• An sinh xã hội: Về cơ bản là một hệ thống các biện pháp thực thi
bởi các tổ chức xã hội hay Nhà nước, bao gồm chính sách và pháp luật,
chương trình quyền lợi và dịch vụ đáp ứng những nhu cầu con người.
• Công tác xã hội trẻ em: Là một trong những lĩnh vực hoạt động
chính của Công tác xã hội, nó nhằm thúc đẩy mối quan hệ của trẻ em với các
lực lượng xã hội và gia đình để giải quyết vấn đề của trẻ. Với những trẻ em
lao động sớm, nhân viên Công tác xã hội cần đưa ra những phương pháp tiếp
cận phù hợp để nhằm giúp các em có được những nhu cầu của bản thân, tránh
đi những thiệt thòi và tổn thương không đáng có.
1.2. Các khái niệm công cụ:
1.2.1. Trẻ em:
• Theo công ước Quốc tế: “Trẻ em được xác định là người dưới 18
tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn.”
• Theo Luật chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em 1991: “Trẻ em là

công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.”
• Theo định nghĩa sinh học: “Trẻ em là con người ở giai đoạn phát
triển, từ khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành.”
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
6
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
• Tâm lý học cho rằng: “Trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển
tâm lý – nghiên cứu con người.”
• Nhìn dưới góc độ Xã hội học: “Trẻ em là giai đoạn xã hội hóa
mạnh nhất và là giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân
cách của mỗi con người.”
1.2.2. Trẻ em lao động sớm:
Là những trẻ em phải lao động để tự nuôi sống bản thân, gia đình, sống
trong những điều kiện không an toàn, ngoài làm việc hầu như các em không
có các hoạt động vui chơi giải trí.
1.3. Nhu cầu cơ bản của trẻ em:
1.3.1. Nhu cầu chung của trẻ em:
• Nhu cầu vật chất: bao gồm thực phẩm, nước uống, nơi ở, điều
kiện chăm sóc vệ sinh, sức khỏe. Tất cả các yếu tố này đảm bảo cho sự phát
triển thể lực của trẻ.
• Nhu cầu mái ấm gia đình: đó là tình yêu thương của ông bà,
cha mẹ, anh chị, họ hàng. Gia đình êm ấm là chỗ dựa vật chất và tinh thần an
toàn nhất đối với các em. Gia đình là cái nôi đầu tiên cho các em học cách xã
hội hóa cá nhân, từ đây các em học cách làm người, học cách cho và nhận
tình yêu thương nhân loại, học cách gánh vác các trách nhiệm của người cha,
người mẹ, người anh, người chị,…Mối quan hệ xã hội sau này ở tuổi trưởng
thành có thành công hay không là phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng mối
quan hệ gia đình của trẻ.
• Nhu cầu được vui chơi, học hành, được phát triển trí tuệ: hoạt
động vui chơi cũng như học hành sẽ giúp các em trải nghiệm cuộc sống, phát

triển trí tuệ và tích lũy kiến thức, hiểu biết cho mai sau.
• Nhu cầu được thừa nhận, được tôn trọng: việc thừa nhận
những đặc điểm tính cách sẽ làm tăng tính tự tin ở trẻ; những lời khen, những
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
7
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
công nhận thành tích của trẻ sẽ làm tăng nghị lực, giúp trẻ vượt qua khó khăn
mỗi khi vấp ngã.
1.3.2. Nhu cầu của trẻ em lao động sớm:
Theo đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Đánh giá nhu cầu giáo dục của
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”. Ngoài những nhu cầu nêu trên thì nghiên cứu
đánh giá nhu cầu giáo dục của trẻ em lao động sớm đã chỉ ra rằng phần lớn
các trẻ em phải lao động sớm vẫn có nhu cầu giáo dục. Các em mong được
học tập với chương trình và hình thức giáo dục linh hoạt, giáo dục thường
xuyên và dặc biệt cần các khóa đào tạo nghề ngắn hạn với các nghề mà xã hội
đang cần, dễ xin được việc làm. Các khảo sát trường hợp tại địa phương cũng
cho thấy nhu cầu giáo dục phòng ngừa trẻ em lao động sớm, tác động đến ý
thức của phụ huynh và giáo viên phổ thông về quyền học tập của trẻ em, sự
nhạy cảm trước mỗi số phận, nhất là trẻ em gia đình nghèo và có học lực yếu
kém(nhóm dễ bỏ học tham gia lao động sớm nhất).
1.4. Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
Công ước về quyền trẻ em là luật Quốc tế để bảo vệ Quyền trẻ em bao
gồm 54 điều khoản. Công ước đề ra các Quyền cơ bản của con người mà trẻ
em trên toàn Thế giới đều được hưởng và được Liên hiệp quốc thông qua năm
1989.
Công ước đã được hầu hết các nước trên Thế giới đồng tình và phê
chuẩn. Việt Nam là nước đầu tiên ở Đông Nam Á và là nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em. Trong đó nêu lên bốn
nhóm quyền chính của trẻ em là :
• Quyền được sống còn

• Quyền được bảo vệ
• Quyền được phát triển
• Quyền được tham gia
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
8
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Việc phân chia bốn nhóm quyền này chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên
thực tế các nhóm quyền này có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau.
Chương 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
TẠI PHƯỜNG CỬA NAM - TP. VINH - TỈNH NGHỆ AN
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan:
Cửa Nam là một trong những địa bàn có vị trí của ngõ của thành phố
Vinh, nằm ở phía Tây Nam của thành phố, với diện tích tự nhiên 197, 135 ha.
Địa hình Cửa Nam khá phong phú, bao gồm vùng bằng phẳng xen lẫn sông
hồ. Đây là nơi có điều kiện giao thông thuận lợi, cả đường bộ lẫn đường sông.
Chính vì vậy, đời sống kinh tế nơi đây cũng phát triển khá đa dạng, nhiều loại
hình kinh doanh dịch vụ cả trên bộ lẫn trên sông. Nhìn chung, phường Cửa
Nam có nhiều nét khá đặc thù, đó là một đặc điểm tự nhiên dễ nhận thấy của
phường. Đất đai ở đây tương đối màu mỡ, đó là dấu tích phù sa của sông Cả
thời xa xưa. Tuy nhiên, hiện nay do điều kiện đô thị hóa nhanh chóng nên
diện tích đất nông nghiệp của phường đã bị thu hẹp.
Về mặt dân cư, dân số hiện nay của phường là 13.000 người (năm 2004),
với 16 khối dân cư, được chia làm 2 vùng dân cư phía Đông và phía Nam.
Đời sống dân cư ở đây cũng có sự khác nhau. Dân vùng dưới phía Đông (từ
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
9
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
khối 1 đến khối 9) chủ yếu là kinh doanh buôn bán, dịch vụ; sản xuất tiểu thủ
công nghiệp. Dân vùng trên, phía Tây (từ khối 10 đến khối 15) chủ yếu là dân

sản xuất nông nghiệp của HTX nông nghiệp Vĩnh Nam và dân ngụ cư. Riêng
khối 12 và khối 15 chủ yếu là dân của hai HTX vận tải đường sông, bốc xếp.
Sau khi xóa bỏ bao cấp, các HTX giải thể nhân dân chuyển sang làm các nghề
dịch vụ như: dịch vụ vận tải, bốc xếp. làm mộc, buôn bán kinh doanh, sản
xuất cơ khí phục vụ nông nghiệp.
Từ những vấn đề kinh tế - xã hội nêu trên có thể thấy rằng tình trạng trẻ
em phải bỏ học lao động sớm rơi vào vùng phía Tây của phường nơi có trình
độ dân trí thấp hơn và người dân chủ yếu là hoạt động nông nghiệp, đặc biệt
là ở khối 12, nơi được chọn làm địa bàn nghiên cứu.
2.2. Thực trạng “trẻ em lao động sớm”.
Theo số liệu mới công bố của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), hiện có
khoảng 218 triệu lao động trẻ em trên toàn thế giới, trong đó 100 triệu là trẻ
em gái và hơn một nửa số trẻ em gái này đang phải lao động trong các điều
kiện nguy hiểm, độc hại. Ở Việt Nam độ tuổi trung bình trẻ em bắt đầu lao
động là 13 – 14 tuổi. Trẻ em vạn đò phải học chèo thuyền từ 5 – 6 tuổi, 10 –
12 tuổi đã đi làm kiếm tiền…
Những số liệu gần đây cho thấy, trẻ em từ 6 – 17 tuổi tham gia vào
những hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% lao động
ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức
khỏe, vệ sinh không đảm bảo…) tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao;
71,2% trẻ em làm việc từ 9 – 12 giờ/ ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày chủ
nhật; 1% trẻ làm việc trong diều kiện sức khỏe yếu. Nhóm trẻ độ tuổi từ 15 –
17 tuổi có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều
đáng lưu ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều
kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng…
Kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư cho thấy, trong vòng 5 năm lại
đây, cả nước cả nước có khoảng trên dưới 40.000 trẻ em tham gia các hình
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
10
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH

thức lao động. Trẻ em nông thôn tham gia hoạt động kinh tế sớm hơn và
nhiều hơn trẻ em thành thị, với khoảng 19% so với trên dưới 7%. Trẻ em ở
những vùng quê nghèo, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên,
Đồng bằng sông Cửu Long phải lao động nhiều hơn, các chỉ số này lần lượt ở
những vùng kể trên là 25,9%; 19,8% và 19,7%.
Tại địa bàn phường Cửa Nam theo ước tính toàn phường có khoảng 2300
trẻ em, và có khoảng 7% trong đó rơi vào tình trạng lao động sớm. Tại điạ
bàn nghiên cứu thuộc khối 12 của phường có tổng số trẻ em là 175 em, trong
đó có 65 em độ tuổi từ 10 – 15 tuổi, 50 em từ 16 – 18 tuổi. Theo thống kê của
phòng Chính sách và Xã hội phường, thì có 12% số trẻ em của khối phải đi
làm kiếm sống.
Em N.V.H (16 tuổi) hiện đang làm thợ phụ tại xưởng sản xuất cơ khí
phục vụ nông nghiệp (nằm trên địa bàn khối 12). Tâm sự với chúng tôi, H kể
lấy lý do nhà ở gần xưởng ông chủ thường bắt H phải đến sớm dọn dẹp lại
xưởng, làm những việc lặt vặt nhưng không kém phần nặng nhọc. Ông chủ
còn nói những việc đó mới phù hợp với số tiền lương 600.000 đ/tháng. Theo
điều tra tìm hiểu tôi được biết đây không phải là trường hợp duy nhất mà còn
rất nhiều những đứa trẻ làm việc trong xưởng cơ khí tư nhân này, các em chủ
yếu là con em của những gia đình trong vùng và những vùng lân cận. Hàng
ngày các em phải làm việc từ 5 giờ sáng, đến tận 7 giờ tối thì được nghỉ, hôm
nào nhiều hàng thì phải tăng ca nhưng lại không được tăng lương. Công việc
thường không được định trước mà do chủ giao việc gì thì làm việc đó, lúc thì
vận chuyển hàng, giao hàng cho khách, có khi các em phải mang những thanh
sắt nặng gấp mấy lần cơ thể mình trên vai. H chăm chỉ làm việc ở đây là vì đã
được ông chủ hứa dạy nghề cho, nhưng 3 năm trôi qua em vẫn chỉ là một thợi
phụ, chân sai vặt của chủ với đồng lương ít ỏi.
Em H.T.T (14 tuổi) nhà ở khối 12, đã làm thuê cho một nhà hàng ở khối
10 được hơn 1 năm nay. Ngày nào cũng như ngày nào em phải thức khuya
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
11

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
dậy sớm dọn dẹp, rửa bát, quạt than, bưng bê cho khách và hàng trăm việc lặt
vặt khác. Làm việc vất vả là thế nhưng tiền lương mỗi tháng chỉ được hơn
700.000đ, em lại hầu như chẳng được tham gia bất cứ hoạt động nào của một
đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi chơi. Khi được hỏi lý do vì sao em lại chấp nhận đi
làm thuê mà không đi học em chỉ trả lời: “tại nhà em nghèo quá, em lại là chị
cả, sau em còn có 2 em nữa”.
Trong những trẻ em lao động sớm, phải kể đến hàng trăm trẻ em lang
thang trên các đường phố của Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, TP.Vinh…Dù
đang tuổi đến trường nhưng các em phải lê bước khắp đầu đường xó chợ bán
vé số, ăn xin…Khi được hỏi các em làm việc tại xưởng cơ khí, và quán ăn
trên địa bàn phường đều nói muốn được đi học, vui chơi như các bạn cùng
trang lứa nhưng vì nghèo đói mà phải bươn chải sớm, mưu sinh phụ giúp gia
đình không thực hiện được những quyền cơ bản của mình.
Những con số thống kê ở trên, mặc dù nó không hoàn toàn thể hiện được
thực trạng của số trẻ em lao động sớm của cả nước nhưng đó cũng phản ánh
được thực trạng trẻ em lao động sớm, đòi hỏi các cơ quan, các ban nghành
lãnh đạo cần có những biện pháp phù hợp để hạn chế và tính đến việc giải
quyết triệt để tình trạng này. Việc trẻ em phải từ bỏ tuổi thơ của mình, xa quê
để ra thành phố kiếm sống là một điều hoàn toàn thiệt thòi cho các em khi mà
ở lứa tuổi này các em đang có những ước mơ, hoài bão, đang trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện. Nhìn chung lại, tình
trạng này không phải dửng dưng mà có, nó được bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân khác nhau.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến “trẻ em lao động sớm”
2.3.1. Kinh tế:
Có thể nói đây là nhân tố mang tính chất quyết định khiến các em phải
lao vào con đường mưu sinh khi còn quá bé. Do hoàn cảnh gia đình không
cho phép các em tiếp tục được đến trường, sự thiếu quan tâm của các bậc làm
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm

12
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
cha làm mẹ không quan tâm đến nguyện vọng của con em mình. Và trẻ em
chính là đối tượng mà những chủ kinh doanh dễ dàng sử dụng chiêu bài “tận
thu lao động giá rẻ”.
2.3.2. Xã hội:
Thái độ thờ ơ không quan tâm của xã hội, coi thường các em khiến các
em cảm thấy tự ti với hoàn cảnh của mình, dẫn đến ngại bộc lộ bản thân. Đây
là nguyên nhân dẫn đến một số chúng bệnh tâm lý của một số trẻ em phải lao
động sớm.
2.3.3. Giáo dục:
Trẻ em lao động sớm không được đến trường hoặc phải bỏ học giữa
chừng do nghèo đói, do sự chê bai, khinh thường của bạn bè. Khi ra ngoài xã
hội các em vẫn có quyền được học hỏi để nâng cao hiểu biết của mình và
được học nghề để có thể tự nuôi sống bản thân bằng năng lực sẵn có chứ
không phải là bán sức lao động của mình với giá rẻ.
2.3.4. Y tế:
Đa phần trẻ em lao động sớm thường phải lao động trong điều kiện nặng
nhọc, quá sức mình, hoặc trong môi trường khắc nghiệt. Cho nên việc mắc
phải các bệnh làm giảm chức năng phát triển của cơ thể là điều không thể
tránh khỏi. Ở đây nêu lên yêu cầu cần có những chính sách, quy định mới để
trẻ em lao động sớm cũng có quyền được chăm sóc sức khoẻ như những
người lao động khác.
2.3.5. Pháp luật:
Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em “nghiêm cấm việc sử dụng lao
động trẻ em trái quy định của pháp luật, có hại cho sự phát triển bình thường
của trẻ em”. Khi phải bỏ học đi lao động các em đâu có biết Bộ luật bảo vệ
mình, cho phép mình không phải tham gia những công việc lao động ảnh
hưởng đến sự phát triển bình thường của mình. Nhưng không thể ngăn cấm
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm

13
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
được những gia đình bắt con em của họ tham gia lao động để tăng thu nhập,
để khắc phục khó khăn do đói nghèo.
2.4. Nguyên nhân của tình trạng trẻ em lao động sớm.
- Trước hết là do kinh tế gia đình khó khăn, đây là nguyên nhân chính
dẫn đến thực trạng này. Do gia đình trẻ có hoàn cảnh quá nghèo khó, xuất
phát từ trẻ em muốn có tiền để tự tiêu dùng riêng, và có cả trường hợp trẻ em
bị gia đình bắt đi làm nhưng rất ít. Trẻ em lao động sớm góp được khá nhiều
cho gia đình thậm chí có những em là thu nhập chính, 42,2% trẻ có thu nhập
trên 20.000đ/ tháng; gần 10% trẻ có thu nhập cao hơn mức này; 39% trẻ lao
động sớm còn lại có thu nhập 6000 – 10.000đ/ ngày (theo số liệu thống kê
năm 2007). Trong số các em lao động sớm ở khối 12 - phường Cửa Nam có
tới hơn một nửa phải làm việc trên 8 giờ mỗi ngày, 1/3 trong số đó phải làm
việc cả ngày chủ nhật. Và có cả trường hợp làm việc kiếm sống vào ban đêm.
Vì gia đình các em không có điều kiện đáp ứng được các nhu cầu phát
triển của trẻ, không có điều kiện được đi học. Tuổi còn bé nhưng phải lang
thang kiếm sống với nguồn thu nhập ít ỏi là thực trạng cần báo động cho các
bậc cha mẹ và các cơ quan chức năng ban nghành.
- Nguyên nhân thứ hai là do bắt nguồn từ chính nhận thức của bố mẹ các
em về quyền của trẻ thơ rất mơ hồ, ngay cả như quyền phát triển của trẻ:
quyền được học tập, quyền được vui chơi giải trí lành mạnh, quyền được phát
triển năng khiếu…họ hoàn toàn không biết, họ cho rằng gia đình còn nghèo
nên việc cho con em nghỉ học, lao động là chuyện hiển nhiên. Nhiều chuyên
viên hoạt động trong lĩnh vực trẻ em cũng cho biết, trẻ em không biết được
quyền lợi mà lẽ ra chúng phải được hưởng theo pháp luật. Ngay cả bố mẹ
chúng cũng không quan tâm, hay nói đúng hơn là họ không hề biết nên đã vô
tình vi phạm “Luật lao động” khi bắt con cái phải làm việc quá sớm. Và lời
giải thích cho những bậc cha mẹ có con lao động sớm thường là “nếu như gia
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm

14
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
đình chúng tôi dư dả, dại gì không cho con cháu mình học hành đến nơi đến
chốn để có tương lai tươi sáng hơn, tội gì bắt nó lao động vất vả…”
- Thứ ba là nguyên nhân từ chính xã hội: Trong xã hội nhiều người còn
chấp nhận sử dụng lao động trẻ em, chưa có một cái nhìn đúng đắn về quyền
lợi của trẻ và những vi phạm pháp luật nếu sử dụng lao động trẻ em.
- Cuối cùng là do những bất cập của pháp luật, những chính sách, sự yếu
kém trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước, ý muốn chủ quan của
người sử dụng lao động và nhu cầu riêng của các em cũng là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trẻ em lao động sớm ngày càng có xu hướng phát triển như
hiện nay.
Trên đây là một số nguyên nhân khiến trẻ em phải lao động sớm. Thực
trạng này xảy ra nhiều và đang trở thành nỗi lo lớn của xã hội. Trẻ em lao
động sớm gây ra nhiều hậu quả không những đối với các em mà còn đối với
cả gia đình và xã hội.
2.5. Hậu quả của tình trạng trẻ em lao động sớm.
2.5.1. Đối với bản thân các em:
Các em phải bỏ học, thất học nên không có cơ hội phát triển, thu nhập
thấp. Các em còn có thể chịu nhiều hậu quả như tai nạn lao động, suy dinh
dưỡng, bị khủng hoảng về tinh thần, mất niềm tin, dễ bị tha hoá về đạo đức
lối sống, hay sa vào các tệ nạn xã hội hoặc trộm cắp, gây ảnh hưởng trực tiếp
đến bản thân gia đình các em. Trong thực tế nhiều trường hợp các em ra thành
phố kiếm sống, không có chút kỹ năng và hiểu biết gì nên đã dễ dàng bị lôi
kéo gây ra những hậu quả đáng tiếc cho bản thân các em.
2.5.2. Đối với gia đình:
“Trẻ em lao động sớm” chịu nhiều những thiệt thòi và hậu quả nghiêm
trọng. Khi trong gia đình có một em lao động sớm mắc phải một số vấn đề về
sức khoẻ sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế gia đình, nhất là trong việc chữa
trị sức khoẻ cho các em.

GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
15
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
2.5.3. Đối với xã hội:
“Trẻ em lao động sớm” gây tình trạng đói nghèo, kém phát triển, làm cho
các giá trị đạo đức và tinh thần chung bị phai nhạt. Lực lượng lao động què
quặt không đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Khi trẻ
tham gia lao động sẽ làm cho lao động người lớn thất nghiệp gia tăng, bởi lẽ
lao động trẻ em có thể làm những công việc của người lớn nhưng chỉ phải trả
đồng lương thấp hơn. Điều này có hại cho các em, gia đình, và toàn xã hội
nhưng lại có lợi cho một số người sử dụng lao động. Nếu như tình trạng sử
dụng lao động trẻ em diễn ra ở mức độ lớn, phạm vi rộng thì một số mặt hàng
được sản xuất bằng sức lao động trẻ em phải đối mặt với sự tẩy chay trên thị
trường Quốc tế, nhất là khi gia nhập WTO.
Chương 3
MÔ HÌNH CAN THIỆP
Với vấn đề trẻ em lao động sớm, muốn tìm kiếm một giải pháp độc lập
hữu hiệu, là việc rất khó. Chúng ta cần thực hiện cùng lúc nhiều giải pháp tạo
ra một hợp lực cùng chiều để giải quyết thì mới đạt hiệu quả cao.
- Nhóm giải pháp thứ nhất là: gia đình và xã hội cùng có trách nhiệm với
trẻ em. Điều có tính quyết định nhất là, người làm cha, làm mẹ hơn ai hết phải
ý thức được nghĩa vụ của mình với con cái; mỗi tính toán, mỗi sự định đoạt
của cha mẹ là một định hướng cuộc đời tương lai của các con, vì thế không vì
nghèo túng, không vì bức xúc bởi đồng tiền, bát gạo mà bắt con cái phải bỏ
học, sớm dấn thân vào những công việc quá nặng nhọc, lam lũ, đánh mất tuổi
thơ trong trắng. Trong trường hợp này, về phía Nhà nước và cộng đồng phải
thông qua các chính sách tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, miễn giảm học
phí, viện phí, cứu trợ xã hội để giúp họ có thể vượt qua khốn khó.
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
16

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
- Nhóm giải pháp luật pháp, chính sách, quản lý: Phải nhấn mạnh hơn
nữa việc chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Trong chương trình hành động
bảo vệ và phát triển trẻ em Việt Nam (được Chính phủ quyết định từ thập
niên cuối cùng của thế kỷ trước) và trong chỉ đạo thực hiện chương trình này,
cho đến nay hầu như mới chỉ tập trung nhiều vào bốn loại vấn đề là sức khỏe
cho mọi trẻ em; giáo dục tiểu học; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần; quan
tâm đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Một chừng mực nào đó có
nói đến giáo dục trẻ em hư, phạm pháp, nhưng chưa đề cập thỏa đáng đến
việc chống lạm dụng sức lao động trẻ em là vấn đề xuất hiện và phát triển khá
nhanh trong nền kinh tế thị trường.Năm 1994, Quốc hội khóa IX đã thông qua
Bộ luật Lao động và Luật có hiệu lực từ 01-1-1995. Điều 119 khoản 2 nói
“Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên”, nhưng từ
đó đến nay, các cơ quan hữu trách cũng chưa giám sát, kiểm tra, kiểm soát
xem điều khoản này được thực hiện như thế nào. Chúng tôi cho rằng, trong
nền kinh tế thị trường và trong tình hình hiện nay, phải nhấn đậm vấn đề bảo
vệ và phát triển của trẻ em, triệt để chống lạm dụng sức lao động trẻ em. Vì
nếu trẻ em lâm vào tình trạng lao động sớm, làm việc quá sức thì các mục tiêu
bảo vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa tinh thần đều khó mà thực hiện
được. Mặt khác, các cơ quan chức năng phải tổ chức nhiều đợt kiểm tra, giám
sát, thanh tra việc thực hiện Điều 119 khoản 2 Bộ luật Lao động và xử lý vi
phạm một cách nghiêm khắc, khách quan.
- Nhóm giải pháp thứ ba là tuyên truyền vận động (trong đó phải quan
tâm nhiều đến khu vực nông thôn): Trong nhiều thông tin khó đến được các
vùng nông thôn xa xôi thì có thông tin về lao động và việc làm. Trong thông
tin về lao động và việc làm thì các thông tin về lạm dụng sức lao động trẻ em
và biện pháp ngăn ngừa lại càng ít ỏi và hầu như không có. Do thiếu thông
tin, nên có những gia đình cho con thôi học để ra thành phố kiếm sống với
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
17

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
mong muốn vừa bớt được nhân khẩu phải nuôi, vừa đỡ đần được cha mẹ, khi
xảy ra hậu quả nặng nề thì đã muộn.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trẻ em lao động sớm đang là một vấn nạn xã hội. Vì vậy chúng ta cần
thiết phải có những cái nhìn cụ thể và sâu sắc hơn về vấn đề này. Công tác xã
hội cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình để trẻ em không còn là đối
tượng của sự bóc lột hành hạ và bị ngược đãi. Bởi đó là tương lai của một
quốc gia dân tộc.
Trẻ em lao động sớm cần thiết phải được quan tâm hơn nữa để vấn đề
này không còn là một vấn nạn của xã hội.
Các cơ quan có chức năng trong việc chăm sóc cho trẻ cần phải phát
huy hơn nữa vai trò của mình để trẻ em có thể sống trong một môi trường
hoàn toàn phù hợp với trẻ.
2. Khuyến nghị:
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
18
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Bởi đây không phải là vấn đề của riêng mỗi cá nhân, mà là mối quan
tâm chung của toàn xã hội, của các tổ chức trong xã hội. Bản thân tôi thông
qua đề tài này xin đửa ra một số khuyến nghị để mong sớm chấm dứt tình
trạng trẻ em lao động sớm.
- Phát triển hơn nữa kinh tế gia đình để không còn hộ nghèo đói, có như
vậy trẻ em mới được đi học và không phải lao động nặng nhọc.
- Tạo ra môi trường lành mạnh cho trẻ em, đáp ứng tất cả mọi quyền lợi
mà trẻ em đáng có, giúp đỡ tạo việc làm phù hợp cho những trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt.
- Nâng cao ý thức của các bậc cha mẹ, những người sử dụng lao động
về những việc trẻ em nên và không nên làm bằng các buổi giáo dục tuyên

truyền về quyền trẻ em.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
19
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Trẻ em nghèo sớm phải bán sức lao động cử mình
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
20
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
Giúp việc tại nhà hàng
Đập đá, vác gạch, công việc quá sức đối với trẻ em
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
21
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề tài “Đánh giá nhu cầu giáo dục của trẻ em có hoàn cảnh đặc
biệt” (Viện nghiên cứu khoa học giáo dục)
2. Lê Văn Phú, Nhập môn công tác xã hội, Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội, 2007
3. Ts. Mai Thị Kim Thanh, Công tác xã hội trẻ em, Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2007
4. Uỷ ban nhân dân phường Cửa Nam, Báo cáo Đại hội Đảng bộ
phường nhiệm kỳ 2005 – 2010, TP.Vinh, 2010.
4. Trang wed trích dẫn thông tin:
1.
2.
3.
som/20105/186016.laodong
4.
dong-som-Khong-de-khi-con-ho-ngheo/20101/172018.laodong

GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
22
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC NỘI DUNG TRANG
Lời mở đầu 1
1 Lý do chọn đề tài 2
2 Tổng quan vấn đề nghiên cứu 2
3 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
4 Đối tượng, khách thể, và phạm vi nghiên cứu 4
5 Phương pháp nghiên cứu 4
6 Giả thuyết nghiên cứu 4
Chương 1 Cơ sở lý luận 6
1.1 Các lý thuyết làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu 6
1.2 Các khái niệm công cụ 6
1.3 Nhu cầu cơ bản của trẻ em 7
1.4 Công ước quốc tế về quyền trẻ em 8
Chương 2 Thực trạng lao động trẻ em tại phường Cửa Nam –
Tp.Vinh - Nghệ An
9
2.1 Điều kiện kinh tế - xã hội có liên quan 9
2.2 Thực trạng “trẻ em lao động sớm” 10
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến “trẻ em lao động sớm” 12
2.4 Nguyên nhân 13
2.5 Hậu quả 15
Chương 3 Mô hình can thiệp 16
Kết luận, khuyến nghị 18
Danh mục tài liệu tham khảo 21
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
23
TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
GVHD: Ông Thị Mai Thương SVTH: Nguyễn Thị Thắm
24

×