Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

thái độ của sinh viên trường đhkhxh&nv với kỉ cương học đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.55 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
o0o
BÁO CÁO KHOA HỌC
Tên đề tài:
THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐHKHXH&NV VỚI KỈ CƯƠNG
HỌC ĐƯỜNG
Giáo viên hướng dẫn: T.S. Nguyễn Hữu Thụ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Khánh Ly
Lớp : K45 Tâm Lý Học
Hà Nội 3/2003
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
IV. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
V. Giả thuyết nghiên cứu
VI. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài
A. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu thái độ
I. Nghiên cứu thái độ trong TLH Phương Tây
II. Nghiên cứu thái độ ở Liên Xô cũ
B. Các khái niệm cơ bản của đề tài
I. Khái niệm thái độ
1. Khái niệm thái độ
2. Đặc điểm thái độ
3. Cấu trúc của thái độ


4. Chức năng của thái độ
5. Cơ chế hình thành thái độ
6. Các yếu tố quyết định tới sự hình thành và phát triển của thái độ
7. Thang đo thái độ
II. Khái niệm sinh viên
III. Kỷ cương học đường
IV. Thái độ của sinh viên với kỷ cương học đường
V. Chương II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
I. Nhận thức của sinh viên đối với kỉ cương học đường
1. Hiểu biết của sinh viên về các nội quy, quy chế của khoa, trường
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như việc thực hiện các nội quy,
quy chế của sinh viên
2
II. Xúc cảm, tình cảm của sinh viên đối với việc thực hiện kỷ cương học đường.
III. Thực trạng việc chấp hành kỷ cương học đường của sinh viên
Phần III: KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo khoa học này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ tận tình của thầy Nguyễn Hữu Thụ cùng các thầy cô giáo trong khoa.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên trong trường, cảm ơn các
bạn lớp K45 Tâm Lý Học đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình làm
báo cáo.
Sinh viên
Nguyễn Khánh Ly.
PHẦN I :NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
4
I. Lý do chọn đề tài.

Một xã hội muốn phát triển, xã hội đó phải có trật tự, có phân công lao
động, có tổ chức Trường học chính là một xã hội chuyên biệt thu nhỏ mà
trong đó nhiệm vụ chủ yếu là dạy và học, để hình thành nên nhân cách của sinh
viên có khả năng giải quyết tốt các nhiệm vụ của sự nghiệp Công nghiệp hoá
hiện đại hoá đặt ra. Bên cạnh việc được cung cấp các tri thức, học sinh ngay từ
thuở bé đã được giáo dục đạo đức trong một khuôn phép nhất định học cách đối
nhân xử thế, học cách tôn trọng mình và tôn trọng những người xung quanh.
Mỗi cấp học khác nhau ở từng lứa tuổi khác nhau việc rèn luyện tính khuôn
phép, các chuẩn mực quy định lại khác nhau. Khi còn bé học sinh buộc phải
học thuộc nội quy bị kiểm tra nếu vi phạm bị phạt còn nếu thực hiện tốt được
khen thưởng Nhưng ở bậc đại học do sinh viên là những người đã phát triển
tương đối toàn diện về sinh lý cũng như về nhân cách nên việc chấp hành nội
quy của sinh viên mang tính tự giác nhiều hơn. Vì lý do đó mà việc thực hiện
nội quy sinh viên kỷ cương học đường được biểu hiện qua rất nhiều cách nhìn
nhận, suy nghĩ và hành động khác nhau. Nội quy được đặt ra không phải chỉ để
giữ gìn kỉ luật không mà từ việc giữ gìn kỉ luật đó sẽ làm cho việc học tập đặt
hiệu quả cao và hình thành nên những nét tính cách đẹp ở sinh viên.
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của nghị quyết hội nghị lần thứ II
(Khoá IX) Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng về giáo dục và các nghị quyết tiếp
theo. Trường ĐHKHXH&NV đã xây dựng 5 chương trình hành động xây dựng
và phát triển trường nhằm thực hiện các nghị quyết TW. Trong chương trình II
đã có đề cập đến việc "đổi mới phương pháp giảng dạy" theo hướng giáo viên áp
dụng phương pháp giảng dạy mới phát huy tính tích cực của sinh viên. Và
chương trình V đề ra việc "chấn chỉnh, củng cố kỉ cương, giảng dạy, học tập,
làm việc và xây dựng môi trường nhân văn". Như vậy, bên cạnh việc đổi mới
phương pháp dạy và học sao cho sinh viên tiếp thu tri thức một cách tích cực và
đạt hiệu quả nhất nhà trường còn rất chủ trọng đến kỉ cương học đường, yếu tố
góp phần làm tăng hiệu quả chất lượng đào tạo, ổn định trật tự để có một môi
5
trường mang đậm tính nhân văn và phát huy được truyền thống tốt đẹp của nhà

trường . Trước những thực tế đặt ra đó đối với nhà trường chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài"Thái độ của sinh viên trường ĐHKHXH&NV với kỉ cương
học đường" nhằm giúp nhà trường đưa ra được chương trình giáo dục kỷ cương
học đường tốt hơn góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo.
II. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu thái độ của sinh viên đối với kỉ cương học đường, thông qua sự
hiểu biết của sinh viên về nội quy, quy chế của khoa trường cũng như các nhân
tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên với kỉ cương học đường.
Từ kết quả thu được chúng tôi có thể biết được tâm tư tình cảm, thái độ
tích cực hay tiêu cực của sinh viên với kỉ cương học đường. Đồng thời đưa ra
một số kiến nghị (nếu có) với khoa, trường, lớp nhằm giúp giữ vững hơn nữa
kỉ cương học đường.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu một số cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thái độ của sinh viên với kỉ cương học đường.
+ Nhận thức của sinh viên đối với kỉ cương học đường
+ Xúc cảm tình cảm của sinh viên với việc thực hiện kỉ cương học đường
+ Thực trạng thực hiện kỉ cương học đường của sinh viên
IV. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu.
Thái độ của sinh viên trường ĐHKHXH&NV với kỉ cương học đường.
2. Khách thể và phạm vi nghiên cứu.
219 sinh viên trường ĐHKHXH&NV từ K45 → K47
+ 60 sinh viên khoa Tâm lý học
+ 49 sinh viên khoa Xã hội học
+ 40 sinh viên khoa Lịch sử
+ 44 sinh viên khoa Báo chí
+ 26 sinh viên khoa Ngôn ngữ
V. Giả thuyết nghiên cứu.
6

Sinh viên trường ĐHKHXH&NV có thái độ tích cực với kỉ cương học
đường tuy nhiên còn một số ít sinh viên có thái độ thiếu tính xây dựng do nhận
thức chưa tốt về tầm quan trọng của nó đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách của họ.
VI. Phương pháp nghiên cứu.
1. Phương pháp phân tích tài liệu.
Tham khảo một số sách báo, tài liệu, khoá luận những vấn đề lý luận
có liên quan đến đề tài. Từ đó chúng tôi có thể đánh giá được thái độ của sinh
viên với kỷ cương học đường đồng thời nắm được nguyên tắc phát triển và dự
đoán được những bước phát triển tiếp theo của đối tượng nghiên cứu. Đây là
phương pfháp chủ yếu dùng để xây dựng các quan điểm lý luận cho đề tài.
Phương pháp này được dùng để bổ trợ, kiểm tra các kết quả thu được từ
việc nghiên cứu.
2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Là phương pháp dùng một hệ thống các câu hỏi nhất loại được in sẵn
trong phiếu trả lời (phiếu trưng cầu ý kiến) nhằm tìm hiểu thái độ chủ quan của
sinh viên với kỷ cương học đường.
Phiếu trưng cầu ý kiến được thiết kế dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu
của đề tài.
Phiếu trưng cầu ý kiến bao gồm 15 câu hỏi với 3 nội dung lớn.
- Nhận thức của sinh viên về kỷ cương học đường
+ Hiểu biết của sinh viên về các nội quy, quy chế.
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện kỷ cương học đường của sinh
viên.
- Xúc cảm, tình cảm của sinh viên với kỷ cương học đường.
- Thực trạng hành vi của sinh viên với kỷ cương học đường.
Đây là phương pháp điều tra chủ yếu mà chúng tôi tiến hành trong suốt
quá trình nghiên cứu.
3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý số liệu theo chương trình SPSS 10.0

7
Phần II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
A. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu thái độ.
I. Nghiên cứu thái độ trong TLH Phương Tây:
Phân tích lịch sử nghiên cứu thái độ ở Phương tây P.N.Shikhirep đã chia
làm 3 thời kỳ:
* Thời kỳ 1: Từ khi khái niệm thái độ lần đầu tiên được sử dụng vào năm
1918 cho đến chiến tranh Thế giới lần II. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ.
8
Hai nhà nghiên cứu người Mỹ là W.I.Thomas và F.Znanicki là những
người đầu tiên sử dụng khái niệm thái độ như là một đặc tính quan trọng của vấn
đề thái độ. Trong nghiên cứu của mình về những người nông dân Ba Lan ở Mỹ
vào năm 1918, hai ông đã rất chú ý đến sự thích nghi của họ đối với môi trường
xã hội thay đổi ở Mỹ, tới sự thay đổi các giá trị cũ bằng các giá trị mới mà đặc
điểm của nó là vấn đề thái độ. Theo hai ông thì "thái độ là trạng thái tinh thần
của mỗi cá nhân đối với một giá trị".
Từ sự phát triển của W.I.Thomas và F.Znanicki bắt đầu bùng nổ những
nghiên cứu về thái độ. Nhiều tác giả cũng có quan điểm tương tự và mỗi người
đều đưa ra lý do riêng của mình. Tất cả các nghiên cứu thời kỳ này đều tập trung
vào định nghĩa, cấu trúc, chức năng, mối quan hệ giữa thái độ và hành vi. Sở
dĩ khái niệm thái độ được sử dụng rộng rãi vì nó bao hàm các mối liên hệ cơ bản
với các vấn đề như dư luận xã hội, tuyên truyền, sự mâu thuẫn giữa các nhóm
cạnh tranh kinh tế, niềm tin tôn giáo, thay đổi hành vi và những vấn đề có ý
nghĩa to lớn khác về mặt lý luận và thực tiễn về các mối quan hệ nói chung.
Năm 1934, RT.La Piere đã tiến hành một thí nghiệm trên khắp nước Mỹ.
Thí nghiệm được tiến hành như sau: Ông cùng một sinh viên trẻ người Trung
Quốc và vợ của anh ta làm một chuyến du lịch. Họ đến 184 hiệu ăn, quán cà
phê và 66 khách sạn, nơi cắm trại cho người có ôtô và nhà nghỉ dành cho khách
du lịch. Hầu như ở khắp nơi họ đều được đối xử lịch sự, chu đáo như nhau chỉ

có một trường hợp họ bị từ chối phục vụ. Sáu tháng sau tất cả các cơ sở trên đều
nhận được một lá thư với câu hỏi: "Ông (Bà) có chấp nhận đón tiếp những người
Trung Quốc như là khách của nhà hàng không?". Có 128 cơ sở trảlời, kết quả là
91% số người được hỏi trả lời phủ định (con số này gắn với con số trả lời của
các cơ sở mà ông không đến thăm). Thí nghiệm này được tiến hành vào năm
1934 thời điểm mà vấn đề phân biệt chủng tộc ở Mỹ rất khác với tình hình hiện
nay. Và ông đưa ra kết luận từ thí nghiệm này là: thái độ và hành vi trong nhiều
trường hợp đôi khi rất khác nhau
* Thời kỳ 2: Từ năm 1940 đến cuối những năm 50. Thời kỳ này giảm sút
vì có những khó khăn và bế tắc. Những nét đặc trưng của nghiên cứu thái độ
9
trong thời kỳ này là sự hoài nghi về vai trò của thái độ trong việc chi phối hành
vi. "Nghịch lý La Piere" đã đặt cơ sở cho chủ nghĩa hoài nghi và sự quan tâm
của các nhà TLH xã hội đối với vấn đề thái độ bị giảm sút. Cũng vì lý do chiến
tranh, cũng với những bế tắc trong việc lý giải các nghịch lý nảy sinh khi
nghiên cứu thái độ mà số lượng các công trình nghiên cứu thời kỳ này có giảm
sút.
* Thời kỳ 3: Từ cuối những năm 1950 đến nay: Đây là thời kỳ phát triển
trở lại, xuất hiện nhiều ý tưởng, nhiều quan niệm mới nhưng cũng kèm theo
tình trạng khủng hoảng. Trong TLH xã hội vấn đề thái độ đã có một vị trí xứng
đáng. Các nghiên cứu tiếp tục đưa ra các quan điểm mới để định nghĩa, cấu
trúc, chức năng của thái độ. Thời kỳ này đã xuất hiện các phương pháp đo thái
độ gián tiếp thông qua các chỉ số sinh lý học (phương pháp điện cơ mặt): kỹ
thuật đường ống giả vờ - Edward Jones và Harol Sigall, 1971: kỹ thuật lấn từng
bước do Jonathan Freedman và Scottfraser thí nghiệm năm 1966. Các lý thuyết
về thái độ đã tìm cách giải thích mối quan hệ giữa hành vi và thái độ đó là
thuyết bất đồng nhận thức của Leon Festinger-1957, thuyết tự thể hiện, thuyết
tự tri giác của Daryl Bem-1967.
Xu thế nghiên cứu hiện nay là xu thế nghiên cứu ứng dụng phục vụ cho
các mục đích bầu cử, tiếp thị, tuyên truyền, bảo vệ môi trường, chữa bệnh

Theo P.N.Shikhirep, đặc điểm tình hình nghiên cứu thái độ hiện nay ở
phương Tây là một mặt có những công trình, phương pháp cụ thể nghiên cứu,
mặt khác bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực nghiệm.
II. Nghiên cứu thái độ ở Liên Xô cũ:
1. Nghiên cứu theo trường phái tâm thế:
Khái niệm thái độ hay nhiều người dịch là tâm thế trong học thuyết của
Uznatze được công nhận là "sự biến dạng hoàn chỉnh của chủ thể", trạng thái
sẵn sàng hướng tới một hoạt động nhất định là cơ sở tích cực có sự lựa chọn của
chủ thể. Tâm thế xuất hiện khi có sự hội ngộ hai yếu tố: nhu cầu và hoàn cảnh
thoả mãn nhu cầu. Ông dùng khái niệm tâm thế như là khái niệm như là khái
niệm trung tâm nhưng lại lấy cái vô thức để giải thích hành vi của con người. Vì
10
vậy, nhiều đồng nghiệp phê phán ông là trong quan niệm của ông về tâm thế,
ông chỉ đề cập đến quá trình hiện thực hoá các nhu cầu sinh lý đơn giản mà quên
không tính đến các hình thức hoạt động phức tạp, cao cấp của con người. Ông
đã không tính đến sự tác động phức tạp của các yếu tố xã hội trong quy định
hành vi. Dù sao cũng phải công nhận rằng học thuyết của ông đóng vai trò
phương pháp luận khoa học cụ thể cho nhiều lĩnh vực chuyên môn của TLH như
: TLH xã hội, TLH y học, TLH kỹ sư
2. Nghiên cứu thái độ trong TLH nhân cách:
TLH nhân cách nghiên cứu "thái độ chủ quan của cá nhân" là nói đến việc
các cá nhân đó có thái độ như thế nào đối với các sự kiện, hiện tượng của thế
giới mà nó đang sống. Trong trường hợp đó thái độ không chỉ là mối liên hệ
khách quan với môi trường xung quanh. Thái độ bao hàm cả việc đánh giá biểu
hiện hứng thú cá nhân.
Vấn đề nghiên cứu thái độ chủ quan cá nhân lần đầu tiên được đưa ra
nghiên cứu trong TLH Liên xô do Lazuski đề xuất khi nghiên cứu tính cách.
Trong bài viết nàm 1910 về vấn đề năng lực, sau đó trong chương trình nghiên
cứu " nhân cách trong mối quan hệ với môi trường" (viết cùng C.C.Fhrank,
1912) và trong "bút kí khoa học về tính cách", 1916 và cuốn sách phân loại nhân

cách năm 1917-1924. Ông đã nêu ra thái độ chủ quan của con người với môi
trường, việc phát triển nhân cách không chỉ được tiến hành dưới góc độ tâm lý,
sinh lý mà cả góc độ tâm lý xã hội, thế giới khách quan. Khía cạnh quan trọng
của nhân cách theo nghĩa rộng bao gồm giới tự nhiên, sản phẩm lao động và
những cá nhân khác, các nhóm người và những giá trị tinh thần như khoa học,
nghệ thuật. Các thái độ này được ông coi như là thái độ chủ đạo khi định nghĩa
tính cách và phân loại.
Sau này V.N.Miasexev dựa trên tư tưởng của Lazuski và xuất phát tự lập
trường Macxit đề xuất học thuyết thái độ cá nhân. Theo ông, thái độ dưới dạng
trung nhất là một hệ thống trọn vẹn các mối liên hệ cá nhân có tính chọn lọc, có
ý thức của nhân cách . Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ quá trình lịch sử phát
triển của con người. Nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân và quyết định hành động,
11
các thể nghiệm cá nhân từ bên trong. Ông cho rằng nhu cầu, hứng thú, thị hiếu,
tình cảm, tính cách đều là thái độ. Ông coi nhân cách như là một hệ thống thái
độ. Theo ông, cơ sở sinh học của thái độ có ý thức của con người là các phản xạ
có điều kiện. Ông chia thái độ thành hai loại tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên
thuyết thái độ cũng có những hạn chế như coi hàng loạt các thuộc tính tâm lý,
nhân cách, các quá trình phát triển tâm lý là thái độ cũng chưa có cơ sở khoa
học. Tuy có những hạn chế như vậy, nhưng ông vẫn là một trong những người
đặt nền móng cho TLH thái độ theo quan niệm Macxít và là một hình vực có
triển vọng cần được nghiên cứu của TLH xã hội, TLH nhân cách.
3. Thuyết định vị của VA.Iadov:
VA.Iadov nghiên cứu vai trò của tâm thế trong những hành vi xã hội của
nhân cách. Ông cho rằng: con người có một hệ thống các tổ chức định vị khác
nhau, phức tạp (định vị bao gồm tâm thế xã hội, xu hướng cơ bản của hứng
thú, hệ thống định hướng giao tiếp) và hành vi của con người được điều khiển
bằng các tổ chức đó. Các định vị này được tổ chức theo bốn bậc với mức độ
khác nhau, trong một hệ thống định vị, định vị bậc cao có thể chi phối định vị
bậc thấp. Điều đó cho phép ta lý giải hợp lý hành vi xã hội của cá nhân cũng

như sự mâu thuẫn giữa hành vi và thái độ:
- Bậc 1: bao gồm các tâm thế bậc thấp, như trong quan niệm của Uzantze,
hình thành khi có sự gặp gỡ của nhu cầu sinh lý với đối tượng thoả mãn nhu cầu,
tâm thế chỉ là một dạng điều chỉnh hành vi, phản ứng của cá nhân trong những
tình huống đơn giản nhất.
- Bậc 2: các định vị phức tạp hơn được hình thành trên cơ sở các tình
huống giao tiếp của con người trong các nhóm nhỏ.
- Bậc 3: các định vị mà trong đó định hướng chung của các sở thích được
hình thành trong các lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.
- Bậc 4: bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giao tiếp của
nhân cách trong những tình huống mà tính tịch cực xã hội có giá trị nhất đối với
nhân cách.
12
Thuyết định vị đã xem xét vấn đề thái độ từ một góc mới của nó cho
phép thiết lập sợi dây liên hệ giữa các cách tiếp cận vấn đề hành vi của nhân
cách từ góc độ TLH đại cương, XHH, TLH xã hội. Tuy nhiên, thiếu xót chủ
yếu của học thuyết này là không đưa ra được định nghĩa cuả định vị cũng như cơ
chế điều chỉnh hành vi bằng định vị trong tình huống xã hội cụ thể.
B. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI.
I. Khái niệm thái độ
1. Khái niệm thái độ
Thái độ là một khái niệm tương đối phức tạp. Nội hàm của khái niệm này
không có sự khác biệt giữa TLH duy vật biện chứng và TLH phương Tây, ngay
cả giữa những nhà TLH Macxít việc định nghĩa khái niệm này cũng chưa thống
nhất.
Ở phương Tây, năm 1918 - 1920 những người đầu tiên sử dụng khái
niệm thái độ như là một trong những đặc tính quan trọng của các vấn đề xã hội,
đó là hai nhà nghiên cứu người Mỹ là W.I.Thomas và F. Zanicki cho rằng: "thái
độ là trạng thái tinh thần của cá nhân với một giao tiếp".
Sau đó cũng có hàng loạt các định nghĩa khác ra đời. G.W.Allport (1953)

cho rằng: "thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và thần kinh được tổ
chức thông qua kinh nghiệm, có khả năng điều chỉnh hoặc ảnh hưởng năng
động đối với phản ứng của cá nhân hướng lên khách thể và tình huống mà nó
quan hệ". Như vậy thái độ được coi là một trạng thái tâm lý, thần kinh cho hoạt
động. Sự có mặt của thái độ chuẩn bị cho cá nhân đi tới một hoạt động nào đó
và Allport đã tổng kết 17 định nghĩa khác nhau về thái độ. Ông đưa ra những
đặc điểm sau:
1. Thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh.
2. Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng.
3. Thái độ là trạng thái có tổ chức.
4. Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ.
5. Thái độ điều khiển và ảnh hưởng đến hành vi.
13
Định nghĩa về thái độ của Allport được khá nhiều nhà TLH thừa nhận vì
nó trả lời khá rõ ràng các câu hỏi như: Thái độ là gì? Nguồn gốc của thái độ ở
đâu? Thái độ có vai trò chức năng gì?. Tuy nhiên các tác giả lại không đả động
gì đến vai trò của môi trường xã hội, của nhu cầu trong quá trình hình thành thái
độ.
Newcome cũng cho rằng thái độ của một cá nhân với một khách thể nào
đó là "thiên hướng hành động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của anh ta với
khách thể có liên quan".
H.C. Triandis đã coi: "thái độ là tư tưởng được hình thành từ những xúc
cảm gây tác động đến hành vi nhất định trong giai cấp nhất định, trong những
tình huống xã hội. Thái độ của con người bao gồm những điều người ta suy nghĩ
và cảm thấy về đối tượng cũng như thái độ xử sự của họ đối với nó ".
Định nghĩa của Uznatze cho răng: "thái độ không phải là một nội dung
cục bộ của ý thức, không phải cái nội dung tâm lý tách dời, đối lập với các
trạng thái tâm lý khác của ý thức và ở trong mối liên hệ với nó, mà là một trạng
thái toàn vẹn, xác định của chủ thể Yếu tố khuyng hướng năng động của nó là
một yếu tố toàn vẹn theo một hướng nhất định, nhằm một tính năng động nhất

định Đó là sự phản ứng cơ bản đầu tiên với tác động của tình huống trong đó
chủ thể phải đặt ra và giải quyết nhiệm vụ".
Với cách nhìn toàn diện không chỉ bao hàm TLH cá nhân mà còn bao
hàm những khía cạnh của TLH xã hội, khái niệm thái độ của Hipsơ và
M.Forvec nhấn mạnh chức năng của thái độ với hoạt động chung, hoạt động
hợp tác của con người trong xã hội: "thái độ là sự sẵn sàng bị quy định và có
tính chất bắt buộc nào đó, nảy sinh những nhóm nhất định và trong những tình
huống cụ thể". Về mặt lượng cũng như về mặt nôi dung, sự sẵn sàng này phụ
thuộc vào chủ thể hữu quan mà trước hết là một hiện tượng TLH xã hội phụ
thuộc vào khuynh hướng cá nhân gắn với những chuẩn mực của nhóm.
Như vậy, có thể nói tất cả các quan điểm khác nhau dù là nhìn nhận thái
độ như một thuộc tính cơ bản của ý thức cá nhân hay như một hiện tượng của
TLH xã hội, các nhà TLH xã hội đều nghiên cứu thái độ từ quan điểm chức
14
năng, tiếp cận như một khái niệm chức năng. Điều đó có nghĩa là về mặt lý luận
cũng như thực tiễn, có thể nhận biết, xem xét thái độ thông qua chức năng của
nó đối với hoạt động của chủ thể hướng tới đối tượng. Nói cách khác con đường
cơ bản để nghiên cứu thái đô của con người là đi sâu nghiên cứu những hành vi
và hoạt động cụ thể của con người. Vận dụng quan điểm tiếp cận khái niệm thái
độ như một khái niệm chức năng, một số tác giả đưa ra khái niệm "thái độ được
biểu hiện" xem như hình chiếu của thái độ trong đời sống và hoạt động của con
người.
G.Clauss cũng quan niệm rằng có hai hình thức tồn tại của thái độ là "thái
độ bên ngoài" và "thái độ bên trong". Về bản chất hai loại thái độ này không có
sự khác biệt, chúng cũng dựa trên quá trình sinh lý, thần kinh như nhau không
tách rời, không đối lập nhau. Trong lịch sử phát triển của TLH, sự tuyệt đối
hoá thái độ bên trong đã dẫn đến chủ nghĩa duy tâm của W.Dilthey và
E.Spranger Sự tuyệt đối hoá thái độ bên ngoài đã dẫn đến TLH hành vi
Watson.
Tóm lại, theo chúng tôi: thái độ có thể được hiểu là sự không thể tách rời

thái độ bên trong và thái độ bên ngoài khác với quan niệm của G.Clauss. Chúng
tôi đồng ý với khái niệm của Hipsơ và M.Frovec cho rằng thái độ là tinh thần
sẵn sàng hoạt động của con người với khách thể theo một hướng nhất định
được biểu hiện ra ngoài thông qua hành vi của người đó trong những điều kiện,
tình hình cụ thể.
2. Đặc điểm của thái độ
Không phải tất cả các thái độ đều giống nhau về mặt cấu trúc hệ thống.
Chúng khác nhau theo một số đặc tính nhất định. Các nhà nghiên cứu đưa ra các
đặc tính nhưng những đặc tính dưới đây có lẽ là quan trọng nhất:
- Trị số (tính phân cực): như ta thấy có thể là tích cực hoặc tiêu cực, ủng
hộ hoặc phản đối, tức là chiều (+) hay (-).
- Mức độ: ủng hộ nhiều hay ít, có khi chúng ta cùng ủng hộ hai đối tượng
khác nhau nhưng ủng hộ này theo mức độ khác nhau.
- Cường độ: mạnh hay yếu.
15
- Tính ổn định: thời gian tồn tại của thái độ, mối liên hệ nhận thức, xúc
cảm và hành vi.
3. Cấu trúc của thái độ
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ song
phần lớn các nhà TLH đồng ý với cấu trúc 3 thành phần trong nghiên cứu thái
độ của M.Smith(1942). Theo ông thái độ bao gồm:
- Nhận thức: là kiến thức, hiểu biết của cá nhân về đối tượng của thái độ
cho dù kiến thức đó có tương ứng hay không.
- Tình cảm: là các cảm xúc, tình cảm của cá nhân đối với đối tượng của
thái độ xã hội.
- Hành vi: đó là hành động hay ý định hành động mà bạn sẽ ứng xử với
đối tượng.
4. Chức năng của thái độ
Thái độ có một số chức năng cơ bản sau:
- Chức năng thích nghị: Nhằm đạt mục đích đề ra, nhiều trường hợp cá

nhân thay đổi thái độ do tác động của môi trường.
- Chức năng tiết kiệm trí lực: Cá nhân tiết kiệm sức lực, năng lực thần
kinh cơ bắp trong hoạt động nhờ các khuôn mẫu hành vi quen thuộc đã được
hình thành.
- Chức năng thể hiện giá trị: Thông qua sự đánh giá một cách có chọn lọc
về đối tượng qua biểu lộ cảm xúc, hành động cũng như sẵn sàng hành động cá
nhân thể hiện giá trị nhân cách của mình.
- Chức năng tự vệ: Trong tình huống có xung đột nội tâm (giữa các suy
nghĩ, niềm tin, có khi là giữa các thái độ và hành vi) con người thường tìm
16
Hành viNhận thức
Thái độ
Cảm xúc,
tình cảm
cách bào chữa, tìm lý do, thậm chí tìm một người nào đó chịu trách nhiệu thay
mình hoặc hợp lý hoá hành vi của mình. Quá trình này thay đổi tương ứng. Thái
độ mới sẽ giúp cho con người giảm bớt "bất đông nội tâm".
5. Cơ chế hình thành thái độ
Hai nhà TLH người Mỹ-Đức là H.Hiebsh và M.Worwerg cho rằng thái độ được
tiếp thu thông qua 4 cơ chế TLH xã hội khác nhau là: bắt chước, đồng nhất hoá,
chỉ dẫn, giảng dạy.
a. Bắt trước: là một loại hình thái độ trong đó con người học các phương
thức hành vi hoặc phản ứng mà không cần sử dụng đặc biệt những kỹ thuật giáo
dục theo phương thức nào cả. Do đó bắt chước là sự hình thành thái độ một cách
tự phát. Trong tác phẩm "tập luyện và bắt chước" của J.Dlland và N.P.Miller đã
nhận định rằng: Có 4 nhóm người chính khiến người ta đặc biệt thích bắt chước.
- Những người lớn tuổi
- Những ngưòi có cương vị xã hội hơn hẳn
- Những người có trình độ trí tuệ hơn hẳn
- Những người thành thạo hơn hẳn trong một hình thức nào đó

b. Đồng nhất hoá: chính sự bắt chước có ý thức.
TLH hiện đại nghiên cứu đồng nhất hoá như sau:
- Đồng nhất hoá là quá trình chủ thể thống nhất cá nhân mình với các cá
nhân khác của nhóm hoặc nhóm khác dựa trên môi liên hệ cảm xúc và đồng thời
chuyển những chuẩn mực giá trị đó vào thế giới nội tâm của mình. Điều này có
thể nhận thấy trong sự bắt chước công khai hình mẫu, đặc biệt ở trẻ em tuổi đến
trường.
- Đồng nhất hoá là sự nhìn nhận, chân dung của chủ thể về người khác
như sự kéo dài của chính bản thân mình, gán cho người đó những đặc tính tình
cảm, mong muốn.
- Đồng nhất hoá là sự tự đặt mình vào người khác, chuyển dịch bản thân
mình vào phạm vi, không gian và hoàn cảnh của người khác dẫn đến việc đồng
nhất hoá ý nghĩa cá nhân của người đó. Kiểu đồng nhất hoá này cho phép mô
17
hình phạm vi có ý nghĩa củ đối tượng giao tiếp, đảm bảo quá trình hiểu biết lẫn
nhau.
c. Giảng dạy: là một hình thức hình thành thái độ trong đó cá nhân được
người khác trực tiếp thông báo, truyền thụ tất cả những gì cần thiết. Giảng dạy
là một cách đặc biệt của truyền đạt thông tin.
d. Chỉ dẫn: là hình thức hình thành thái độ đòi hỏi chủ thể phải hành động
một cách tích cực.
6. Các yếu tố quyết định tới sự hình thành và phát triển của thái độ
a. Thái độ hình thành trong quá trình thoả mãn nhu cầu :
Người ta sẽ hình thành thái độ tích cực với khách thể có lợi và tiêu cực với
khách thể có hại trên con đường đạt tới mục đích nào đó để thoả mãn các nhu
cầu nhất định của họ.
b. Thái độ được hình thành bởi các thông tin:
Các thông tin mới thường hình thành nên các thái độ phù hợp, hài hoà với các
thái độ có liên quan tồn tại trước đó (theo Cartwnight). Ngoài ra không phải thái
độ nào cũng phản ánh đúng thực tế, như thái độ thành kiến, khuôn mẫu, mê

tín, dị đoan, huyễn hoặc, ảo tưởng, phần vì thái độ này không có tính hợp lý
vì thiếu thông tin hoặc thông tin sai lệch, một chiều (do vô tình hay cố ý) khỏi
phải nói tới mức độ tai hại, nguy hiểm của loại thôngtin này. Trong một số
trường hợp thông tin thiếu còn tai hại hơn có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình
thành thái độ, dư luận cũng như thay đổi hành vi của họ.
c. Giao tiếp nhóm là một trong những yếu tố quan trọng trong qua trình
hình thành thái độ: Mỗi cá nhân là thành viên của những nhóm khác nhau. Thái
độ của anh ta thường phản ánh niềm tin giao tiếp chuẩn mực của nhóm mà anh
ta là thành viên. Chuẩn mực nhóm không chỉ là xác định hành vi nào là "đúng"
là "sai" mà còn xác định thái độ nào là "đúng" hay "sai" nữa. Thông qua cơ chế
thưởng phạt nó tạo ra một áp lực các cá nhân phải tuân theo. Chúng ta thường
được thưởng (động viên, khuyến khích vật chất hay tinh thần) khi có thái độ
hay hành vi đúng, ngược lại bị trừng phạt khi có thái độ và hành vi sai. Các nhà
TLH xã hội đều cho rằng vai trò của nhóm nhất là nhóm nhỏ (gia đình, bạn
18
bè ) trong việc hình thành ý thức cá nhân là cực kỳ quan trọng. Nhưng các cá
nhân tiếp nhận các thái độ trong nhóm một cách có lựa chọn trong quá trình thoả
mãn nhu cầu của anh ta. Trong quá trình này nhân cách của cá nhân đóng một
vai trò đáng kể.
d. Nhân cách cá nhân và sự hình thành thái độ
Các cá nhân có thể tiếp nhận thái độ của nhóm một cách có lựa chọn và theo
mức độ, cách thức khác nhau chính là do sự khác nhau về nhân cách của các cá
nhân đó. Qua nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau đã đưa ra
kết luận là các cá nhân có xu hướng tiếp cận thái độ phù hợp với nhân cách của
mình. Tuy nhiên nhân cách của con người không phải hệ thống hoàn toàn thống
nhất. Chính vì thế nó có thể tiếp cận các thái độ mâu thuẫn lẫn nhau bởi sự giáo
dục khác nhau, bởi sự giao tiếp của các nhóm xung đột nhau, cũng có thể là sự
xung đột các nhu cầu của chính cá nhân đó.
7. Thang đo thái độ
Thông qua các nghiên cứu về thái độ, các nhà TLH đã lập ra những thang

đo, những chỉ số để từ đó có thể ứng dụng các thang đo vào cuộc sống. Nhà
TLH người Đức H.Benesch đã lập ra bảng đo thái độ gồm 4 chỉ số:
- Mức độ : nhiều hay ít
- Cường độ : cao hay thấp.
- Ý nghĩa : thái độ bộc lộ ra bên ngoài có giá trị như thế nào với đối tượng
hay sự việc mà cá nhân đó thể hiện.
- Hướng : mục tiêu (đối tượng hay sự việc) để cá nhân đó có thể bộc lộ ra
thái độ của mình .
II. Khái niệm sinh viên
Theo giáo trình “ Tâm Lý học đại học ’’ thì có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về sinh viên có thể theo lứa tuổi, vị trí vai trò …của sinh viên . Theo lứa
tuổi có quan điểm cho rằng sinh viên là những người có độ tuổi bắt đầu từ
PTTH cho đến hết đại học tức là kết thúc vào khoảng tuổi 24-25 tuổi, họ đã
hoàn tất sự phát triển về mặt thể chất nhưng quan điểm này cho đến giờ có lẽ
không còn đúng bởi có những người 90 tuổi vẫn là sinh viên đại học.
19
Thuật ngữ “ Sinh viên ’’có nguồn gốc từ tiếng Latin là “Student” có nghĩa
là người làm việc và học tập có nhiệt tình, người tìm hiểu và khai thác tri thức .
Như vậy có thể hiểu sinh viên là những người đang được đào tạo chuyên
sâu theo những nghành nghề nhất định tại các trường đại học . Họ có tinh thần
sáng tạo, chủ động tích cực trong hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học và
các hoạt động xã hội khác .
III. Kỷ cương học đường
Kỷ cương học đường được hiểu là những quy định, nội quy nhằm làm
góp phần ổn định trật tự trong lớp học cụ thể đó là việc thực hiện các nội quy,
quy chế, việc duy trì phát huy những truyền thống những nề nếp vốn có của lớp
học.
IV. Thái độ của sinh viên đối với kỷ cương học đường.
Đó là tinh thần sẵn sàng thực hiện nội quy, quy chế của sinh viên được
biểu hiện ra bên ngoài thông qua mức độ chấp hành nội quy, quy chế của cá

nhân sinh viên.
CHƯƠNG II . KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
I. Nhận thức của sinh viên đối với kỉ cương học đường
1. Hiểu biết của sinh viên về các nội quy, quy chế của khoa, trường
Nội quy, quy chế là những quy định cụ thể mà bất cứ tổ chức nào cũng
phải đặt ra nhằm làm cho đơn vị mình ổn định và phát triển. Sinh viên cũng là
thành viên của một tổ chức cụ thể là nhà trường đại học . Hơn nữa trước khi là
sinh viên thì họ đã là những học sinh và trong suốt 12 năm học tập ở trường phổ
thông họ đã được học về các nội quy và họ được dạy để thực hiện nó một cách
nghiêm chỉnh dù muốn dù không. Bởi vậy với mỗi sinh viên các nội quy, quy
chế đối với họ không còn mấy xa lạ. Vì vậy trong phiếu trưng cầu chúng tôi đã
đưa ra câu hỏi: "Theo bạn nội quy trong lớp mà sinh viên phải thực hiện là gì? "
20
đồng thời đưa ra một số nội quy tiêu biểu gần gũi với sinh viên để họ lựa chọn
và thu được kết quả như sau:
Bảng 1: Nhận thức của sinh viên về nội quy, quy chế.
Các nội quy trong lớp
Đi học
đúng giờ
Nghỉ học
phải xin
phép
Giữ gìn vệ
sinh giảng
đường
Không làm
việc riêng
Đeo phù
hiệu
Nghỉ học

không quá
20% số tiết
n % n % n % n % n % n %
Đúng 197 90 175 79.9 176 80.4 180 82.2 168 76.7 197 90
Sai 22 10 44 20.1 43 19.6 39 17.8 51 23.3 22 10
Tổng 219 100 219 100 219 100 219 100 219 100 219 100
Qua bảng số liệu trên có thể thấy sinh viên đã có những nhận thức khá
đúng đắn rõ ràng và cụ thể về các nội quy, quy chế. Ngoài những nội quy, quy
chế mà chúng tôi đưa ra thì có rất nhiều sinh viên đóng góp thêm ý kiến khác mà
họ cho là cần thiết để bổ sung vào quy chế chẳng hạn như: "sinh viên không tự ý
bỏ ra ngoài giảng đường trong giờ học", "không nói chuyện", "chăm chú lắng
nghe" và "đóng góp xây dựng bài giảng, các hoạt động của lớp mà mình có thể
tham gia". "Tôn trọng giáo viên", "không ngủ gật trong giờ học" Các ý kiến
mà sinh viên đưa ra nhìn chung là rất thiết thực đối với việc giữ gìn kỷ cương
giảng đường, đảm bảo cho sinh viên những giờ học chất lượng và tiếp thu bài
một cách có hiệu quả nhất. Tuy vậy vẫn còn một số sinh viên (xem bảng 1)
không chọn một trong các quy định đã được chúng tôi nêu ra trong bảng hỏi.
Chúng tôi cho rằng những sinh viên này mặc dù không phải họ không nắm được
việc thực hiện nội quy, quy chế gồm những quy định cụ thể nào, nhưng họ cho
rằng đã là sinh viên do cách học tích cực, sinh viên tự học là chính. Ngoài việc
học ra sinh viên còn tham gia rất nhiều vào các hoạt động xã hội, nên một số
nội quy họ cho là không phù hợp nữa. Nhưng dù thế nào những ý kiến trên đã
thể hiện quan điểm nhận thức sai lầm của sinh viên. Vì các nội quy, quy chế
được quy định cho mọi sinh viên là nhằm phục vụ cho lợi ích lâu dài của họ.
Bảng 2: Các nguồn thông tin về nội quy, quy chế.
21
Các nguồn thông tin
Nhà trường Bạn bè Gia đình Sách báo
n % n % N % n %
Đúng 203 93.1 102 46.8 22 10.1 56 25.8

Sai 15 6.9 116 53.2 195 89.9 161 74.2
Tổng 218 100 218 100 217 100 217 100
Và bởi vì những nội quy, quy chế được quy định cho mọi sinh viên đang
học tập tu dưỡng trong nhà trường đại học vì thế 93.2% sinh viên được cung cấp
các nguồn thông tin về nội quy, quy chế của nhà trường. Có 6.8% sinh viên cho
rằng họ không được cung cấp các thông tin về nội quy, quy chế từ nhà trường.
Chúng tôi cho rằng các thông tin về nội quy, quy chế được nhà trường thông
báo thường xuyên đến sinh viên bằng nhiều hình thức khác nhau như: vào các
đợt nhập học đầu năm, trên bảng thông tin của nhà trường, gửi thông báo đến
các khoa Vì thế không trực tiếp thì gián tiếp, không ít thì nhiều sinh viên đều
thu nhận được các thông tin về nội quy, quy chế của nhà trường. Có 46.6% sinh
viên biết được các quy chế này từ bạn bè và 25.6% là từ sách báo, từ gia đình là
10%.
Nhìn chung đa phần sinh viên đều có nhận thức đúng đắn, rõ ràng về nội
quy, quy chế của khoa, trường và họ được cung cấp thông tin về vấn đề này
khá phong phú, đầy đủ. Tuy vậy, một số ít sinh viên chưa có nhận thức đúng
đắn về vấn đề này. Do trong quá trình học tập, những thông tin về nội quy, quy
chế vì một lý do nào đó chưa đến được với họ hoặc có đến thì cũng chưa có tác
động nhiều đến sinh viên.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như việc thực hiện các nội
quy, quy chế của sinh viên
Sinh viên sống học tập tu dưỡng trong môi trường đại học. Hàng ngày họ
phải giao lưu, tiếp xúc trong môi trường đó. Việc thực hiện nội quy, quy chế
của sinh viên vì thế mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ở đây, chúng tôi
chỉ đưa ra một yếu tố cơ bản mà theo chúng tôi những yếu tố này đóng vai trò
không nhỏ đối với nhận thức cũng như việc thực hiện các nội quy, quy chế của
sinh viên đó là: các quy định của khoa, trường; giảng viên; giáo viên chủ
22
nhiệm; phong trào đoàn-lớp-hội và bản thân mỗi sinh viên. Các yếu tố này được
chúng tôi đưa ra nhằm tìm hiểu mức độ quan trọng của từng yếu tố có ảnh

hưởng như thế nào đối với cá nhân sinh viên trong việc thực hiện nội quy cũng
như tác động đến nhận thức của họ. Chúng tôi đã đưa ra yêu cầu "Bạn hãy sắp
xếp từ 1 đến 5 những yếu tố ảnh hưởng đến bạn trong việc thực hiện nội quy,
quy chế (1 là quan trọng nhất và 5 ít quan trọng nhất)", đồng thời yêu cầu giải
thích vì sao sinh viên lại cho đó là yếu tố quan trọng nhất, chúng tôi thu được
kết quả như sau:
Bảng 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh viên trong việc thực hiện nội quy, quy
chế
Các yếu tố ảnh hưởng
Giáo viên
chủ nhiệm
Giảng
viên
Phong trào
Đoàn, Lớp,
Hội
Bản thân
mỗi sinh
viên
Quy định
của nhà
trường
n % n % n % n % n %
Rất quan trọng 3 1.4 19 9 16 7.5 127 59.1 51 23.9
Quan trọng 12 5.7 45 21.3 48 22.6 44 20.5 65 30.5
Bình thường 40 19 51 24.2 50 23.6 20 9.3 50 23.5
Ít quan trọng 68 32.2 55 26.1 50 23.6 14 6.5 25 11.7
Rất ít quan trọng 88 41.7 41 19.4 48 22.6 10 4.7 22 10.3
Tổng 211 100 211 100 212 100 215 100 213 100
23

Dựa vào kết quả thu được ở bảng trên chúng tôi tiến hành phân tích lần
lượt các yếu tố để thấy được vai trò của chúng ảnh hưởng như thế nào đến việc
thực hiện nội quy, quy chế của sinh viên.
*Bản thân mỗi sinh viên:
Có 59.1% sinh viên cho rằng bản thân mỗi sinh viên là yếu tố quan trọng
nhất ảnh hưởng đến việc thực hiện nội quy, quy chế. Họ chọn yếu tố này vì theo
họ nhìn chung sinh viên là những người đã có ý thức về bản thân, tự giác, có tư
cách đạo đức, có sự độc lập về mặt suy nghĩ, tự quyết định và chịu trách nhiệm
với mọi hành vi của mình.Nội quy, quy chế là những quy định giành cho sinh
viên và để sinh viên thực hiện vì thế việc thực hiện nội quy, quy chế phụ thuộc
rất nhiều vào bản thân sinh viên, không chỉ phụ thuộc vào nhận thức mà còn
phụ thuộc rất nhiều vào tình cảm của họ. Vì nếu họ nhận thức đúng đắn và tự
nguyện chấp hành thì mới có những hành động tuân thủ nội quy còn nếu"bản
thân mỗi sinh viên không có ý thức tự giác thì các yếu tố khác có hay không là
không quan trọng" hay các yếu tố khác chỉ là các yếu tố tác nhân thúc đẩy bên
ngoài mà thôi. Có 20.5% sinh viên cho rằng yếu tố này là quan trọng và xếp thứ
24
2. Nghĩa là có 79.5% cho rằng yếu tố bản thân mỗi sinh viên đóng vai trò ảnh
hưởng rất quan trọng và quan trọng trong việc thực hiện nội quy, quy chế.
Như vậy là hầu hết mọi sinh viên đều xác định được vị thế và vai trò của
mình trong tất cả mọi hoạt động. Họ biết họ là chủ thể không chỉ của hoạt động
học tập mà còn là chủ thể của hoạt động giữ gìn kỷ cương học đường, hoạt
động này đóng vai trò khá quan trọng giúp cho việc học của họ đạt hiệu quả cao.
Qua điều tra giữa các khoá chúng tôi nhận thấy ở K47 có 63.8% sinh viên coi
yếu tố này là quan trọng nhất trong đó K45 là 54.1% và K46 là 55%. Sự chênh
lệch không lớn lắm về số lượng nhưng cũng có thể thấy ở sinh viên K47 do vừa
mới vào trường đối với họ ý thức về bản thân còn khá rõ ràng cho chưa có nhiều
yếu tố khác chi phối như ở các khóa trên. Tuy nhiên trong các sinh viên thuộc
diện điều tra số sinh viên chọn yếu tố này chỉ ở mức độ không quan trọng chiếm
4.7% (10/215 sinh viên).

Như phần trên chúng tôi đã đề cập đến vai trò của sinh viên trong việc
thực hiện nội quy, quy chế. Và để tìm hiểu nội quy, quy chế tác động như thế
nào đến mỗi sinh viên chúng tôi đưa ra câu hỏi: "Nội quy, quy chế có ảnh
hưởng như thế nào đối với bạn?". Chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng4: Ảnh hưởng của nội quy, quy chế đến bản thân mỗi sinh viên.
Sự ảnh hưởng nội quy quy chế đối với bản thân sinh viên
Làm thoải mái
trong học tập
Rèn luyện tính
có tổ chức
Làm khó chịu Không ảnh
hưởng gì
n % n % n % n %
Đúng 47 21.5 178 81.3 7 3.2 26 11.9
Sai 172 78.5 41 18.7 212 96.8 193 88.1
Tổng 219 100 219 100 219 100 219 100
Bảng số liệu trên cho thấy có 81.3% sinh viên cho rằng việc thực hiện nội
quy, quy chế của họ có ảnh hưởng tốt đến việc rèn luyện tính có tổ chức, ý thức
có trách nhiệm vì tinh thần tập thể. Sinh viên cho rằng vì họ học tập, tu dượng
trong một tổ chức xác định đó là nhà trường đại học. Việc thực hiện nội quy sẽ
giúp sinh viên "hoàn thiện nhân cách", rèn luyện bản thân. Sinh viên cảm thấy
mình "được thoải mái trong một khuôn khổ nhất". Họ có thể rèn luyện ý thức
25

×