Mở đầu
1. tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thời đại ngày nay, khối lượng tri thức phát triển ngày càng nhanh so
với khả năng tiếp thu của con người, do đó trong dạy học chúng ta không
thể phát triển số môn lên tương ứng được, mà chúng ta phải xây dựng
chương trình, nội dung môn học hợp lý, bảo đảm tính cơ bản, hiện đại,
đồng thời phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực của người học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn người giảng viên cần
chú ý “làm thế nào cho việc học tập thiết thực, vui vẻ, không câu nệ, hình
thức, tuyệt đối tránh cách nhồi sọ, lý luận và thực hành phải đi đôi với
nhau”[101,34]. Người còn nói “muốn học tập có kết quả phải có thái độ
đúng và phương pháp đúng” tức là trong học tập phải tự nguyện, tự giác,
chịu khó, cố gắng, đào sâu suy nghĩ, học bằng mọi cách “học ở trường, học
ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân”, học đi đôi với hành.
Ở trường Đại học, học tập của sinh viên là một quá trình nhận thức
đặc biệt trong đó sinh viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động này. Tính
tích cực học tập có vai trò quyết định hiệu quả học tập của sinh viên. Sinh
viên chỉ có thể hiểu sâu sắc tài liệu học tập và biến nó thành giá trị riêng
nếu họ kiên trì và nỗ lực hoạt động trí tuệ trong học tập để tự “khám phá”
phát hiện ra tri thức. Lòng khao khát hiểu biết, tính tích cực cao trong hoạt
động nhận thức và khả năng tự rèn luyện bản thân là những đức tính cần
được phát triển và giáo dục cho sinh viên ngay trên ghế nhà trường. Giải
quyết thành công nhiệm vụ này trước hết sẽ tạo tiền đề chắc chắn cho việc
nắm vững sâu sắc tài liệu học tập. Đồng thời nó đảm bảo những điều kiện
để sinh viên tiếp tục rèn luyện bản thân một cách có hệ thống và không
ngừng học tập. Mặt khác trong hoạt động dạy học, tính tích cực học tập
không chỉ tồn tại như một trạng thái, một điều kiện mà nó còn là kết quả
của hoạt động học tập, là mục đích của quá trình dạy học. Tính tích cực học
1
tập là một phẩm chất nhân cách, một thuộc tính của quá trình nhận thức
giúp cho quá trình nhận thức luôn luôn đạt kết quả cao, giúp cho con người
có khả năng học tập không ngừng.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu tính tích cực học tập của học sinh và
sinh viên ở các góc độ khác nhau như Triết học, Giáo dục học, Sinh học,
Tâm lý học nhưng chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu tính tích cực học
tập môn Tâm lý học dưới góc độ tâm lý - hoạt động - nhân cách một cách
cụ thể ở Việt Nam. Đồng thời đi đến khẳng định mối liên hệ nhân quả giữa
việc phát huy tính tích cực học tập môn Tâm lý học với kết quả học tập bộ
môn có nghĩa là huy động những thành tố tâm lý nào của tính tích cực Êy
một cách hệ thống thì sẽ nâng cao kết quả học tập môn Tâm lý học của các
em. Cơ sở lý luận nào để giải quyết mâu thuẫn giữa ý nghĩa khách quan của
nội dung môn học với yêu cầu nghề nghiệp và ý nghĩa chủ quan của sinh
viên khi học tập bộ môn này. Tức là làm sao để hiểu được diễn biến tâm lý
của quá trình nảy sinh, hình thành, bộc lé của tính tích cực học tập môn
Tâm lý học của sinh viên từ đó điều khiển nó, khơi dậy, huy động mọi tiềm
năng của các em. Cũng có nghĩa là sinh viên học môn Tâm lý học không
phải do yêu cầu khách quan như chương trình, nhiệm vụ…học tập – nghiên
cứu mà do chính các em ý thức được sự cần thiết của tri thức Tâm lý học
đối với cuộc sống và sự nghiệp của mình trong hiện tại và tương lai. Do đó
các em học tập chủ động và có hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy, sinh viên cao đẳng sư phạm, Đại học Sư phạm
nói chung và Đại học Sư phạm Hải Phòng nói riêng còn gặp nhiều khó
khăn trong học tập, đặc biệt môn Tâm lý học. Phương pháp học tập ở Cao
đẳng Sư phạm và Đại học Sư phạm còn mới mẻ đối với các em, nhất là đối
với sinh viên năm thứ nhất, các em gặp nhiều khó khăn trong học tập. Đối
với môn Tâm lý học là môn học lần đầu tiên được tiếp xúc còn nhiều điều
mới lạ đối với sinh viên, các em chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết của nó
2
(một môn học vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghiệp vụ) do đó
chưa có thái độ học tập đúng đắn, chưa nắm được cách học còn học tập như
ở Phổ thông. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập chưa được
cao. Nhiều em còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, học theo mùa thi cử,
chưa thật quyết tâm trong học tập. Vì thế chất lượng lĩnh hội tri thức nói
riêng và học tập nói chung chưa được cao. Do đó nghiên cứu tính tích cực
học tập của sinh viên và tìm biện pháp để nâng cao tính tích cực học tập,
góp phần nâng cao chất lượng học tập là một việc làm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn đối với việc giảng dạy môn Tâm lý học ở các trường Đại
học Sư phạm hiện nay. Hơn nữa môn Tâm lý học có một vị trí cực kỳ quan
trọng trong quá trình đào tạo người giáo viên tương lai. Bởi môn học này
không những cung cấp tri thức, kỹ năng tâm lý để hiểu và ứng xử có hiệu
quả hơn trong cuộc sống mà còn giúp sinh viên rèn luyện nghiệp vụ, có khả
năng đi sâu vào tâm hồn học sinh, góp phần nâng cao chuyên môn nghiệp
vụ và nghệ thuật sư phạm. Vì vậy việc nghiên cứu tính tích cực học tập nói
chung và đặc biệt đi sâu nghiên cứu tính tích cực học tập môn Tâm lý học
của sinh viên Đại học Sư Phạm là cần thiết trong việc nâng cao chất lượng
đào tạo đội ngò giáo viên hiện nay.
Xuất phát từ các lý do trên chúng tôi chọn đề tài : “Nghiên cứu tính tích
cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên Đại học Sư phạm Hải Phòng”.
2. mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tính tích cực học tập, phát hiện
thực trạng tính tích cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên Đại học Sư
phạm Hải Phòng. Thử nghiệm một số biện pháp Tâm lý - Sư phạm nhằm
tích cực hoá hoạt động học tập môn Tâm lý học và góp phần nâng cao nâng
cao chất lượng học tập của sinh viên.
3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tính tích cực học tập môn Tâm lý học.
3.2. Khách thể nghiên cứu
3
- Sinh viên trường Đại học Sư phạm Hải Phòng.
- Một số giảng viên giảng dạy môn Tâm lý học trường Đại học
Sư phạm Hải Phòng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập môn Tâm lý học được biểu
hiện ở các mặt: nhận thức ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học; thái độ học
tập: hứng thó, động cơ học tập; hành động học tích cực; kết quả học tập bộ môn
của sinh viên Đại học Sư phạm Hải Phòng và nguyên nhân của nó.
- Tổ chức thử nghiệm dạy học theo quan điểm lấy sinh viên làm
trung tâm và hình thành cách thức học tập tích cực nhằm nâng cao tính tích
cực học tập môn Tâm lý học (nhận thức ý nghĩa bộ môn, hứng thó, cách
thức học tích cực, kết quả học tập) cho sinh viên Đại học Sư phạm Hải
Phòng.
4. Giả thuyết khoa học
Tính tích cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên Đại học Sư
phạm Hải Phòng chưa cao, được biểu hiện ở các mặt: nhận thức ý nghĩa bộ
môn chưa sâu sắc, thái độ học tập chưa đúng, cách học chưa tích cực nên
kết quả học tập của sinh viên chưa tốt. Nếu chúng ta dạy học theo quan
điểm lấy sinh viên làm trung tâm, hình thành cách thức học tập tích cực thì
sinh viên sẽ nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của môn Tâm lý học, có thái độ
học tập đúng đắn, cách thức học tập tích cực bộ môn, sẽ góp phần nâng cao
chất lượng học tập môn Tâm lý học ở các em.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về tính tích cực học tập, nói
chung và tính tích cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên nói riêng.
5.2. Phân tích thực trạng tính tích cực học tập môn Tâm lý học của
sinh viên Đại học Sư phạm Hải Phòng và nguyên nhân của thực trạng đó.
5.3. Thử nghiệm tác động một số biện pháp Tâm lý - Sư phạm nhằm
nâng cao tính tích cực học tập môn Tâm lý học cho sinh viên Đại học Sư
phạm Hải Phòng.
4
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
6.2. Phương pháp quan sát.
6.3. Phương pháp điều tra.
6.4. Phương pháp phỏng vấn.
6.5. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động.
6.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6.7.Phương pháp thống kê toán học.
7. Đóng góp mới của luận án
Đây là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên về tính tích
cực học tập môn Tâm lý học trong trường Đại học Sư phạm. Vì thế kết quả
nghiên cứu sẽ góp phần :
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tính tích cực và tính tích cực
học tập, tính tích cực học tập môn Tâm lý học của sinh viên cũng như các
biểu hiện của nó.
- Chứng minh rằng có thể nâng cao tính tích cực học tập môn Tâm lý
học của sinh viên thông qua các biện pháp tâm lý - sư phạm.
- Là căn cứ để biên soạn giáo trình môn Tâm lý học và xây dựng các
biện pháp giảng dạy môn học này trong trường Đại học Sư phạm.
5
Chương 1
Cơ sở lý luận nghiên cứu tính tích cực học tập môn tâm lý
học của sinh viên Đại học sư phạm hải phòng
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tính tích cực học tập môn tâm lý học
của sinh viên
1.1.1. Các công trình ở ngoài nước nghiên cứu về tính tích cực
học tập của sinh viên
Trước hết phải kể đến các tác giả nghiên cứu về tính tích cực, tính
tích cực học tập và các thành phần của nó làm nền móng cho các công trình
nghiên cứu tiếp theo, đó là:
- Khi nghiên cứu về tính tích cực học tập - nhận thức các tác giả
L.X.Vưgôtxki, X.L.Rubinstein, A.N.Lêônchiep, P.Ia.Galperin và J.Piaget
cho rằng: Dùa trên quan điểm cá nhân luôn hoạt động, không có hoạt động
thì cá nhân không tồn tại trong môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh
mình. Chỉ có trong hoạt động thì tính tích cực cũng như tâm lý, ý thức của
con người mới bộc lé, nảy sinh, hình thành và phát triển. X.L.Rubinxtein
khẳng định “bất kỳ hoạt động nào của con người cũng xuất phát từ chỗ nó
là như một cá nhân, như một chủ thể của hoạt động đó”[ dẫn theo 122;84].
Học là một hoạt động, một hành vi tích cực chứ không chỉ là tiếp nhận, có
động cơ cá nhân chứ không phải không có sự khác biệt cá nhân, do xã hội
qui định chứ không phải nội sinh và phụ thuộc cao độ vào phương pháp.
Hoạt động học tập là một hoạt động tích cực. Bởi “sự khác biệt cơ bản giữa
các quá trình thích nghi theo đúng nghĩa của nó và các quá trình tiếp thu,
6
lĩnh hội là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là quá trình thay đổi các
thuộc tính của loài và năng lực của cơ thể và hành vi loài của cơ thể. Quá
trình tiếp thu hay lĩnh hội thì khác. Đó là quá trình mang lại kết quả là cá
thể tái tạo lại được những năng lực và chức năng người đã hình thành trong
quá trình lịch sử.” Muốn học sinh, sinh viên chuyển tri thức nhân loại thành
kiến thức của bản thân thì người thày phải tổ chức cho sinh viên tích cực
tham gia vào hoạt động [37;11], [89].
- Dùa vào các tư tưởng trên các nhà Tâm lý học, Giáo dục học
G.I.Sukina, Nizamov.R.A, L.Aristôva, B.P.Exipop, I.I.Rodak … (Liên xô)
đã nghiên cứu bản chất tính tích cực nhận thức, mối quan hệ giữa tính tích
cực và tính độc lập nhận thức, phân loại tính tích cực nhận thức…[4], [34],
[105], [127]
- Các nhà Tâm lý học, Giáo dục học phương tây tiếp thu thành tựu
nghiên cứu sinh lý học, triết học, tâm lý học macxit đã coi học là một hoạt
động. Trong tác phẩm “dạy trẻ học” của mình, Robert Fisher đã giới thiệu
công trình nghiên cứu 10 chiến lược dạy học. Xuất phát từ quan điểm
“những người học thành công không chỉ giàu kiến thức mà họ còn biết phải
học thế nào”; mục đích của công trình là làm cho người học có tư duy để
học tập có hiệu quả. Tác giả đã trình bày khung hình cho một chính sách
học tập tích cực cho học sinh, sinh viên. Đó là “1. Tư duy để học; 2. Đặt
câu hỏi; 3. Lập kế hoạch; 4. Thảo luận; 5. Vẽ sơ đồ nhận thức; 6. Tư duy đa
hướng; 7. Học tập hợp tác; 8. Kèm cặp; 9. Kiểm điểm; 10. Tạo nên một
cộng đồng học tập”. Tác giả đã nêu lên các cách thức học tập hiệu quả và
một hệ thống bài tập để học sinh, sinh viên bộc lé, hình thành, phát triển
các cách thức học tập đó, một thành phần của hoạt động học tập, đó là hành
động tích cực lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của nhân loại chuyển thành
tâm lý, ý thức của bản thân [ 120].
7
- Carrol.E.Jzard trong tác phẩm “những cảm xúc của người” đã công
bố công trình nghiên cứu về hệ thống thái độ của con người – thành phần
không thể thiếu của tính tích cực của con người, bởi “có thể phán đoán vị
trí xã hội trên bậc thang văn minh theo mức độ phổ biến tính tò mò trong
các thành viên của nó, rằng sự phát triển và sự sụp đổ của các nền văn minh
có liên quan ở mức độ nào đó, đến những bộ óc vĩ đại của những nền văn
minh này theo đuổi khát vọng khái quát lý luận và tìm kiếm cái mới, chứ
không phải là suy ngẫm những thành tựu của quá khứ” [15]. Tác giả đã
trình bày ảnh hưởng chi phối của cảm xúc với ý thức, mức độ phát triển cao
của tính tích cực. Tác giả còn nghiên cứu sâu sắc thành phần tâm lý quan
trọng của tính tích cực của con người mà biểu hiện từ mức độ thấp là “tính
tò mò” và ở mức độ cao là “khao khát nghiên cứu”, khao khát khám phá
cũng như tính lùa chọn trong tri giác và chú ý …Trong tác phẩm này tác
giả đã tiếp thu thành tựu của các tác giả nghiên cứu về các hiện tượng trên
một cách có chọn lọc, có phê phán như Freud, Tomkins, Murphy, Mc
Dougall, Berlyne, Shand…[ 15]
- Các nhà Tâm lý học ở Đức như H.Hipsơ, M. Forvec, S. Franz…
cũng đã nghiên cứu về thái độ, thái độ học tập và các biểu hiện của nó một
cách công phu, cụ thể. Đặc biệt nghiên cứu của S.Franz về những biểu hiện
thái độ học tập tích cực đã được công nhận và sử dụng rộng rãi đó là: 1/
trên líp chú ý nghe giảng; 2/ học bài và làm bài đầy đủ; 3/ cố gắng vươn lên
học được nhiều; 4/ không vội vàng phản ứng tiêu cực nếu có chỗ nào chưa
hiểu hoặc không nhất trí với bài giảng; 5/ đảm bảo kỷ luật để học tốt; 6/ cố
gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của mình một
cách trung thực; 7/ thích độc lập thực hiện nhiệm vụ học tập; 8/ hăng hái
nhiệt tình trong giê thảo luận và chữa bài tập; 9/ hoàn thành nhiệm vụ học
tập một cách nghiêm túc; 10/ giữ gìn tài liệu học tập cẩn thận. Cơ sở lý luận
này đã được Đào Lan Hương vận dụng “nghiên cứu sự tự đánh giá phù hợp
về thái độ học toán của sinh viên cao đẳng sư phạm Hà Nội” khá thành
8
công. Đây cũng là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực trạng và thực
nghiệm về tính tích cực học tập của sinh viên sư phạm trong nghiên cứu
của chúng tôi [ 47 ], [48], [73].
Thứ hai: Các tác giả nghiên cứu về vấn đề hình thành tính tích cực và
tính tích cực học tập của học sinh, sinh viên:
- V.B.Kôminxkaia cùng các đồng nghiệp đã tìm hiểu mối quan hệ
giữa tính tích cực nhận thức và dạy học. Tính tích cực của trẻ phụ thuộc
vào mức độ kiến thức. Càng hiểu biết về thế giới xung quanh và càng nắm
vững các kỹ năng, kỹ xảo bao nhiêu thì trẻ càng tích cực và chủ động sáng
tạo bấy nhiêu. Do đó nhà sư phạm phải biết kích thích lòng say mê hoạt
động, ham hiểu biết, tính tích cực, tính sáng tạo của trẻ.
- V.Ôcôn trong cuốn “Những cơ sở của việc dạy học nêu vấn đề” cho
rằng tính tích cực là lòng mong muốn hành động được nảy sinh một cách
không chủ định và gây nên những biểu hiện bên ngoài hoặc bên trong của
sự hoạt động. Chủ thể đã ý thức được mục đích hành động [113].
- K.Đ .Usinxki, nhà giáo dục Nga đề cập tới tính tích cực độc lập
trong quá trình dạy học như là “Cơ sở vững chắc cho mọi sự học tập có
hiệu quả” [ dẫn theo18].
- G.Pôlia, trong cuốn “Sáng tạo toán học” 1977, Iu.K.Babanxki 1981,
I.F.Kharlamôp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế
nào” đã cho rằng tính tích cực là trạng thái hoạt động của chủ thể [5], [78].
Như vậy các nhà Giáo dục học và Tâm lý học đều cho rằng tính tích
cực của học sinh là sự huy động các chức năng tâm lý ở mức độ cao nhằm
nhận thức và cải tạo thế giới đồng thời cũng nhận thức và cải tạo chính bản
thân mình. Tính tích cực học tập của học sinh chỉ có thể được nảy sinh,
hình thành và phát triển trong hoạt động, và bằng hoạt động. Muốn đào tạo
con người đáp ứng được yêu cầu xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” thì chỉ
9
có thể để cho người học tự chiếm lĩnh và khám phá ra tri thức từ đó tự rèn
luyện, hoàn thiện bản thân dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên .
1.1.2. Các công trình ở trong nước nghiên cứu về tính tích cực học tập
môn Tâm lý học của sinh viên
Vấn đề phát huy tính tích cực nói chung và tính tích cực học tập của
học sinh, sinh viên nói riêng luôn được các nhà lãnh đạo, các nhà Giáo dục
học, các nhà Tâm lý học có tâm huyết với nghề dạy học thường xuyên trăn
trở, bởi lẽ đây là một trong những yếu tố quyết định kết quả học tập. Có thể
kể đến một số tác giả nghiên cứu về vấn đề này một cách nổi bật nhất, đó
là:
Thứ nhất : Những tác giả nghiên cứu về tính tích cực, tính tích cực
học tập và các thành phần của nã:
- Các nhà Tâm lý học Việt Nam như Phạm Minh Hạc, Phạm Tất
Dong, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thuỷ, Hồ Ngọc Đại, Trần Hữu
Luyến, Nguyễn Kế Hào, Bùi Văn Huệ, Ngô Công Hoàn…tiếp cận quan
điểm duy vật biện chứng và hoạt động đều coi nhân cách là chủ thể có ý
thức. Tính tích cực là một thuộc tính của nhân cách. Tính tích cực của nhân
cách bao gồm các thành tố tâm lý như nhu cầu, động cơ, hứng thó, niềm
tin, lý tưởng. Các thành tố tâm lý này của tính tích cực luôn tác động qua
lại lẫn nhau, được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẻ và đa
dạng nhằm biến đổi, cải tạo, thế giới xung quanh, cải tạo bản thân con
người, cải tạo những đặc trưng tâm lý của mình [39], [46], [64], [124],
[148].
- Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết cho rằng “hoạt động bao giê cũng do
chủ thể tiến hành. Đó chính là con người đang hoạt động. Tính chủ thể bao
hàm trước hết tính tích cực. Đây cũng là đặc tính chung của sự sống và đến
con người tính tích cực phát triển tới đỉnh cao thành tính chủ động, say mê,
nhiệt tình. Con người là chủ thể hoạt động, đồng thời con người càng tích
10
cực hoạt động tính chủ thể càng phát triển cao và do đó con người sẽ dần
dần hoàn thiện”. Như vậy tác giả đã vạch ra được mối liên hệ chặt chẽ giữa
tính tích cực với hoạt động của con người [147,24].
- Tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phóc khi nghiên cứu thực
trạng thái độ học tập của học sinh cũng đã nêu ra các chỉ số như chú ý,
hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập, hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao, đọc thêm và làm các bài tập khác, vận dụng hay
chuyển tải những gì đã học vào thực tế, hình thành và phát triển các quan
hệ với thày, với bạn nhằm mục đích giúp bản thân học tập tốt hơn. Có thể
nói các tác giả đã thành công trong quá trình nghiên cứu thái độ học tập –
một thành phần không thể thiếu của tính tích cực học tập của học sinh - bởi
khi học sinh có thái độ học tập đúng đắn thì các em mới tích cực tìm ra các
cách thức tối ưu để lĩnh hội tri thức từ đó mới chuyển thành tâm lý, ý thức
của bản thân một cách có hiệu quả [112].
- Luận án PTS của Nguyễn Xuân Thức với đề tài “Nghiên cứu tính
tích cực giao tiếp của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động vui chơi” đã rất
thành công trong việc chỉ ra cơ sở lý luận về tính tích cực nói chung và tính
tích cực học tập của học sinh nói riêng. Về mặt thực tiễn tác giả đã đi sâu
nghiên cứu tính tích cực giao tiếp của trẻ em mẫu giáo trong hoạt động vui
chơi. Do đó nghiên cứu tính tích cực học tập nói chung và tính tích cực học
tập môn Tâm lý học nói riêng vẫn còn bỏ ngỏ đã thôi thúc chúng tôi đi sâu
nghiên cứu luận án này [136].
- Luận án Tiến sĩ Tâm lí học của Đào Lan Hương với đề tài “Nghiên
cứu sự tự đánh giá phù hợp về thái độ học toán của sinh viên Cao đẳng Sư
phạm Hà Nội” cũng đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thái độ học tập
tích cực của sinh viên (một thành phần rất quan trọng trong tính tích cực
học tập của sinh viên). Dùa vào đây chúng tôi đã phân tích nội dung và
biểu hiện thái độ học tập của sinh viên [73].
11
Thứ hai : Những tác giả nghiên cứu về vấn đề hình thành tính tích
cực và tính tích cực học tập của học sinh, sinh viên:
- Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng vừa là nhà chính trị vừa là nhà sư
phạm cũng đã từng nhấn mạnh “Bí quyết quan trọng nhất là phương pháp
học tập”, Người thường xuyên đòi hỏi người dạy phải làm cho sinh viên
luôn phải suy nghĩ, huy động tiềm năng học tập của học sinh, sinh viên còn
người học thì phải say mê, kiên trì, học có phương pháp, đặc biệt là tư duy
[32,1], [33].
- Tại Hội nghị giáo dục Đại học, tổ chức từ 1-3/10/2001 tại Hà Nội,
Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã nhấn mạnh “Dạy ở đại học chủ yếu là
dạy cho sinh viên cách học, cách tư duy sáng tạo”
- Tác giả Phạm Thị Diệu Vân trong công trình “Làm cho học sinh
tích cực chủ động và độc lập sáng tạo trong giê lên lớp” cho rằng tính tích
cực học tập không chỉ thể hiện trong các mặt quan sát, chú ý, tư duy, trí
nhớ mà phải căn cứ vào cường độ, độ sâu, nhịp điệu của những hoạt động
đó trong một thời gian nhất định [150,51].
- Nguyễn Ngọc Bảo: Khi công bố các công trình nghiên cứu của
mình về “khái niệm tính tích cực, tính độc lập nhận thức và mối liên hệ
giữa chúng” [7,46-51], [8], [9] đã đề cập tới tính tích cực và tính tích cực
nhận thức dưới góc độ Triết học và Tâm lý học. Theo tác giả, tính tích cực
nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sù huy
động ở mức độ cao của các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn
đề nhận thức. Nó vừa là mục đích học tập vừa là phương tiện vừa là điều
kiện để đạt mục đích, vừa là kết quả của học tập. Nó là sản phẩm hoạt động
cá nhân.
- Đặng Vũ Hoạt cho rằng tính tích cực nhận thức biểu hiện ở chỗ
huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý, đặc biệt chức năng tư
duy.Trong đó sự kết hợp thống nhất giữa các yếu tố tâm lý nhận thức với
12
các yếu tố tình cảm, ý chí càng linh hoạt bao nhiêu thì ở người học tính tích
cực càng cao bấy nhiêu [60].
- Vò Văn Tảo đã nêu lên nhiều ý kiến mới về quan hệ giữa học và
dạy, về công nghệ kiểm tra, về cách học có hiệu quả, về cách dạy thông
minh. Cách học có hiệu quả có thể tóm tắt là Học - Hái - Hiểu - Hành (4H).
Tác giả đã phân tích kỹ công nghệ này và người giảng viên có thể chuyển
giao được nếu nghiên cứu kỹ từ đó hướng dẫn cho sinh viên có cách học tốt
nhất [128], [129].
- Nghiêm Đình Vì trong bài “tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng “hoạt động hoá người học” đã nhấn mạnh việc đi sâu nghiên
cứu và vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm lấy học sinh, sinh
viên làm trung tâm.
- Tác giả Trần Bá Hoành, Lê Tràng Định, Phó Đức Hoà giới thiệu
công trình nghiên cứu “áp dụng dạy học tích cực trong môn Tâm lý – Giáo
dục học” đã giới thiệu cơ sở lý luận, thực nghiệm, qui trình áp dụng dạy
học tích cực ở nhà trường Phổ thông cũng như Đại học. Trong đó các tác
giả nêu lên khái niệm tính tích cực nhận thức trên cơ sở tiếp thu quan niệm
của Kharlamôp. Các tác giả coi “hứng thó và tự giác là hai yếu tố tâm lý
tạo nên tính tích cực”. Theo các tác giả tính tích cực là phẩm chất vốn có
của con người và được biểu hiện trong hoạt động. Tính tích cực học tập là
sự gắng sức cao trong hoạt động học tập mà chủ yếu trong hoạt động nhận
thức [55], [56], [58]. Trong tác phẩm này các tác giả đã nêu đặc trưng
phương pháp dạy học tích cực, tình hình dạy và học tích cực ở trường sư
phạm hiện nay. Các tác giả đã tiếp thu các thành tựu nghiên cứu về Tâm lý
học, Giáo dục học và đặc biệt những thành tựu nghiên cứu về sự hình
thành, phát triển tính tích cực học tập của học sinh, sinh viên của tác giả
Kelchtermans.
- Thái Duy Tuyên đã tìm hiểu về tính hai mặt của tính tích cực (mặt
tự phát và mặt tự giác), về nội dung, biểu hiện, nguyên nhân, mức độ biểu
13
hiện của tính tích cực học tập cũng như vấn đề phát huy tính tích cực học
tập của học sinh [144], [146].
- Luận án Tiến sĩ Giáo dục học “Tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh bằng quan sát kết hợp thảo luận nhóm trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội ở bậc Tiểu học” của Nguyễn Thị Hường đã hệ thống hoá,
khái quát hoá về lịch sử vấn đề, khái niệm, dấu hiệu nhận biết tính tích cực
học tập của học sinh nói chung, tính tích cực học môn Tự nhiên và Xã hội
ở bậc Tiểu học tương đối rõ nét và đầy đủ. Đây là cơ sở lý luận chủ yếu
chúng tôi sử dụng để nhận biết tính tích cực học tập của sinh viên.
- Các nhà Tâm lý học Sư phạm như Nguyễn Văn Thàng, Lê Ngọc
Lan, Phạm Thành Nghị, Phan Trọng Ngọ…trong các công trình nghiên cứu
của mình cũng đã coi hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là một quá
trình nhận thức tích cực. Đó là hoạt động đặc thù chỉ có ở con người nhằm
lĩnh hội tri thức nhân loại chuyển thành tâm lý, ý thức của bản thân cho nên
muốn đạt được mục đích dạy học thì phải tạo ra được tính tích cực trong
hoạt động học của học sinh, sinh viên, làm cho “các em vừa ý thức được
đối tượng cần lĩnh hội vừa biết cách chiếm lĩnh được đối tượng đó”[63].
Các tác giả cũng chỉ ra việc hình thành tính tích cực học tập ở học sinh,
sinh viên chính là quá trình hình thành hoạt động học ở họ. Muốn vậy phải
thấy rõ được mối quan hệ chặt chẽ giữa dạy học và sự phát triển trí tuệ từ
đó mới đào tạo ra những con người không những có tri thức phong phú về
mọi lĩnh vực mà còn có các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Theo các tác giả, dạy học phải dùa trên các thành tựu
nghiên cứu tâm lý học của S.L.Rubinstêin, L.V.Zancôp, V.V. Đavưdôp,
N.A.Mentsinscaia, tức là ứng dụng kết quả nghiên cứu tâm lý sư phạm vào
trong quá trình tổ chức, điều khiển hoạt động học của học sinh, sinh viên
[63], [103], [104].
Một số tác giả: Lê Đức Phóc, Nguyễn Huy Tó, Hà Thị Minh Chính,
Lý Minh Tiên, Nguyễn Thạc, Trần Thị Nhung, Nam Sĩ Minh, Bạch Văn
14
Thọ…đã công bố kết quả nghiên cứu cụ thể về các thành phần của tính tích
cực học tập môn Tâm lý học, trong đó chủ yếu các tác giả đi tìm những
phương hướng, hình thức tổ chức, phương pháp, biện pháp giảng dạy, đánh
giá trong dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động học tập môn Tâm lý học
của sinh viên. Các nhà nghiên cứu đều nhận xét tính tích cực học tập môn
Tâm lý học của sinh viên quyết định trực tiếp đến chất lượng học tập của
các em. Đồng thời các tác giả cũng khẳng định muốn tích cực hoá hoạt
động học tập môn Tâm lý học và nâng cao chất lượng học tập của sinh viên
thì phải huy động được toàn bộ chức năng tâm lý của các em tham gia vào
quá trình chuyển tri thức Tâm lý học của nhân loại thành tri thức tâm lý của
bản thân.
Chúng tôi cũng không thể không kể đến Phan Trọng Luận, Lê Khánh
Bằng, Phạm Viết Vượng, Trần Văn Nguyệt , Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn
Hữu Long [10], [91], [138], [155] trong các bài báo và bài viết của mình
đều nói đến tính tích cực của học sinh là sự say mê, tìm tòi, khám phá tri
thức và vì vậy người thày phải có phương pháp thích hợp để kích thích,
phát triển tính chủ động, sáng tạo đó chứ không phải là “nhồi nhét” kiến
thức “sẵn có” vào đầu họ. Có như vậy mới đào tạo được một thế hệ tương
lai “biết làm, muốn làm” và tự kiếm được “việc làm” trong xã hội đầy
biến động của thiên niên kỷ này. Tuy vậy, chưa có tác giả nào nghiên cứu
tính tích cực học tập môn Tâm lý học và phát huy tính tích cực học tập bộ
môn này của sinh viên Đại học Sư phạm một cách sâu sắc, đầy đủ các
thành phần của nó. Đặc biệt việc đi sâu tìm hiểu các thành phần cơ bản của
tính tích cực như nhận thức, thái độ, cách thức học tập tích cực của sinh viên
Đại học Sư phạm để từ đó kích thích họ tích cực học tập bộ môn Tâm lý học
nói riêng cũng như các môn học khác nói chung là cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực.
1.2. một số vấn đề lý luận cơ bản về tính tích cực và tính tích cực học
tập môn tâm lý học của sinh viên
15
1.2.1. Tính tích cực
1.2.1.1. Khái niệm về tính tích cực
Đây là khái niệm khá phức tạp nên có nhiều quan điểm bàn về vấn đề này:
- Trong từ điển tiếng Việt: tính tích cực được hiểu theo hai nghĩa:
Mét là chủ động hướng hoạt động nhằm tạo ra những thay đổi, phát triển
(tư tưởng tích cực, phương pháp tích cực). Hai là hăng hái, năng nổ với
công việc (tích cực học tập, tích cực làm việc) [164,1120].
- Quan điểm của các nhà Triết học: Các nhà Triết học cho rằng mỗi
một sự vật bao giê cũng thể hiện tính tích cực của nó bởi vật chất luôn vận
động và phát triển không ngõng .
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã coi cá nhân là sản
phẩm của các quan hệ xã hội và cho rằng cá nhân tích cực tác động vào đời
sống xã hội và trở thành con người hoạt động làm phát triển xã hội. Tính
tích cực thể hiện ở sức mạnh của con người trong việc chinh phục, cải tạo
thế giới tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân mình. Theo V.I. Lênin
tính tích cực là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể, đối với đối
tượng sự vật xung quanh; là khả năng của mỗi người đối với việc tổ chức
cuộc sống, điều chỉnh những nhu cầu, năng lực của họ thông qua các mối
quan hệ xã hội. Đây là cơ sở phương pháp luận để chúng tôi nghiên cứu
tính tích cực học tập của sinh viên sư phạm.
- Quan điểm của các nhà Sinh học :
Xuất phát từ sự nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau, các nhà
sinh học cũng giải thích khác nhau về tính tích cực.
Theo M.Kagan thì tính tích cực của thực vật, đó là tính hướng, là sự
hướng tới những yếu tố của hoàn cảnh để tạo nên sự thay đổi, vận động,
hoặc thích nghi của sinh vật đối với môi trường .
Phát kiến của I.P.Paplôp về hệ thống tín hiệu thứ hai giúp chúng ta
giải thích cơ sở sinh lý cuả tính tích cực, hoạt động của con người mà vốn
mang tính chất đặc thù, khác biệt về chất so với động vật. Ông cho rằng:
cơ sở sinh lý của tính tích cực chính là hoạt động của vỏ bán cầu đại não
và hệ thống tín hiệu thứ hai. Đây là sự khác biệt giữa con người và con vật.
16
Con vật chỉ bắt chước, chứ không có tính tích cực. Chỉ ở con người mới có
tính tích cực hoạt động, hành động. Chẳng hạn: Con người khi đói vẫn có
thể tạm thời không tiếp nhận thức ăn nếu họ thấy cần thiết phải làm như
vậy. Những hành động như vậy xuất phát từ ý thức về những hậu quả xa
của hành vi của mình và dùa trên cơ sở hiểu biết những qui luật khách quan
của hiện thực. Việc thường xuyên đối chiếu các động cơ hành động với
hoàn cảnh bên ngoài và với kinh nghiệm tích luỹ được sẽ gây cho con
người thích ứng tốt nhất với hoàn cảnh cuộc sống xã hội và có khả năng
cải tạo cuộc sống đó [19,168].
Còn I.M.Xêsênôp viết rằng “Cuộc sống hằng ngày cũng như lịch sử
các dân téc chưa có một trường hợp nào mà riêng ý chí lạnh lùng và phi
bản ngã lại có thể làm nổi một kì công đạo đức nào đó”. Tiếp đó, ông viết
rằng “cái quyết định ý chí là một động cơ đạo đức nào đó, dưới hình thức
một ý nghĩ say mê hay một tình cảm”. Xét đến cùng, theo I.M.Xêsênôp,
hoạt động là phản ánh của hoàn cảnh bên trong và bên ngoài của cuộc sống
con người : “Nguyên nhân đầu tiên của mọi hành động của con người vốn
nằm ở bên ngoài nó” [dẫn theo 19,153]. Bởi ông đã theo quan điểm chỉ đạo
của chủ nghĩa Mac - Lênin là “tâm lý là cơ năng của cái phần nhỏ đặc biệt
phức tạp của vật chất mà ta gọi là bộ não của con người” [148;28].
Nguyên tắc quyết định luận là nguyên tắc chủ đạo trong chủ nghĩa
duy vật khi giải thích hành động của con người và tính tích cực hoạt động
của cá nhân.
Tuy nhiên có một số người hiểu nguyên tắc này một cách đơn giản,
coi con người phản ánh những tác động bên ngoài chỉ giống như sự phản
chiếu của chiếc gương. Đồng thời họ giải thích hoạt động của con người
một cách trực tiếp từ hoàn cảnh hiện tại và từ những yêu cầu của hoàn cảnh
đó. Một quan niệm mà thực chất có tính cơ giới như vậy sẽ đưa đến chỗ
công nhận tính thụ động của cá nhân và tính chất máy móc trong hành vi
của cá nhân.
17
- Quan điểm của các nhà Sinh lý học và Tâm lý học tư sản đứng trên
lập trường của thuyết tâm lý vật lý song song, về căn bản vẫn quan niệm
vấn đề tính tích cực của cá nhân giống như quan niệm của Đêcac.
Họ tách rời cơ thể cùng với những biểu hiện tâm lý đơn giản mà họ
coi là những hiện tượng sinh lý hoặc lệ thuộc vào sinh lý thành một mặt
riêng, còn mặt kia là những chức năng tâm lý cao cấp mà họ cho là không
lệ thuộc vào cơ thể, là những sức mạnh tiềm tàng, vốn mang một bản
nguyên tích cực [38], [135].
- Quan điểm của các nhà Tâm lý học:
+ S.Freud (Phân tâm học) cho rằng tính tích cực của con người được
hiểu như một sức mạnh tự nhiên, sinh vật giống như bản năng động vật
[dẫn theo 35,384]. Luận điểm cơ bản của ông là: Con người gồm ba khối
(cái Êy, cái vô thức bao gồm các bản năng vô thức như ăn uống, tình dục,
tự vệ trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ
đời sống tâm lí và hành vi của con người, cái Êy tồn tại theo nguyên tắc
thoả mãn và đòi hái; cái Tôi là con người thường ngày, con người có ý
thức, tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo ông là cái tôi
giả hiệu, cái tôi bề ngoài của cái nhân lõi bên trong là “cái Êy”; Cái Siêu
Tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lý tưởng” không bao giê vươn tới được và tồn
tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn Ðp [dẫn theo 38], [135], [148].
+ Tâm lý học hành vi quan niệm hành vi của con người cũng như của
động vật là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại
một kích thích nào đó. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và động
vật phản ánh bằng công thức:
S – R
(Stimulant – Reaction)
Kích thích – Phản ứng
Chủ nghĩa hành vi không thấy sự khác biệt giữa con người và động
vật. Họ coi con người là một thực thể giống như máy móc, phản ứng bằng
bắp thịt dưới những tác động vật lý. Sau này các đại biểu của chủ nghĩa
18
hành vi mới như Tomen, Hulơ, Skinnơ… có đưa vào những “biến số trung
gian” bao hàm một số yếu tố như nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm
sống của con người hoặc hành vi tạo tác nhằm đáp ứng những kích thích có
lợi cho cơ thể nhưng về cơ bản cũng vẫn coi hành vi con người có tính chất
cơ học, máy móc. Chủ nghĩa hành vi loại trừ ý thức và vai trò quyết định
của ý thức trong sự lùa chọn các Ên tượng và cải biến chúng trong tâm hồn,
cũng như trong việc lập kế hoạch cho bản thân hoạt động [37], [135],
[148], [19;162].
+ Theo Tâm lý học Mác xít : Các nhà Tâm lý học Macxit dùa vào
triết học Mac- Lênin nghiên cứu vấn đề tính tích cực hoạt động của cá nhân
trên lập trường quyết định luận xã hội cho rằng các thái độ hình thành nên
trong quá trình phản ánh và trên cơ sở phản ánh sẽ trực tiếp biểu hiện ra ở
mức độ hoạt động và ở đặc điểm số lượng, chất lượng của hiệu suất hoạt
động [5], [19], [26], [37;93-94], [38], [43], [63], [80], [108], [135], [148].
Nhìn nhận tính tích cực theo góc độ này được thể hiện như sau:
- Tính tích cực được đề cập và nhấn mạnh như là một đặc điểm
chung của sinh vật sống, là động lực đặc biệt của mối liên hệ giữa sinh vật
sống và hoàn cảnh, là khả năng đặc biệt của tồn tại sống giúp cơ thể thích
ứng với môi trường [136,40].
- Tính tích cực gắn liền với hoạt động và hoàn cảnh bên ngoài, nó
được biểu hiện như sau:
+ Nã gắn liền với sự hoạt động, được thể hiện như là động lực để
hình thành và hiện thực hoá hoạt động.
+ Ở mức độ cao, nó thể hiện ở tính chế ước, chế định trạng thái bên
trong của chủ thể.
+ Nã thể hiện sự thích ứng một cách chủ động với hoàn cảnh, môi
trường sống bên ngoài [136;44].
19
- Như vậy, tính tích cực được nghiên cứu trong mối quan hệ với hoạt
động, nó làm xuất hiện động lực thúc đẩy con người hoạt động có hiệu quả.
Vì vậy tính tích cực có các tính chất sau:
+ Hoạt động phản ứng – Sự hoạt động của trạng thái bên trong của
chủ thể với môi trường.
+ Hoạt động ý chí thể hiện tính độc lập của chủ thể với môi trường.
+Tính chất vượt khó khăn, trở ngại trong mọi hoàn cảnh theo mục
đích của chủ thể.
+ Tính ổn định - bền vững của hoạt động tạo thành kiểu phản ứng đối
với môi trường bên ngoài của chủ thể [136;44].
Dùa trên học thuyết của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mac –
Lênin, các nhà Tâm lý học đã nghiên cứu vấn đề tính tích cực hoạt động
của cá nhân trên lập trường quyết định luận xã hội và theo các xu hướng
sau:
Xu hướng thứ 1: Tính tích cực được xem xét từ góc độ chức năng,
vai trò của chủ thể đối với thế giới bên ngoài. Đại diện là S.Đ.Smirnôp,
V.P.Dintrencô. Các tác giả cho rằng sự phát triển tính tích cực là sự phức
tạp hoá dần các chức năng tính tích cực của chủ thể [136,45].
Xu hướng này đã vạch ra ba biểu hiện của tính tích cực:
+ Tính tích cực thể hiện tính chủ định của ý thức, tính chủ động của
chủ thể với thế giới bên ngoài - đó là thước đo tính chủ động của chủ thể.
Giới hạn phía trên của nó là tính tích cực tuyệt đối còn giới hạn dưới là tính
bị động hoàn toàn.
+ Tính tích cực là thông số đo sự chuyển động, sự biến đổi hoạt động
tâm lý của chủ thể gắn liền với việc tiêu hao năng lượng tâm lý và sinh lý.
Tính tích cực thực hiện chức năng chỉ báo hoạt động của con người, con
người có tính tích cực là con người đang hoạt động.
+ Tính tích cực thực hiện chức năng biểu hiện sự thích nghi mà cao
hơn là sự thích ứng, sự cải tạo và sáng tạo của chủ thể với thế giới bên
20
ngoài. Khi nói đến tính tích cực là phải nói đến khía cạnh chủ thể không chỉ
thích ứng mà còn sáng tạo trong thế giới bên ngoài như thế nào.
Xu hướng thứ 2: Xem tính tích cực gắn với hành động và được thể
hiện trong các mức độ lĩnh hội khác nhau đó là chỉ số đo tính tích cực của
chủ thể (P.Ia.Ganpêrin, A.A.Liublinxcaia, G.Ananhiep, A.Nadiasvili).
+ Ở góc độ phát triển của tính tích cực P.Ia.Ganpêrin sử dụng phạm
trù hành động và nhận xét rằng các mức độ tiến hoá của hành động đánh
dấu thể hiện mức độ phát triển của tính tích cực. Nó gồm bốn mức độ hành
động vật chất để nâng dần tính tích cực của hành động cá nhân [136,45].
+ Ở góc độ phát sinh cá thể, A.A.Liublinxcaia đã cho rằng tính tích
cực được thể hiện trong hoạt động và mức độ phát triển tính tích cực được
đánh giá qua mức độ lĩnh hội hoạt động của trẻ em từ nhỏ đến lớn. Theo
tác giả có 3 mức độ thể hiện tính tích cực như : Các hành động bắt chước,
các hành động làm theo mẫu của người lớn và bạn bè một cách có ý thức,
các hành động độc lập và sáng tạo.
Xu hướng thứ 3: Nhìn nhận tính tích cực qua các dấu hiệu của chúng.
Theo hướng này, một số tác giả như M.I.Lixina, A.N. Leônchiep,
A.V.Dapôrôzet… đã đánh giá tính tích cực của trẻ thông qua những dấu
hiệu nhất định cũng như vạch ra những dấu hiệu, những biểu hiện và các
thành tố tâm lý đặc trưng của tính tích cực.
Các tác giả đều thống nhất cho rằng những thành tố tâm lý cơ bản,
đặc trưng cho tính tích cực đó là:
+ Tính tích cực gắn liền với hoạt động, hay nói khác đi tính tích cực
phải thể hiện trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những
hành động, hành vi cụ thể của trẻ em.
+ Tính tích cực để chỉ tính sẵn sàng hoạt động của chủ thể, là nhu cầu
đối với hoạt động của chủ thể. Yếu tố nhu cầu có mối liên hệ chặt chẽ với
21
tính tích cực - đây chính là nguồn gốc của tính tích cực. Có thể khẳng định
nếu không có nhu cầu thì không có tính tích cực.
+ Tính tích cực để chỉ tính chủ động, hành động một cách có ý thức,
theo chủ ý của chủ thể để đối lập với sự bị động, thụ động (tính tích cực
tiệm cận hoặc gần bằng không) [37;142-146].
Xu hướng thứ 4: Nhóm các tác giả L.M.Áckhangenxki (Liên xô
trước đây); R.Minle (Cộng hoà Dân chủ Đức); I.Lich (Hungari)…xem xét
thuật ngữ “Tính tích cực” khi đánh giá trình độ tính chất các đặc tính cơ
bản của tính tích cực lao động, tính tích cực chính trị-xã hội… Theo các tác
giả trên thì tính tích cực bao hàm và thể hiện bốn chỉ số sau:
+ Tính giá trị của hoạt động và tính tự nguyện.
+ Tính hiệu quả của hoạt động mà tính tích cực đang hướng tới.
+ Tính sáng tạo (hay mức độ sáng tạo hoạt động).
+ Tính phát triển (tính tích cực hướng đến phát triển năng lực tâm lý,
sự phát triển nhân cách của chủ thể…)
Như vậy có rất nhiều xu hướng, nhiều cách nhìn nhận đánh giá khác
nhau về tính tích cực. Để nhìn nhận khách quan, đầy đủ tính tích cực trong
các lĩnh vực khác nhau cần phải có điểm tựa, cần phải dùa vào những
nguyên tắc nhất định.
Nhóm các tác giả L.M.áckhangenxki, L.P.Buêva, L.I.Ivascô…đã đặt
ra vấn đề này và xác định 3 nguyên tắc sau:
+ Không nên giải thích phiến diện hay chỉ xem tính tích cực duy nhất
là trạng thái hoạt động.
+ Không được tách rời mặt bên trong (hình thức tồn tại bên trong)
của tính tích cực với mặt biểu hiện bên ngoài của tính tích cực.
22
+ Sù phát triển tính tích cực có thể được thể hiện bằng các đặc trưng
số lượng và chất lượng của hoạt động con người [1,217-218].
Xét về mặt Tâm lý học theo quan điểm tiếp cận hoạt động - nhân
cách - giao tiếp ta có thể hiểu khái quát về tính tích cực của cá nhân có nội
dung tâm lý cơ bản là :
+ Tính tích cực gắn liền với hoạt động, hay nói khác đi tính tích cực
phải thể hiện trong trạng thái hoạt động và được biểu hiện trong những
hành động, hành vi cụ thể của con người.
+ Tính tích cực để chỉ tính sẵn sàng với hoạt động, là nhu cầu đối với
hoạt động. Yếu tố nhu cầu có mối liên hệ chặt chẽ với tính tích cực - đây
chính là nguồn gốc của tính tích cực.
+ Tính tích cực để chỉ tính chủ động, hành động một cách có ý thức,
theo chủ ý của chủ thể để đối lập với sự bị động, thụ động.
Từ sự phân tích trên chúng tôi cho rằng tính tích cực của cá nhân
gắn liền với trạng thái hoạt động của chủ thể. Tính tích cực bao hàm tính
chủ động, sáng tạo, tính có ý thức của chủ thể trong hoạt động. Tính tích
cực của cá nhân là một thuộc tính của nhân cách được đặc trưng bởi sự
chi phối mạnh mẽ của các hành động đang diễn ra đối với đối tượng, tính
“trương lực” của những trạng thái bên trong của chủ thể ở thời điểm hành
động, tính qui định của mục đích hành động trong hiện tại, tính siêu hoàn
cảnh và tính bền vững tương đối của hành động trong sự tương quan với
mục đích đã thông qua. Tính tích cực thể hiện ở sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, ở sự chủ động, tự giác hoạt động và cuối cùng là kết quả cao của
hoạt động có mục đích của chủ thể. Tính tích cực được nảy sinh, hình
thành, phát triển trong hoạt động.
1.2.1.2. Nguồn gốc của tính tích cực
Trong khi đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật trực quan và con người
trừu tượng của Fơbach, C.Mac và Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh tính tích cực
23
của con người . Khi nói rằng hoàn cảnh sống xã hội là yếu tố quyết định của cá
nhân con người thì đồng thời Mác và Ăngghen cũng nhận xét rằng con người
có thể cải tạo những hoàn cảnh đó “Hoàn cảnh tạo ra con người đến chõng
mực nào thì con người cũng tạo ra hoàn cảnh ở chõng mực Êy” [97].
Lao động trước hết là do những nhu cầu của con người thúc đẩy
mà có. Dưới hình thức sản xuất xã hội, lao động là nhân tố không những
làm phát triển mà còn sản sinh ra những nhu cầu mới .
Khi xây dựng lý luận phản ánh duy vật nhằm giải thích nguồn gốc
của tri thức và quá trình nhận thức, V.I. Lênin đã nhận xét về tính chất tích
cực, sáng tạo, cải tạo của hoạt động nhận thức và lý luận nhận thức của con
người. V.I. Lênin đã diễn đạt tư tưởng căn bản đó trong công thức : “ý
thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra
thế giới khách quan” [88;235].
Dùa trên học thuyết của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mac –
Lênin, các nhà Tâm lý học Xô viết đã nghiên cứu vấn đề tính tích cực hoạt
động của cá nhân trên lập trường quyết định luận xã hội. Về mặt này V. N.
Miaxisôp đã có nhiều cống hiến đặc biệt. Ông là người đã phát triển khái niệm
thái độ và lấy nó làm nguyên tắc giải thích tính tích cực của cá nhân. V.N.
Miaxisốp xuất phát từ chỗ cho rằng các thái độ hình thành nên trong quá trình
phản ánh và trên cơ sở quá trình phản ánh, sẽ trực tiếp biểu hiện ra ở mức độ
hoạt động và ở đặc điểm số lượng, chất lượng của hiệu suất hoạt động.
Các công trình nghiên cứu của A. Côxêubaep, đã chứng tỏ rằng sự
nỗ lực ý chí phụ thuộc vào thái độ của đối tượng thực nghiệm đối với
nhiêm vụ. L.I. Bôjôvic đã xác định sự phụ thuộc trực tiếp của kết quả vào
thái độ của học sinh đối với nhà trường và đối với công việc [dẫn theo 18],
[93].
Bất kì hiện tượng nào trong cuộc sống, nếu có một ý nghĩa thiết
thân đối với cá nhân, đều sẽ trở thành đối tượng của thái độ tích cực của cá
24
nhân đó. N.F. Đôbrưnin đã vạch rõ tính chất biện chứng trong mối quan hệ
qua lại giữa ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân, giữa ý nghĩa khách quan và
ý nghĩa chủ quan. Ý nghĩa khách quan của những quan hệ nào đó, khi đã
trở thành ý nghĩa chủ quan của con người thì lúc đó chẳng những nó không
bị yếu đi mà trái lại trở thành một nguồn quan trọng nhất thúc đẩy con
người tích cực hoạt động – đó chính là nhu cầu của con người.
Về vấn đề này Ph.Ăngghen viết : “Hoạt động lịch sử cơ bản nhất của
con người, hoạt động đã nâng con người từ trạng thái động vật lên trạng
thái con người, hoạt động khác của con người chính là sự sản xuất nhằm
thoả mãn nhu cầu sinh sống của con người ” [dẫn theo 19;159].
Ngoài những nhu cầu vật chất, còn có những nhu cầu tinh thần
và xã hội, các hứng thó, tình cảm và lý tưởng, các yêu cầu xã hội muôn
màu muôn vẻ thúc đẩy con người hoạt động.
Trong quá trình lao động đã xuất hiện và phát triển quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau giữa người và người. Vì thế hoạt động của cá nhân không
chỉ được quy định bởi những nhu cầu và hứng thó mà còn bị quy định bởi
những đòi hỏi và những yêu cầu của xã hội. Các yêu cầu của tập thể sẽ trở
thành yêu cầu của cá nhân. Việc đánh giá tốt của xã hội, biểu thị dư luận
của tập thể, là một kích thích mạnh mẽ và đôi khi chính là nguồn gốc thúc
đẩy tính tích cực hoạt động của cá nhân (lòng mong muốn được khen có ý
nghĩa đặc biệt to lớn đối với lứa tuổi trẻ em). Việc thi đua giữa các tập thể
và giữa từng người với nhau, tâm trạng phấn khởi trong tập thể, nói tóm lại
là nhân tố tâm lý- xã hội có một ý nghĩa căn bản đối với việc phát huy tính
tích cực của cá nhân. Hình ảnh tương lai tươi sáng, ý thức về tính hiện thực
của tương lai đó sẽ tạo ra tính tích cực cao của cá nhân, sẽ tạo ra khả năng
chịu đựng những bất hạnh, những thiếu thốn, khắc phục những khó khăn và
tiến tới mục tiêu đã định. Niềm hy vọng, niềm tin ở một ngày mai tươi đẹp
hơn, là một trong những kích thích căn bản thúc đẩy con người sống và tích
cực hoạt động. Do đó, dùa trên sự hiểu biết các quy luật, dùa trên ý thức về
25