Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Nghiên cứu về nhu cầu thành đạt của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.96 KB, 55 trang )

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 1 -
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Con người cá nhân hay con người trong tổ chức chủ yếu hành động theo nhu cầu.
Cuộc sống càng phát triển, nhu cầu của con người càng cao. Chính sự thỏa mãn nhu
cầu làm họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời việc nhu cầu được thỏa
mãn và thỏa mãn tối đa là mục đích hành động của con người. Theo thuyết nhu cầu của
Maslow thì nhu cầu của con người được chia ra thành các cấp độ khác nhau như: Cấp
độ thấp nhất và cơ bản nhất là nhu cầu thể chất hay thể xác của con người gồm nhu cầu
ăn, mặc, ở Cấp độ tiếp theo là nhu cầu an toàn hay nhu cầu được bảo vệ. Nhu cầu an
toàn có an toàn về tính mạng và an toàn về tài sản. Cao hơn nhu cầu an toàn là nhu cầu
quan hệ như quan hệ giữa người với người, quan hệ con người với tổ chức hay quan hệ
giữa con người với tự nhiên. Con người luôn có nhu cầu yêu thương gắn bó. Cấp độ
nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát triển. Ở trên cấp độ này là
nhu cầu được nhận biết và tôn trọng. Đây là mong muốn của con người nhận được sự
chú ý, quan tâm và tôn trọng từ những người xung quanh và mong muốn bản thân là
một “mắt xích” không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ
được tôn trọng cho thấy bản thân từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu
dụng theo một điều giản đơn là “xã hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con người
thường có mong muốn có địa vị cao để được nhiều người tôn vọng và kính nể. Vượt
lên trên tất cả các nhu cầu đó là nhu cầu sự thể hiện. Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt
được mong muốn. Con người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào
đó theo sở thích và chỉ khi công việc đó được thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng.
Có thể nói, nhu cầu thành đạt là sự nỗ lực của con người vượt lên những gì mà họ đã
đạt được, hoàn thiện nó để đạt mức độ cao hơn. Đó cũng chính là nguồn gốc tích cực
của con người.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu nhu cầu thành đạt là một vấn đề cần thiết. Nhưng
hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu nhu cầu thành đạt của các đoàn viên thanh niên
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 2 -


chưa được quan tâm. Trên thực tế, đây là một vấn đề cần thiết phải được quan tâm
nghiên cứu. Thông qua việc nghiên cứu nhu cầu thành đạt Thanh niên quận Liên Chiểu
- TP Đà Nẵng trên phương diện lý luận và thực tiễn, làm cơ sở đề ra những biện pháp
giáo dục nhu cầu thành đạt cho các đoàn viên – thanh niên.
2. Mục tiêu của đề tài
Tìm hiểu nhu cầu thành đạt của Thanh niên quận Liên Chiểu - TP Đà Nẵng.
Đề ra những biện pháp giáo dục nhu cầu thành đạt cho thanh niên.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Nghiên cứu lý luận các vấn đề về nhu cầu thành đạt.
Nghiên cứu thực tiễn nhu cầu thành đạt Thanh niên quận Liên Chiểu - TP Đà
Nẵng.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 3 -
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1. Sơ lược về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hướng nghiên cứu nhu cầu con người đã tồn tại từ rất lâu trong tâm lý học. Bằng
các cách tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu khác nhau, các nhà tâm lý học đã lý
giải tại sao con người lại thực hiện một hành vi nào đó, tại sao anh ta tích cực trong
việc thực hiện nhiệm vụ này mà lại tỏ ra thờ ơ trong khi thực hiện nhiệm vụ kia…đó
chính là những mong muốn của con người về một “cái gì đó” đề được thỏa mãn đó là
nhu cầu.
Nhu cầu là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm, vì
con bất cứ ai thì cũng đều phải có nhu cầu, dù người đó sống ở đâu trên thế giới này,
dù làm gì, dù lớn hay nhỏ, không phân biệt màu da, sắc tôc…Và nhu cầu thành đạt là
một trong những nhu cầu của mỗi người, mặc dù nhu cầu thành đạt có khác nhau về
các lĩnh vực khác nhau thì mỗi người đều có nhu cầu thành đạt riêng của mình. Bởi vì,
thành đạt không chỉ được đánh giá qua thước đo xã hội mà nó còn được đánh giá qua
việc tự đánh giá bản thân, nhận thức của mỗi cá nhân.

Trên thế giới, hơn nửa thế kỷ trước đây các nhà tâm lý đã nghiên cứu phương
pháp đo nhu cầu thành đạt. Khi nói đến lịch sử nghiên cứu nhu cầu thành đạt trước tiên
phải nói đến các nhà tâm lý thuộc trường phái Saint –peterbourg họ đã đi sâu nghiên
cứu phẩm chất tâm lý của nhu cầu thành đạt. Đồng thời, P.V. Ximônô đã nghiên cứu
nhu cầu thành đạt ở khía cạnh nhận thức các chuẩn mực xã hội mang tính xã hội lịch sử
ông thấy rằng, với những điều kiện kinh tế, chính trị- xã hội, văn hóa, giai cấp khác
nhau thì chuẩn mực thành đạt cũng khác nhau.
Và trong cuốn sách “Động cơ thành đạt” của hai tác giả McCelland và Akitson
được xuất bản năm 1953 cũng đã đề cập nhiều tới nhu cầu thành đạt, hai ông cho rằng
yếu tố đầu tiên ảnh hưởng tới động cơ thành đạt chính là nhu cầu, mà cụ thể ở đây là
nhu cầu thành đạt. Khi nhu cầu gặp đối tượng và có điều kiện thỏa mãn thì nó trở thành
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 4 -
động cơ của chủ thể. Động cơ chính là sự phản ánh của nhu cầu, nhưng động cơ không
phải là bản thân của nhu cầu mà là nhu cầu được cụ thể hóa, hiện thân bằng động cơ
thúc đẩy. Và trong cuốn sách này, hai ông đã phát triển phương pháp đo động cơ thành
đạt (TAT). Dựa vào phương pháp TAT các ông đã làm sáng tỏ được mối quan hệ giữa
nhu cầu thành đạt với động cơ thành đạt.
Hiện nay, có rất nhiều hướng nghiên cứu nhu cầu thành đạt. Tuy nhiên, kết quả
của những công trình này lại trái ngược nhau. Ngoài ra, có những công trình nghiên
cứu sự khác biệt giữa nhu cầu thành đạt của nam và nữ; nghiên cứu ảnh hưởng của tính
cách, của yếu tố giáo dục…đến nhu cầu thành đạt.
Một hướng nghiên cứu khác về động cơ thành đạt có liên quan tới nhu cầu thành
đạt được khá nhiều nhà tâm lý học quan tâm. Chẳng hạn: Cynthia Fan và Wally
Kanirlowiez đã tìm hiểu động cơ thành đạt của những cô gái Trung Quốc và Úc.
Ở Việt Nam: cho đến nay dưới các góc độ khác nhau đã có một số công trình trực
tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu về nhu cầu thành đạt của con người Việt Nam. Khi Việt
Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường đã có sự thay đổi lớn trong định hướng giá trị
của con người Việt Nam nên trong các nghiên cứu xã hội học, một số tác giả đã xem

xét sự thành đạt nghề nghiệp như một giá trị và tìm hiểu đánh giá của thanh niên, sinh
viên hiện nay về thứ bậc giá trị khác. Kết quả của các công trình này cho thấy trong
giai đoạn hiện nay, sự thành đạt về chuyên môn không được thanh niên, sinh viên nhìn
nhận như một giá trị có sức hấp dẫn lớn đối với họ so với những giá trị khác như địa vị
xã hội, sự giàu sang…
Một trong những công trình gián tiếp nghiên cứu về nhu cầu thành đạt dưới góc
độ tâm lý học, như: PGS. TS Lê Thanh Hương là người có nhiều nghiên cứu sâu sắc về
động cơ thành đạt. Trong đề tài “Động cơ thàn đạt trong khoa học của cán bộ nghiên
cứu thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia” (2001), tác giả đã nhận
định rằng ĐCTĐ của cán bộ cao hay thấp không phụ thuộc vào giới tính, tuổi, thời gian
nghiên cứu khoa học hay học vị của họ mà phụ thuộc vào lĩnh vực nhận thức – quan
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 5 -
niệm về thành đạt nghề nghiệp. Trong đề tài “ ĐCTĐ của thanh niên” (2008) ĐCTĐ
được xác định thông qua 5 khía cạnh biểu hiện là nhận thức giá trị, khát vọng đạt thành
tích; xúc xảm liên quan tới thành tích; mức độ nỗ lực thành đạt; tính bền vững của sự
nỗ lực; mục đích thành đạt.
Quan tâm tới yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu thanh đạt, tác giả Trần Anh Châu đã
nghiên cứu đề tài “ tác động của một số đặc điểm nhân cách đến động cơ thành đạt của
thanh niên” (2008), theo tác giả đặc điểm nhân cách ảnh hưởng không nhỏ tới động cơ
thành đạt của thanh niên, từ đó ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của họ. Những đặc
điểm nhân cách như niềm tin bản thân, niềm tin vào công bằng xã hội, niềm tin xã hội
và mố số biểu hiện của ý chí như tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật tính thận trọng có
tác động tới nhu cầu thành đạt của thanh niên.
Võ Thị Ngọc Châu đã nghiên cứu về nhu cầu thành đạt và mối quan hệ của nó với
tính tích cực nhận thức của sinh viên. Theo kết quả này, nhu cầu thành đạt của sinh
viên có ảnh hưởng tích cực tới sự nhận thức của họ. Sự ảnh hưởng đó phụ thuộc vào
cường độ, tính cấp thiết của nhu cầu, vào thông tin vào khả năng thỏa mãn nhu cầu
cũng như sự trang bị các phương tiện cần thiết đề thỏa mãn nhu cầu.

Như vậy, nhìn chung ở Việt Nam, vấn đề nhu cầu thành đạt của con người chưa
được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là dưới góc độ tâm lý học. Trong khi đó, theo chúng
tôi đây là vấn đề rất đáng quan tâm bởi nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà nó
còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Lý luận về nhu cầu
2.1.1. Khái niệm nhu cầu
Để tồn tại và phát triển, cá nhân phải đòi hỏi ở môi trường xung quanh những yếu
tố cần thiết, không thể thiếu, sự đòi hỏi đó là nhu cầu. Nhu cầu là một biểu hiện của xu
hướng nhân cách, nó chi phối một cách mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến
hành vi của con người nói riêng.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 6 -
Có nhiều khái niệm, quan niệm khác nhau về nhu cầu:
Theo B.Ph Lomov: “ nhu cầu là đòi hỏi nào đó của con người về những điều kiện
và phương tiện nhất định cho việc tồn tại và phát triển”.
A.G Kovaliov: “nhu cầu là sự đòi hỏi của các cá nhân và của các nhóm xã hội
khác nhau muốn có những điều kiện nhất định để sống và phât triển”.
P.A Rudich: “nhu cầu là trạng thái tâm lý làm rung động người ta thấy một sự cần
thiết nhất định nào đó về một điều gì đó”.
GS.VS Phạm Minh Hạc: “nhu cầu là sự đòi hỏi của cá nhân về một cái gì đó ở
ngoài nó, cái đó có thể là một sự vật, một hiện tượng hoặc những người khác. Nhu cầu
biểu lộ sự gắn bó của cá nhân với thế giới xung quanh, sự phụ thuộc của cá nhân vào
thế giới đó”.
Trong giáo trình “Tâm lý học đại cương” do PGS Nguyễn Quang Uẩn chủ biên
thì “nhu cầu là sụ đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và
phát triển”.
Từ những khái niệm trên có thể đi đến kết luận: “nhu cầu là sự đòi hỏi của con
người về một sự vật và hiện tượng gì đó rất cần thiết, không thể thiếu, đảm bảo cho sự

tồn tại và phát triển của con người. Sự thỏa mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy hoạt
động của mỗi cá nhân và tập thể. Nhu cầu quyết đĩnhu hướng lựa chọn ý nghĩ, tình cảm
và ý chí của con người. Mặt khác nhu cầu cũng quy định tính tích cực hóa hoạt động
của con người.
Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng. Nó không bất biến mà thường
xuyên thay đổi theo sự phát triển của cá thể và xã hội mà cá nhân đó sống và hoạt
động.
2.1.2. Các quan niệm khác nhau về nhu cầu
2.1.2.1. Quan niệm về nhu cầu trong tâm lý học phi Mác – xít
Vutvorts đã chú ý tới nhu cầu tri giác. Ông nhận thấy rằng còn người có mối
quan hệ với môi trường xung quanh, có nhu cầu nhìn, nghe cho rõ, mong muốn làm
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 7 -
sáng tỏ và hiểu rõ những gì vừa nhìn vừa nghe thấy. Ông chứng minh bằng thực
nghiệm rằng ở động vật tính tích cực đều hướng tới việc am hiểu hoàn cảnh xung
quanh. Phần lớn tính tích cực hàng ngày của động vật được cấu tạo từ sự chuyển động
của cơ thể. Chính vì vậy mà động vật có nhu cầu tri giác để có thể tiếp xúc với những
gì xảy ra xung quanh.
Một số tác giả khác đã cố gắng giải thích nhu cầu nhận thức xuất phát từ nhu cầu
sinh lý. Nixen đã giả định rằng mỗi một cơ thể đều có một nhu cầu đặc biệt để kích
thích cơ thể thực hiện các chức năng và cơ thể có thể thực hiện các chức năng này.
Vấn đề hiển nhiên là có một số dạng tích cực được giải thích theo khuynh hướng luyện
tập hoạt động. Đây là đặc tính nhu cầu của cơ thể. Động vật luôn có nhu cầu nhận thức
khách thể và hứng thúc với đối tượng đó chính là nguồn gốc của tính tích cực. Tính
tích cực sẽ dẫn đến nhu cầu hoạt động của cơ thể.
S.Freud nhà phân tâm học người Áo đã đưa vấn đề nhu cầu vào học thuyết của
ông. Theo ông, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông khẳng định
rằng tất cả hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn thỏa mãn hay hướng
tới khoái lạc những nhu cầu cơ thể (bản năng sống) và hành vi của con người hướng tới

việc mong muốn phá hủy và xâm lăng. Sự mong muốn này đầu tiến hướng tới môi
trường xung quanh do có sự ngăn cấm của xã hội mà nó lại hướng tới chính bản thân
mình (bản năng sống). Ông nghiên cứu động vật và chứng minh một cách hùng hồn
những hành vi hung bạo hay những hành vi phá hủy là những phương tiện thỏa mãn
nhu cầu quan trọng của cuộc sống và nó được nảy sinh trong những điều kiện tồn tại.
những hành vi hung bạo hay những hành vi phá hủy là những phương thức bảo vệ. Xã
hội chẳng qua là một hệ thống tổ chức và cấm đoán được hình thành từ bề ngoài bản
năng sống của con người.
Trường phái phi hành vi đã nghiên cứu nhân cách xuất phát từ quan niệm về tính
chế ước. Những xung động mới xuất hiện nhờ có sự phối hợp của những kích thích nào
đó với nhu cầu bẩm sinh có giới hạn của cá nhân. Cũng xuất phát từ quan điểm này tất
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 8 -
cả những gì gọi là nhu cầu tinh thần của con người đều là trạng thái cơ thể của con
người. Nó còn là tín hiệu thỏa mãn nhu cầu trong tương lai. Họ khẳng định rằng những
kích thích nguyên phát chỉ là vẻ bề ngoài của nhu cầu cơ thể. Theo Muller thì những
xung động thứ phát là mặt chính diện, đằng sau nó là những chức năng có cơ sở là
những xung động bẩm sinh.
Họ cho rằng nhu cầu chính là động cơ của hành vi, đó chính là hai loại xung động
của hành vi: nguyên phát và thứ phát. Hall cho rằng nhu cầu tiền tàng thường xuất hiện
trước nhu cầu của cơ thể và kèm theo nhu cầu của nó. Đó là động lực thúc đẩy của nhu
cầu. Họ cho rằng, nhu cầu là những xung động mang tính sinh vật. Nhu cầu nguyên
phát nảy sinh do đói, khát, ngủ, thở, tình dục, chạy chốn nguy hiểm…Nhu cầu xã hội là
nhu cầu thứ hai, đó là nhu cầu thống trị, lệ thuộc, ham hiểu biết, nhu cầu quyến rũ…
nhu cầu thứ ba là nhu cầu liên quan đến người khác có được bằng con đường học tập.
Nhu cầu thứ ba này được thể hiện ở nhu cầu cho và nhận, thường có tính mục đích và
tình toàn diện và được xác định một cách tương đối do xã hội mang lại. Sự giàu có hay
thành đạt trong sụ nghiệp chính là loại nhu cầu này.
A. Adler và C.G. Jung hai nhà phân tâm phi S. Freud. A.Adler cho rằng, cơ sở

của lực kích thích hành vi con người được xác định bởi mục đích hành động, con
đường đạt tới mục đích đó và ý chí của quyền lực. Theo ông, sự đối lập về quyền lực
chính là tâm trạng kém giá trị. Trong mối quan hệ lẫn nhau con người mong muốn
được ở thế mạnh và có cảm giác kém giá trị. Mối quan hệ lẫn nhau này sẽ xác định tính
cơ động của cuộc sống tâm lý con người. Thỉnh thoảng sự mong muốn hơn người trở
thành năng lượng cơ bản của con người, năng lượng này có thể dẫn tới sự bù trừ của cơ
quan nào đó hay của xu hướng hoạt động. Hoạt động kém cỏi làm nảy sinh cảm xúc
không giá trị. Ý chí hướng tới quyền lực chính là nhu cầu tự khẳng định của con người.
Nó là nguồn gốc tích cực cơ bản của hành động con người chứ không phải là bản năng
tình dục như trong học thuyết của S. Freud. Theo ông, ý chí vươn tới quyền lực chính
là những xung động cơ bản của động cơ hành động của con người, ở một mức độ nhất
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 9 -
định nào đó nó sẽ xác định tổ chức hoạt động tâm lý của con người, điều này phụ thuộc
vào việc có đạt được mục đích đã đề ra hay không.
Khác với Freud, Maslow chứng minh rằng tính xã hội nằm trong chính bản tính
của mỗi người. Con người có những nhu cầu chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về
tình yêu, về lòng kính trọng…Những nhu cầu này có bản chất bản năng đặc trưng cho
giống người. Theo Maslow, “tính người” của nhu cầu, của các xung đột của con người
được hình thành trong quá trình phát sinh loài người. Theo ông, mọi nhu cầu thuộc hệ
thống thứ bậc cũng đều liên quan đến cấu trúc cơ thể của con người và đều được dựa
trên nền tảng di truyền nhất định.
Henry Murray cho rằng, những nhu cầu tâm lý xác định được ở con người là
những nhu cầu mà mọi người đều cảm thấy như ở những mức độ khác nhau và cường
độ mạnh yếu kahcs nhau ở từng người. Ở người này có loại nhu cầu này mãnh liệt
nhưng ở người khác lại có những nhu cầu khác, nhân cách khác nhau do cường độ khác
nhau của nhu cầu tâm lý. Tuy nhiên, ông không hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội
dung của các nhu cầu, động cơ của nhân cách, tíh quy định xã hội của nhu cầu và động
cơ đã gây ra hành động. Ông thừa nhận tính ích kỷ một cách quá đáng, xu hướng chỉ

nghĩ đến thành tích riêng của nhân cách mà quên đề cập đến những ý tưởng nhân đạo
cao quý, sự quan tâm đến hạnh phúc nhân loại, của toàn xã hội, của tập thể mà trong đó
có chủ thể. Ông phủ nhậ tính quy định cảu xã hội của xu hướng ích kỷ của con người
và xem nó như một bản tính phản xã hội của con người.
K. Lewin cho rằng dưới sự tác động của loại nhu cầu nào đó, trạng thái căng
thẳng sẽ xuất hiện, đồng thời chủ thể cũng xuất hiện những liên tưởng có liên quan với
nhu cầu. Ông nhấn mạnh rằng, thật sai lầm nếu chỉ nghĩ rằng những nhân tố thực của
hoạt động tâm lý người chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà con xuất phát từ nhu cầu xã
hội. Mọi dự định, mọi ý nghĩ là một dạng của nhu cầu từ đó dẫn tới sự xuất hiện hệ
thống căng thẳng và đó cũng là nguyên nhân tạo ra sự hoạt động tích cực của con
người, hoạt động này sẽ làm dịu sự căng thẳng…
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 10 -
2.1.2.2. Quan niệm về nhu cầu trong tâm lý học Mác – xít
Dưới ánh sáng của triết học Mác – Lênin, các nhà tâm lý học Liên Xô khi nghiên
cứu về con người, đời sống tâm lý người đã khẳng định: nhu cầu là yếu tố bên trong
quan trọng đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con người.
Ngay trong triết học, F.Ằnghen – tuy không phải là một nhà tâm lý học, nhưng
khi nói về quan điểm của mình về nhu cầu. ông khẳng định: “Người ta quy cho trí óc,
cho sự mở mang và hoạt động của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được
nhanh chóng và đáng lẽ người ta phải giải thích rằng hoạt động của mìn là do nhu cầu
của mình quyết định (mà những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào trong đầu óc con
người, làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích
rằng hoạt động của mình là do tư duy của mình quyết định. (F. Anghen – Phép biện
chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, H. trang 280).
D.N. Uznetze người đầu tiên trong tâm lý học Xô viết nghiên cứu về nhu cầu.
Ông khám phá ra mối quan hệ giữa nhu cầu và hành vi. Tương ứng theo mỗi kiểu hành
vi là một nhu cầu. Ông cho rằng: không có gì đặc trưng cho một cơ thể sống hơn sự có
mặt của nó ở nhu cầu. Nhu cầu, đó là cội nguồn của tính tích cực. Không có nhu cầu

thì không có tính tích cực. Với ý nghĩa này thì khái niệm nhu cầu rất rộng nó liên quan
tới tất cả những gì cần thiết đối với cơ thể sống. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý đặc
trưng giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi, ông quan niệm rằng: nhu cầu
là yếu tố quyết định tạo ra tính tích cực, nó xác định xu hướng, tính chất hành vi. Và
ông cũng cho rằng: dựa vào nhu cầu của con người để phân loại hành vi của con người.
Trong trường hợp nhu cầu đang trên đường thỏa mãn mà gặp khó khăn trở ngại,
tức là nó không được thực hiện một cách trực tiếp, nhu cầu sẽ xuất hiện trong ý thức
của chủ thể và có nội dung đặc biệt. Từ phía chủ thể nó được thể nghiệm ở dạng cảm
xúc không được thỏa mãn, lúc này ở con người ở trạng thái hưng phấn và căng thẳng,
còn ở phía khách thể ở dạng nội dung đối tượng đã được xác định và nó đang kích
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 11 -
thích hành động để thỏa mãn. Khi xuất hiện nhu cầu với cường độ lớn, con người bắt
đầu hoạt động để thỏa mãn.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu cấp bách được ông gọi là nhu cầu phuc vụ, đó là sự
khác biệt lớn giữa nhu cầu phục vụ với nhu cầu lao động. Trong khi đó, sự phục vụ chỉ
ngụ ý nói tới nhu cầu cấp bách, còn lao động có mục đích thỏa mãn nhu cầu – đó là
những khả năng của nhu cầu (nhu cầu cơ thể), lao động ngụ ý nói tới một dạng hoàn
toàn khác của tính tích cực. Trong trường hợp này, ý chí không nằm trong nhu cầu cấp
bách mà là một cái gì đó rất khác, thậm chí đôi lúc mâu thuẫn với chính nó là nguồn
gốc của hoạt động. Chính vì vậy ông đã chỉ ra một cách cụ thể những đặc điểm của
những hành vi ý chí, chỉ ra sự liên kết giữa hành vi ý chí và cảm xúc. Ngoài nhu cầu
sống D.N. Uznetze đã nhấn mạnh rằng ở con người còn có những nhu cầu khác không
liên quan tới nhu cầu tồn tại, ông gọi đó là nhu cầu cao cấp như đạo đức, thẩm mỹ, trí
tuệ…trong hành vi hàng ngày của mình, con người không chỉ mong muốn thỏa mãn
những nhu cầu phục vụ một cách trực tiếp mà còn muốn thỏa mãn nhu cầu cấp cao.
Những điều nói ở trên đặc trưng với từng con người và chúng phối hợp khác nhau
ở những người khác nhau: ở những người này nhu cầu cấp cao có ý nghĩa, ở những
người khác có lối sống được xác định một phần lớn bởi nhu cầu cơ thể.

P.X. Ximonov thì cho rằng: trong trường hợp nhu cầu cấp bách xuất hiện mà
thiếu hụt thông tin về khả năng thoả mãn, sẽ nảy sinh những rung cảm âm tính, tăng
năng lượng nhu cầu. Tuy nhiên, kết quả hành vi lại không thuận lợi. Kết quả dương
tính sẽ làm giảm tổng thể các hành động thoả mãn nhu cầu. Theo ông, đặc điểm nhu
cầu phụ thuộc vào việc được trang bị thông tin, công cụ và cách thức nhằm thoả mãn
nhu cầu.
B.Ph. Lomov khi nghiên cứu về nhân cách, ông cũng đề cập khá nhiều đến nhu
cầu. Ông cho rằng nhu cầu như là một thuộc tính của nhân cách. “Nhu cầu cá nhân là
đòi hỏi nào đó của nó về những điều kiện và phương tiện nhất định cho việc tồn tại và
phát triển. Nhu cầu đó nhất thiết bắt nguồn từ những quá trình xảy ra có tính khách
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 12 -
quan trong đó cá nhân tham dự vào suốt cả đời sống của mình. Dĩ nhiên, nhu cầu là
trạng thái của cá nhân, nhưng là nhu cầu về một cái gì đó nằm ngoài cá nhân” [Những
vấn đề lý luận và phương pháp luận trong tâm lý học – Tr 479]. Trong đời sống của cá
nhân, nhu cầu vật chất không phải là tất cả. Con người có thể tồn tại và phát triển chỉ
như một thành viên của xã hội. Còn việc “tiêu dùng” những giá trị tinh thần do xã hội
tạo ra mới có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách. Ông
cho rằng, các nhu cầu đều có cấp độ của nó. Chẳng hạn như nhu cầu nhận thức thì đi từ
sự tò mò, tới sự tìm kiếm chân lý một cách say mê, nhu cầu nghỉ ngơi đi từ việc cần
phải thư giãn, ngủ cho đến cách ly tạm thời với các hình thức quen thuộc của đời sống
xã hội…Nhu cầu cao nhất là nhu cầu sáng tạo.
X.L Rubinstein khẳng định rằng con người có nhu cầu sinh vật, nhưng bản chất
của con người là sản phẩm của xã hội vì thế phải xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản
của con người với nhân cách. Nói đến nhu cầu của con người nói đến việc đòi hỏi một
cái gì đó hay một điều gì đó nằm ngoài con người. Thế nên trong quá trình hoạt động
để thoả mãn nhu cầu. Khả năng đáp ứng những đòi hỏi ấy một mặt phụ thuộc vào thế
giới đối tượng, trong những điều kiện cụ thể, mặt khác nó phụ thuộc vào sự nỗ lực,
năng lực của chính chủ thể. Do đó, khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống là: thế

giới đối tượng và trạng thái tâm lý của chủ thể. Tức là phải có mối quan hệ thống nhất
giữa hai yếu tố khách quan (của đối tượng) và yếu tố chủ quan (của chủ thể) trong hoạt
động thoả mãn nhu cầu.
Nhu cầu mang tính tích cực, thúc đẩy con người hoạt động tìm kiếm cách thức,
phương tiện đối tượng thoả mãn nó. Vì vậy theo ông trong thực tế nhu cầu là xuất phát
điểm của một loại hiện tượng tâm lý và ông nhấn mạnh quá trình khám phá của chúng
ta. Theo ông, tâm lý học không nên xuất phát từ nhu cầu mà phải tiến dần và phải
khám phá nhiều biểu hiện đa dạng của nó. Ông là người đầu tiên khám phá ra quá trình
nảy sinh nhu cầu.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 13 -
X.L. Rubinstein cho rằng trong nhu cầu con người xuất hiện sự liên kết con người
với thế giới xung quanh và xuất hiện sự phụ thuộc của các nhân đối với thế giới.
Rõ ràng để tồn tại và phát triển, con người luôn vận động và hoạt động để đáp
ứng những đòi hỏi nhất định. Khả năng đáp ứng những đòi hỏi ấy ở con người phụ
thuộc vào thế giới đối tượng và cũng phụ thuộc vào năng lực của chính con người. Ở
đây ta có thể phát biều một cách hết sức cụ thể là những đòi hỏi cần phải được thỏa
mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người chính là nhu cầu.
Như vậy, khi nói đến nhu cầu là nói đến sự đòi hỏi cần thiết của con người về một
cái gì đó, hay một điều gì đó nằm bên ngoài con người. Chính “cái gì đó” (đối tượng)
sẽ có khả năng đáp ứng cho nhu cầu của con người thông qua hoạt động của chính bản
thân họ. Khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống mà ta dễ nhận ra đó là : thế giới
đối tượng và trạng thái tâm lí của chủ thể. Hay nói cách khác, đó là mối quan hệ thống
nhất giữa yếu tố khách quan (của đối tượng) và yếu tố chủ quan (của chủ thể) trong
hoạt động thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên về nhu cầu, ta thấy rõ ràng nhu cầu của con người vừa mang
tính thụ động vừa mang tính tích cực. Sau đây chúng ta sẽ tập trung phân tích rõ hơn về
vấn đề này.
- Thứ nhất, sự đòi hỏi cần phải được thỏa mãn ở bản thân chủ thể (xuất hiện nhu

cầu). Nhưng nhu cầu ấy có được thỏa mãn hay không là còn phụ thuộc vào chính hệ
thống đối tượng thỏa mãn nhu cầu trong hoàn cảnh đó. Bản thân chủ thể trải nghiệm
nhu cầu sẽ chịu sự quy định bởi các đối tượng trong thế giới xung quanh. Khả năng
thỏa mãn nhu cầu ở chủ thể sẽ rơi vào trạng thái bị động. Xét trong bối cảnh đó, ta dễ
nhận thấy tính thụ động của nhu cầu con người. Ví dụ nhu cầu đọc sách khoa học viễn
tưởng ở người có được thỏa mãn hay không còn tùy vào mức độ đa dạng của thị trường
sách về loại này.
- Thứ hai, cũng chính trong ví dụ nêu trên, nhu cầu đọc sách loại ấy ở chủ thể sẽ
thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm trên thị trường sách để chọn lọc, chọn lựa những
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 14 -
loại sách nào phù hợp với nhu cầu chủ thể để đọc. Xét trong hoàn cảnh này, ta thấy
chính sự tồn tại của nhu cầu lại thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động. Nhu cầu phát
huy được tính tích cực của mình trong quá trình tìm kiếm đối tượng, tìm kiếm phương
thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Trong trường hợp này, người ta nói nhu cầu mang
tính tích cực. Trong chương trình nghiên cứu của mình, X.L. Rubinstein rất có lý khi
cho rằng con người là một thực thể và thực thể này đang thể nghiệm sự thiếu thốn, kết
quả là thực thể ấy có ý hướng tích cực để tìm kiếm đối tượng thỏa mãn.
Cũng từ hai mặt nói trên về tính thụ động – tính tích cực của nhu cầu mà ta thấy
được quá trình hình thành và phát triển nhu cầu. Đó là sự vận động bên trong của
những nhu cầu theo những giai đoạn, những cấp độ nhất định. Bản chất của quá trình
trên đây được lý giải như sau :
Nhu cầu, theo tâm lý học, một hiện tượng tâm lí người. Nhu cầu còn là một thuộc
tính tâm lí người, điều đó có nghĩa là nhu cầu có chức năng điều khiển, điều chỉnh
hành vi trong quá trình chiếm lĩnh đối tượng. Song, khi xem xét sự hình thành một nhu
cầu cụ thể, ta thấy nó diễn ra trong hoạt động tâm lí. Trên con đường chiếm lĩnh đối
tượng luôn luôn có sự tham gia của ý thức ở những mức độ khác nhau. Chính ý thức
giúp cho nhu cầu con người khác về chất so với nhu cầu của động vật. Do vậy, khi xem
xét sự hình thành một nhu cầu cụ thể với tư cách như một hoạt động tâm lí, các mức độ

ý thức của nhu cầu sẽ xác định những dạng tâm lí cụ thể của nhu cầu.
a. Ý hướng
Đây là giai đoạn đầu tiên trong ý thức của nhu cầu. Mặc dù trong giai đoạn này
nhu cầu được phản ánh trong ý thức còn mù mờ, chưa rõ ràng, nhưng chính trong
những tính chất của ý hướng cũng chứng minh được những phẩm chất đặc biệt của nó
khác hẳn với nhu cầu của con vật. Bởi vì ý hướng của con người không thể tách rời
khỏi thế giới trọn vẹn của nhân cách. Ý hướng không tách rời cuộc sống con người như
là một thực thể xã hội. Ý hướng có thể xem như là bước đầu tiên xuất hiện nhu cầu khi
mà nhu cầu chưa ý thức được đối tượng có khả năng thỏa mãn. Hay nói cách khác, bản
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 15 -
thân chủ thể đang trải nghiệm sự thiếu thốn – có ý thức về trạng thái chủ thể (cần thiết)
nhưng chưa thể tìm ra được đối tượng (cũng như phương thức thỏa mãn nó). Điều đó
có nghĩa là chủ thể chưa ý thức về đối tượng thỏa mãn nhu cầu (cũng như chưa phản
ánh được phương thức, phương tiện thỏa mãn nó).
Khi đối tượng thỏa mãn nhu cầu được chủ thể ý thức thì bản thân nhu cầu đó
chuyển sang giai đoạn mới : giai đoạn ý muốn.
b. Ý muốn
Đây là giai đoạn tất yếu trong nhu cầu khi mà chủ thể đã nhận ra được đối tượng
cũng như mục đích của hoạt động thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên, ở giai đoạn này chủ
thể vẫn chưa tìm được phương pháp, phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Lúc này, ý muốn
có liên quan đến hoạt động rộng lớn (như tính mơ ước, tính cảm xúc…). Một khi xuất
hiện ý muốn như thế sẽ xuất hiện khuynh hướng mới cho phép chủ thể đi tìm con
đường và phương tiện để thực hiện ý muốn này, như vậy khi mà chủ thể đã xác định
được đối tượng, tìm thấy được ý nghĩa của mục đích hoạt động của mình sẽ tạo nên
tính tích cực bên trong của chủ thể thúc đẩy quá trình tìm kiếm phương thức để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Cho đến khi các con đường và phương tiện đã được tìm thấy
thì ý muốn biểu hiện dưới dạng một khuynh hướng đã được nhận rõ hoàn toàn. Theo
mức độ nhận thức ấy, ý muốn sẽ chuyển sang giai đoạn ba, đó là ý định.

c. Ý định
Đây là giai đoạn cao của ý thức trong nhu cầu của con người, nghĩa là bản thân
chủ thể đã nhận rõ về mục đích của hành động cả về phương tiện để thực hiện mục
đích này. Chủ thể có khả năng nhận rõ cả về sự sẵn sàng hành động theo một phương
hướng xác định, đồng thời chủ thể cũng có khả năng nhận thức về những kết quả (lẫn
hậu quả) do những hành động của mình mang lại. Ý định tự thân nó không chỉ là mục
đích mà còn là hành động, hành động dẫn tới mục đích.
Tóm lại, khi xem xét một nhu cầu nào đó ở con người theo quá trình diễn biến của
nhận thức và của ý thức, của sự thống nhất hai yếu tố khách quan và chủ quan ta sẽ
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 16 -
nhận thấy là ý nghĩa của nhu cầu như là nguồn gốc tính tích cực của con người. Ý
nghĩa này sẽ được nhìn thấy rõ qua ba giai đoạn diễn biến kể trên.
Ba giai đoạn phát triển này của một nhu cầu cụ thể cho phép ta nhìn thấy cách vận
hành của một nhu cầu cụ thể. Tuy nhiên, bất cứ một nhu cầu nào ở con người sẽ khó
mà được thỏa mãn nếu không thông qua các dạng hoạt động khác nhau. Hay nói một
cách khác là nhu cầu, với sức mạnh nội tại của nó, chỉ có thể được thực thi trong hoạt
động.
Định nghĩa nhu cầu của X.L. Rubinstein không những xác định rõ bản chất của
nhu cầu mà còn chỉ ra quá trình hình thành nhu cầu.
Như phân tích ở trên, nhu cầu và hoạt động của con người có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Để hiểu rõ hơn về bản chất của nhu cầu cần phân tích các mối quan hệ
gắn bó này.
Vần đề được đặt ra là mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động ra sao, cái nào
quyết định cái nào? đã một thời gây nhiều tranh luận trong các nhà tâm lí học. Nhìn
chung có hai sơ đồ cơ bản thể hiện mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động, được các
nhà tâm lí học phác họa. Đó là :
Sơ đồ 1 : Nhu cầu – Hoạt động – Nhu cầu…
Sơ đồ 2 : Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động…

Tư tưởng xuất phát điểm của sơ đồ 1 là nhu cầu, còn sơ đồ 2 thì ngược lại, là hoạt
động. Sơ đồ 2 đáp ứng quan niệm Mác-xít về nhu cầu.
Luận điểm cho rằng nhu cầu được hình thành, theo như C.Mác [35] viết : với tính
chất là một đòi hỏi vừa là một nhu cầu, sự tiêu thụ cũng là một khâu nội tại của hoạt
động sản xuất, nhưng hoạt động này là điểm xuất phát của quá trình thực hiện và chính
vì thế cũng là khâu chủ yếu nhất – tức là hành vi mà toàn bộ quá trình lại được biến
hóa một lần nữa. Cá nhân sản xuất ra đối tượng và thông qua việc tiêu dùng nó mà trở
về với chính bản thân mình.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 17 -
Từ hai sơ đồ trên, ta thấy có một số vấn đề cần được làm sáng tỏ trong mối quan
hệ giữa nhu cầu – hoạt động và ngược lại.
Đối với sơ đồ 1 đương nhiên thừa nhận xuất phát điểm là nhu cầu, hay nói khác
đi, xuất phát từ bản thân các nhu cầu hoặc các rung cảm do các nhu cầu gây ra. Chỉ có
các rung cảm ấy mới giải thích tại sao con người đặt cho mình những mục đích và tạo
ra được đối tượng mới. Điều này chỉ đúng khi xem xét chính bản thân các nhu cầu mà
tách rời khỏi những điều kiện vật chất của nó, cũng như tách rời khỏi những phương
thức thỏa mãn và do đó cũng tách rời khỏi hoạt động diễn ra sự biến hóa nhu cầu. Thực
tế đã chỉ rõ là không có nhu cầu nào của con người được thỏa mãn mà không thông qua
hoạt động và bản thân nhu cầu còn là kết quả của hoạt động.
Hơn nữa, bản thân thế giới đối tượng đã chứa đựng trong lòng nó vô vàn những
nhu cầu mà chỉ thông qua hoạt động, dần dần con người phản ánh được nó, từ đó con
người thấy sự cần thiết phải chiếm lĩnh nó (xuất hiện nhu cầu). Hoạt động sản xuất của
con người thúc đẩy nhu cầu hình thành và phát triển, từ đó thúc đẩy xã hội tiến bộ. Vai
trò của lao động, mà cụ thể là những dạng hoạt động khác nhau, giúp sản sinh ra những
nhu cầu mới cũng như không ngừng tiêu thụ nó để xuất hiện những nhu cầu cao hơn.
Như vậy, về nguyên tắc thì sơ đồ 2 xem ra hợp lí hơn. Bởi lẽ như theo A.N.
Leonchiev [1] thì cuộc sống là hệ thống các hoạt động thay thế nhau. Mặc khác nếu
nhìn nhận khởi thủy nhu cầu làm nảy sinh hoạt động thì sẽ không giải thích được

nguồn gốc của nhu cầu. Bởi vì nhu cầu của con người về cơ bản có nguồn gốc từ thế
giới khách quan, nó nảy sinh thông qua hoạt động của mỗi người. Tất nhiên đến lượt
mình, nhu cầu lại phát huy tính tích cực trong hoạt động thỏa mãn nhu cầu. Về mặt
này, nhu cầu chỉ là yếu tố thúc đẩy hoạt động mà thôi.
Khoa học tâm lí cho rằng nhu cầu người là một trong những hiện tượng tâm lí
người, do vậy nhu cầu chính là hình thức đặc biệt của sự phản ánh thế giới khách quan,
phản ánh những điều kiện sống bên ngoài thông qua lăng kính chủ quan của con người.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 18 -
Như trên đã phân tích, trong sơ đồ 1 có một phần đúng vì nhiều nguyên nhân khác
nhau. Một trong những nguyên nhân đó là khi xem xét con người như là một thực thể
tự nhiên (tạm quên đi bản chất xã hội của con người). Chẳng hạn như đứa bé mới sinh,
sức mạnh nội tại của những nhu cầu sinh vật (đảm bảo cho sự tồn tại cá thể người thúc
đẩy đứa bé tìm đối tượng để thỏa mãn : ví dụ như tìm sữa để bú…). Đó cũng là một
loại nhu cầu nhưng không phải là nhu cầu có bản chất người. Khi xem xét con người
về mặt bản chất thì lúc đó sẽ có cái nhìn đúng hơn về nhu cầu. Con người khác xa về
chất so với con vật là nhờ bản chất xã hội – lịch sử của mình, trong đó có bản chất của
nhu cầu người. Nội dung, đối tượng, phạm vi phản ánh nhu cầu người (cũng như
phương thức, phương tiện thỏa mãn nhu cầu) đều khác về chất so với các loài động vật
khác, đó là bản chất xã hội của nhu cầu con người.
Động cơ là một vấn đề trung tâm của tâm lí học. Vấn đề này giữ một vị trí quan
trọng của thuyết tâm lí về hoạt động do A.N. Leonchiev [1] soạn thỏa.
Sự khác biệt của phương pháp nhu cầu được biểu hiện việc phân tích động cơ
được tiến hành như điều cần thiết để phân tích hoạt động. Phương pháp nghiên cứu như
vậy đã đưa nhu cầu đến quan điểm độc đáo để phát hiện bản chất của nhu cầu, về vai
trò của chúng trong hoạt động đến quan điểm về các cơ chế phát triển nhu cầu và chức
năng nhu cầu trong điều khiển hành vi.
Như vậy việc phân tích lĩnh vực động cơ liên quan đến việc nghiên cứu nhân
cách, ý thức và các quá trình cảm xúc.

Khi hiểu động cơ như là đối tượng trả lời nhu cầu này hay nhu cầu khác, A.N.
Leonchiev [1] đã thấy được nhiệm vụ chủ yếu trong việc nghiên cứu các nhu cầu : “để
hiểu biết bằng cách nào việc phát triển bản thân hoạt động, phát triển động cơ hoạt
động và phát triển các phương tiện làm biến đổi các nhu cầu người và sản sinh ra nhu
cầu mới, nhờ vậy mà các nấc thang của nó được thay đổi. Việc thỏa mãn một số nhu
cầu được xem là vị trí của các điều kiện cần thiết của hoạt động con người – của một
con người như là nhân cách”.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 19 -
A.N. Leonchiev [29] phân tích các nhu cầu như sau : nhu cầu như là điều kiện bên
trong, nhu cầu như là những gì định hướng trong mối liên hệ với những khả năng có
thể thực hiện được. Cần nhấn mạnh các quy trình hoạt động sống rất khó thực hiện một
khi không có tính tích cực bên ngoài trong các tình huốn, khi mà không có sự bảo đảm
thường xuyên những điều kiện cần thiết để tồn tại [30].
Nhu cầu cơ thể chỉ tham gia như điều kiện bên trong hoạt động chứ không phải
như là nguyên nhân nảy sinh hoạt động.
A.N. Dernhitrenkô và N.V. Goontrancôv [51] khi nghiên cứu nhu cầu cũng cho
rằng nhu cầu là cốt lõi của nhân cách. Hai ông đã nghiên cứu vấn đề nguồn năng lượng
của nhu cầu và nhấn mạnh rằng khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể phụ thuộc vào
sự chuẩn bị hành động của các nhân. Cụ thể nó được thể hiện ở dạng chủ thể đã được
trang bị thông tin đầy đủ ở mức độ nhất định về khả năng thỏa mãn nhu cầu. Thông tin
này chỉ rõ mối quan hệ giữa thông báo với trạng thái của các nhân, từ đó nó xác định
(tâm thế xác định). Tâm thế này sẽ làm giảm tính không xác định của hoàn cảnh, kết
quả làm tăng năng lượng của nhu cầu. Nguồn năng lượng của nhu cầu không chỉ phụ
thuộc vào mức độ đạt được đối tượng của nhu cầu mà còn phụ thuộc vào sự thỏa mãn.
Lúc này năng lượng nhu cầu bắt đầu quy định phản ứng của cảm xúc thông qua kết quả
hoạt động hướng tới việc thỏa mãn nhu cầu. Nếu như hoàn cảnh cuối cùng không thuận
lợi cho việc thỏa mãn nhu cầu, năng lượng của nhu cầu giảm xuống do tác động của
hoàn cảnh không xác định đang lớn mạnh. Nhưng theo P.V.Ximônôv [52], nếu nhu cầu

cấp bách xuất hiện mà thiếu hụt thông tin sẽ dẫn đến cảm xúc âm tính. Điều này làm
phát triển năng lượng của nhu cầu, mặc dù kết quả hành vi không thuận lợi. Trong
trường hợp ngược lại, cảm xúc dương tính làm giảm tập hợp hành động. Như vậy, sự
thay đổi tập hợp cảm xúc của năng lượng nhu cầu được quy định bởi thông tin về khả
năng thỏa mãn nhu cầu và phụ thuộc vào mức độ ý nghĩa của nhu cầu. Sau khi phân
tích sự chuyển tải năng lượng của nhu cầu P.V.Ximônôv đã có lí khi kết luận rằng đặc
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 20 -
điểm của nhân cách phụ thuộc vào sự trang bị thông tin, các công cụ, phương tiện và
cách thức thỏa mãn nhu cầu.
Tóm lại, trong tâm lí học hiện đại rất ít các công trình nghiên cứu về nhu cầu, do
vậy việc nghiên cứu nhu cầu chưa được thực hiện một cách có hệ thống và còn quá ít
kết quả thực nghiệm.
Có hai quan điểm chính nghiên cứu về nhu cầu như sau :
1. Quan điểm phi Mác-xít.
2. Quan điểm Mác-xít.
Phần lớn trong học thuyết động cơ của các nhà tâm lí học tư bản đều có khái niệm
nhu cầu và được hiểu như là một kích thích bên trong, là “động lực của hành vi”. Điều
này dẫn tới khái niệm “bản năng” của Macdagola [40] hay khái niệm “đam mê” của S.
Freud. Với ý nghĩa này nhu cầu được hiểu như là các kích thích có toàn quyền, nhu cầu
xác định mức độ tính tích cực của cá thể và tố chất của nó. Đối với động cơ hành vi,
khái niệm nhu cầu với ý nghĩa như vậy thường giống với khái niệm động cơ. Sự giống
nhau này dần dần sẽ dẫn đến việc giải quyết vấn đề tâm lí học động cơ như là vấn đề
nhu cầu thứ nhất về cơ sở nhu cầu, về phân loại nhu cầu. Động cơ đã chỉ rõ sự tương
quan của chúng với những kiểu nhất định của phản ứng hành vi, nhu cầu cập nhật phát
huy bản ngã của A. Maslow, nhu cầu có những ấn tượng mới, hoặc mối tương quan
của chúng với những nhu cầu khác, ví dụ như nhu cầu thành đạt, nhu cầu chạy trốn,
nhu cầu lớn lên, nhu cầu phát triển.
Sự phân biệt nhu cầu thiết yếu và nhu cầu không thiết yếu là một trong những

nguyên tắc đối với lý thuyết hoạt động trong quan điểm của các nhà tâm lí học Mác-xít.
Chỉ có nhu cầu thiết yếu mới trùng về nội dung với khái niệm nhu cầu của tâm lí học
phi Mác-xít về động cơ. A.N. Leonchiev đã nhấn mạnh rằng bản thân nhu cầu không
có khả năng đưa hoạt động tới sự định hướng nhất định, cái gì sẽ là sự kích thích duy
nhất định hướng hoạt động, đó không phải là nhu cầu mà là đối tượng trả lời nhu cầu
này. P.V.Ximônôv đã bổ sung thêm, nhu cầu có đối tượng thỏa mãn, nhưng không
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 21 -
nhận được thông tin về khả năng thỏa mãn nhu cầu, nó cũng không thể trở thành nguồn
động lực thúc đẩy con người hoạt động.
Qua phân tích trên ta có thể khái quát nhu cầu của con người như sau :
- Sự đòi hỏi của con người về một điều gì đó, hay một cái gì đó ở bên ngoài con
người cần phải được thỏa mãn;
- Sự đòi hỏi đó chính là một thuộc tính của tâm lí người, nó phản ánh mối quan hệ
giữa con người và thế giới xung quanh. Đây là hình thức phản ánh đặc biệt của con
người về các điều kiện sống bên ngoài;
- Sự đòi hỏi về một (hay nhiều) đối tượng nào đó diễn ra theo một quá trình nhất
định và chỉ được thực thi thông qua hoạt động của chính bản thân con người một khi
con người có phương tiện hoạt động thỏa mãn như cầu;
- Sự cần thiết phải đáp ứng những đòi hỏi ấy sẽ nảy sinh và thúc đẩy tính tích cực
ở con người và thể hiện rõ nét bản chất xã hội của con người.
Tính chất chu kỳ trong nhu cầu cho phép rút ra kết luận quan trọng là nếu nhu cầu
nào đó của con người được lặp lại thì mức độ sẽ cao hơn trong nội dung cũng như
trong phương thức thỏa mãn chúng. Đặc điểm này của nhu cầu phản ánh bản chất của
nhu cầu là chúng không tự sinh ra và cũng không tự mất đi, nhu cầu được chuyển hóa
và phát triển trong hoạt động.
Như vậy, khi nói đến nhu cầu là nói đến sự đòi hỏi cần thiết của con người về một
cái gì đó. Chính “cái gì đó” sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu của con người thông qua
hoạt động của chính bản thân họ. Khi nói đến nhu cầu sẽ xuất hiện hai hệ thống mà ta

dễ nhận ra đó là: thế giới đối tượng và trạng thái tâm lý của chủ thể.
2.1.3. Đặc điểm nhu cầu
Theo P.A Durich, nhu cầu có những đặc điểm sau:
Tính nội dung cụ thể của nhu cầu thường có liên quan hoặc là với một vật cụ thể
mà người ta cố gắng để có được thỏa mãn.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 22 -
Nhận thức khá rõ ràng về nhu cầu có kèm theo trạng thái cảm xúc tiêu biểu. Ví
dụ, tính hấp dẫn của đối tượng có liên quan đến nhu cầu, sự hài long do một nhu cầu
được thỏa mãn…
Trạng thái ý chí, tình cảm thúc đẩy phải thỏa mãn nhu cầu, phải tìm kiếm và tiến
hành những cách thức cần thiết để thỏa mãn nhu cầu đó.
Các trạng thái đó bị giảm yếu,có lúc hoàn toàn biến mất và thậm chí trong một số
trường hợp còn biến thành trạng thái ngược lại khi thỏa mãn. Ví dụ, như cảm giác chán
ghét thức ăn khi đã quá no.
Sự xuất hiện lặp lại khi mà yêu cầu gây nên lại tái hiện, một yêu cầu về điều gì đó
chỉ xảy ra một lần, mang tính chất đơn lẻ và không lặp lại nữa thì sẽ không biến thành
nhu cầu.
Đó là 5 đặc điểm của nhu cầu theo quan điểm của P.A Durich. Các đặc điểm này,
theo Durich, có thể xem như là các trạng thái tâm lý liên quan đến nhu cầu.
Trong giáo trình “ Tâm lý học đại cương”, các tác giả đã nêu ra những đặc điểm
của nhu cầu:
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng
đáp ứng được sự thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người
hoạt động nhằm đến đối tượng.
Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và những phương thức thỏa mãn nó
quy định.
Nhu cầu có tính chu kỳ.
Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật: nhu cầu của

con người mang bản chất xã hội. Marx đã nói: “ Cái đói là cái đói nhưng cái đói được
thỏa mãn bằng thịt nấu và ăn với dao, dĩa là khác xa so với cái đói dùng tay, móng và
răng để nuốt chửng thịt sống”.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản của nhu cầu. Các đặc điểm này biểu hiện
trong quá trình từ khi phát sinh nhu cầu đến khi thỏa mãn nhu cầu.
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 23 -
2.1.4. Phân loại nhu cầu
Theo Abraham Maslow, nhu cầu của con người phù hợp với sự phân cấp từ nhu
cầu thấp nhất đến nhu cầu cao nhất. Khi một nhóm các nhu cầu được thỏa mãn thì loại
nhu cầu này không còn là động cơ thúc đẩy nữa.
Nhu cầu sinh lý (Vật Chất): Là những nhu cầu cơ bản để có thể duy trì bản thân
cuộc sống con người (như không khí, nước uống, thức ăn, đồ mặc, nhà ở, tình dục…).
Maslow quan niệm rằng khi nhu cầu này chưa được thỏa mãn tới mức độ cần thiết để
có thể duy trì cuộc sống thì nhu cầu khác sẽ không thúc đẩy được mọi người.
Nhu cầu về an toàn: Là những nhu cầu tránh sự nguy hiểm về thân thể và sự đe
dọa mất việc, mất tài sản…
Nhu cầu xã hội (về liên kết và chấp nhận): Do con người là thành viên của xã
hội nên họ cần được những người khác chấp nhận. Con người luôn có nhu cầu yêu
thương gắn bó. Cấp độ nhu cầu này cho thấy con người có nhu cầu giao tiếp để phát
triển.
Nhu cầu được tôn trọng: Theo Maslow, khi con người bắt đầu thỏa mãn nhu cầu
được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì họ có xu thế tự trọng và muốn được
người khác tôn trọng. Nhu cầu loại này dẫn tới sự thỏa mãn như: quyền lực, uy tín, địa
vị và lòng tự tin.
Đây là mong muốn của con người nhận được sự chú ý, quan tâm và tôn trọng từ
những người xung quanh và mong muốn bản thân là một “mắt xích” không thể thiếu
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Việc họ được tôn trọng cho thấy bản thân
từng cá nhân đều mong muốn trở thành người hữu dụng theo một điều giản đơn là “xã

hội chuộng của chuộng công”. Vì thế, con người thường có mong muốn có địa vị cao
để được nhiều người tôn vọng và kính nể.
Nhu cầu tự hoàn thiện: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân
cấp của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới chỗ mà một con người có thể đạt tới. Tức
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 24 -
là làm cho tiềm năng của một người đạt tới mức tối đa và hoàn thành được một mục
tiêu nào đó.
Đây là khát vọng và nỗ lực để đạt được mong muốn. Con người tự nhận thấy bản
thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở thích và chỉ khi công việc đó được
thực hiện thì họ mới cảm thấy hài lòng. Thuyết nhu cầu sắp xếp nhu cầu con người từ
thấp lên cao. Những nhu cầu ở cấp cao hơn sẽ được thỏa mãn khi nhu cầu cấp thấp hơn
được đáp ứng. Tuy nhiên điều này chỉ đúng trong từng cá thể nhất định. Ở phạm vi
rộng hơn, quan điểm này không chính xác. Điều này có thể thấy ở những dân tộc mặc
dù rất nghèo đói nhưng vẫn mong muốn có được độc lập tự do và đấu tranh vì điều đó.
Các nhu cầu này được A.Maslow mô hình hóa trong một sơ đồ hình tháp, gọi là
“tháp nhu cầu Maslow”:
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN
1
2
3
4
5
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Kim Xuân - 25 -
Trong sơ đồ trên, nhu cầu 1, 2, 3 là những nhu cầu cấp cao, phát sinh do sự thiếu
hụt. Nhu cầu 4, 5 là nhu cầu cấp thấp, phát sinh bản ngã.
Với cách phân chia này, các loại nhu cầu trên có thể được xem là các mức độ nhu
cầu.

Một cách phân loại khác phổ biến và triệt để hơn. Theo cách phân chia này, nhu
cầu được chia làm 2 loại:
Nhu cầu vật chất là những nhu cầu gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như ăn, ở,
mặc…
Nhu cầu tinh thần bao gồm nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu giao
lưu và nhu cầu hoạt động xã hội.
2.1.5. Sự hình thành nhu cầu
Về vấn đề này có sự khác nhau giữa các nhà tâm lý học phương tây và các nhà
tâm lý học Mác xít.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học phương tây cho rằng nhu cầu sinh vật sẽ
quyết định đến nhu cầu xã hội. Nhu cầu sinh vật là cơ bản và ó nguồn gốc bẩm sinh,
con người không thể can thiệp được bằng ý thức và ý chí.
A.N. Leonchiev và các nhà tâm lý học Mác xít khẳng định mối quan hệ chặt chẽ
giữa nhu cầu và hoạt động. “Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực của hoạt động,
nhưng bản thân nhu cầu lại được nảy sinh, hình thành và phát triển trong hoạt động”.
A.N. Leonchiev đã đưa ra sơ đồ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và hoạt động
(Hoạt động – Nhu cầu – Hoạt động). Ông giait thích như sau: “Thoạt đầu nhu cầu chỉ
xuất hiện như một điều kiện, một tiền đề chi hoạt động. Nhưng ngay sau khi chủ thể
bắt đầu hành động thì lập tức xảy ra sự biến hóa của nhu cầu và sẽ không con giống
như khi nó tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nó” nữa. Sự phát triển của hoạt động
này đi xa bao nhiêu thì cái tiền đề này của haotj động (tức nhu cầu) cũng chuyển hóa
bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động”. Ông cho rằng, bởi vì bản thân thế giới đối
tượng đã hàm chứa tiềm tàng những nhu cầu, nên trong quá trình chủ thể hoạt động
SVTH: Nguyễn Công Hậu
Lớp : 06CTL Khoa Tâm lý – Giáo dục, ĐHSP - ĐHĐN

×