Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

đặc điểm thạch học _ vật lý, các mô hình vật lý đánh giá độ rỗng, độ nứt nẻ, độ rỗng khối của đá món

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.65 KB, 62 trang )

Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
LỜI CẢM ƠN
Bài khoá luận này được thực hiện và hoàn thành dưới sự giúp đỡ, động
viên của mọi người.
Trước tiên em xin được gửi lời cảm ơn đến ban chủ nhiệm khoa cùng toàn
thể quý thầy cô khoa ĐỊA CHẤT nói chung và thầy cô bộ môn Đòa Chất Dầu Khí
nói riêng đã cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập qua.
Em xin được gủi lời biết ơn sâu sắc đến giáo viên, Thạc Só Phan Văn Kông
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện Khoá Luận.
Cám ơn người thân và bạn bè đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian qua.
Trong suốt quãng đường học tập bản thân em không tránh khỏi những
thiếu sót , khuyết điểm mong được sự niệm tình tha thứ và góp ý quý báu của các
thầy cô.
Tp.HCM, Tháng 07/2004
Phan Đặng Thông
Phan Đặng Thông
1
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
MỤC LỤC
Lời mở đầu trang 3
CHƯƠNG 1:
ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT CỦA BỒN TRŨNG CỬU LONG

Lòch sử nghiên cứu 5
I/ Đặc điểm đòa lý tự nhiên. 8
II/ Đặc điểm đòa tầng. 9
III/ Đặc điểm kiến tạo. 13


CHƯƠNG 2:
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC VẬT LÝ ĐÁ MÓNG BỂ CỬU LONG 18


I/ Thành phần và sự phân bố của đá móng. 19
II/ Đặc điểm thạch học – khoáng vật đá móng Cửu Long. 20
III/ Nguồn gốc phát triển và điều kiện thành tạo. 26
CHƯƠNG 3:
CÁC MÔ HÌNH VẬT LÝ ĐÁNH GIÁ ĐỘ RỖNG 28
NỨT NẺ VÀ ĐỘ RỖNG KHỐI CỦA ĐÁ CHỨA MÓNG
A/ Đặc tính không gian lỗ rỗng 29
I/ Nguyên nhân tạo độ rỗng trong đá móng.
II/ Đặc tính thấm chứa của đá móng phong hoá nứt nẻ.
B/ Các mô hình vật lý đánh giá độ rỗng nứt nẻ 38
và độ rỗng khối của đá chứa móng
C/ Các mô hình điện trở suất của đá nứt nẻ. 56
Phan Đặng Thông
2
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
Phan Đặng Thông
3
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
LỜI NÓI ĐẦU
Dầu khí Việt Nam ngày càng phát triển và đang đóng góp một phần quan
trọng trong nền kinh tế. Để đạt được kết quả này, ngành dầu khí đã không ngừng nâng
cao áp dụng Khoa học kỹ thuật tien tiến trong lónh vực thăm dò, tìm kiếm.Số lượng mỏ
ngày càng được phát hiện ra nhiều ở các tầng đất đá khác nhau và đặc biệt là đá móng
phong hoá và nứt nẻ.
Với đề tài :” Đặc điểm Thạch học _ vật lý, các mô hình Vật Lý đánh giá độ
rỗng, độ nứt nẻ, độ rỗng khối của đá móng chứa dầu bồn trũng Cửu Long” không
ít các nhà đòa chất dầu khí trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu dựa vào mẫu thu
thập được từ các giếng khoan.
Đi đôi với việc khai thác tìm kiếm các bồn dầu khí là cần phải xem xét, đánh

giá độ thấm chứa, độ rỗng, độ nứt nẻ của đá chứa móng.
Trước khi vào sâu vấn đề này em đã giới thiệu đôi nét về các đặc điểm bồn
trũng Cửu Long bao gồm :Lòch sử nghiên cứu, vò trí đòa lý,đòa tầng, các hoạt động kiến
tạo, lòch sử hình thành bồn trũng, tiềm năng dầu khí,đặc điểm thạch học đá móng.
Sang chương II em đi sâu vào các đặc điềm về thạch học của bồn trũng Cửu
Long.
Và chương III là chương cuối và cũng là chương em đề cập , phân tích chi tiết
về các phương thức đánh giá độ rỗng, độ nứt nẻ của đá chứa móng bể Cửu Long.
Đề tài này được hình thành trong quá trình sưu tập tài liệu, những hiểu biết
trong quá trình học tập tại trường. Do vậy không tránh khỏi những sai sót cả nội dung
lẫn hình thức tác giả. Em rất mong được sự giúp đỡ phê bình của các thầy cô cũng như
sự đóng góp của các bạn đọc.
Phan Đặng Thông
4
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
CHƯƠNG I :
ĐẶC ĐIỂM TỔNG QUÁT CỦA BỒN
TRŨNG CỬU LONG
Phan Đặng Thông
5
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU :
Bồn trũng Cửu Long nằm phía Đông bắc thềm lục đòa Việt Nam, với tọa độ
đòa lý : nằm giữa 9
0
– 11
0
vó độ Bắc, 106
0
30 - 109

0
kinh độ Đông, kéo dài dọc theo
bờ biển Phan Thiết đến cửa sông Hậu. Bồn trũng Cửu Long có diện tích 56.000 km
2
, phía Đông Nam được ngăn cách với trũng Nam Côn Sơn bởi khối nâng Côn Sơn,
phía Tây Nam được ngăn cách với bồn trũng vònh Thái Lan bởi khối nâng Korat,
phía Tây Bắc nằm trên phần rìa của đòa khối Kontum.
Bồn trũng Cửu Long được các nhà đòa chất nghiên cứu từ lâu. Công tác
nghiên cứu đòa chất, đòa vật lý ở đây có thể đánh giá là khá tỉ mỉ và thu được nhiều
kết quả tốt, cùng với việc tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí được tiến hành
mạnh mẽ ở mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng và đã đạt được kết quả có giá trò kinh tế lớn.
Nói chung lòch sử bồn trũng Cửu Long chia làm ba giai đoạn :
1 . Giai đoạn trước 1975:
 Vào đầu những năm 60 đã có những dự đoán về tìm năng dầu khí ở bồn
trũng, nó trở thành đối tượng tìm kiếm dầu khí của một số công ty nước ngoài.
 Năm 1960 – 1970, công ty Man Drel đã đo đòa vật lý thềm lục đòa phía
Nam với mạng lưới tuyến khảo sát 39 km * 50 km.
 Năm 1960, công ty Mobil Oil đã phủ mạng lưới tuyến khảo sát đòa vật lý 8
km * 8 km và 4 km * 4 km trên khu vực lô 9 và lô 16.
 Năm 1974, công ty Petty Ray đã tiến hành nghiên cứu đòa vật lý với mạng
lưới tuyến 2 km * 2 km trên khu vực lô 9.
 Đầu năm 1975, công ty Mobil Oil đã khoan giếng khoan BH –1X trên cấu
tạo Bạch Hổ, khi thử vỉa tầng Mioxen hạ đã thu được dòng dầu công nghiệp đầu
tiên với lưu lượng 2400 thùng / ngày đêm.
2. Giai đoạn 1975 – 1980 :
Phan Đặng Thông
6
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
 Năm 1976, công ty Pháp đã tiến hàng đo đòa vật lý theo mạng lưới
tuyến khu vực và liên kết đòa chấn ở các lô 6, 16, 17 vào các khu vực đồng bằng

sông Cửu Long.
 Năm 1978, công ty Geco của Na Uy đã tiến hành đo mạng lưới đòa vật
lý 8 km * 8 km và 4 km * 4 km và khảo sát chi tiết mạng lưới 2 km * 2 km, 1
km * 1 km trên khu vực lô 9, lô 16.
 Năm 1979, công ty Deminex đo đòa vật lý lô 15 với mạng lưới 3,5 km *
3,5 km và tiến hành khoan 4 giếng 15A – 1X, 15B, 15C – 1X, 15G – 1X.
3.Giai đoạn 1980 đến nay :
a. Năm 1980, liên doanh dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô đã thành lập
và tiến hành thăm dò, khai thác dầu khí rộng rãi trên toàn bồn trũng.
b. Năm 1984, liên đoàn đòa vật lý Thái Bình Dương của Liên Xô đã tiến
hành khảo sát khu vực một cách chi tiết với các mạng lưới như sau :
• Mạng lưới 2 km * 2 km ở các cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Tam Đảo.
• Mạng lưới tuyến 1 km * 1 km ở các cấu tạo Rồng, Tam Đảo, khu
vực lô 15.
• Mạng lưới 0,5 km * 0,5 km ở cấu tạo Bạch Hổ.
c. Đến nay, đòa chất bồn trũng Cửu Long đã được nghiên cứu tỉ mỉ và chi
tiết thể hiện qua các báo cáo về dầu khí được hoàn thành bởi Viện Nghiên Cứu
Khoa Học và Thiết Kế Biển của xí nghiệp liên doanh Việt Xô cùng với trữ
lượng dầu đã được đánh giá và khai thác ở các mỏ Bạch Hổ, Rồng.
Phan Đặng Thông
7
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN :
Bồn trũng Cửu Long nằm phía Đông thềm lục đòa Nam Việt Nam, trong
khoảng giữa 9
0
– 11
0
vó độ Bắc, 106
0

30 - 109
0
kinh độ Đông, kéo dài dọc theo
bờ biển Phan Thiết đến cửa sông Hậu, với diện tích hiện tại (400.000 km
2
) có
thể so sánh với châu thổ của các con sông lớn như : sông Mixixipi, sông Trường
Giang,……… Lượng nước sông Mekong đổ ra biển trung bình 38.000 m
3
/giây,
lượng phù sa 0,25 kg/m
3
. Như vậy hàng năm sông Mekong đưa ra biển hàng
triệu tấn phù sa. Ngoài ra nguồn cung cấp vât liệu trầm tích còn phải kể đến con
sông khác như : sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, sông Sài Gòn,……
Về chế độ gió : bồn trũng Cửu Long có thể nhận thấy hai chế độ gió mùa
rõ rệt - chế độ gió mùa Đông, và chế độ gió mùa Hè.
Chế độ gió mùa Đông : đặc trưng bởi gió mùa Đông Bắc, kéo dài từ
tháng 11 đến cuối tháng 8. Vào đầu mùa tốc độ gió trung bình sau đó tăng dần
lên và lớn nhất vào tháng 1 và tháng 2. Đây là thời kỳ biển động nhất trong
năm, gây nhiều ảnh hưởng đến các hoạt động trên biển.
Chế độ gió mùa hè : đặc trưng bởi gió mùa Tây Nam kéo dài từ cuối
tháng 5 đến giữa tháng 9, với hướng gió chủ yếu là Tây Nam.
Ngoài ra còn hai thời kỳ chuyển tiếp từ gió mùa Đông Bắc sang gió mùa
Tây Nam từ đầu tháng 4 đến cuối tháng 5 và thời kỳ chuyển tiếp từ gió mùa Tây
Nam sang Đông Bắc vào tháng 9 đến tháng 11.
Chế độ dòng chảy : dưới tác động gió mùa ở vùng biển Đông tạo dòng
đối lưu vào hướng và tốc độ được xác đònh bằng hướng gió và tốc độ gió.
Về khí hậu : bồn trũng Cửu Long được đặc trưng là khí hậu xích đạo,
chia làm hai mùa rõ rệt : mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ bề mặt và đáy biển

Phan Đặng Thông
8
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
gần như bằng nhau. Trên mặt nhiệt độ trung bình vào mùa đông từ 27
0
C đến
28
0
C. Còn ở độ sâu 20 m nước, mùa đông nhiệt độ trung bình 26
0
C đến 27
0
C,
mùa hè 28
0
C đến 29
0
C. Nhìn chung vùng nghiên cứu có khí hậu khô ráo, độ ẩm
trung bình 60%……
Bồn trũng Cửu Long nằm gần Vũng Tàu, TP.HCM và các khu vực trọng
điểm kinh tế, các khu công nghiệp là các cơ sở dòch vụ tốt cho công tác thăm dò
khai thác dầu khí, rất thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở sử dụng, chế biến các
sản phẩm dầu khí như nhà máy tua bin khí, nhà máy phân bón, nhà máy hóa
lỏng khí, lọc dầu…
II. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA TẦNG:
Giai đoạn từ năm 1980 đến nay, với số lượng giếng khoan ngày càng
tăng trên bồn trũng cho phép hiểu biết ngày càng nhiều hơn về đòa tầng và cấu
trúc của bồn trũng này.
Đòa tầng của bồn trũng Cửu Long đã thành lập dựa vào kết quả phân tích
mẫu vụn, mẫu lõi, tài liệu carota và các tài liệu phân tích cổ sinh từ các giếng

khoan trong phạm vi bồn trũng, bao gồm các thành tạo móng trước Kainozoi và
các trầm tích Kainozoi.
1. Phần đá móng trước Kainozoi
Đá móng là đá magma toàn tinh với các đai mạch Diabaz và Pocphia
Bazan Trachit được đacë trưng bởi mức độ không đồng nhất cao về tính chất vật
lý thạch học như đã phát hiện ở các giếng khoan lô 9 và lô 16. Đá móng ở đây
bao gồm các loại Granit Biotit thông thường, Granodiorit, và Adamelit biotit
màu sáng, ngoài ra còn có Monzonit và Diorit á kiềm. Các đá này tương đương
một số phức hệ của lục đòa, còn phức hệ Hòn Khoai γ(T)hk, Đònh Quán
Phan Đặng Thông
9
+
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
γδ(J
3
).đq, phức hệ Cà Ná γ(K
2
)cn và Ankroet (γak). Do các hoạt động kiến tạo
mạnh mẽ trước và trong Kainozoi các đá này bò phá hủy bởi các đứt gãy, kèm
theo nứt nẻ đồng thời các hoạt động phun trào Andesit, Bazan đưa lên thâm
nhập vào một số các đứt gãy và nứt nẻ. Tùy theo từng khu vực các đá khác nhau
mà chúng bò nứt nẻ, phong hóa ở các mức độ khác nhau.
Đá móng bò thay đổi ở những mức độ khác nhau bởi quá trình biến đổi
thứ sinh. Trong số những khoáng vật biến đổi thứ sinh thì phát triển nhất là
canxit, zeolit và kaolinit. Đá móng Granit với hàm lượng thạch anh lớn hơn so
với loại khác nên tính cứng dòn dễ tạo nứt nẻ trong quá trình kiến tạo.
Tuổi tuyệt đối của đá móng kết tinh thay đổi từ 245±7 triệu năm đến
89±3 triệu năm (từ nghiên cứu đá móng Bạch Hổ). Granit tuổi Creta có hang
hốc và nứt nẻ cao, góp phần thuận lợi cho việc chuyển dòch và tích tụ dầu trong
móng.

Tới nay, các thành tạo móng được khoan với chiều dày hơn 1600m (giếng
khoan 404 mỏ Bạch Hổ) và mức độ biến đổi của đá có xu thế giảm theo chiều
sâu, đặc biệt ở chiều sâu hơn 4500m thì quá trình biến đổi giảm rõ rệt.
2. Các trầm tích Kainozoi :
Việc phân chia các thành tạo trầm tích Kainozoi không thống nhất giữa
các nhà đòa chất, do đó có những sự khác biệt trong sự phân chia các thành tạo
này. Theo tài liệu của Vietsovpetro “Thống nhất đòa tầng trầm tích Kainozoi
bồn trũng Cửu Long” – 1987, các thành tạo trầm tích Kainozoi có những đặc
điểm sau :
 Các thành tạo trầm tích theo bình đồ cũng như mặt cắt khá phức tạp,
bao gồm các loại đá lục nguyên tướng châu thổ và ven biển.
Phan Đặng Thông
10
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
 Trầm tích Kainozoi phủ bất chỉnh hợp trên móng nước Kainozoi với độ
dày 3-8 km, càng đi về trung tâm bồn trũng độ dày càng tăng, chỗ sâu nhất lớn
hơn 8 km.
 Các trầm tích Kainozoi ở bồn Cửu Long bao gồm các phân vò đòa tầng
có các hóa thạch đặc trưng được xác đònh bởi các bào tử phấn và vi cổ sinh từ
dưới lên bao gồm :
Các thành tạo trầm tích Paleogen :
Trầm tích Oligoxen (P
3
) :
Theo kết quả nghiên cứu đòa chấn, thạch học, đòa tầng cho thấy trầm tích
Oligoxen của bồn Cửu Long được tạo thành bởi sự lắp đầy các trũng đòa hình
cổ, bao gồm các tập trầm tích lục nguyên, loại trầm tích sông hồ, đầm lầy, trầm
tích ven biển, chúng phủ bất chỉnh hợp lên móng trước Kainozoi.
Cũng theo kết quả nghiên cứu trên, trầm tích Oligoxen được chia làm hai
phần : điệp Trà Cú – Oligoxen hạ và điệp Trà Tân – Oligoxen thượng.

• Trầm tích Oligoxen hạ - điệp Trà Cú (P
3
1
tr.c) :
Tầng phản xạ “Light Green” – tầng F11 mỏ Bạch Hổ nằm ở nóc của
điệp. Trầm tích điệp Trà Cú không có những phần nâng cao của móng như ở mỏ
Bạch Hổ, phần nhô cao của cấu tạo Rạng Đông, và cũng hầu như vắng mặt ở
phần Tây Bắc bồn trũng Cửu Long. Chiều dày của điệp này thay đổi từ 0 đến
3500 m, chiều dày lớn của tập thường được tập trung ở những trũng sâu phía
Tây của cấu tạo Bạch Hổ và Rạng Đông.
Điệp này bao gồm các tập sét kết màu đen, xám xen kẽ với các lớp hạt từ
mòn đến trung bình, độ lựa chọn tốt gắn kết chủ yếu bởi xi măng kaolinit, lắng
động trong môi trường sông hồ, đầm lầy hoặc châu thổ. Phía bên trên của trầm
Phan Đặng Thông
11
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
tích Oligoxen hạ là lớp sét dày. Trên các đòa hình nâng cổ ở đỉnh thường không
gặp hoặc gặp các lớp sét Oligoxen hạ mỏng. chiều sâu lớn sét kết có màu đỏ
cam đến màu nâu đỏ hoặc màu hồng xám cam, màu xám sáng đến màu xám và
đen nâu.
• Trầm tích Oligoxen thượngï - điệp Trà Tân (P
3
2
tr.t) :
Gồm các trầm tích sông hồ, đầm lầy và trầm tích biển nông. Ngoài ra
trầm tích Oligoxen thượng còn chứa các thân đá phun trào như Bazan, Andezit…
(ở lô 09 khu vực mỏ Rồng và lô 1 tại các cấu tạo Ruby, Diamond, Emerald,
Topaz và một số những khu vực khác trong bồn trũng Cửu Long). Trầm tích
Oligoxen thượng có thể chia thành hai phần theo đặc trưng thạch học của
chúng : phần dưới bao gồm xen kẽ các lớp cát hạt mòn – trung, các lớp sét và

các tập đá phun trào, phần trên đặc trưng bằng các lớp sét đen dày. Ở khu vực
đới nâng Côn Sơn, phần trên của mặt cắt tỷ lệ cát nhiều hơn. Ở một vài nơi tầng
trầm tích Oligoxen thượng có dò thường áp suất cao.
Trầm tích điệp Trà Tân có chiều dày từ 100 – 1000 m và phủ hầu hết bồn
trũng từ phía Tây Bắc của lô 16.
Các thành tạo trầm tích Neogen
Trầm tích Mioxen hạ – điệp Bạch Hổ (N
1
1
bh)
Trầm tích điệp Bạch Hổ bắt gặp ở hầu hết các giếng khoan đã được
khoan ở bồn trũng Cửu Long. Trầm tích điệp này nằm bất chỉnh hợp trên các
trầm tích dưới, bề mặt bất chỉnh hợp được phản xạ khá tốt trên mặt cắt đòa chấn.
Đây là bề mặt bất chỉnh hợp quan trọng nhất trên đòa tầng Kainozoi. Dựa trên
tài liệu thạch học, cổ sinh, đòa vật lý, điệp này chia thành hai phụ điệp.
Phan Đặng Thông
12
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
• Phụ điệp Bạch Hổ dưới (N
1
1
bh
1
):
Trầm tích của phụ điệp này là các lớp cát kết lẫn với các lớp sét kết và
bột kết chiều dày hàng trăm mét tương đối ổn đònh và phát triển trên toàn bộ
bồn trũng Cửu Long. Càng lên trên của phụ điệp khuynh hướng cát hạt thô càng
rõ. Cát kết thạch anh màu xám sáng, có dạng thấu kính, hạt độ từ nhỏ đến trung
bình. Được gắn kết chủ yếu bằng xi măng sét, kaolinit lẫn với ít cacbonat. Bột
kết từ màu xám đến nâu, xanh đến xanh tối, trong phần dưới chứa nhiều sét.

Trong phần rìa của bồn trũng Cửu Long, cát chiếm phần lớn (60%), giảm dần ở
trung tâm bồn trũng.
• Phụ điệp Bạch Hổ giữa (N
1
1
bh
2
):
Phần dưới phụ điệp này là những lớp cát hạt nhỏ lẫn với những lớp bột
mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết, bột kết, đôi chỗ gặp những vết than,
glauconit.
• Phụ điệp Bạch Hổ trên (N
1
1
bh
3
):
Trong trầm tích điệp Bạch Hổ rất giàu bào tử Magnastriatites howardi và
phấn Shorae.
Trầm tích của phụ điệp này dày từ 500 – 1250 m và được tạo thành chủ
yếu trong điều kiện biển nông và châu thổ ven bờ.
Trầm tích Mioxen trung – điệp Côn Sơn (N
1
2
cs):
Trầm tích điệp này phủ bất chỉnh hợp trên trầm tích Mioxen hạ, bao gồm
sự xen kẽ giữa các tập cát dày gắn kết kém với các lớp sét vôi màu xanh thẫm,
đôi chỗ gặp các lớp than và dolomit.
Trầm tích của điệp được thành tạo chủ yếu trong môi trường ven bờ và có
mặt đầy đủ trên toàn bồn trũng Cửu Long.

Phan Đặng Thông
13
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
Trầm tích Mioxen thượng – điệp Đồng Nai (N
1
3
đn):
Trầm tích được phân bố rộng rãi trên toàn bồn trũng Cửu Long và một
phần của đồng bằng sông Cửu Long (ở giếng khoan Cửu Long 1). Trầm tích của
điệp này nằm chỉnh hợp trên trầm tích điệp Côn Sơn. Trầm tích phần dưới gồm
những lớp cát xen lẫn những lớp sét mỏng, đôi chỗ lẫn với cuội, sạn kích thước
nhỏ. Thành phần hạt chủ yếu là thạch anh, một ít những mảnh đá biến chất, tuff.
Trong sét đôi chỗ gặp than nâu hoặc bột xám sáng. Phần trên là cát thạch anh
với kích thước lớn, độ lựa chọn kém, hạt sắt cạnh. Trong cát gặp nhiều mảnh
hóa thạch sinh vật, glauconit, than và đôi khi cả tuff.
Trầm tích Plioxen –Đệ Tứ – điệp Biển Đông (N
1
-Q bđ):
Trầm tích của điệp này bất phủ chỉnh hợp lên trầm tích Mioxen. Trầm
tích của điệp này đánh dấu một giai đoạn mới của một sự phát triển trên toàn bộ
trũng Cửu Long, tất cả bồn trũng được bao phủ với biển. Điệp này được đặt
trưng chủ yếu là cát màu xanh, trắng, có độ mài mòn trung bình, độ lựa chọn
kém, có nhiều glauconit. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên các hóa
thạch giảm, cát trở nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, cát có màu hồng chứa
glauconit.
III. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO
Theo Ngô Trường San và Trần Lê Đông (hội nghò KHĐCVN - 1995) đặc
điểm cấu trúc chung của thềm lục đòa phía nam Việt Nam như sau :
Thềm lục đòa phía nam Việt Nam và vùng kế cận hợp thành đơn vò cấu
trúc kiểu vỏ lục đòa (mảng Kontum - Borneo) được gắn kết từ cuối Mesozoi đầu

Đệ Tam cùng với sự mở rộng của biển rìa “biển Đông” có kiểu vỏ chuyển tiếp
Đại Dương, tạo thành khung kiến tạo chung của Đông Nam Á. Sự tách mảng và
Phan Đặng Thông
14
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
va chạm giữa các mảng lớn Âu-Á, Âu-Úc và Thái Bình Dương mang tính nhòp
điệu và đều được phản ánh trong lòch sử phát triển của vỏ lục đòa Kontum –
Borneo sau thời kỳ Trias và sự nhấn chìm của mảng đại dương (Thái Bình
Dương và n Độ Dương) bên dưới lục đòa dẫn đến sự phá vỡ, tách giãn, lún
chìm của rìa lục đòa u-Á tạo ra biển rìa “Biển Đông” và thềm lục đòa rộng lớn
phía Nam Việt Nam và Sunda, hình thành các đai tạo núi – uốn nếp trẻ và cung
đảo núi lửa.
Bên trong mảng Kontum-Borneo xảy ra hiện tượng gia tăng dòng đòa
nhiệt và dâng lên các khu vực. Dọc theo các đứt gãy lớn phát triển các hoạt
động xâm nhập của magma Granitoit, phun trào núi lửa axit và kiềm kể cả
bazan lục đòa. Sự chuyển động phân dò đi kèm với tách giãn tạo các riff, khai
sinh đầu tiên các trũng molat giữa núi cuối Mesozoi – đầu Paleogen dần dần
mở rộng và phát triển thành các bể trầm tích có tiềm năng về dầu khí trên thềm
và thềm lục đòa Nam Việt Nam. Những va chạm giữa các mảnh gây nên những
chuyển động kiến tạo lớn Mesozoi – Kainozoi trong mảng Kontum – Borneo
được ghi nhận vào cuối Trias (Indonesia); vào Jura (Malaysia); cuối Creta
(Sumatra); cuối Eoxen trung; cuối Oligoxen; Mioxen trung; cuối Mioxen muộn –
Plioxen.
Giai đoạn thành tạo này chia làm ba thời kỳ :
Thời kỳ Jura – Creta : là thời kỳ rift với sự tách giãn và sự lún phân dò theo
các đứt gãy lớn bên trong mảng Kontum – Borneo để hình thành các trũng kiểu
giữa núi như : Phú Quốc, vònh Thái Lan.
Quá trình này đi kèm magma xâm nhập Granitoit và phun trào axit dạng
Ryolit và Andesit, Bazan và các họat động nhiệt dòch, và các chuyển động nứt co
Phan Đặng Thông

15
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
bên trong các khối magma, tạo ra các khe nứt đồng sinh được lấp đây bởi zeolit và
canxit, cũng như tạo ra các hang hốc khác nhau.
Thời kỳ Eoxen – Oligoxen sớm: là thời kỳ phát triển của rift với các thành
hệ lục đòa, molat phủ không chỉnh hợp trên các trầm tích Mezozoi ở trung tâm
trũng hoặc trong các đá cổ hơn ở ven rìa.
Sự chuyển động dâng lên mạnh ở các khối nâng và quá trình phong hóa xảy
ra vào đầu Paleogen tạo ra lớp phong hoá có chiều dày khác nhau trên đỉnh các
khối nâng Granit. Đó là điều kiện hết sức thuận lợi để tích tụ hydrocacbon và cũng
là tầng sản phẩm quan trọng phát hiện và khai thác hiện nay ở trũng Cửu Long.
Thời kỳ Oligoxen – Đệ Tứ : là thời kỳ mở rộng các vùng trũng do sự lún
chìm khu vực ở rìa Nam đòa khối Kontum – Borneo, có liên quan trực tiếp với sự
phát triển của biển Đông. Trầm tích biển lan rộng dần từ Đông sang Tây.
Trên cơ sở các số liệu đòa vật lý giếng và khoan sâu ở thềm lục đòa Nam
Việt Nam, đòa tầng Đệ Tam sớm nhất được khoan qua có tuổi xác đònh Oligoxen.
Các trầm tích Molat giữa núi dự kiến tuổi Eoxen và sớm hơn chỉ phổ biến ở
trung tâm các đòa hào, ở đây chiều dài trầm tích Đệ Tam đạt 8-10 km.
• Sự va chạm giữa các mảng vào cuối Oligoxen đã ảnh
hưởng đến sự phát triển của rìa Nam mảng Kontum – Borneo, gây ra hiện tượng
biển lùi và bất chỉnh hợp khu vực giữa phức hệ Oligoxen và các trầm tích phủ
lên chúng. Các chuyển động khối theo các đứt gãy đồng sinh cùng quá trình
trầm tích thừa kế bình đồ kiến tạo của móng trước Đệ Tam đã tạo ra những cấu
tạo đòa phương.
Sự nâng lên làm đa số các cấu tạo bò bào mòn ở đỉnh hoặc vát mỏng
chiều dày. Các trầm tích sét cuối Oligoxen là lớp chắn quan trọng phủ lên các
bẫy chứa dầu Oligoxen và móng trước Đệ Tam.
Phan Đặng Thông
16
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông

• Thời kỳ Mioxen tiếp theo bắt đầu bằng đợt biển tiến
ngắn vào đầu Mioxen sớm và kết thúc bằng sự dâng lên, bất chỉnh hợp khu vực
với sự gián đoạn trầm tích vào Mioxen trung. Diện tích các bồn trũng biến đổi
theo các chu kỳ dao động của mực nước biển. Thành phần sét biển chiếm ưu
thế. Vào thời kỳ này bình đồ kiến tạo Oligoxen – Mioxen hoàn toàn bò san
phẳng do không còn các chuyển động phân dò trên các đới cấu tạo thứ cấp.
Có thể nói quy luật phân đới cấu tạo, cũng như thành phần phủ Kainozoi
trong các bồn trũng Đệ Tam được khống chế bởi sự chuyển động của móng và
các đứt gãy cổ xuyên móng tiếp tục hoạt động trở lại về sau. Sự chuyển động
khối đứt gãy và sự phát triển của những cấu tạo đòa phương tập trung chủ yếu
vào Oligoxen, Mioxen sớm, yếu dần vào Mioxen giữa và mất hẳn vào Mioxen
muộn.
Bồn trũng Cửu Long có bề dày trầm tích Kainozoi lấp đầy bồn trũng khá
lớn, tại trung tâm bồn trũng > 8km. Chúng được phát sinh phát triển trên vỏ lục
đòa được hình thành trong các giai đoạn kiến tạo khác nhau.
Bồn trũng Cửu Long trải qua các hình thái phát triển bồn khác nhau như:
bồn trũng giữa núi ( trước Oligoxen ), bồn trũng kiểu rift ( trong Oligoxen ), bồn
trũng oằn võng ( trong Mioxen ), bồn trũng kiểu thềm lục đòa ( từ Plioxen đến
nay). Các hình thái bồn này tương ứng với các ứng suất căng giãn vì vậy các đứt
gãy trong bồn chủ yếu là các đứt gãy thuận và có sự thành tạo của dạng đòa lũy ,
đòa hào: đây chính là tâm điểm cho sự dòch chuyển của dầu khí ở dưới sâu lên.
Thật vậy , phần lớn các đứt gãy quan trọng trong bồn trũng Cửu Long là
đứt gãy thuận kế thừa từ móng và phát triển đồng sinh với quá trình lắng đọng
trầm tích. Các đứt gãy nghòch hiện diện ít do sự nén ép đòa phương hoặc nén ép
đòa tầng. Chúng bao gồm hai hệ thống đứt gãy sâu khu vực:
Phan Đặng Thông
17
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
• Hệ thống theo phương Tây Bắc – Đông Nam bao gồm
các đứt gãy lớn.

• Hệ thống đứt gãy sâu Đông Bắc – Tây Nam tồn tại ở
phần biển của bồn trũng, gồm hai đứt gãy chạy song song. Đứt gãy thứ nhất
chạy dọc theo rìa biển, đứt gãy thứ hai chạy dọc theo rìa Tây Bắc khối nâng
Côn Sơn. Các đứt gãy này có góc cắm 10 – 15
0
so với phương thẳng đứng, cắm
sâu tới phần lớp dưới Bazan, hướng cắm về trung tâm bồn trũng. Hai đứt gãy
này khống chế phương của bồn trũng Cửu Long trong quá trình lòch sử phát triển
của mình.
Ngoài ra hệ thống đứt gãy sâu khu vực, trong bồn trũng Cửu Long còn
tồn tại các đứt gãy có độ kéo dài nhỏ hơn ( có thể chỉ tồn tại trong trầm tích có
tuổi Kainozoi ). Kết quả xây dựng các bản đồ cấu tạo bồn trũng cho thấy bình
đồ cấu trúc Kainozoi bò phức tạp hóa bởi ba hệ thống đứt gãy chính: Đông Bắc –
Tây Nam, Đông Tây, Tây Bắc – Đông Nam.
Phan Đặng Thông
18
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
CHƯƠNG II:
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC – VẬT LÝ
ĐÁ MÓNG BỂ CỬU LONG
Phan Đặng Thông
19
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
I/ THÀNH PHẦN, SỰ PHÂN BỐ CỦA ĐÁ MÓNG:
Theo kết quả nghiên cứu đá móng bồn trũng Cửu Long, chúng bao gồm
Granitoid chiếm phần lớn Granodiorit, Quartzit Monzodiorit, Diorit, Quarzt
Diorit Granit, Quarzit monzonit, Monzonit Bazan, Andezit các đai mạch Diaba
và các đá biến chất chúng phân bố ở các nơi khác nhau ở trong bồn trũng. Đá
móng ở bể Cửu Long được thành tạo bởi nhiều pha khác nhau, có tuổi khác
nhau nên thành phần cũng khác nhau.Trải qua quá trình hoạt động kíên tạo rất

phức tạp, đá bò chia cắt thành rất nhiều các khối khác nhau với các đứt gãy kiến
tạo có phương chủ yếu phát triển theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, một ít theo
hướng Đông - Tây và các hướng phụ khác với quy mô và cường độ khác nhau.
Chính quá trình này tạo nên các đá biến chất nhiệt động mà đá ban đầu là
Granitoid.
Đá nứt nẻ biến đổi mạnh là do hoạt động kiến tạo các khoáng vật thuỷ
nhiệt tự sinh như Zeolit và Canxit lấp đầy các lỗ rỗng và khe nứt ( Nguyễn
Xuân Vinh ,1999). Đá phong hoá xuất hiện khi khối móng nhô lên mặt đất và
chòu tác động của nước bề mặt.Sau một thời gian dài đá móng mài mòn và biến
đổi một cách mạnh mẽ do các hoạt động vật lý, hoá học, và có thể có cả sinh
học. Cụ thể các khoáng vật không bền vững như Fenspat, các khoáng vật màu (
Biotit, Hoclen…), Zeolit là những khoáng vật dễ bò biến đổi ở các đới nứt nẻ
trong móng Bạch Hổ, chúng bò hoà tan từng phần hay hoàn toàn hoặc bò thay
thế sét Clorit, kaolinit.Trong các đá bò biến đổi mạnh, các khoáng vật bò hoà tan
tạo ra các hang hốc hoặc làm mở rộng các khe nứt có sẵn ở gần mặt nước thì các
khoáng vật sét lấp đầy như Clorit và Kaolinit chúng có mặt hầu hết ở phần trên
của móng. Chúng bao phủ các tinh thể Fenspat và các khoáng vật khác hoặc
lấp đầy các nứt nẻ. Khoáng vật Manhetit thứ sinh sản phẩm của quá trình Oxi
Phan Đặng Thông
20
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
hoá cũng xuất hiện ở một số mẫu dưới dạng lấp đầy các nứt nẻ.Các khoáng vật
không bền bò dung dòch thuỷ nhiệt hoà tan, các khoáng vật có xu hướng tích tụ
thành những khoáng vật thứ sinh, nó có thể thay thế bởi những khoáng vật
chính( TRỊNH XUÂN CƯỜNG, tạp chí Dầu khí số 5 – 2002 ) phổ biến là Zeolit
(Laumonit, Ankacime, Mordenite), canxit quartzit, Kaolinit, Clorit, anbit và
epidot, pyrit. Các khoáng vật Sunfua kim loại kẽm đồng, bạc cũng xuất hiện
phân tán trong các nứt nẻ và lỗ rỗng.
II/ ĐĂC ĐIỂM THẠCH HỌC – KHOÁNG VẬT ĐÁ MÓNG CỬU
LONG:

ª Khái quát về các đặc diểm thạch học đá móng:
Kết quả phân tích thạch học, thạch đòa hoá, tuổi đồng vò phóng xạ và sự
liên hệ đối sánh các đá móng được nghiên cứu ở lục đòa đã xác nhận rằng các
đá móng ở đây được cấu tạo bởi các phức hệ Hòn Khoai có tuổi Triat muộn ;
Đònh Quán có tuổi Jura muộn và Cà Ná có tuổi Kreta muộn. Ngoài ra không
loại trừ khả năng tồn tại của các phức hệ Hải Vân (tuổi Triat muộn – bậc Nori ),
Đèo Cả (tuổi Kreta ), (Võ Năng Lạc, Mai Thanh Tân, Đặng Văn Bát, Phạm
Huy Long – Hội Nghò Khoa Học Ngành Dầu Khí 20 năm xây dựng và tương lai
phát triển - Hà Nội 1997)
Phức hệ Hòn Khoai được phân bổ phía Bắc mỏ Bạch Hổ. Các đá của
phức hệ này bao gồm 2 pha xâm nhập chính :
Pha 1 gồm Granodiorit biotit sáng màu hạt nhỏ, trung, kiến trúc hạt nửa
tự hình, cấu tạo khối. Thành phần khoáng vật bao gồm plagioclas (30- 45%),
Fenspat kali ( 25 – 28%), Thạch anh ( 20-28%), Biotit (4-10%). Các khoáng vật
phụ hay gặp là Apatit, quặng, đôi khi có Octhit và Sphen.
Phan Đặng Thông
21
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
Pha 2 có thành phần là Granit biotit sáng màu hạt nhỏ – trung; kiến trúc
hạt nửa tự hình, cấu tạo khối. Thành phần khoáng vật bao gồm plagioclas (30-
40%), Fenspat (27-33%), Thạch anh (28-34%), Biotit (3-7%). Các khoáng vật
phụ hay gặp là Apatit, Manhetit,đôi khi có Sphen. Tuổi xâm nhập của phức hệ
được giả đònh là sát trước Triat muộn dựa trên kết quả phân tích tuổi tuyệt đối
của 2 mẫu cho giá trò 207 và 245 triệu năm,khá phù hợp với thành tạo xâm nhập
cùng đặc điểm phát triển ở khu vực Hòn Khoai có giá trò tuổi tuyệt đối là 208
triệu năm.
Phức hệ Đònh Quán phân bố khá rộng rãi ở khu vực trung tâm của mỏ
Bạch Hổ và có khả năng phân bố ở đòa hình nâng cao nhất thuộc gờ nâng Trung
tâm của bồn trũng Cửu Long.Quá trình thành tạo các đá được chia thành 3 pha
xâm nhập:

*Xâm nhập đầu với thành phần thạch học bao gồm diorit thạch anh,
diorit thạch anh-biotit-hocblen và diorit horblen – biotit. Các đá có màu từ xám
sáng đến xám tối, đôi khi phớt xanh, hạt trung đến nhỏ – trung. Kiến trúc hạt
nửa tự hình, cấu tạo khối. Thành phần khoáng vật bao gồm :plagioclas (60-
70%), fenspat kali ( 0- 0,5%), biotit (5-15%), horblen (0-18%). Các khoáng vật
phụ hay gặp có Apatit, Sphen và Quặng, đôi khi có Zircon.
*Pha 2 là pha xâm nhập chính, chiếm hầu hết khối lượng của phức hệ với
thành phần thạch học chủ yếu là: Granodiorit biotit, Granodiorit-biotit-hocblen,
Granodiorit-biotit-hocblen-pyroxen. Các đá có màu xám sáng, xám trắng lốm
đốm.Kiến trúc hạt nửa tự hình, cấu tạo khối. Thành phần khoáng vật bao gồm
:Plagioclas (40 – 55%), fenspat kali (15-25%), thạch anh (15-25%), biotit (2-
10%),horblen (0-20%),pyroxen (0-5%). Các khoáng vật phụ hay gặp là Apatit,
Sphen, Zircon, Quặng (manhetit).
Phan Đặng Thông
22
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
*Pha 3 phân bố rất hạn chế với thành phần thạch học là plagiogranit
biotit. Tuổi xâm nhập của phức hệ được xếp vào Jura muộn trên cơ sở phân tích
tuổi tuyệt đối của 2 mẫu có giá trò là 134 và 149 triệu năm, khá phù hợp với các
thành tạo xâm nhập cùng đặc điểm phát triển đới Đà Lạt cho các giá trò tuyệt
đối là 140 và 153 triệu năm.
Phức hệ Ankroet, thành phần thạch học các đá của pha xâm nhập gồm có
Granit sáng màu, granit 2 mica và granit biotit. Các đá đều có màu xám sáng,
xám trắng,phớt hồng, hạt trung hay nhỏ – trung không đều. Kiến trúc hạt nửa tự
hình, đôi chỗ có kiến trúc vi khảm hay vi pecmatit, cấu tạo khối. Hàm lượng của
các khoáng vật : Oligiocla 25- 35%, fenspat kali (microlin )25-35%, thạch anh
28-40%, biotit 2-10% , muscovic 0-4%.Các khoáng vật phụ gồm có Apatit,
orthit, zircon, granat, quặng. Tuổi của các phức hệ được giả đònh là Kreta muộn
dựa trên cơ sở phân tích tuổi tuyệt đối của 3 mẫu có giá trò 93, 108, 108 triệu
năm.

Như vậy các đá móng của trũng Cửu Long gồm các phức hệ magma có
tuổi khác nhau. Các phức hệ có tuổi trẻ hơn xuyên cắt các phức hệ đã được hình
thành từ trước : phức hệ Đònh Quán xuyên cắt phức hệ Hòn Khoai , phức hệ Cà
Ná lại xuyên cắt phức hệ Hòn Khoai và ĐỊnh Quán. Phức hệ Đèo Cả lại xuyên
cắt các phức hệ trên. Sự xuyên cắt phức tạp đó đã tạo nên ranh giới biến đổi
xung quanh đới tiếp xúc giữa các thể magma xâm nhập. Đó cũng là những đới
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ dầu khí. Đới tiếp xúc giữa các thể
magma xâm nhập là những phá huỷ nội ngoại tiếp xúc.
Phan Đặng Thông
23
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
ª PHÂN LOẠI CÁC ĐÁ MÓNG :
A/NHÓM MAGMA:
1_Đá magma xâm nhập:
Nhóm Granitoid:
Gồm các đá magma ( 68-73% SiO
2
). Nhóm này thành phần axit bao gồm
các đá Granit, Granodiorit, chúng được xếp vào các phức hệ Đònh Quán và
Ankroet có tuổi từ Triat muộn đến Kreta muộn.
+ Granit :
Phân bố ở trung tâm và một phần phía Bắc mỏ Bạch Hổ và cũng gặp ở
mỏ Rồng, mỏ Ruby và ở Rạng Đông. Thành phần khoáng vật bao gồm: Thạch
anh thay đổi từ 20- 35%, Fenspat K từ 20-40%. Các khoáng vật màu chủ yếu là
Biotit, muscovic thay đổi từ 2-15%. Các khoáng vật phụ thường gặp là Apatit,
Zircon, rutin,…
Nhóm đá này bò biến đổi bởi quá trình phong hoá tạo ra một số khoáng
vật như Kaolinit, ilnit…. Đồng thời cũng biến đổi do quá trình thuỷ nhiệt tạo ra
một số khoáng vật mới như Zeolit và canxit…
Đặc biệt Granit ở đây đều gặp các đai mạch Bazan hay Andezit xên

cắt đôi khi là lớp phủ trên bề mặt, có tuổi trẻ( Oligoxen- Mioxen hạ )
Kết quả nghiên cứu ở nhiều giếng khoan cho thấy độ rỗng vi khe nứt
trong đá biến đổi từ 0,1 – 7% trung bình biến đổi từ 2-3%. Tuy nhiên, độ rỗng
chung của đá tuỳ thuộc vào mức độ đứt gãy của khu vực mạnh yếu khác nhau.
+Quarz- monzonit và monzonit:
Nhóm này cũng xuất hiện ở các mỏ Rồng, Bạch Hổ, Rạng Đông…Thành
phần của đá bao gồm Plagioclas từ 30-40%, Fenspat K từ 25-30%, thạch anh từ
2-5%, biotit 5-8% đôi khi gặp Horblen. Nhóm đá này cũng như nhóm Granit bò
Phan Đặng Thông
24
Khoá Luận Tốt Nghiệp GVHD: Phan Văn Kông
ảnh hưởng của phong hoá và biến đổi tạo thành các khoáng vật thứ sinh và củng
bò nứt nẻ và xuyên cắt bởi các đá Bazan, Andezit.
+Granodiorit :
Ở bể Cửu Long đá Granodiorit được phát hiện ở 11 giếng khoan phân bố
ở vòm Nam và ở một vài giếng khoan ở trung tâm mỏ Bạch Hổ, Rồng… Các đá
này có thành phần thạch học chủ yếu là Plagioclas 40-60%, Fenspat K 13-28%,
thạch anh 18-24%. Các khoáng vật màu chủ yếu là biotit 4-10%, Horblen 0-
15%, còn gặp các khoáng vật phụ như Granat, sphen, apatit, zircon, rutin và
tourmalin. Ở đây do hoạt động phong hoá nhiệt dòch đã tạo ra một số khoáng
vật thứ sinh như Kaolinit, ilnit.,chúng là sản phẩm biến đổi trong quá trình
phong hoá của các đá Orthocla, Plagioclas. Đồng thời cũng có mặt của Clorit do
sự biến đổi từ các khoáng vật màu như biotit, horblen…. Cũng như phức hệ đá
Granit trong phức hệ đá Granodiorit và Quart monzodiorit hay diorit, quartz
diorit thường gặp các đai mạch andezit, bazan xuyên cắt lấp đầy khe nứt- đứt
gãy hoặc thuộc các pha muộn thành tạo trong quá trình xảy ra các đứt gãy kiến
tạo.
+Quartz monzodiorit :
Chúng phân bố ở mỏ Rồng, Bạch Hổ, thành phần khoáng vật chúng bao
gồm Plagioclas 45-75%, thông thường 55-70%, Fenspat K 10-28%, thạch anh

10-17%, các khoáng vật màu bao gồm biotit 5-8%, horblen 0-18%. Hàm lượng
sét tương đối lớn.
+Diorit:
Phát hiện nhiều ở trung tâm và vòm Bắc của mỏ Bạch Hổ. Chúng cũng
gặp nhiều ỏ mỏ Rồng. Thành phần khoáng vật của chúng bao gồm Plagioclas
Phan Đặng Thông
25

×