Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

một số bài văn mẫu lớp 12 học kì 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.73 KB, 11 trang )

Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12

VỢ CHỒNG A PHỦ
- TÔ HOÀI –
* Mở bài 1
Sau tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, vốn sống phong phú và tình cảm với đồng bào đã
giúp Tô Hoài hoàn thành tập truyện ngắn xuất sắc- Truyện Tây Bắc (1953). Tập truyện này sau đã được
tặng giải Nhất Giải thưởng của Hội Văn Nghệ VN 1954-1955. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay nhất
trong truyện ngắn này. Tác phẩm phản ánh những cuộc đời cực khổ, bị xúc phạm cả thể xác lẫn tâm hồn
nhưng vẫn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt của một người dân Tây Bắc. Sức sống tiềm tàng ấy đưa họ đến
với CM.
* Mở bài 2:
Mảng truyện viết về miền núi được xem là một phần sáng tác đặc biệt của Tô Hoài. Ông đã lên Tây Bắc
từ những năm 1947, tâm hồn ông đã để lại nơi đây một tình cảm thiêng liêng, ruột thịt. Theo dòng sáng tác
này có thể giúp chúng ta nhận thấy sự trưởng thành rõ nét của nhà văn về cả quan niệm và bút pháp nghệ
thuật. Hình ảnh Tây Bắc lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi, ông tâm sự. Có lẽ
cũng vì thế mà chỉ tám tháng cùng bộ đội vào giái phóng Tây Bắc, Tô Hoài đã có một chuyến đi để nhớ để
thương với mảnh đất này. Vốn sống phong phú, sự nhạy cảm đặc biệt của một nhà văn vào đời sớm và tình
cảm đặc biệt với đồng bào nơi đây đã giúp Tô Hoài hoàn thành tập truyện ngắn xuất sắc Truyện Tây Bắc
(1953). Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay nhất trong tập truyện này. Truyện khiến người đọc day dứt, ám
ảnh về những thân phận bị xúc phạm, bị đày đọa; truyện gieo vào người đọc một niềm hi vọng về sức sống
tiềm tàng của người dân Tây Bắc trong cái cùng quẫn của cuộc sống.
Với cảm hứng nhân văn sâu sắc, sự trải nghiệm và tình yêu đặc biệt với con người nơi đây, ông đã khám
phá đến tận cùng những cuộc đời, những thân phận đau khổ của con người, đặc biệt là những người phụ nữ
Tây Bắc. Mị là nhân vật chính của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, điển hình cho người dân nghèo miền núi bị
tước đoạt hết quyền làm người, rơi vào tình trạng mê muội thê thảm. Thân phận những người phụ nữ như
Mị khiến chúng ta nhìn thấu được tận cùng xã hội bóc lột miền núi dã man, tăm tối.
• Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: Mị là cô gái trẻ, đẹp, yêu đời, khao khát tự do nhưng vì
món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra ( dẫn chứng). Lúc đầu Mị
chút phản kháng ( khóc hàng tháng liền, trốn về quỳ lại bố xin được chết để thoát khỏi kiếp trâu
ngựa…) Vì thương bố mà Mị phải vứt nắm lá ngón, và cũng từ khi vứt nắm lá ngón quay trở về nhà


thống lí, cuộc đời Mị thăm thẳm trong bóng tối và mê muội.
• Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra Mị bị hành hạ về thể xác, bị đầu độc tinh thần, rơi vào tình
trạng mê muội thê thảm:
- Mị bị đầu độc về thần quyền bởi linh hồn Mị bị đem trình ma nhà thống lí rồi . Mị không thể chạy
đây cho thoát, Mị sẽ kéo lê cái thân phận khốn khổ của mình cho đến tàn đời ở đây. Mác cho rằng thần
quyền là thứ thuốc phiện tinh thần, nó đầu độc con người, trói buộc họ, làm họ trở nên tê liệt ý thức,
không biết phản kháng. Thần quyền ru ngủ con người trong trạng thái khiếp nhược, khiến họ tự nguyện
cam phận, chịu đựng. Mị cũng như những người đàn bà khác trong nhà thống lí Pá Tra, khi làm ma nhà
nó thì chỉ còn đợi ngày chết rũ xương ở đây mà thôi Hình ảnh Mị, hình ảnh những người đàn bà bị trói
đứng trong nhà, hình ảnh người chị dâu lưng còng rạp xuống đất…cho chúng ta thấy thật thảm thương số
kiếp người phụ nữ trong chế độ bóc lột miền núi.
- Mị bị hành hạ thể xác bởi cường quyền. Mang danh là con dâu nhà giàu nhưng Mị bị bóc lột hết
sức tàn nhẫn. Trong gia đình này Mị không được xem là một con người. Mị làm việc không được nghỉ
ngơi ( con trâu con ngựa làm có lúc, có đêm nó còn được gãy chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì
vùi vào làm việc cả đêm lẫn ngày.). Sức lao động của những kẻ tôi tớ như Mị bị vắt kiệt ( dù lúc đi hái
củi, bung ngô, lúc nào cũng gài sẵn một bó đai trong tay để tước thành sợi. Bao giời cũng thế, suốt năm
suốt đời cũng thế…). Mị bị biến thành công cụ lao động, trở thành nô lệ không công cho nhà thống lí.
Trang 1
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
- Sự hành hạ về thể xác, sự đầu độc bởi thần quyền khiến Mị rơi vào tình trạng mê muội thê
thảm. Mị sống trong môi trường lạnh băng không có tình người, tối tăm ngột ngạt mà không thấy được
điều đó. Những khát vọng cao cả, tốt đẹp dần bị bào mòn đi trong căn buồng tối đen có cái cửa sổ bằng
bàn tay lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng đó.
-> Căn buồng Mị là một thứ ngục thất giam cầm một tù nhân. Ở căn buồng ấy Mị không ý thức được
thời gian tồn tại của chính mình. Mị sống mà như đã chết, không có qúa khứ, hiện tại và tương lai. Hình
ảnh ấy nói lên cuộc sống đầy đau khổ, bất hạnh, ngưng động, khép kín của Mị.Nó đã cách li Mị với cuộc
đời, nó cầm cố tuổi xuân và sự sống của Mị.
- Cái đáng sợ hơn cả là Mị quen với cái khổ, Mị không còn nghĩ đến cái chết, không còn chút phản
ứng vùng vẫy nào để giải thoát cho số phận. Điều đó cũng có ý nghĩa là cuộc sống hiện tại chẳng có chút
ý nghĩa nào với Mị. Mị trở thành kẻ mất ý thức về cuộc đời mình, sống kiếp con rùa nuôi trong xó cửa, tự

xem mình là trâu ngựa, chỉ biết ăn no cỏ và đi làm mà thôi.
Sức tố cáo thật mãnh liệt, sâu sắc qua tình trạng đáng thương của mị. Cái khổ của Mị là cái khổ chung
của tất cả những người nghèo ở Hồng Ngài. Hết đời này sang đời khác, quy luật bần cùng hóa của con
người là quy luật phổ biến trong xã hội cũ.
* Bị đọa đày, bị bóc lột nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Trong đêm tình
mùa xuân chúng ta vẫn nhận ra một cô Mị đầy khát vọng, đầy ý thức về bản thân như ngày nào.
- Soi rọi vào tận cùng bản chất nhân vật. Tô Hoài phát hiện ra rằng thế lực tàn bạo không bao giờ có
thể tiêu diệt được sức sống của con người. Lòng nhân ái đã giúp ông có những trang viết xuất thần về sức
sống bất diệt của nhân vật mà ông đặt biêt yêu thích. Trong không gian tưng bừng của sắc xuân và ngày
tết. Sự biến động tâm lí diễn ra dưới nhiều tác động. Mùa xuân trên rẻo cao được miêu tả rất đẹp, sắc màu
của những chiếc váy hoa, tiếng ầm ĩ từ tiếng chiêng cúng ma, đặc biệt là tiếng sáo da diết , xoáy sâu vào
trái tim tưởng như đóng băng của Mị. Ngoại cảnh đã làm thức dậy trong Mị ý thức về tình yêu và hạnh
phúc.
- Tâm lí Mị bắt đầu biến động. Mị uống rượu, hành động lén mà cách uống ừng ực từng bát. Cô uống
như dồn nén uất hận, như để quên đi cái phần đời cay đắng đã qua, để sống lại mạnh mẽ cái phần đời tươi
trẻ đã có. Chỉ có say mới giúp Mị sống về những ngày trước, ngày Mị còn trẻ đẹp, tự do. Tiếng sáo văng
vẳng gọi bạn đầu làng là âm thanh nửa thực nửa hư, nửa hiện tại, nửa quá khứ . Mị tỉnh rượu, chạnh lòng
nghĩ đến hiện tại, một hiện tại bị đày đọa và mất tự do. Mị vẫn còn trẻ, Mị mốn đi chơi, Mị nghĩ đến nắm
lá ngón, Mị ứa nước mắt
=> Qua tâm trạng phức tạp ấy, Tô Hoài nhận ra ý thức đang sống dậy một cách mãnh liệt trong Mị. Mị
nhận ra thân phận của mình ( còn trẻ đẹp), Mị nhận ra tình trạng mất tự do ( không được đi chơi). Đã từ
lâu Mị không còn nghĩ đến cái chết, vô cảm trước thực tại; giời đây Mị ứa nước mắt trước thực tại ấy.
- Tiếng sáo dẫn dắt Mị đến với sự thăng hoa kì lạ. Tô Hoài đã thông qua hành động đã khám phá sự
thay đổi tâm lí nhân vật Mị. Mị quấn lại tóc, đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng, Mị với tay lấy cái váy hoa…những câu văn ngắn thể hiện hàng loạt hàng động nhanh,
mạnh, dứt khoát; đó là biểu hiện của sự trỗi dậy mạnh mẽ của tâm lí không có gì ngăn cản được.
- A Sử trói Mị thật tàn nhẫn trước khi đi chơi vậy mà Mị như không hề hay biết mình đang bị trói. Mị
vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi, Mị vùng bước đi. Hành động vùng
bước đi cho thấy Mị hoàn toàn sống trong tâm tưởng. Cái đau nhắc Mị trở về với hiện tại, cũng là lúc
tiếng sáo tắt lịm. Mị nhận ra thân phận của mình, Mị thổn thức nghĩ ra rằng mình không bằng con trâu,

con ngựa. Khi Mị thấy mình không bằng con trâu, con ngựa cũng có nghĩa là ý thức về cảnh ngộ và số
phận trở lại trong Mị. Suốt cả đêm hôm ấy Mị bị trói đứng, trong chút hơi men nồng nàn, trong tiếng sáo
của người lỡ hẹn, trong tiếng chó sủa xa xa…. Mị sống trong tâm lí nửa mê, nửa tỉnh; để rồi sáng hôm
sau bàng hoàng tỉnh trong không gian yên ắng, Mị nhận ra một quy luật: đời người đàn bà lấy chồng nhà
giàu ở Hồng Ngài một đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa nhà chồng.
=> Đoạn văn miêu tả tâm lí Mị trong đêm tình mùa xuân là đoạn văn đặc sắc. Tâm lí phức tạp, đầy biến
động của Mị được khám phá., miêu tả qua âm thanh tiếng sáo. Tiếng sáo như một âm thanh kì lạ, len lỏi
vào tận sâu tâm hồn vốn câm lặng của Mị để khám phá, để cứu vớt, để thức tỉnh cô thoát ra khỏi cõi u mê.
Trang 2
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
- Sau đem tình mùa xuân ấy, Mị trở lại câm lặng, lầm lũi như trước. Những đêm tình mùa đông trên núi
cao dài và buồn, bếp lửa là bạn của Mị. Mị thường dậy thổi lửa, hơ tay, thản nhiên với tất cả những gì
diễn ra xung quanh cô.
- Đêm ấy cũng như tất cả những đêm mùa đông khác. Mị dậy thổi lửa khi trong nhà đã ngủ yên. Cái yên
tĩnh của không gian khi gần sáng, cái tĩnh lặng trong tâm hồn Mị chỉ thực sự lay động khi cô nhìn thấy
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại. Dòng nước mắt ấy đã đánh thức sự lạnh lùng
trong Mị, làm ấm nóng trái tim băng giá của Mị. Dòng nước mắt thống khổ và bất lực của A Phủ đưa Mị
từ cõi quên về cõi nhớ. Để Mị nhớ ra rằng đêm năm trước ASử cũng trói Mị, Mị khóc…. Mị thương mình,
Mị căm thù bọn độc ác , Mị thương A Phủ, Mị thương những người cùng cảnh ngộ chỉ đêm mai là người
kia chết, chết đau, chết đói, chết rét…, Mị phản phất nhận ra điều phi lí mà bao năm cô không nghĩ
đến.tình thương người đã giúp Mị không hề nghĩ đến cái chết, không hề sợ bị trói thay vào cái cột kia, cô
đã cắt dây trói cho A Phủ.
- Mị cũng không hề có ý định chạy trốn để thoát thân. Sau khi A Phủ quật sức vùng lên chạy, Mị đứng
lặng trong bóng tối. Một câu văn ngắn, một đonạ văn chùng lại miêu tả bao nhiêu xung đột trong lòng Mị.
Một sự hụt hẫng, một sự sợ hãi, một chút thức tĩnh…tất cả khiến Mị vụt chạy. Hành động diễn ra rất
nhanh. Trong không gian tối tăm, Mị vẫn băng đi, vẩn đuổi kịp, đã lăn, chạy Lúc này Mị ý thức được
việc làm của mình: ở đây thì chết mất! vì lòng nâhn ái, Mị cứu Aphủ; vì sợ chết- phản ứng tự nhiên của
một con người.
=> Tình huống diễn ra thật bất ngờ, tự nhiên nhưng vẫn hợp lô gích, hợp với sự phát triển tính cách nhân
vật. Mị trong hành động cắt dây trói cho A Phủ và chạy theo để giải thoát cho cuộc đời mình phù hợp với

một cô gái đầy khát vọng tự do của quá khứ ngày nào. Hành động này có ý nghĩa quyết định bước ngoặc
trong cuộc đời Mị. Thoát khỏi nhà thống lí PáTra, thoát khỏi Hồng Ngài là thoát khỏi số phận làm nô lệ
không công tủi nhục. Đêm đen cuộc đời Mị khép lại, cô đến được với ánh sáng cách mạng, có hạnh phúc
và tự do ở mảnh đất Phiềng Sa. Qua nhân vật này, tác giả thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt
đẹp của những số phận đau khổ, vào khả năng tự thay đổi số phận của chính họ.
* Cùng thân phận bị bóc lột như Mị là A Phủ. A Phủ có số phận éo le, là nạn nhân của hủ tục lạc
hậu và cường quyền phong kiến miền núi ( mồ côi cha mẹ, lúc bé đi làm thuê hết nhà này đến nhà
khác, lớn lên nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ) nhưng là người có sức khỏe phi thường “ chạy nhanh
như ngựa”, dũng cảm, yêu tự do, yêu lao động; có sức sống tiềm tàng mãnh liệt…
-Trước khi rơi vào nhà Pá Tra, cuộc đời A Phủ nghèo nhưng vẫn tự do, không bị ràng buộc bởi bất
cứ mối quan hệ nào. Con người tự do và ngang tàng như A Phủ vậy mà cuối vẫn rơi vào nhà thống lí Pá
Tra một cách bất khả kháng. Con đường trở thành nô lệ cho nhà giàu là con đường tất yếu của người
nghèo ở Hồng Ngài. Tác giả tập trung vào cảnh xử kiện và cảnh mất bò để làm rõ quá trình trở thành nô
lệ của A Phủ diễn ra thật nhanh và vô lí như thế nào.
+ Cảnh xử kiện nhấn mạnh vào sự tàn bạo độc ác của kẻ thù và cho thấy sự bất lực, bất khả kháng của
người nghèo yếu thế. Tác giả tập trung vào cảnh A Phủ bị đánh ( lại bị người xô đến đánh mỗi lần hút
xong thuốc phiện, đánh suốt đêm, càng tỉnh, càng đánh…) Con người ngang tàng như A Phủ mà phải
nhẫn nhục quỳ chịu đòn, chỉ im như tượng đá. A Phủ bị xử phạt nặng nề và vô lí. Một trăm đồng bạc
trắng gồm tiền cho người đánh, tiền hút, tiền mổ lợn cho các quan ăn vạ… là cái cớ để một chàng trai tự
do như A Phủ trở thành con ma nhà thống lí Pá Tra. Khi Pá Tra khấn gọi con ma về nhận mặt cũng có
nghĩa là cuộc đời A Phủ mất tự do.
- Khác với Mị, khi đã chấp nhận làm nô lệ trả nợ cho nhà giàu, A Phủ không mê muội mà vẫn luôn thể
hiện là một chàng trai gan góc, có bản lĩnh. A Phủ dám làm những việc khó khăn, vẫn dám cãi lại Pá Tra,
đòi đi bắt hổ để trừ tội. Khi bị trói, anh nhay đứt mấy vòng dây trói, chỉ đến khi quẳng thêm một thòng
lọng vào cổ mới chịu đứng yên bất lực chờ chết. Được Mị cứu trong tình thế bất lực, A Phủ đã cùng Mị
đến Phiềng Sa và thực sự được sống nmột cuộc đời tự do.
Qua cuộc đời hai nhân vật chính Mị và A Phủ, Tô Hoài đã miêu tả chân thực số phận cực khổ của
người dân nghèo, phản ánh một cách sâu sắc bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi. Hình
ảnh kẻ thù mặc dầu không xuất hiện trực tiếp nhưng sức tố cáo thật mạnh mẽ qua số phận của những
Trang 3

Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
người ở trong gia đình Pá Tra. Họ bị bóc lột, hành hạ thể xác đến cùng kiệt, bị đày đọa, hủy diệt tinh thần
đến mê muội, mất ý thức…trong nỗi khiếp sợ của Mị cho chúng ta thay61 sức mạnh của cường quyền và
thần quyền thật đáng sợ.
Thông qua cuộc đời Mị và A Phủ, Tô Hoài diễn tả thật sinh động qua 1trình thức tỉnh vươn tìm ánh sáng
Cách mạng của người dân nghèo Tây Bắc. Quá trình đó là quy luật ấtt yếu, một khi người nghèo bị áp
bức quá độ họ sẽ tự tìm con đường giải thoát cho chính mình, chỉ có con đường đến với cách mạng mới
thực sự là con đường đem đến hạnh phúc cho họ. Đây là một vấn đề mới mẻ trong giá trị hiện thực của
tác phẩm Vợ chồng A Phủ nói riêng và những tác phẩm văn xuôi cách mạng nói chung. Tô Hoài là nhà
văn của người thường, của chuyện thường,của đời thường ( Nguyễn Đăng Mạnh)- những con người của
đời thường, những câu chuyện thường đã tạo nên những điều đặc biệt cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ của
Tô Hoài.
VỢ NHẶT
KIM LÂN
1. Đề : Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt để thấyh rõ tài năng và
tấm lòng của nhà văn trong việc phát hiện và mô tả con người.
*Mở bài:
- Kim Lân là nhà văn viết ít song viết rất thành công ở lĩnh vực truyện ngắn. Ông được coi là nhà văn “Một
lòng đi về với đất với người, với thuần hậu và nguyên thủy của cuộc sống” (Nguyên Hồng)
-Truyện ngắn Vợ Nhặt được viết lại từ một phần của cuốn tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Tuy viết về những con
người nghèo khổ trong nạn đói năm 1945 song mục đích của Kim Lân lại làm bật lên vẻ đẹp đạo đức của
con người trước thử thách khắc nghiệt của cuộc sống.
- Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ tiêu biểu cho hướng khai thác đó của nhà văn trong tác phẩm. Qua nhân vật
Kim Lân đã thể hiện tấm lòng và tài năng của ông trong khai thác và mô tả con người
*Thân bài:
1) Giới thiệu khái quát về nhân vật:
- Là một người đàn bà khốn khổ: già cả, nghèo khổ, góa bụa nên không thể và không dám nghĩ đến chuyện
lấy vợ cho con
- Xuất hiện muộn song là nhân vật được nhà văn đầu tư tài năng và tâm huyết để khắc họa tính cách. Bà cụ
mang tính cách của một bà mẹ nông dân nghèo, từng trải trong cuộc sống và cũng rất mực thương con: chất

phác, hiền hậu, nhân từ và cũng rất sâu sắc trong tình người.
-Xung quanh chuyện Tràng có vợ tâm trạng bà cụ Tứ rất phức tạp song cũng rất logic, rất nhất quán: đều
xuất phát từ tình mẹ thương con
2) Diễn biến tâm lí nhân vật
a)Tâm trạng bà cụ Tứ trong buổi chiều tối hôm trước:
- Ngạc nhiên: Lí do là vì có người đàn bà lạ trong nhà, lại đứng ở đầu giường anh con trai và chào bà bằng
u.Sự ngạc nhiên khiến bà cụ không tin vào những gì mình nghe thấy, nhìn thấy.Qua thái độ ngạc nhiên của
bà cụ, có thể thấy cái ghê gớm, khủng khiếp của nạn đói khi làm mất đi ở bà cụ khả năng nhạy cảm thông
thường của một người mẹ có con đến tuổi lập gia đình.
- Khi vỡ lẽ, tâm trạng bà diễn biến khá phức tạp: vừa vui, vừa lo, vừa mừng, vừa tủi.
-Tâm trạng nặng nề với sự đan xen của những cảm xúc phức tạp:
+ Buồn tủi vì bổn phận bà là mẹ mà không thể giúp gì cho các con khi cảnh nhà nghèo khó, vì sự thua thiệt
của các con trong cảnh ngộ ấy và bà còn hiểu rằng cuộc hôn nhân này cũng chỉ là bất đắc dĩ ”người ta có
gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Nỗi buồn
tủi làm bà nghẹn ngào rơi nước mắt.
+ Thương và lo cho các con : thương con dâu cũng nghèo khổ,đói khát, thương con trai lấy vợ lúc đói
quay đói quắt. Lo cho tương lai các con” chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”, “có nuôi nổi nhau
Trang 4
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
sống qua được cơn đói khát này không”. Trong căn nhà tối tăm, lòng bà cụ như cũng tối sầm lại với những
ý nghĩ u ám đau khổ.
+ Niềm vui, niềm hi vọng : Vui vì con trai đã lấy được vợ.Lúc đầu niềm vui ấy tưởng không cất lên được vì
sự đè nặng của cái đói, cái nghèo, bởi nổi buồn tủi nên nó thật tội nghiệp, thật xót xa. Nhưng sau đó nó trở
thành một niềm vui thật sự.Tất nhiên, vì thương con mà bà cụ vui,vui để xua tan cái không khí nặng nề,
buồn thảm của gia đình.niềm vui bắt đầu được khơi lên bằng một hi vọng “ai giàu ba họ ai khó ba
đời”,“rồi ra mai mà ông trời cho khá”,”có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.Niềm vui được củng cố,
nâng đở bởi ánh sáng ngọn đèn Tràng thắp lên trong ngôi nhà “Thấy sáng, bà cụ vội vàng lau nước
mắt,ngẩn lên”. Niềm vui được biểu hiện mộc mạc kín đáo mà tinh tế trong lới nhắc nhở :”Hôm nào nghỉ ở
nhà kiếm ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ”. Đó là sự trân trọng nâng niu hạnh phúc của vợ chống
đưa con ở một bà mẹ quê mùa nhưng rất giàu tình cảm.

- Bà lão mở lòng đón nhận, cảm thông cho nàng dâu mới đói khổ “bà lão nhìn người đàn bà nghèo khổ
lòng đầy thương xót- nó bây giờ là con trong nhà rồi”. Bà lão nhỏ nhẹ “con ngồi xuống đây, ngồi xuống
đây cho đõ mỏi chân”.
b)Tâm trạng bà cụ Tứ trong buổi sáng hôm sau:
-Những buồn đau lo lắng qua đi, chỉ còn lại sự tin tưởng , hi vọng và niềm vui được biểu hiện ra ở cái dáng
vẻ, nét mặt, lời nói và việc làm.
-Cơ sở của sự thay đổi này : Bầu không khí mới của gia đình được tạo nên từ một vẻ sạch sẽ của sân vườn,
vẻ gọn gàng ngăn nắp của đồ đạc, vẻ ấm cúng của một không gian có sự sống và sự gắn bó giữa mỗi thành
viên.
-Những chi tiết đặc sắc : Câu chuyện mua đôi gà là câu chuyện về niềm tin. Nồi cháo cám là tấm lòng
người mẹ. Thái độ lời nói của bà cụ tạo không khí ấm cúng và ngăn giữ sự xâm lấn trở lại của những cảm
xúc ai oán, bi quan…Tất cả góp phấn làm nổi bật tấm lòng thương con và nghị lực sống ở người mẹ nghèo.
3)Đánh giá:
-Nghệ thuật: Kim Lân đã chọn được những chi tiết đặc sắc, sắp xếp một bố cục hợp lí, hoàn hảo để tạo được
logic và tính hợp lí của những biểu hiện, diễn biến tâm lí nhân vật. Việc tổ chức điểm nhìn trần thuật cũng
rất quan trọng:Nhìn từ bên ngoài để có những đánh giá khách quan; nhìn từ bên trong để diễn tả đến tận
cùng sự phức tạp của tâm lí và chiều sâu của những tình cảm, tâm sự, nỗi niềm trong lòng nhân vật.
-Tấm lòng nhà văn là tấm lòng thương yêu sâu sắc đối với con người. Tấm lòng ấy được biểu hiện một cách
phong phú ở sự cảm thông với những nỗi khổ, ở niền tin tưởng vào những phấm chất quý giá,ở tinh thần
khẳng định sức sống,khát vọng sống ở con người…Tất cả tạo nên chiều sâu nhân đạo cho nội dung tác
phẩm.
*Kết bài:
-Thông qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân trước hết đã thể hiện khả năng tái hiện và phân tích tâm
lí tinh tế,sắc sảo của một cây bút truyện ngắn xuất sắc.
- Qua việc phát hiện, ngợi ca những phẩm chất đẹp đẽ của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh đen tối, Kim
Lân cũng đã thể hiện một tinh thần nhân đạo mới mẻ và sâu sắc trong cách phát hiện và mô tả con người.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
MỘT SỐ LỜI BÌNH HAY VỀ TÁC GIẢ
1.Nguyễn Minh Châu ra đi khi “ tâm hồn sáng tạo đang độ chín. Chín trong sự yêu thương cảm thông với

những con người vẩt vả lam lũ, chịu nhiều hi sinh mất mát. Chín trong sự từng trải, hiểu biết được những gì
được mất, những nỗi niềm gần xa của các sự kiện đời sống trong thời chiến cũng như trong thời bình và
chín trong cả bút pháp với một giọng văn nhiều trắc ẩn” ( Lời nói đầu tập Cỏ lau). Ông ra đi còn để lại ngổn
ngang, dang dở những dự định sáng tác về vùng đất Quảng Trị từng bao năm lăn lộn, gắn bó, về làng Thơi
Trang 5
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
mảnh đất niền Trung nhọc nhằn “ mảnh đất và con người đã biểu đạt rõ nhất đời sống của con người và số
phận của dân tộc”. Nhưng bằng tài năng và tấm lòng, bằng một hành trình dẻo dai và gian khổ, bằng cả tâm
huyết và sự dũng cảm, Nguyễn Minh Châu đã để lại một di sản văn chương quý giá, một tấm gương sáng
tạo đáng trân trọng.
2. Cái đẹp trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu bao giời cũng ở dạng hiện hữu, là cái được rút ra từ
hiện thực, là cốt lõi tư tưởng của các quan hệ hiện thực, được chuyển hóa trong ý thức nghệ thuật và trở
thành cái đẹp mang tính tư tưởng thẩm mĩ. Phải nói, càng ngày cái đẹp từ những tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu càng biện chứng. Lúc đầu là cái đẹp từ trong cuộc sống, rồi đến cái đẹp được soi sáng từ cái
chưa đẹp trong cuộc sống, và trong những tác phẩm cuối cùng của ông, cái đẹp chính là bản thân cuộc sống
với đủ màu sắc, sáng – tối…trong đó kiếp người vĩnh hằng luôn luôn là đối tượng nhận thức và chiếu rọi
bằng nhiều thứ ánh sáng khác nhau.
VỀ TÁC PHẨM
1. Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường nhắc đến ba yếu tố: nhân vật, giọng điệu trần thuật và
tình huống truyện. Trong đó việc sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo đóng vai trò then chốt quyết
định thành công của tác phẩm. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng khẳng định: tình huống truyện được coi
như “ thứ nước rửa ảnh mà qua đó các nhân vật nổi hình nổi khối”. Chiếc thuyền ngoài xa sở dĩ được đánh
giá như tác phẩm xuất sắc bậc nhất không chỉ của Nguyễn Minh Châu mà cả văn xuôi Việt Nam sau 1975 là
bởi ở đây, tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện hết sức độc đáo: Tình huống nhận thức và khám
phá về cuộc sống và nghệ thuật của Phùng và Đẩu.
2. Nếu các sáng tác của Nguyễn Minh Châu thời chống Mĩ, theo quỹ đạo của văn học đương thời nhà văn
thường khơi nguồn cảm hứng từ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thì ở Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã
hướng vào nội dung đạo đức thế sự, những con người của đời thường trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm
tìm hạnh phúc. Những “hạt ngọc tâm hồn” không lồ lộ rõ ràng trong chớp lửa bom đạn mà lẩn khuất trong
vô vàn cát bụi thô nhám của cuộc đời nhiều sóng gió.

MỘT SỐ DẠNG ĐỀ THƯỜNG GẶP:
1. Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu.
* Mở bài:
- Giới thiệu chung về hình tượng người phụ nữ trong các sáng tác văn học sau 1945.
- Người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngòai xa của Nguyễn Minh Châu là một hình
tượng nghệ thuật ngợi nhiều suy nghĩ và xúc động. Đó là một người đàn bà ít học, xấu xí, lam lũ mà sâu sắc
và thấu hiểu lẽ đời, cam chịu nhẫn nhục mà thương con và giàu đức hi sinh.
* Thân bài
1. Một người đàn bà xấu xí, lam lũ, nghèo khổ:
- Ngoại hình : thân hình “ cao lớn”, “ thô kệch”, mặt đầy “ những nốt rỗ chằng chịt”. Những nét vẽ
nhanh chóng nhưng chân thực và cụ thể đã giúp Nguyễn Minh Châu kí họa nên chân dung một người đàn bà
xấu xí, chịu nhiều thiệt thòi về nhan sắc.
- Trang phục, dáng vẻ: “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc phết và rách rưới, nửa thân dưới ướt
sủng”. Mỗi một hình ảnh hiện ra lại là một sự hiện hữu của sự nghèo khổ, lam lũ, vất vả, nhọc nhằn. Nhân
vật dường như bước từ cuộc sống lấm láp, bụi bặm, đi thẳng vào trang văn của Nguyễn Minh Châu mà
không cần dụng công tô vẻ.
2.Một người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục:
- Ánh mắt khi sắp bị chồng đánh: “ đưa cặp mắt nhìn xuống chân”. Cái nhìn xuống đất đấy là một cái nhìn
đầy chịu đựng, đầy chấp nhận.
- Thái độ khi bị chồng đánh: không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy. Chị
đã không hề phản ứng, chị hoàn toàn câm lặng trước trận đòn tàn nhẫn của chồng. Phải chăng bị đòn quen
rồi chị trở nên trơ lì, hay vì tăm tối, dốt nát đến mức không còn biết ý thức về quyền sống của mình? Hoặc
Trang 6
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
cũng có khi vì một lí do nào đó chị đành âm thầm, lặng lẽ chịu đựng. Nhưng dù là vì sao đi nữa, thái độ ấy
cũng là biểu hiện của một sức chịu đựng phi thường, của sự cam chịu, nhẫn nhục kì lạ.
- Lời nói khẩn thiết van xin quý tòa: “ bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó’. Một
lời van xin đầy bất thường, chị không cầu cứu sự bảo vệ, giúp đỡ của mọi người giải thoát cho mình mà van
xin sẵn sàng đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ ông chồng vũ phu ấy.

3. Một người mẹ thương con và giàu đức hi sinh:
- Hành động gửi con lên ông ngoại: sẵn sàng chấp nhận xa con vì muốn gìn giữ và bảo vệ cho con.
- Đau đớn, xót xa khi làm tổn thương con. Khi chứng kiến cảnh con muốn bảo vệ mẹ mà đánh bố để rồi
nhận về hai cái tát, chị bàng hoàng thảng thốt cất tiếng gọi con “Phác, con ơi” trong nước mắt. Tiếng gọi
con trong câm lặng đó là tột cùng đau đớn và xót xa khi biết vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ
dạy.
- Lời giãi bày ở tòa án huyện:
+ “ Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.
Như vậy, lí do để chị không bỏ người chồng vũ phu kia, sẵn sàng chấp nhận những trận đòn đau đớn chính
là vì con. Tình yêu con vốn là bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ nhưng yêu con đến mức quên
mình, thương con trong nghịch cảnh của người mẹ này quả thật đủ để làm ta cảm động.
+ “ Vui nhất là lúc nhìn ngồi đàn con tôi chúng nó được ăn no”- niềm vu đơn giản, mộc mạc, bình dị đến
bất ngờ quả khiến ta xúc động. Phải chăng chỉ vì và chỉ cần một niềm vui ấy, chị sẵn sàng đánh đổi và hi
sinh tất cả?
4. Một người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời:
- Cái nhìn đầy thấu hiểu độ lượng với người chồng. Nếu như Phùng, đẩu, thằng Phác chỉ nhìn người
chồng như một thủ phạm đầy độc ác và tàn nhẫn cần phải lên án tố cáo thì trong mắt chị, người đàn ông ấy
chỉ là nạn nhân cảu hoàn cảnh khắc nghiệt cần được cảm thông và chia sẻ.
- Biết chắt chiu, trân trọng, nâng niu những hạnh phúc bình dị: không bỏ chồng vì người đàn ông ấy vẫn là
chỗ dựa lúc phong ba và còn vì đẫu sao trên cũng có lúc cả nhà sống hòa thuận, vui vẻ. Chị đã không cam
chịu một cách vô lí, không nông nổi một cách ngờ nghệch. Với chị đó là sự lựa chọn bất đắt dĩ nhưng đã có
những suy tính kĩ lưỡng. Cuộc sống đầy nhọc nhằn, lam lũ, những trải nghiệm cơ cực đã dạy cho chị biết:
cần phải biết chắt chiu và trân trọng, nâng niu và gìn giữ những hành phúc bình dị trong cuộc sống vốn rất
bộn bề và đa dạng này.
* Kết bài:
- Bằng tài năng và sự quan tâm thương yêu sâu sắc đến con người, Nguyễn Minh Châu đã thực sự thành
công khi xây dựng hình tượng người đàn bà.
- Nhân vật đã luôn để lại cho người đọc những trăn trở và day dứt về số phận bất hạnh, những xúc động và
ngưỡng mộ về những vẻ đẹp ẩn giấu. Người đàn bà ấy mang những nét truyền thống của người phụ nữ VN.
Bài tham khảo

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Minh Châu sau 1975 được đánh giá cao nhất ở cách nhìn nhận đầy mới
mẻ về số phận con người. Với ông, sáng tác nghệ thuật cũng chính là đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
tâm hồn con người. Bằng ngòi bút đào sâu đến tận cùng cái sự thật chứa đầy bí ẩn, Nguyễn Minh Châu thể
hiện thật ám ảnh những mảng tối, những góc khuất cũng như những mất mát thiệt thòi của số phận con
người thời hậu chiến. Thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực bề sâu ẩn kín là một đặc điểm nổi bật, mới mẻ
của phong cách Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn này. Cũng vì thế mà khi xây dựng nhân vật của mình,
Nguyễn Minh Châu không chấp nhận những quan niệm sơ lược, giản đơn về con người và cuộc đời.
Sau 1975 Nguyễn Minh Châu viết rất nhiều những số phận về người phụ nữ. Họ thường được đặt trong
hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc sống để từ đó giúp nhà văn nhận ra nhiều chân lí không đơn giản của
cuộc sống. Tâm hồn nhảy cảm của nhà văn thường dễ rung động trước nỗi đau của những số phận biết cách
chống chọi với hoàn cảnh để sống một cách lương thiện, nhân văn; nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa là một nhân vật như vậy.
Trang 7
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
Tác giả chỉ gọi người đàn bà một cách phiếm định, tuy không có tên tuổi cụ thể, một người vô danh như
biết bao người đàn bà vùng biển khác nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và
được người đọc quan tâm nhiều nhất trong truyện ngắn này.
Đó là một người đàn bà xấu xí, lam lũ, nghèo khổ:
- Ngoại hình : thân hình “ cao lớn”, “ thô kệch”, mặt đầy “ những nốt rỗ chằng chịt”. Những nét vẽ
nhanh chóng nhưng chân thực và cụ thể đã giúp Nguyễn Minh Châu kí họa nên chân dung một người đàn bà
xấu xí, chịu nhiều thiệt thòi về nhan sắc.
- Trang phục, dáng vẻ: “khuôn mặt mệt mỏi”, “tấm lưng áo bạc phết và rách rưới, nửa thân dưới ướt
sủng”. Mỗi một hình ảnh hiện ra lại là một sự hiện hữu của sự nghèo khổ, lam lũ, vất vả, nhọc nhằn. Nhân
vật dường như bước từ cuộc sống lấm láp, bụi bặm, đi thẳng vào trang văn của Nguyễn Minh Châu mà
không cần dụng công tô vẻ.
Bà sống cam chịu, nhẫn nhục: cuộc sống gia đình với chị là hàng chuỗi bất hạnh. Đẻ rất nhiều con, cuộc
sống nghèo khổ, túng quẫn phụ thuộc vào biển cả, thường xuyên bị những trận đòn nghiệt ngã của ông
chồng vũ phu ”. Chị có vẻ mặt đầy chịu đựng và nhẫn nhục, đặc biệt là trước những trận đòn vô cớ của ông
chồng có thói quen đánh vợ như người ta uống rượu.“ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả
nước không có một người chồng nào như hắn”. Khi bị chồng đánh: không hề kêu một tiếng, không chống

trả cũng không tìm cách trốn chạy. Chị đã không hề phản ứng, chị hoàn toàn câm lặng trước trận đòn tàn
nhẫn của chồng, chị chấp nhận những đòn roi như một phần cuộc đời của mình, chấp nhận nó như cuộc
sống của người đi biển đánh cá phải đương đầu với sóng to gió lớn vậy. Bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ
đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn
ông khỏe mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên “ tình thương con cũng
như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giở để lộ rõ
rệt ra bề ngoài”- một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông.
Tuy nhiên, người đàn bà ấy cũng rất tự trọng, chỉ sau khi biết được những hành động vũ phu của chồng đã
bị thằng Phác và người khách lạ chứng kiến, chị mới thấy “đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục
nhã’. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn bà đã trào
ra.Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể
cả thằng Phát, đứa co yêu của chị, và nhất là một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm
nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm- một sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có
lòng tự trọng và thấu hiễu lẽ đời, có tình thương con vô bờ bến.
Khi khắc họa hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Minh Châu tập trung tạc khắc hình ảnh khuôn mặt và đôi
mắt- nơi ẩn giấu những bí ẩn cuộc đời mà khám phá biết bao giờ mới biết đến tận cùng. Đó là khuôn mặt
mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực; khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rỗ
chằng chịt; khuôn mặt cuối xuống nhẫn nhục khi nói chuyện về đời mình. Khuôn mặt ấy còn ám nảh người
nghệ sĩ mãi cho đến khi anh đã về thành phố, mỗi khi anh nhìn bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa, anh lại thấy
hình ảnh người đàn bà với tấm áo bạc phếch, khuôn mặt tái nhợt bước ra từ tấm ảnh đó.
Ở người đàn bà xấu xí, chẳng chịt những vết rỗ ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt ấy chính là cuộc đời
của mụ. Đôi mắt cảu một tâm hồn không đơn giản, nhẫn nhục, cam phận chịu đựng những khắc nghiệt của
cuộc đời nhưng vẫn ánh lên những khát vọng hạnh phúc. Nguyễn Minh Châu thật tinh tế khi quan sát đôi
mắt ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi lại đưa mắt nhìn xuống chân.
Một hình ảnh thật cảm động, thật đắt thể hiện sự nhẫn nhục, cam chịu, an phận của người đàn bà. Đôi mắt
ấy đã từng nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một nói những lời không phải dễ nghe; Đôi mắt
ấy như đang nhìn suốt cả cuộc đời mình, nhìn về quá khứ, tìm những gì tốt đẹp vốn có ở người chồng vũ
phu để tìm cách nhận lỗi về mình. Đôi mắt ấy ẩn dấu một cuộc đời, lúc bình lặng, lúc bão tố như biển cả.
Số phận của một con người đâu chỉ đơn giản là nhìn nhận từ những hiện tượng bên ngoài. Nhân vật của
Nguyễn Minh Châu không bao giờ là sự dễ dãi. Chiều sâu của cuộc sống tiếp tục được khám phá qua cuộc

đối thoại với người đàn bà tại tòa án huyện. Khi ở tòa án huyện chính người phụ nữ ấy đem đến cho Phùng,
Đẩu và người đọc những xúc cảm mới. Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị rụt
rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian xa lạ. Chị
Trang 8
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
thật nhỏ bé tội nghiệp ở chốn công đường kia. Cái thế ngồi của chị thật bị động, ngồi như để tự vệ cho dù đã
được Đẩu, Phùng chia sẻ, cảm thông.
Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn mạnh vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng
chài. Với Đẩu, Phùng lúc đầu chị thưa gửi, xưng con và có lúc van xin quý tòa: “ bắt tội con cũng được, bỏ
tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó’. Một lời van xin đầy bất thường, chị không cầu cứu sự bảo vệ, giúp
đỡ của mọi người giải thoát cho mình mà van xin sẵn sàng đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ ông
chồng vũ phu ấy. Khi đã lấy được tự tin, tâm thế đã thay đổi, người đàn bà đó đột ngột chuyển cách xưng
hô: “ Chị cám ơn các chú! – Đây là lời nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các
chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người đàn bà làm ăn lam lũ,
khó nhọc”. Một sự hoán đổi ngoạn mục.
Đó là một người mẹ thương con và giàu đức hi sinh.Người đàn bà ấy chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ là
lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải sống cho mình“ Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Như vậy, lí do để chị không bỏ người chồng vũ
phu kia, sẵn sàng chấp nhận những trận đòn đau đớn chính là vì con. Tình yêu con vốn là bản năng mãnh
liệt ngàn đời của người phụ nữ nhưng yêu con đến mức quên mình, thương con trong nghịch cảnh
của người mẹ này quả thật đủ để làm ta cảm động. Nếu người phụ nữ chấp nhận đàn ông uống rượu, thì
chị cũng chấp nhận bị đánh, chỉ xin chồng đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Chị sợ đứa con trai
tên là thằng Phác làm điều dại dột đối với bố nó nên phải gởi nó lên rừng ở với ông ngoại, sẵn sàng chấp
nhận xa con vì muốn gìn giữ và bảo vệ cho con. Chị đau đớn, xót xa khi chứng kiến cảnh con muốn bảo vệ
mẹ mà đánh bố để rồi nhận về hai cái tát, chị bàng hoàng thảng thốt cất tiếng gọi con “Phác, con ơi” trong
nước mắt. Tiếng gọi con trong câm lặng đó là tột cùng đau đớn và xót xa khi biết vô tình làm tổn thương
tâm hồn đứa con thơ dạy.
Một người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời: Cái nhìn đầy thấu hiểu độ lượng với người chồng.
Nếu như Phùng, đẩu, thằng Phác chỉ nhìn người chồng như một thủ phạm đầy độc ác và tàn nhẫn cần phải
lên án tố cáo thì trong mắt chị, người đàn ông ấy chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh khắc nghiệt cần được cảm

thông và chia sẻ. Bà biết chắt chiu, trân trọng, nâng niu những hạnh phúc bình dị: không bỏ chồng vì người
đàn ông ấy vẫn là chỗ dựa lúc phong ba và còn vì đẫu sao trên cũng có lúc cả nhà sống hòa thuận, vui vẻ.
Chị đã không cam chịu một cách vô lí, không nông nổi một cách ngờ nghệch. Với chị đó là sự lựa chọn bất
đắt dĩ nhưng đã có những suy tính kĩ lưỡng. Cuộc sống đầy nhọc nhằn, lam lũ, những trải nghiệm cơ cực đã
dạy cho chị biết: cần phải biết chắt chiu và trân trọng, nâng niu và gìn giữ những hành phúc bình dị
trong cuộc sống vốn rất bộn bề và đa dạng này.
Câu chuyện người đàn bà đã giúp người nghệ sĩ Phùng bừng tỉnh, vỡ vạc được bao nhiêu là vấn đề
về cuộc sống. Đó cũng là cách của Nguyễn Minh Châu đối thoại với bạn đọc.
Có thể nói, người đàn bà hàng chài là biểu tượng của tình mẫu tử. Chị quặn lòng vì thương con: chị cảm
nhận và chấp nhận sản sẽ nỗi đau với chồng, cảm thông và tha thứ cho chồng. Với chị, gia đình hạnh phúc
là gia đình trọn vẹn các thành viên, cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.
Như vậy Chiếc thuyền ngoài xa là một thông điệp mới mẻ, sâu sắc, đa nghĩa về cuộc đời và nghệ thuật
mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc. Nó là những trăn trở đầy tâm huyết của một người cầm bút
luôn đau đáu một nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người.
HỒN TRƯƠNG BA , DA HÀNG THỊT
LƯU QUANG VŨ
Đề: Phân tích tâm trạng bi kịch của nhân vật Trương Ba ( trích đoạn vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt- Lưu Quang Vũ) để làm nổi bật tư tưởng mà tác giả gửi gắm.
1. Mở bài:
- Đối với mỗi người, được sống luôn là một điều quý giá. Song sống thế nào cho có ý nghĩa, để tìm được
cảm giác thanh thản và hạnh phúc cũng rất quan trọng.
Trang 9
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
- Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, thông qua việc xây dựng hình tượng nhân vật Trương Ba với
những bi kịch đời sống, tác gải Lưu Quang Vũ đã thể hiện được một quan niệm riêng cảu mình về sự sống
và cách sống của con người.
2. Thân bài
* Khái niệm bi kịch: ( theo nghĩa là trạng thái tinh thần cảu con người): Là trạng thái đau khổ về tinh
thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hòa giữa mong muốn, khát vọng
và thực tiễn hoàn toàn trái ngược.

* Bi kịch tha hóa
- Con người Trương Ba trước đây:
+ Là một người làm vườn chăm chỉ, khéo léo, có tình yêu với cây cối ( nâng nui, chăm sóc vườn cây
thuốc, không nỡ làm gãy dù chỉ một mầm cây).
+ Là một con người hiền đức, sống mẫu mực và rất có trách nhiệm ( quan tâm, yêu thương vợ con; chăm
sóc, chiều quý các cháu; tốt bụng với hàng xóm láng giềng…)
- Con người Trương Ba khi sống trong xác anh hàng thịt:
+Xác hàng thịt: tuy chỉ là xác thịt âm u, đui mù song vẫn có tiếng nói riêng, có sức mạnh riêng khiến hồn
Trương Ba không thể chi phối, điều khiển mà còn bị nó chi phối, làm cho đổi khác.
+ Sự thay đổi của Trương Ba: trở nên vụn về ( làm gãy cây thuốc quý, làm hỏng điều cảu cu Tỵ), thô tục
( có những ham muốn tầm thường), thô bạo ( đánh con), vô tình (thiếu sự quan tâm với hàng xóm)…
- Cảm nhận của Trương Ba: những thay đổi này nằm ngoài ý muốn và khả năng kiểm soát nên Trương Ba
hoàn toàn bất lực. Cho dù không muốn thừa nhận, dù cố bám víu vào “trò chơi tâm hồn” thì Trương Ba vẫn
không thể phủ nậhn sự tậht là ông đang dần đánh mất mình: “ Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không
phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”
* Bi kịch bị từ chối:
- Nguyên nhân: sự thay đổi của Trương Ba khiến những người thân và hàng xóm láng giềng không sao
hiểu nổi. Càng yêu quý con người trước đây của Trương Ba, họ càng không thể chấp nhận con người hiện
tại của ông.
- Biểu hiện:
+ Người vợ: đau buồn muốn bỏ đi vì hiểu lầm mối quan hệ phức tạp giữa Trương Ba và vợ anh hàng thịt.
+ Cháu gái: phản ứng gay gắt và kiên quyết không thừa nhận chuyện ông sống trong xác lão đồ tể vì điều
nó thấy ở Trương Ba bây giờ hoàn toàn khác với những ấn tượng tốt đẹp về người ông của nó trước đây.
+ Chị con dâu: người hiểu và thương Trương Ba nhất cũng không giấu nổi sự tấht vọng và đau đớn khi nhìn
cha chồng “ mỗi ngày…một đổi khác dần, mất mát dần, tất ảc cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi”. Và day dứt
về việc “ Làm sao giữ được thầy ở lại, hiển hậu vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”
- Tác động của sự từ chối ấy với Trương Ba:gia đình là nơi trú ẩn cuối cùng, nơi cuối cùng có thể tìm thấy
sự yêu thương và cảm thông nên khi bị từ chối bởi những gười thân, Trương Ba vô cùng đau khổ, tuyệt
vọng. Nỗi đau khổ biểu hiện ra ở cả sự lúng túng, bất lực trong cách nói, trong sự nhẫn nhục, chịu đựng của
tư thế, trong vẻ nhợt nhạt của thần sắc. Qua những biểu hiện ấy, có thể thấy Trương Ba đang phải mang một

gánh nặng tinh thần vượt quá khả năng chịu đựng của ông.
* Bi kịch “ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
- Bên trong: gắn với những nhu cầu tinh thần cao ( muốn bảo vệ lương tâm, giữ gìn danh dự, muốn sống có
đạo đức và trách nhiệm và sống thanh thản trong niềm vui giản dị như chăm sóc vườn cây và các cháu…)
- Bên ngoài: gắn với những nhu cầu của thể xác phàm tục ( thèm ăn thịt, muốn được thỏa mãn những dục
vọng tầm thường…)
- Mối quan hệ giữa bên trong và bên ngoài: hoàn toàn mâu thuẫn song lại không thể tách rời ( linh hồn cần
một thể xác để trú ngụ.Thể xác cần có một linh hồn để tiếp tục tồn tại). Sự không phù hợp giữa linh hồn và
thể xác đã tạo nên một cuộc sống giả tạo và tồi tệ đến mức chính Trương Ba cũng cảm thấy là rất “ quái
gở”. Cuộc sống ấy là nguyên nhân căn bản dẫn đến nỗi khổ tâm của Trương Ba ”sống thế này còn khổ hơn
là chết” và làm khổ những người thân của ông.
Trang 10
Tài liệu ôn thi môn Ngữ Văn 12
- Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó:
+ Không chấp nhận buông xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để xác có thể hào hợp với hồn,
Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy” lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày va 2tự
đánh ấmt mình”, “không cần đến cái đời sống do mày mang lại”.
+Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình :”không thể bên ngoài một đằng, bên trong một
nẻo”.Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề
“sống như thế nào” là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và
có ý nghĩa.
+Chấp nhận từ bỏ đời sống do cái xác mang lại, từ chối một cuộc sống lệch lạc khác(nhập hồn vào xác cu
Tị) để ra đi vì chỉ có cách đó mới đem lại sự thanh thản “từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này,tôi
bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản,trong sáng như xưa”.
* Ý nghĩa tư tuởng
- Tư tưởng của Lưu Quang Vũ:
+ Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị mà mình vốn có
và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn.
+ Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh,với chính bản thân,chống lại sự dung tục để

hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý
- Đánh giá chung về ý nghĩa tư tưởng
+ Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây không chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà là vấn đề của con
người hiện đại.
+ Gợi mở một lối sống đúng đắn để đem lại hạnh phúc và sự thanh thản tâm hồn.
3)Kết bài
- Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ trong khám phá và thể hiện một vấn đề quan trọng trong thời đại
mình.
-Khẳng định ý nghĩa vở kịch.
RỪNG XÀ NU
NGUYỄN TRUNG THÀNH
Trang 11

×