Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng trường thpt theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.93 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Văn kiện đại hội X, XI của Đảng đã nhấn mạnh đến việc đổi mới hệ thống
giáo dục - Đào tạo nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao và
nhanh chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ
đào tạo, dân tộc vùng miền... Do vậy, coi trọng công tác hướng nghiệp và
phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh thiếu niên đi vào lao động
nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng
địa phương là nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa và hiện đại
hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Công tác hướng nghiệp phải bám sát xu thế
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nhu cầu nguồn nhân lực của địa phương thì mới
thực hiện được nhiệm vụ của GD trong phát triển nguồn nhân lực. Chỉ thị số
33/2003/CT - BGD&ĐT ngày 23/7/2003 về việc tăng cường GDHN cho học
sinh phổ thông đã nêu rõ: “...Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của nội
dung giáo dục phổ thông toàn diện đã được xác định trong Luật giáo dục. Chủ
trương đổi mới chương trình GDPT hiện nay cũng nhấn mạnh đến yêu cầu
tăng cường giáo dục hướng nghiệp nhằm góp phần tích cực và có hiệu quả
vào phân luồng học sinh chuẩn bị cho học sinh đi vào cuộc sống lao động
hoặc được tiếp tục đào tạo phù hợp với năng lực của bản thân và nhu cầu của
xã hội...”
Giáo dục dân tộc, vùng cao có vị trí quan trọng trong công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phịng. Chỉ có bằng con đường phát triển giáo
dục mới có thể nhanh chóng đưa vùng cao và vùng dân tộc thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, giảm dần khoảng cách giữa vùng cao và vùng dân tộc với vùng
đồng bằng.
Đảng và nhà nước ta đã xác định GDHN đóng vai trị quan trọng trong
việc thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số của nhà

1



trường Trung học phổ thông nhằm giáo dục đào tạo con em các dân tộc ở
vùng cao trở thành những hạt giống tốt, những cán bộ cốt cán, những người
lao động giỏi, biết tổ chức cuộc sống gia đình văn minh ấm no, hạnh phúc,
biết góp phần xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh. Đồng thời
phải đào tạo các em trở thành cán bộ và người lao động mới có nhân cách,
phẩm chất, năng lực mang bản sắc dân tộc, thích ứng với yêu cầu đào tạo
nghề nghiệp hoặc công tác xã hội ở địa phương.
Thực hiện chủ trương chính sách của nhà nước, trong nhiều năm qua, các
chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án của BGD & ĐT đã triển khai ở
các tỉnh vùng cao, vùng dân tộc như chương trình VII, dự án V, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu và thực nghiệm về công tác GD hướng nghiệp dạy
nghề cho học sinh dân tộc, vùng cao của Trung tâm nghiên cứu giáo dục dân
tộc Bộ giáo dục - Đào tạo và của nhiều nhà khoa học trong nước được triển
khai có hiệu quả tại các trường. Nhờ đó nhiều trường đã thực hiện tương đối
tốt nhiệm vụ GD hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh, góp phần đáng kể vào
việc đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương trên cả nước.
Trong nhiều năm qua các trường THPT huyện Mường Khương tỉnh Lào
Cai đã góp phần khơng nhỏ vào việc tạo nguồn đào tạo cán bộ cho huyện nhà,
nhiều thế hệ học sinh của các nhà trường đã trưởng thành cung cấp nguồn
nhân lực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Song
trong thời gian gần đây khi yêu cầu chất lượng đào tạo nguồn cán bộ được
nâng cao nhất là đội ngũ cán bộ xã, bản ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó
khăn, để đáp ứng được sự phát triển KT - XH, giữ vững ổn định trật tự chính
trị ở vùng cao biên giới của địa phương và sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung,
chương trình, phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục THPT thì cần phải
có những biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp phù hợp và hiệu quả hơn
mới đáp ứng được những yêu cầu của huyện, của tỉnh về nguồn cán bộ dân

2



tộc vùng cao trong giai đoạn hiện nay. Căn cứ vào những lý do trên tác giả
mạnh dạn chọn đề tài: “Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp của hiệu
trưởng trường THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện
Mường Khương tỉnh Lào Cai”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, khảo sát thực trạng quản lý GDHN ở các
trường THPT huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai để đề xuất các biện pháp
QL GDHN của hiệu trưởng nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị tạo nguồn đào
tạo cán bộ xã của các trường THPT huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai.
Chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh THPT phụ thuộc một phần
vào chất lượng giáo dục hướng nghiệp. Theo đó, nếu đề xuất và vận dụng các
biện pháp quản lý GDHN của Hiệu trưởng sẽ góp phần nâng cao chất lượng
GDHN cho học sinh nhằm tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường
Khương, tỉnh Lào Cai.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

3.1. Khách thể nghiên cứu: Giáo dục hướng nghiệp của trường trung học
phổ thông theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường Khương
tỉnh Lào Cai.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lí GDHN ở các trường
THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường Khương
tỉnh Lào Cai.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:

Áp dụng đồng bộ những biện pháp quản lý GDHN ở các trường THPT
huyện Mường Khương sẽ đạt những hiệu quả nhất định, đáp ứng mục tiêu
giáo dục trong trường THPT, góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ dân tộc

thiểu số ở huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

3


5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

5.1. Những vấn đề lí luận liên quan đến QL giáo dục hướng nghiệp ở các
trường THPT.
5.2. Thực trạng QL GDHN ở các trường THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo
cán bộ xã ở huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai.
5.3. Đề xuất các Biện pháp QL GDHN ở các trường THPT huyện Mường
Khương tỉnh Lào Cai theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã.
6. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:

6.1. Phạm vi nghiên cứu: Những biện pháp quản lí GDHN ở trường
THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã người dân tộc thiểu số.
6.2. Giới hạn nghiên cứu:
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu các Biện pháp QL
GDHN ở các trường THPT huyện Mường Khương tỉnh Lào Cai.
- Giới hạn thời gian nghiên cứu: Từ tháng 09/2010 đến tháng 10/2011.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sưu tầm, nghiên cứu tài
liệu và cơ sở lý luận, phương pháp phân loại và hệ thống hố lý thuyết,
phương pháp phân tích và tổng hợp.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp quan sát,
phương pháp so sánh thực nghiệm, phương pháp điều tra, phương pháp
chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý GDHN.
3. Phương pháp hỗ trợ: Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu; Sử

dụng biểu bảng, sơ đồ, hình vẽ để minh hoạ.

4


8. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Về mặt lý luận, những kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng nhằm
xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp hướng
nghiệp cho học sinh THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho những người làm
công tác giáo dục hướng nghiệp thấy được thực trạng biện pháp quản lý của
cơng tác này để từ đó đưa ra các biện pháp, chủ trương phù hợp; đồng thời kết
quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tư liệu phục vụ công tác bồi dưỡng
chuyên đề “Quản lý hoạt động lao động, hướng nghiệp, dạy nghề ở trường
THPT ” cho cán bộ quản lý và giáo viên các trường THPT huyện Mường
Khương tỉnh Lào Cai.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu
tham khảo và các phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quản lý giáo dục hướng
nghiệp ở các trường THPT.
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục hướng nghiệp ở các trường
THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường Khương tỉnh
Lào Cai
Chương 3: Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp của Hiệu trưởng
các trường THPT theo hướng tạo nguồn đào tạo cán bộ xã ở huyện Mường
Khương tỉnh Lào Cai


5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. VÀI NÉT SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1.1. Giáo dục hướng nghiệp một số nước trên thế giới
Ở lĩnh vực nghề nghiệp, việc chọn nghề và nhất là mối quan hệ giữa
người lao động với nghề nghiệp, đã được nhiều nhà khoa học của nhiều quốc
gia quan tâm nghiên cứu nhằm giúp cho thanh thiếu niên học sinh có sự chọn
lựa nghề nghiệp sao cho phù hợp với năng lực, thể lực, trí tuệ, hứng thú cá
nhân và yêu cầu kinh tế của đất nước.
Cộng hòa Pháp là một trong những nước đã phát triển hướng học,
hướng nghiệp và tư vấn nghề sớm nhất trên thế giới.Thế kỷ 19 (năm 1848),
những người làm công tác hướng nghiệp ở Pháp đã xuất bản cuốn sách:
“Hướng nghiệp chọn nghề” nhằm giúp đỡ thanh niên trong việc lựa chọn
nghề nghiệp để sử dụng có hiệu quả năng lực lao động của thế hệ trẻ. Ngày
25/12/1922 Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp Cộng hòa Pháp đã ban hành
nghị định về công tác hướng học, hướng nghiệp và thành lập Sở Hướng
nghiệp cho thanh niên dưới 18 tuổi; tới ngày 24/5/1938 cơng tác hướng
nghiệp đã mang tính pháp lý thơng qua quyết định ban hành chứng chỉ hướng
nghiệp bắt buộc đối với tất cả thanh niên dưới 17 tuổi, trước khi trở thành
người làm việc trong các xí nghiệp thủ cơng, công nghệ hoặc thương nghiệp.
Từ năm 1960, Pháp đã tiến hành thành lập hệ thống các trung tâm thông tin
hướng học và hướng nghiệp từ Bộ Giáo dục đến khu, tỉnh, huyện và cụm
trường. Năm 1975, nước Pháp đã tiến hành cải cách giáo dục để hiện đại hóa
nền giáo dục. Cải cách giáo dục ở Pháp chú ý đặc biệt chăm lo giảng dạy lao

động và nghề nghiệp cho học sinh, khắc phục khuynh hướng và quan niệm

6


coi giáo dục lao động là một hoạt động giáo dục loại hai (tức là đứng sau các
môn khoa học). Nhà trường Pháp hiện nay đã giảm bớt tính hàn lâm trong
việc cung cấp các kiến thức khoa học, tăng tỉ trọng kiến thức có ý nghĩa thực
dụng và ý nghĩa hướng nghiệp để giúp cho học sinh trung học chuẩn bị đi vào
đào tạo và cuộc sống nghề nghiệp.
Ở Liên Xô (cũ), công tác hướng nghiệp được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm như: E.A Klimov, V.N. Supkin, V.P Gribanov, V.A Kruchetxki...
[23]. Nghiên cứu của các tác giả tập trung vào hứng thú nghề nghiệp, động cơ
chọn nghề, các giá trị về nghề mà học sinh quan tâm, đồng thời đưa ra những
chỉ dẫn để giúp học sinh chọn nghề tốt hơn.
Ở Nhật Bản, đã từ lâu giáo dục Nhật Bản chú ý đến vấn đề hồn thiện
nội dung, hình thức dạy học kĩ thuật nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ
năng lao động nghề nghiệp và phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh phổ
thơng. Chính vì vậy, ở Nhật Bản trong những năm qua, nhiều cuộc cải cách
giáo dục đã được tiến hành với mục đích đảm bảo cho giáo dục phổ thông đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế cụ thể của đất nước. Trong đó có nhiều biện
pháp đã được áp dụng để nâng cao trình độ đào tạo về hướng nghiệp và khoa
học tự nhiên trong các trường phổ thông.
Về giáo dục hướng nghiệp, quan điểm của UNESCO cũng cho rằng
giáo dục trung học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường
bước vào cuộc sống lao động thực sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho học
sinh lựa chọn một trong nhiều con đường khác nhau.
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các nước như Pháp, Mỹ, Anh đã
thành lập các phòng hướng nghiệp, với các trắc nghiệm, họ đã tư vấn cho
thanh niên ở đó chọn được những nghề thích hợp với khả năng của bản thân

và các nghề đang có nhu cầu tuyển dụng trong xã hội.

7


1.1.2. Giáo dục hướng nghiệp và vấn đề tạo nguồn cán bộ DTTS ở
Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng việc vận dụng sáng tạo
các quan điểm giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lê nin nhằm đào tạo lớp người
lao động mới. Từ năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Trong việc giáo
dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất”. Người cũng đã khẳng định:
“Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường:
- Học đi với lao động
- Lý luận đi với thực hành
- Cần cù đi với tiết kiệm.”.
Trong bài báo “Học hay, cày giỏi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập
đến một yếu tố mới của giáo dục. Đó là, “Việc cung cấp cho học sinh những
tri thức cơ bản về kỹ thuật sản xuất công nghiệp và nông nghiệp” và “Những
ngành sản xuất chủ yếu” trong xã hội. Đó cũng chính là những nội dung giáo
dục kỹ thuật nghề nghiệp của giáo dục nước ta lúc bấy giờ.
Ngày 19/3/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
126/CP về “Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng
học sinh các cấp phổ thông cơ sở và phổ thơng trung học tốt nghiệp ra
trường”. Có thể coi quyết định này là một mốc quan trọng đối với sự phát
triển giáo dục trong hệ thống nhà trường phổ thông, bởi từ thời điểm ấy,
hướng nghiệp được chính thức coi như là một mơn học và đồng thời được coi
như một hoạt động có trong các tiết dạy của các môn học.
Những vấn đề GDHN ở trường THPT đã được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và đề cập tới ở nhiều góc độ khác nhau như: Phạm Tất Dong [10,

11], Trần Khánh Đức [13], Hà Thế Truyền [36,37], Đặng Danh Ánh [01, 02],
Nguyễn Viết Sự [26, 27], Nguyễn Bá Minh [22], Nguyễn Đức Trí [34,35],
8


Nguyễn Văn Lê - Hà Thế Truyền - Bùi Văn Qn [19]. Trong các cơng trình
nghiên cứu về cơng tác hướng nghiệp đã tập trung vào những vấn đề như:
+ Vấn đề lịch sử phát triển hệ thống công tác hướng nghiệp ở các nước
trên thế giới và ở Việt nam.
+ Bản chất khoa học của công tác hướng nghiệp
+ Mục đích, nhiệm vụ, vai trị của cơng tác hướng nghiệp
+ Nội dung cơ bản và các hình thức hướng nghiệp.
+ Vấn đề tổ chức và điều khiển công tác hướng nghiệp.
+ Quan điểm mới về giáo dục hướng nghiệp, coi hướng nghiệp là loại
hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau nhằm giúp cho con người chọn nghề
phù hợp với nhu cầu của xã hội và nguyện vọng, sở trường của cá nhân. Đổi
mới nội dung hướng nghiệp trong nhà trường hiện nay đang là một yêu cầu
ngày càng cấp thiết và xác định trong những năm tới, công tác hướng nghiệp
phải đóng góp hơn nữa vào việc giải quyết việc làm cho thanh thiếu niên,
định hướng thế hệ trẻ vào những lĩnh vực sản xuất cần phát triển, tạo ra cho
mỗi thanh, thiếu niên nhiều khả năng để tự tạo ra việc làm.
Nhìn chung các cơng trình của các tác giả đều tập trung vào nghiên cứu
cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt động hướng nghiệp với mục đích, ý
nghĩa, nội dung, hình thức tổ chức hướng nghiệp cho học sinh phổ thông.
Về lĩnh vực nghiên cứu giáo dục hướng nghiệp và vấn đề tạo nguồn
đào tạo cán bộ đối với trường THPT, riêng về mảng phổ thơng Dân tộc nội trú
đã có các tác giả và nhóm nghiên cứu:
Phạm Đình Thái [28], Trần Thanh Phúc [24, 25], Bùi Thị Ngọc Diệp
[12]. Các cơng trình nghiên cứu đều tập trung vào các vấn đề:
+ Tổng kết và đánh giá cơng tác giáo dục tồn diện cho học sinh DTNT

và vấn đề tạo nguồn đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số cho các địa phương ở hệ

9


thống trường PTDTNT
+ Đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo và đổi mới phương
thức đào tạo cho các trường PTDTNT nhằm đáp ứng được yêu cầu của giáo
dục học sinh dân tộc trong thời kỳ mới
+ Nghiên cứu về lý luận GDHN cho học sinh dân tộc nội trú đặc biệt là
học sinh THPT ở trường DTNT Tỉnh
+ Đánh giá thực trạng giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề ở các trường
PTDTNT trên toàn quốc và đề ra các giải pháp thực hiện nhằm đáp ứng nhu
cầu về nguồn cán bộ dân tộc cho các địa phương.
Các cơng trình nghiên cứu đã đề cập tương đối toàn diện tới các mặt
giáo dục đào tạo của trường PTDTNT đặc biệt là công tác hướng nghiệp
dạy nghề cho học sinh được coi là một trong những hoạt động cơ bản hình
thành nhân cách người cán bộ dân tộc nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị
của trường PTDTNT tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các địa phương từ năm
1990 trở lại đây.
Song hiện nay, trong bối cảnh KT - XH của đất nước có nhiều thay đổi,
yêu cầu về nguồn cán bộ dân tộc được nâng lên cả về số lượng với những tiêu
chí cao hơn về năng lực và phẩm chất cộng với sự cải cách về quản lý hành
chính đang được thực hiện ở khắp các địa phương trên cả nước thì nhu cầu về
nguồn cán bộ cấp xã trở nên cấp thiết. Giáo dục hướng nghiệp để đáp ứng nhu
cầu này trong các trường THPT là vấn đề chưa được đề cập một cách sâu sắc
và có tính rộng rãi trong các cơng trình nghiên cứu nêu trên. Các trường
THPT trong huyện thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương là đào tạo học
sinh theo hướng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực nên cơng tác GD nói
chung và GDHN nói riêng phải đáp ứng được yêu cầu của GD THPT, đồng

thời đáp ứng nhiệm vụ tạo nguồn đào tạo nhân lực cho địa phương. Đó chính
là quan điểm mà nhóm nghiên cứu đề tài đúc rút được qua các cơng trình nêu

10


trên để thực hiện trong việc giải quyết các nhiệm vụ đã đặt ra.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP VÀ QUẢN LÝ GIÁO
DỤC HƯỚNG NGHIỆP Ở CÁC TRƯỜNG THPT HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG
TỈNH LÀO CAI

1.2.1. Giáo dục hướng nghiệp và quản lý giáo dục hướng nghiệp
1.2.1.1. Giáo dục Hướng nghiệp
1) Quan niệm về Giáo dục hướng nghiệp
“GDHN là hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình và
xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ tư tưởng, tâm lý, tri thức, kỹ năng để họ
có thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động sản xuất và cuộc sống.
GDHN góp phần phát huy năng lực, sở trường của từng người, đồng thời góp
phần điều chỉnh nguyện vọng của cá nhân sao cho phù hợp với nhu cầu phân
công lao động trong xã hội. Có thể nói ngắn gọn là GDHN là hướng dẫn cho
học sinh ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề
mà sau này các em sẽ chọn”. [21,tr115]
2) Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp
Theo chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT thì GDHN có nhiệm vụ:
- Giáo dục thái độ và ý thức đúng đắn với nghề nghiệp.
- Tổ chức cho học sinh học tập làm quen với một số nghề phổ biến
trong xã hội và các nghề truyền thống của địa phương.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh để
khuyến khích, hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất.
- Động viên hướng dẫn học sinh đi vào những nghề, những nơi đang

cần lao động trẻ tuổi có văn hố.
Ngồi ra nhiệm vụ của GDHN là phải làm cho học sinh có thể thích
ứng với sự dịch chuyển của cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động trong xã
hội và địa phương, nâng cao hiểu biết về an tồn lao động. Đồng thời cịn rèn
11


luyện kỹ năng nghề nghiệp, thao tác kỹ thuật, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng
tính tốn và khả năng vận dụng kỹ thuật vào thực tiễn cho học sinh.
3) Các con đường hướng nghiệp
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, GDHN trong trường phổ thông được
thực hiện qua bốn con đường:
- Hướng nghiệp qua dạy các mơn văn hóa.
- Hướng nghiệp qua dạy kỹ thuật công nghệ và dạy nghề phổ thông.
- Hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp (SHHN).
- Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa (HĐNK)
4) Nguyên tắc của giáo dục hướng nghiệp
a) Nguyên tắc đảm bảo tính giáo dục
Đảm bảo tính giáo dục là ngun tắc cao nhất của GDHN trong trường
THPT, nó địi hỏi GDHN trong trường phổ thơng phải vừa góp phần hình
thành nhân cách tồn diện cho học sinh vừa phải tiến hành đồng bộ với các
mặt giáo dục khác nhằm đảm bảo giáo dục tồn diện.
Đảm bảo tính giáo dục trong GDHN cịn có nghĩa là phải tránh các tư
tưởng lệch lạc xảy ra trong trường học, tư tưởng cường điệu hố hay coi nhẹ
một mặt nào đó trong q trình giáo dục.
b) Ngun tắc đảm bảo tính giáo dục KTTH trong GDHN
Trong quá trình giáo dục ở trường THPT thì giáo dục lao động
(GDLĐ), giáo dục kỹ thuật tổng hợp (KTTH) và GDHN là 3 quá trình giáo
dục riêng biệt song chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng nhau
thực hiện mục tiêu chung là đào tạo con người lao động mới. Mối quan hệ

này được biểu diễn bằng sơ đồ 1.1

12


GDLĐ

Đào tạo
con
người
lao động

GD KTTH

GDHN

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa GDLĐ, GDHN và giáo dục KTTH
GDLĐ trong trường phổ thông phải tn theo tinh thần KTTH trong đó
nội dung chính là trang bị cho học sinh những nguyên lý cơ bản chung nhất
của quá trình sản xuất đồng thời rèn luyện cho học sinh sử dụng và điều khiển
được công cụ sản xuất cơ bản của một số ngành nghề chính.
Giáo dục KTTH có mục đích góp phần đào tạo con người phát triển tồn diện,
có khả năng lao động sáng tạo và có tiềm lực để chuyển đổi nghề khi kỹ thuật
và qui trình cơng nghệ đổi mới.
Do vậy GDLĐ, giáo dục KTTH, GDHN tuy không đồng nhất với nhau
nhưng đều có chung mục tiêu là đào tạo con người khơng những sẵn sàng lao động
mà cịn lao động sáng tạo có khoa học và đạt kết quả cao. Chính vì vậy GDHN phải
tiến hành trên tinh thần giáo dục toàn diện, giáo dục lao động và KTTH.
c) Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ trong giáo dục
hướng nghiệp.

Ngun tắc này địi hỏi q trình GDHN phải được tiến hành sao cho
quá trình tiếp thu các tri thức và kỹ năng nghề nghiệp của các ngành nghề
khác nhau của học sinh, phải diễn ra nghiêm ngặt, phù hợp với logic khoa học
13


của lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng, cũng như phù hợp với đặc điểm tâm,
sinh lý lứa tuổi và lao động nhận thức của học sinh.
Nguyên tắc này đòi hỏi GDHN trong trường phổ thông phải tiến hành
bằng nhiều con đường khác nhau và phải huy động được sự tham gia đóng
góp của nhiều lực lượng như gia đình, nhà trường và xã hội.
d) Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn của quá trình GDHN
Đảm bảo thực tiễn là nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong GDHN.
Trong quá trình GDHN nếu đảm bảo tính thực tiễn sẽ làm tăng khả năng ứng
dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống, giúp học sinh có khả năng
sáng tạo, thích nghi nhanh chóng hơn với đời sống xã hội đầy sự thay đổi như
ngày nay.
Để nâng cao hiệu quả của GDHN trong giai đoạn hiện nay ngoài việc
đảm bảo các nguyên tắc trên của GDHN, ta còn phải quán triệt các yêu cầu
sau đây:
- GDHN góp phần điều chỉnh việc chọn nghề cho thanh thiếu niên theo
hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế: GDHN phải thơng tin chính xác về yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thế hệ trẻ có cơ sở cân nhắc hướng chọn nghề
của mình.
- GDHN phải phát huy tác động giáo dục ý thức chính trị và lý tưởng
nghề nghiệp
- GDHN gắn với làm chủ công nghệ mới
- GDHN chuẩn bị con người năng động thích ứng với thị trường nguồn
nhân lực


14


1.2.1.2. Quản lý giáo dục hướng nghiệp
1) Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý là cách làm, cách thực hiện, tiến hành giải quyết một
công việc hợp qui luật của chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý để
điều khiển, hướng dẫn các hành vi của đối tượng quản lý nhằm đạt được mục
tiêu quản lý.
2) Quản lý giáo dục hướng nghiệp
GDPT là một tiểu hệ thống trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam. Hệ thống này có một vai trị và vị trí rất quan trọng trong quá trình giáo
dục hình thành nhân cách con người Việt Nam mới. Cơ sở GDPT gồm trường
tiểu học, trường THCS, trường THPT, trường phổ thông nhiều cấp, trung tâm
kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp. Mục tiêu giáo dục ở trường THPT đã được
Luật giáo dục 2009 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu lên ở
điều 27: “Giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục
THCS, hoàn thiện học vấn phổ thơng và có những hiểu biết thơng thường về
kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa
chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động. [20]
Hướng nghiệp ở trường phổ thơng là bước khởi đầu quan trọng trong
q trình phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy quản lý GDHN ở trường THPT
trong giai đoạn hiện nay là quản lý các thành tố và mối quan hệ giữa các
thành tố cấu trúc của quá trình GDHN nhằm đạt mục tiêu GDHN. Các thành
tố và mối quan hệ này được biểu diễn bằng sơ đồ 1.2 sau đây:

15



Mục tiêu GDHN

Nội dung GDHN
Phương pháp GDHN
Môi
trường
tự
nhiên

Phương tiện GDHN

Môi
trường

hội

Lực lượng GDHN

Hình thức GDHN
Kết quả GDHN

S 1.2: Mi quan h giữa các thành tố cấu trúc
của quá trình GDHN
3) Biện pháp quản lý giáo dục hướng nghiệp
Là cách thức, cách tiến hành giải quyết GDHN cho học sinh THPT
hợp quy luật của hiệu trưởng nhà trường cùng những lực lượng ngồi nhà
trường có liên quan tác động đến học sinh nhằm hiện thực hoá mục tiêu
quản lý GDHN.
1.2.2. Một số vấn đề về tâm lý lứa tuổi học sinh THPT vùng cao
1.2.2.1. Đặc điểm chung

Trong tâm lý học lứa tuổi, người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai
đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn.
Nhìn chung thì đây là lứa tuổi của các em có cơ thể phát triển cân đối,
khỏe đẹp. Đa số các em có thể đạt được những khả năng, thành tích về cơ thể
như người lớn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của lứa tuổi này là chọn nghề.

16


1.2.2.2. Một số đặc điểm của học sinh THPT vùng cao
Học sinh THPT vùng cao chủ yếu là người dân tộc thiểu số ngoài
những đặc điểm chung của học sinh THPT cịn có những đặc điểm khác biệt
mang tính đặc thù cần được quan tâm chú ý trong quá trình GD học sinh:
1) Những đặc điểm về KT - XH
- Xuất thân trong cộng đồng các dân tộc thiểu số với dân số ít và phân
bố khơng đồng đều; sinh sống tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới; kinh tế phát triển chậm; phát triển giáo dục gặp nhiều khó khăn.
- Xuất thân trong cộng đồng tộc người có một đời sống văn hố truyền
thống phong phú và đa dạng. Nhưng trong sự phong phú và đa dạng ấy cũng
bộc lộ một số hạn chế nhất định trước nhu cầu phát triển và hội nhập vào sự
phát triển chung của quốc gia, khu vực và thế giới.
- Đời sống cịn nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói cao đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển của học sinh dân tộc thiểu số về thể chất và tinh thần.
- Điều kiện tiếp cận thông tin hiểu biết về văn hố xã hội, khoa học
cơng nghệ cịn hạn chế; Ít có điều kiện trong việc giao tiếp với tuổi trẻ trong
nước và quốc tế
- Xây dựng gia đình sớm, nhiều con do nhận thức và tập quán nên đã
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bản thân và cộng đồng.
- Trình độ học vấn thấp kéo dài trong nhiều năm đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển của bản thân cộng đồng và xã hội; Tỷ lệ biết tiếng phổ

thông chưa cao, chưa thuần thục đã ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, học
tập và giao lưu văn hố, tiếp thu khoa học cơng nghệ vào sản xuất, phát triển
kinh tế cho bản thân gia đình, cộng đồng địa phương và quốc gia.
2) Những đặc điểm về tâm lý học sinh
Khi học tại các trường THPT học sinh dân tộc thiểu số có sự thay đổi

17


về hình thức sinh hoạt, tiếp cận với các hoạt động xã hội khác với một số thói
quen sinh hoạt hằng ngày, được mở rộng tầm nhìn. Các em phải rèn luyện
tính tự giác, tự lập và tự học tập dưới sự chỉ bảo dạy dỗ của giáo viên. Giáo
viên chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống tâm lý tình cảm của học
sinh và có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh, giáo viên chủ nhiệm là người theo dõi sự hình thành và
phát triển lý tưởng cao đẹp cho học sinh trong suốt quá trình học tập và rèn
luyện trong nhà trường.
1.2.3. Những đặc điểm cơ bản về nhân cách người cán bộ xã và mối
quan hệ với quá trình giáo dục hình thành nhân cách của người cán bộ
xã ở các trường THPT
1.2.3.1. Cán bộ xã
Theo từ điển Tiếng Việt, nghĩa rộng: Cán bộ là người làm việc trong cơ
quan nhà nước; nghĩa hẹp: Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình
thường khơng giữ chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [40].
Theo tác giả Nguyễn Duy Hùng: Cán bộ chính là lực lượng chủ chốt
trong đội ngũ những người “sử dụng lực lượng thực tiễn” để hiện thực hoá
các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong cuộc sống. Trong lĩnh vực hoạt
động chính trị, cán bộ là người “đứng mũi chịu sào” trong việc hoạch định
thực thi các chính sách,quyết định khơng chỉ của riêng lĩnh vực chun
ngành, mà hơn thế nữa, họ là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về sự

phát triển của xã hội [15, tr15].
2) Cán bộ, công chức xã
Tác giả Nguyễn Duy Hùng trích dẫn trong tài liệu: “Nói về cán bộ cấp
xã Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: cấp xã là người gần gũi nhân dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong
xuôi.”. [15, tr20].

18


Cán bộ xã được hiểu là người giữ một trong các chức vụ lãnh đạo của
bộ máy quản lý chính quyền cấp xã, phường, thị trấn được hưởng lương theo
chế độ công chức nhà nước.
Công chức xã là công chức làm công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân cấp xã có trách nhiệm giúp UBND cấp xã quản lý nhà nước về các
lĩnh vực cơng tác (Tài chính, Tư pháp, Địa chính, Văn phịng, Văn hố - Xã
hội, Cơng an, Quân sự) và thực hiện các nhiệm vụ khác do chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp xã giao.[7, tr9]
1.2.3.2. Những năng lực cần thiết của người cán bộ, công chức cấp
xã người DTTS trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
Theo tác giả Nguyễn Duy Hùng: “Nếu trình độ lý luận và chun mơn
có thể đào tạo được, thì những năng lực sau lại thuộc về tư chất vốn có của
mỗi người mà một người cán bộ lãnh đạo ở cơ sở rất cần. Đó là năng lực tổ
chức thực hiện, năng lực vận động quần chúng, năng lực xử lý tình huống”
[15, tr65]. Những năng lực trên khơng thể được hình thành và phát triển trong
khoảng thời gian đào tạo chuyên môn nghiệp vụ của các chức danh cán bộ,
cơng chức cấp xã, phường đó chính là nhiệm vụ của các nhà trường THPT
trong công tác giáo dục và phát triển nhân cách cho học sinh. Nhiệm vụ đó
phải được cán bộ quản lý nhà trường đưa vào theo chương trình, mục tiêu cụ
thể mang tính chun biệt để khi ra trường học sinh có thể tiếp cận ngay với

những cơng việc mang tính xã hội cao, bởi cán bộ xã là lực lượng thường
trực hàng ngày hàng giờ tiếp xúc với dân, trực tiếp triển khai những chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đến với người
dân, trong điều kiện đời sống vật chất ở cơ sở cịn nhiều khó khăn cùng với
tính đa dạng biến động của thực tiễn luôn đặt ra những tình huống hết sức
phong phú. Trước những tình huống mn màu, mn vẻ đó năng lực giải
quyết tình huống, kỹ năng hồ giải cũng trở nên một cơng cụ - phẩm chất cần
thiết và đắc lực giúp người cán bộ ở cơ sở hồn thành nhiệm vụ của mình.
19


Như vậy GDHN ở trường THPT không chỉ dừng lại ở việc tư vấn để
học sinh chọn nghề theo nguyện vọng của cá nhân mà là một quá trình giáo
dục có định hướng rõ ràng. Sứ mệnh của học sinh khi tốt nghiệp ra trường là
làm cán bộ từ cấp cơ sở trở lên, cho nên GDHN còn phải chuẩn bị những
năng lực phẩm chất cần thiết cho học sinh đáp ứng được những yêu cầu về
phẩm chất năng lực của người cán bộ nói chung và cán bộ xã nói riêng
1.2.3.3. Mối quan hệ giữa hoạt động giáo dục NGLL và hoạt động
GDHN trong việc phát triển nhân cách của học sinh THPT nhằm chuẩn
bị phẩm chất và năng lực cán bộ xã
Hoạt động giáo dục NGLL có vị trí rất quan trọng trong q trình giáo
dục. Đối với học sinh THPT vùng cao với đặc điểm tâm lý cịn thụ động trước
những tình huống trong các mặt hoạt động và năng lực giao tiếp cịn hạn chế,
q trình giáo dục khơng ít khó khăn, phức tạp, địi hỏi phải có sự tác động
khéo léo, kịp thời và đúng đắn, hấp dẫn lôi cuốn các em vào các hoạt động
nhằm phát huy tính tự lập, tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm đối với tập thể,
ý thức tổ chức, kỉ luật. Vì vậy, có thể nói, hoạt động giáo dục NGLL đối với
các trường THPT vùng cao có vị trí then chốt trong q trình GDHN nhằm
góp phần định hướng và điều chỉnh quá trình hình thành phát triển nhân cách
chuẩn bị những phẩm chất cần thiết của người cán bộ dân tộc.

Tuy nhiên, học sinh THPT vùng cao ngày nay có những bước phát triển
nhảy vọt về thể chất và tinh thần. Các em mạnh dạn hơn, suy nghĩ táo bạo
hơn, có những nhu cầu mới hơn, đặc biệt là nhu cầu về hoạt động. Mặc dù
hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo, song nội dung và tính chất hoạt động
học tập ở lứa tuổi này khác rất nhiều so với lứa tuổi trước. Nó địi hỏi ở các
em tính năng động và độc lập cao hơn, tư duy lơgíc nhiều hơn. Những u cầu
đó vừa phải được thực hiện trong hoạt động học tập vừa phải được cụ thể hoá
trong các hoạt động của tập thể. Đây là một trong những đặc điểm rõ nét của

20


học sinh THPT. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động giáo dục NGLL với những
hình thức đa dạng do học sinh quản lí và điều khiển có vị trí rất quan trọng ở
lứa tuổi này. Đây là những hoạt động khơng thể thiếu, có tác dụng thiết thực
đối với việc hình thành và phát triển nhân cách các em.
Như vậy, hoạt động giáo dục NGLL thực sự là một bộ phận hữu cơ của
hệ thống hoạt động giáo dục ở các trường THPT vùng cao. Nếu tổ chức có hiệu
quả, hoạt động giáo dục NGLL sẽ giúp gắn liền nhà trường với đời sống xã hội,
góp phần phát huy vai trò của các lực lượng giáo dục trong quá trình hình
thành và phát triển tồn diện nhân cách học sinh đáp ứng được mục tiêu của
GDHN trong các trường THPT hiện nay.
1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA QL GDHN TRONG TRƯỜNG THPT

1.3.1. Chỉ đạo của Bộ GD&ĐT về GDHN đối với học sinh trung học
phổ thông
Chỉ thị số 33/2003/CT-BGDĐT, ngày 23/07/2003 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh phổ thông chỉ rõ:
“Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng nhằm mục đích bồi

dưỡng, hướng dẫn học sinh, ngay từ trong nhà trường, chọn nghề phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đồng thời phù hợp với năng lực cá nhân.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng có nghiệm vụ: giáo dục
thái độ lao động và ý thức đúng đắn với nghề nghiệp; cho học sinh làm quen
với một số nghề phổ biến trong xã hội và các nghề truyền thống của địa
phương; tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng học sinh
để khuyến khích, hướng dẫn và bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp
nhất; động viên học sinh đi vào những nghề, những nơi đang cần.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng bằng các hình thức:
tích hợp nội dung hướng nghiệp vào các mơn học, lao động sản xuất và học

21


nghề phổ thông, hoạt động sinh hoạt hướng nghiệp và các hoạt động ngoại
khóa khác.
Các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và trung tâm kỹ thuật
tổng hợp - hướng nghiệp cần phân cơng một đồng chí lãnh đạo phụ trách công
tác giáo dục hướng nghiệp và cử giáo viên có năng lực tổ chức sinh hoạt
hướng nghiệp cho học sinh.” [4]
1.3.2. Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hoạt động của
trường THPT
1.3.2.1. Vị trí của trường trung học trong hệ thống giáo dục quốc
dân
Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục
quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng. [6]
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học
“Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục phổ thơng dành cho cấp THCS và cấp THPT do
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Công khai mục tiêu, nội dung

các hoạt động giáo dục, nguồn lực và tài chính, kết quả đánh giá chất lượng
giáo dục.
Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục.
Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo
dục. [6]
1.3.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của hiệu trưởng trường THPT
Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước
Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền [6]

22


1.3.3. Những căn cứ pháp lý về xây dựng đội ngũ cán bộ xã người
dân tộc thiểu số và nhiệm vụ của các trường THPT huyện Mường
Khương tỉnh Lào Cai trong công tác chuẩn bị nguồn đào tạo cán bộ xã
1.3.3.1. Chủ trương của Đảng và nhà nước và chính quyền địa
phương về tạo nguồn đào tạo cán bộ cấp cơ sở
Để đáp ứng yêu cầu về nguồn lực con người. Văn kiện đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “...Phát triển nhanh và nâng cao chất lượng
giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy
mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng
các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập cộng đồng,
trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ hội học tập
và các chính sách xã hội trong giáo dục”.
Trong quyết định số 34/2006/QĐ - TTg của thủ tướng chính phủ phê
duyệt đề án đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn người
dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 - 2010 đã xác định rõ mục tiêu như sau: “Đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số, đặc biệt

là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực,
bảo đảm về tiêu chuẩn, cơ cấu dân tộc, trình độ, tính kế thừa giữa các thế hệ
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở,
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng dân tộc thiểu số”
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai nhiệm kỳ 2011 - 2016, trong
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ các giải pháp chủ yếu đã nêu:
Về phát triển văn hoá - xã hội đồng bộ, bảo đảm an sinh xã hội và xố
đói, giảm nghèo bền vững: Xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển
nguồn nhân lực để từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.

23


Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, tạo bước đột phá về chất lượng nguồn
nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa; đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ cao.
Về nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng: Xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh, trong đó xác định rõ cơ cấu ngành nghề, tỷ trọng trong các
lĩnh vực và cấp bậc đào tạo. Đẩy mạnh cơng tác xã hội hố về giáo dục, huy
động mọi nguồn lực trong xã hội để phát triển giáo dục, đào tạo.[29]
Như vậy, các nội dung nêu trên đều tập trung đề cập đến việc xác định
rõ nhiệm vụ của các trường THPT là tạo nguồn đào tạo cán bộ cấp cơ sở cho
các địa phương, chỉ đạo chú trọng đến công tác phân luồng học sinh và đào
tạo theo địa chỉ, nhu cầu về cán bộ dân tộc thiểu số của địa phương. Quan
điểm của các cấp chỉ đạo đều xác định rõ công tác GDHN trong các trường
THPT không những đảm bảo theo quy định chung của GDHN mà còn đạt
mức cao hơn về GD nghề nghiệp, trong khi học sinh THPT vùng thấp, vùng
phát triển khi ra trường được trang bị kiến thức hiểu biết về nghề nghiệp và

định hướng chọn nghề đúng đắn thì học sinh tốt nghiệp các trường THPT
vùng cao đã có thể tiếp cận ngay được với cơng việc ở các vị trí trong bộ máy
chính quyền xã hoặc đã có thể là lực lượng nịng cốt trong các hoạt động lao
động sản xuất có trình độ kỹ thuật tại địa phương. u cầu đó địi hỏi cơng
tác GDHN của các trường THPT vùng cao cần phải được thực hiện tương
đương với nhiệm vụ đào tạo nghề của một trường chuyên nghiệp đặc biệt là
hình thành nhân cách người cán bộ dân tộc thiểu số có Tâm lực, Trí lực và
Thể lực sẵn sàng phục vụ địa phương.

24


1.3.3.2. Quy định về cơ cấu bộ máy chính quyền cấp xã và tiêu chuẩn
cụ thể đối với cán bộ, công chức xã người dân tộc thiểu số
1) Cơ cấu bộ máy chính quyền cấp xã
- Theo Nghị định số 121/2003/NĐ - CP ngày 21/10/2003 của Chính
phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ cơng chức xã, phường, thị trấn quy
định về số lượng, và các chức danh đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn, cơ
cấu bộ máy chính quyền cấp xã bao gồm:
+ Năm chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt xã: Bí thư Đảng uỷ, Phó bí
thư Đảng uỷ, Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch HĐND chuyên trách, Chủ tịch
UBND, Phó chủ tịch UBND.
+ Bốn chức danh cán bộ chuyên môn: Cán bộ văn phịng kiêm thống kê
tổng hợp, Tài chính - Kế tốn, Tư pháp, Địa chính.
+ Năm chức danh cán bộ chủ chốt của các đoàn thể: Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận tổ quốc, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Chủ
tịch Hội nơng dân, Bí thư Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
+ Các chức danh cán bộ khác: Xã đội trưởng, Trưởng công an, cán bộ
lao động thương binh xã hội, cán bộ văn hố, cán bộ nơng - lâm - ngư nghiệp,
cán bộ giao thông thuỷ lợi, cán bộ dân số gia đình và trẻ em.

2) Tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã người DTTS
Quyết định số 04/2004/QĐ - BNV ngày 16/01/2004 của Bộ nội vụ về
việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn,[7] đã nêu tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức chuyên trách
cấp xã về phẩm chất, năng lực, trình độ văn hố, trình độ chun mơn, trình
độ lý luận chính trị, và quy định cơ cấu nghề nghiệp của các chức danh trong
chính quyền cấp xã: Để thực hiện nhiệm vụ ở các vị trí trong chính quyền cấp
xã địi hỏi người cán bộ, cơng chức cần phải có trình độ chun mơn thuộc
các nhóm ngành - nghề: Quản lý hành chính, Kế tốn, nông lâm nghiệp, văn
25


×