Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của ma văn kháng, tạ duy anh, hồ anh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.14 KB, 109 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ đổi mới có dung lượng phản ánh rộng
lớn hết sức sinh động. Bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, sự nghiên cứu nghiêm túc
đối tượng phản ánh, các tác giả đã dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn
với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp. Ma Văn Kháng, Tạ Duy
Anh, Hồ Anh Thái là các nhà văn có đóng góp to lớn trong nền văn học hiện đại
thời ký đổi mới. Trong sáng tác của họ, muôn mặt của bức tranh xã hội được miêu
tả, được phản ánh một cách sâu sắc, đa chiều, đáp ứng được yêu cầu khách quan của
cuộc sống, giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực.
Luận văn được nghiên cứu xuất phát từ sự yêu mến và cảm phục của tác giả
đối với những dòng tư tưởng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc của ba nhà văn Ma
Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. Đây là các nhà văn có nhiều thành tựu
trong việc dùng văn chương để đấu tranh cho cái thiện, cái chính nghĩa của cuộc
sống. Với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị hiện thực, các tác giả này đã ý
thức được sứ mệnh viết văn là để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của
con người.
Luận văn nghiên cứu cách nhìn đa chiều, mới mẻ về con người và cuộc sống
trong thời kỳ hậu chiến của các nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái
qua đó làm sáng tỏ những tác động và ảnh hưởng của một hiện thực còn ngổn ngang
đến cuộc sống của con người như thế nào. Qua đây, luận văn cũng làm sáng tỏ cảm
hứng chủ đạo của các nhà văn được thể hiện qua các tác phẩm, đó là cảm hứng phê
phán mang tính tích cực để gióng lên những hồi chuông để cảnh tỉnh con người
tránh xa tội ác, lừa lọc, phản trắc để xây dựng một xã hội với những con người có
phẩm chất cao đẹp, sống có nghĩa tình, nhân hậu.
2. Lịch sử vấn đề
Tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái rất phong phú về
nội dung. Các bài viết về những tác giả và tác phẩm này đã khai thác nhiều vấn đề
như đặc điểm cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức trần thuật, nghệ
1
thuật tự sự…Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng phê phán chưa được đề cập tới một cách


kỹ lưỡng trong các tác phẩm nghiên cứu.
Ma Văn Kháng thành công cả về thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Từ
những năm 80 trở lại đây, các tác phẩm của Ma Văn Kháng thu hút sự quan tâm
của nhiều bạn đọc. Thể loại sáng tác của ông đa dạng hơn, hình thức nghệ thuật
phong phú, nhân vật được xây dựng với nhiều tính cách điển hình cho con người
thời đại mới, tư tưởng hiện đại, tiến bộ. Ở mảng tiểu thuyết thế sự đời tư của nhà
văn, giới nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao về những đóng góp của Ma Văn
Kháng bởi ý tưởng sáng tạo và ý thức đổi mới tư duy của tác giả. Ông đã cho ra mắt
bạn đọc 11 cuốn tiểu thuyết, 20 tập truyện ngắn và 3 tập truyện viết cho thiếu nhi.
Gần đây, tập truyện ngắn mới nhất của Ma Văn Kháng mang tựa đề “Trốn nợ”
(NXB Phụ nữ 2008) bao gồm 18 truyện ngắn đã ra mắt và gây được nhiều ấn tượng
của bạn đọc.
Với trên 40 năm lao động nghệ thuật, Ma Văn Kháng ý thức được sứ mệnh
là viết để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người, của cuộc
sống. Các tiểu thuyết viết về mảng thế sự đời tư của Ma Văn Kháng đã khẳng định
được những giá trị nhất định: Các tiểu thuyết “Mưa mùa hạ”, (1982), “Mùa lá rụng
trong vườn” (1985), “Côi cút giữa cảnh đời” (1989), “Đám cưới không có giấy giá
thú” (1988), “Chó Bi đời lưu lạc” (1992), “Ngược dòng nước lũ” (1999) của ông
đã thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều độc giả.
Phong Lê nhận định trong Vẫn chuyện văn và người (NXB Văn hoá thông
tin - 1989): “Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ
như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những
tình cảm nhân hậu, tốt lành, có thể nói đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa tâm hồn
con người. Cái hiệu quả thanh lọc dành cho nghệ thuật, và dường như cũng chỉ có
nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới làm nổi bật”.
Tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú (1988) thực sự là một đổi mới
mạnh mẽ của Ma Văn Kháng. Các bài viết: Phải chăng đời là một vại dưa hỏng của
Vũ Dương Quý, Nếu đám cưới không có giấy giá thú của Nguyễn Văn Lưư; Đám
cưới không có giấy giá thú có tính chất luận đề về mối quan hệ giữa những giá trị
văn hoá với đời sống con người của Mai Thục và cuộc thảo luận về Đám cưới

2
không có giấy giá thú do Báo Văn nghệ tổ chức… đều đưa ra những nhận xét khá lý
thú, bổ ích và công bằng về giá trị đích thực của đời sống cũng như những mặt còn
hạn chế về mọi phương diện của tác phẩm, cả về mặt nội dung và nghệ thuật.
Về cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ (1999), Hồ Anh Thái nhận xét:
“Cảm hứng phê phán mỗi ngày mạnh hơn cảm hứng trữ tình…Dường như tập hợp
đầy đủ mọi thói tật nhỏ nhen đố kỵ, mọi mưu chước công chức hành chính ở đây.
Văn chương cũng bị đẩy theo cảm hứng phê phán mà rậm hơn, xổng xểnh, lan man
hơn”. Còn Lã Duy Lan trong bài viết Ngược dòng nước lũ - cuộc khám phá mới đầy
tiềm năng vào nguồn văn chương, vào dòng đời cuộn chảy đã nhận xét: “Ngược
dòng nước lũ sẽ đi vào đời sống xã hội như sự định hình vững chãi địa vị của văn
chương trong kinh tế thị trường, mở ra cuộc khám phá đầy tiềm năng vào tận nguồn
mạch văn chương, tận tầng sâu của dòng đời cuộn chảy, mà ở tác giả nội lực đã
được chuẩn bị kỹ từ nhiều chục năm trước” [64].
Ngoài các bài viết trên, chúng ta có thể kể đến một số bài viết về tác phẩm
của Ma Văn Kháng như: Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng những năm 80 của Nguyễn Thị Huệ; Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng
của Lê Kim Vinh; Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng của Đỗ
Hải Ninh; Sống rồi mới viết của Ma Văn Kháng… và các luận văn thạc sĩ gần đây
như: Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong
tiểu thuyết sau 1980 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Kim; Quan niệm nghệ
thuật về con người tự nhiên trong sáng tác của Ma Văn Kháng sau năm 1975 -
Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Cẩm Giang; Cảm hứng bi kịch nhân văn trong
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng - Luận văn thạc sĩ của Bùi Lan Hương…
Đề cập đến cảm hứng phê phán trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả
Nguyễn Văn Xuất có công trình nghiên cứu Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết
hiện đại (qua một số tiểu thuyết ở Liên Xô và Việt Nam). Đây là công trình nghiên
cứu về cảm hứng phê phán trong một số tác phẩm văn xuôi Liên Xô và Việt Nam.
Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong tác phẩm
Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng dưới tư duy tiểu thuyết của nhà

nghiên cứu Đôxtôiepxki.
Trong mảng phê bình nghiên cứu về các tác phẩm thế sự đời tư của Hồ Anh
3
Thái đáng kể đến là những bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Minh Thái, Nguyễn
Anh Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Vân Long, Nguyễn Thị Phương, Trần Duy Hiển, Phạm
Chí Dũng, Hoài Nam, Tuyền Lâm…Trong bài viết Hơn cả sự thật, Nguyễn Anh Vũ
cho rằng: “Với cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái đã khai thác triệt để
khả năng phản ánh một cách trọn vẹn và sinh động hiện thực đời sống của thể loại
tiểu thuyết. Đọc tiểu thuyết này, ta không khỏi lo ngại trước lối sống của một bộ
phận thanh niên trong xã hội hôm nay. Đó là một lối sống thực dụng, buông thả, ích
kỷ, với những ham muốn điên loạn, cuồng loạn. Rõ ràng, họ không đại diện cho thế
hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, tài năng và nhiệt huyết trong xã hội ngày nay. Thế
nhưng, ta vẫn không khỏi xót xa, ngậm ngùi cho những cảnh sống vô hồn, không
hoài bão, lý tưởng đó. Nếu không cảnh báo, ngăn chặn, rất có thẻ đó sẽ là “mảnh đất
màu mỡ” cho cái ác nảy mầm, tồn tại và phát triển” [38, tr 285-286]. Bàn về tiểu
thuyết “Mười lẻ một đêm”, tác giả Hoài Nam nhận định: “Bằng tiếng cười, tác giả
Mười lẻ một đêm đã phanh phui cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm
nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải
nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ đều đang ngổn ngang, và chắc
hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải không mất ít thời gian và nỗ lực cho
nó”.
Cho đến nay, mặc dù chưa có chuyên luận nào viết về Hồ Anh Thái nhưng
đã có một số luận văn viết về tác phẩm của anh. Đó là các luận văn của Nguyễn Thị
Vân Nga (2004): Về tiểu thuyết cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái;
Ngô Thị Thu Hương (2007): Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái qua 3 tác phẩm
“Người và xe chạy dưới ánh trăng, cõi người rung chuông tận thế, mười lẻ một
đêm”, Võ Anh Minh (2005) Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan điểm nghệ thuật vì
con người…
Tạ Duy Anh là một tác giả mới của văn học đương đại, được nhiều bạn đọc
yêu mến. Xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20, Tạ Duy Anh có thời gian sáng

tác chưa thật dài so với các nhà văn khác. Chính vì vậy, các công trình khoa học
nghiên cứu sâu về tác phẩm của Tạ Duy Anh chưa có nhiều. Tác giả Bùi Việt Thắng
trong bài viết Hiện trạng tiểu thuyết Việt Nam đã đưa ra nhận định một cách khái
quát về tác phẩm của Tạ Duy Anh: “Tạ Duy Anh sau Khúc dạo đầu còn chưa thoát
4
khỏi lối ghi chép tiểu thuyết đã cho ra mắt Lão Khổ - một cuốn sách mặn chát vị đời
và lừng lững con người thời đại… Không ít tiểu thuyết hướng tới những vấn đề bức
xúc của đời sống xã hội như Lão Khổ, Ăn mày dĩ vãng, Gót đỏ quyền uy…Trong
tiểu thuyết hôm nay, con người được trình bày như một ẩn số. Bản chất con người
là gì? Nó sống ra sao trong thời hiện tại…Lữ Quán của Hà Phạm Phú, Ăn mày dĩ
vãng của Chu Lai, Lão Khổ của Tạ Duy Anh…đã gây một niềm tin tưởng rằng
chúng ta đang được văn học như một phương tiện linh điệu để hiểu rõ con người”
[43,tr. 14-15].
Tác giả Việt Hoài trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đã nhận
định: “Vẫn là chuyện làng quê Bắc Bộ nhưng thời gian rộng hơn: từ những năm
1940-1990, dung lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhà văn cũng già dặn
từng trải và kỹ thuật nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận như một
bước tiến dài của Tạ Duy Anh …Thiên thần sám hối khiến ai đọc cũng có thể tìm
thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, không tự vấn lương tâm thì cũng tự xấu
hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã, ráo riết mà vẫn mở
đường cho nhân vật - người đọc một lối thoát lương tâm [57]. Trong bài viết này,
tác giả cũng đưa ra một số nhận định về nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh:
“Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại
hình (…) Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở lằn ranh giới thiện - ác. Nhân
vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn - đấu tranh với xã hội, với
môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình. [58].
Ngoài ra, nghiên cứu về tác phẩm của Tạ Duy Anh có bài viết: “Tạ Duy
Anh - gương mặt nổi bật của văn đàn 2004” của Nguyên Trường, cuốn sách: Thế
giới nghệ thuật Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ
Thị Thanh Hà, NXB Hội Nhà văn 2007. Bên cạnh đó có một số luận văn đã đề cập

đến vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
Qua khảo sát kết quả của những người đi trước, có thể nhận thấy những bài
viết nghiên cứu về 3 tác giả Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh và Ma Văn Kháng chủ yếu
liên quan đến những vấn đề về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ
thuật xây dựng cốt truyện…Tuy có đề cập đến những vấn đề còn tồn tại ngổn ngang
trong xã hội nhưng những tác phẩm nghiên cứu chưa đề cập sâu sát đến vấn đề cảm
5
hứng phê phán.
Bằng cách phân tích và tham khảo các ý kiến về tác phẩm của 3 tác giả,
chúng tôi bước đầu nghiên cứu về vấn đề cảm hứng phê phán được thể hiện qua các
tác phẩm nhằm làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn tích cực mà các tác giả muốn gửi
gắm tới độc giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài:
- Phân tích, đánh giá và làm nổi bật được cảm hứng phê phán được thể hiện
qua các tác phẩm của 3 tác giả.
- Chứng minh rằng sự phản ánh hiện thực cuộc sống của các tác giả không
chỉ dừng lại ở việc miêu tả những bề bộn của thế sự - đời tư con người, không chỉ
dừng lại ở việc tố cáo cái xấu cái ác. Các tác giả luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm
tin vào lẽ phải và cái thiện và do đó sáng tác của họ có tác dụng hướng con người
đến với những giá trị đạo đức tốt đẹp của cuộc sống.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Khảo sát kỹ lưỡng nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Ma Văn
Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái để chỉ ra được cảm hứng chủ đạo của các tác
phẩm.
- Vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn xuôi hiện đại để thấy được
những đóng góp của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái trong việc đổi mới
tư duy nghệ thuật trong nền văn học hiện đại thời kỳ đổi mới.
4. Phạm vi tư liệu nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin được phép chọn ra những tác

phẩm tiêu biểu viết về mảng thế sự đời tư của các tác giả. Cụ thể là các tác phẩm:
Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Ngược dòng nước lũ (1999), Côi cút giữa
cảnh đời (1989) của Ma Văn Kháng; Lão Khổ (2005), Đi tìm nhân vật (2004),
Thiên thần sám hối (2005) của Tạ Duy Anh; Người và xe chạy dưới ánh trăng
(1986), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ
Anh Thái.
6
4 . Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp,
so sánh, phương pháp thống kê, hệ thống, phương pháp thi pháp học với mong
muốn tiếp cận tới cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại.
5. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Chân dung cái xấu trong diện mạo con người cụ thể
Chương II: Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn
Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái
Chương III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng phê phán của Ma Văn
Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái

7
Chương 1
CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO
NHỮNG CON NGƯỜI CỤ THỂ
1.1 Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống
Một trong những chức năng cao đẹp, thanh khiết của văn học chính là nâng
đỡ, thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến những điều đẹp đẽ của cuộc
sống. Lịch sử luôn luôn biến động không ngừng, mỗi giai đoạn văn học lại gắn với
những nội dung phản ánh khác nhau. Nếu như dòng văn học cách mạng trước đây
thiên về cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, vẻ đẹp tâm hồn anh
dũng bất khuất của con người Việt Nam thì nền văn học hậu chiến lại dành nhiều

trang viết để tiếp cận những mảng khuất của cuộc sống, những dòng chảy tâm lý
bên trong, những nỗi đau nhân thế âm ỉ dai dẳng đã và đang vẫn diễn ra trong cuộc
sống thường nhật.
Trong bất cứ giai đoạn xã hội nào đều tồn tại song hành hai thái cực trái
ngược nhau đó là tốt - xấu, chính - tà, ánh sáng - bóng tối. Nhìn nhận và phản ánh
về hai thái cực ấy trong mỗi giai đoạn văn học lại có những biểu hiện khác nhau.
Trong giai đoạn văn học hiện đại, nhà văn đã có được độ lùi xa của khoảng cách
thời gian để nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn
dập của quá khứ xa cũng như gần, và phần lớn những trang viết đã đề cập đến
những mảng khuất của cuộc sống vẫn đang ngày đêm âm ỉ sôi trào.
Về vấn đề cảm hứng phê phán trong văn học, chúng ta có thể nhận thấy đây
là vấn đề xuất hiện mạnh mẽ nhất trong văn học Việt Nam vào thời kỳ 1930- 1945
dựa trên những mâu thuẫn dân tộc và những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội một
cách sâu sắc lúc bấy giờ. Trước những năm 30 của thế kỷ XX, những tiền đề của
chủ nghĩa hiện thực phê phán đã xuất hiện, trước hết là trong thơ trào phúng của Tú
Xương, Nguyễn Khuyến, Học Lạc, Nguyễn Thiện Kế và sau đó là văn xuôi của
Phạm Duy Tốn, Vũ Đình Long, Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Nam Xương….Tuy
nhiên, bản thân những truyện, những tiểu thuyết và kịch của các tác giả nói trên
chưa phải là những tác phẩm mang cảm hứng phê phán mạnh mẽ. Một số nhà văn
8
còn mang nặng quan niệm văn dĩ tải đạo, thường dùng nhân vật làm “cái loa phát
ngôn” cho những lý thuyết về số kiếp, về quả báo của nhà Phật hay cho những
nguyên tắc của luân lý đạo Nho hoặc những quan niệm cải lương phong kiến. Trong
giai đoạn những năm 30 của thế kỷ XX, xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn
cũng như thành thị ngày càng bộc lộ những vấn đề nhức nhối đang tấy lên trầm
trọng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và thoái trào cách
mạng, khuynh hướng lãng mạn xuất hiện và chiếm ưu thế trên đàn văn học công
khai. Tuy nhiên, những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng
Phụng, Nam Cao vẫn lần lượt ra đời khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê
phán.

Cảm hứng chung của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đó
là vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán một
cách gay gắt các thế lực thống trị xã hội trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng
con người nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp. Trong những trang viết về
hiện thực xã hội thời kỳ 1930-1945, ta thấy hiện lên một cách sinh động không chỉ
về cuộc sống của người nông dân, mà còn đề cập đến thân phận của những người trí
thức tiểu tư sản nghèo với số phận đầy trắc trở, khó khăn và bế tắc. Trong thời kỳ
mặt trận dân chủ văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, lực
lượng sáng tác ngày càng đông đảo hơn. Ngoài Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp… Nếu như
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng là những nhà văn
tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực phê phán những năm 1930-1939 thì Nam Cao lại là
ngọn cờ tiên phong của văn xuôi trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cùng với Nam Cao, xuất hiện hàng loạt các cây bút trẻ như Tô Hoài, Bùi Hiển,
Mạnh Phú Tư, Kim Lân…
Nối tiếp dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 là trào lưu văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Việt Nam từ sau năm 1945. Trong một
khoảng thời gian dài tồn tại và phát triển, dòng văn học này đạt được những thành
tựu rực rỡ với những nhà văn có tầm cỡ như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố
Hữu, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn
Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, …
9
Xã hội mới ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám đã biến chuyển một cách hùng
hậu với các sự kiện to lớn diễn ra dồn dập, nhanh chóng vô cùng. Trong 30 năm
chiến tranh cách mạng xảy ra, biết bao con người đã sống chung trong một bầu
không khí tuy mất mát nhưng cũng hiển hách những chiến công vẻ vang nhất trong
lịch sử dân tộc. Khí thế cách mạng như làn sóng lan nhanh đến từng vùng đất, làm
thay đổi bộ mặt của từng thôn xóm, từng số phận con người. Và, cũng chính trong
giai đoạn này, bản chất anh hùng cách mạng được kết tinh một cách rực rỡ trong
những hình tượng anh hùng, chiến sĩ trong khi nếu ở xã hội cũ, những mặt tốt,

những mặt anh hùng chìm đi, lẩn xuống chiều sâu, như một dòng nước chảy ngầm.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có thể nói nhân dân ta “ra ngõ gặp
anh hùng”. Những con người đẹp có tâm hồn trong như ánh sáng và hành động cao
cả đã tạo nên một sức hấp dẫn kỳ diệu đối với các nhà văn để chúng ta có thể thấy
được từng nét đẹp trong tâm hồn của những anh hùng chống thực dân Pháp ở Tây
Nguyên, những dũng sĩ diệt Mỹ ở Củ Chi, những nữ anh hùng như Út Tịch ở Trà
Vinh, Nguyễn Thị Hạnh ở Long An, Trần Thị Tâm ở Quảng Trị…và anh hùng Trần
Thị Lý, bà mẹ Suốt, Nguyễn Văn Trỗi, anh giải phóng quân, những cô gái ở Ngã Ba
Đồng Lộc… Tất cả họ đã trở thành những hình tượng mang vẻ đẹp lý tưởng trong
thơ Tố Hữu.
Hiện thực đấu tranh cách mạng trong giai đoạn cách mạng 1945-1975 cũng
là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Để
chiến đấu cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, biết bao nhiêu thế hệ
đã lên đường hành quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy
tương lai”. Hiện thực cao cả đó là đối tượng của thi ca, đặc biệt là anh hùng ca. Tiểu
thuyết miêu tả tất cả các sắc màu của cuộc sống bình thường hàng ngày, đó là: cái
bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái thi vị và cái hiện thực, còn thơ ca
thường nghiêng về cái đẹp, thi vị và cao cả. Cảm hứng về Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, về sự thắng lợi tất yếu của cách mạng, đó là chất thép, là nguyên tắc cơ bản của
thơ ca hiện thự xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng lúc đó như một niềm tin ở tương lai.
Văn học thời kỳ sau năm 1945 có đặc điểm và quy luật phát triển riêng do
yêu cầu của thời đại cách mạng - phản ánh kịp thời, ca ngợi nhiệt thành chủ nghĩa
anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả. Nguyễn Khải là tác giả
10
với tư chất của một cán bộ chính trị, một quân nhân từng trải các vấn đề nóng hổi
của xã hội như vấn đề chủ nghĩa cá nhân khoác áo tập thể (Truyện ngắn Tầm nhìn
xa), vấn đề tôn giáo trong đời sống chung (truyện ngắn Xung đột), vấn đề hạnh phúc
cá nhân trong đời sống chung (Truyện ngắn Mùa lạc). Trong tác phẩm của mình,
Nguyễn Khải thường phân tích sắc bén các mối quan hệ giữa con người với con
người, quan hệ đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. Những nhân vật của Nguyễn Khải có

nhiều tỳ vết. Con người vẫn có thể là nô lệ của thói kiêu ngạo, ham thích phô trương
và chuộng hình thức màu mè. Phong cách Nguyễn Khải chính là sự nhạy bén, phát
hiện vấn đề. Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “vấn đề”. Ông khẳng định, con người
vẫn có thể mất tự do nếu còn đố kỵ, chỉ nhìn và tìm thấy cái xấu của con người, nếu
vị kỷ và thờ ơ trước số phận của người khác. Lối viết tỉnh táo, trí tuệ của Nguyễn
Khải làm như tác phẩm của ông có vẻ như được viết thành các tuyến nhân vật đối
lập nhau: tốt - xấu hay còn gọi là tích cực – tiêu cực.
Văn học giai đoạn 1975-2000 phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp hơn
nhiều so với giai đoạn 1945-1975. Nhờ có công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng năm 1986, xã hội Việt Nam có những chuyển động tích cực,
tuy nhiên, văn học cũng đứng trước những thách thức mới trong cơ chế kinh tế thị
trường luôn song hành tồn tại hai mặt tích cực và tiêu cực. Trong giai đoạn này, nổi
bật những tác giả văn xuôi có tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo
Ninh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Y Ban, Trầm Hương, Trần Thanh Hà, Như Bình,… Điều đáng mừng nữa là lớp nhà
văn thời kỳ trước như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều…
tiếp tục hăm hở viết, viết bằng cảm xúc sâu lắng.
Văn học sau 1975 chú trọng nghiên cứu thực trạng tinh thần xã hội Việt Nam
sau chiến tranh, đó là một hiện thực phức tạp, đa dạng, đan xen mặt sáng và tối
trong đời sống cũng như những thay đổi tất nhiên trong nhận thức và tình cảm con
người. Nhà văn nhờ ngọn gió lành của công cuộc đổi mới đã có thể nhìn thẳng vào
sự thật, viết về mọi sự thật. Sau năm 1980, trong văn học đương đại hình thành
khuynh hướng văn xuôi đời tư - thế sự, các nhà văn gọi là văn xuôi đời thường cùng
tồn tại như một dòng quan trọng bên cạnh văn xuôi sử thi. Văn học có thể viết về
mọi chuyện kể cả những điều phiền toái nhất của đời sống, văn học nói chung đã có
11
điều kiện nhìn sâu hơn vào thế giới sâu kín, những điều nhỏ bé của con người, về
các trạng huống tinh thần tinh tế của nó trong thế giới tâm linh (truyện ngắn Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu). Âm hưởng phê phán - sự
phê phán trên tinh thần nhân văn, cầu thị vang lên mạnh mẽ: truyện ngắn Người

không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân, truyện ngắn Bức tranh của
Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Gió từ miền cát của Xuân Thiều…
Trong thời kỳ đổi mới, nhà văn đã có được độ lùi xa của khoảng cách thời
gian để nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn dập
của quá khứ. Chính trong thời điểm đầy biến động này của hiện thực cuộc sống đã
giúp nhà văn nhìn rõ những nét bản chất của hiện thực quá khứ và từ đó soi sáng
những cái tưởng như mịt mùng hỗn mang của đời sống xã hội hiện tại. Nếu như
trước đây, nhà văn chỉ kịp thời phản ánh được một vài khía cạnh của hiện thực, bộc
lộ được một vài cảm xúc hoặc ca ngợi, hoặc phê phán thì giờ đây, bằng sự chiêm
nghiệm sâu sắc, bằng sự nghiên cứu nghiêm túc đối tượng phản ánh, các tác giả đã
có thể dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn với tất cả sự đa dạng của
hiện thực phong phú và phức tạp của đời sống với sự đan xen của cái cao cả và cái
thấp hèn, cái thiện và cái ác…Nói cách khác, hiện thực cuộc sống với những chiều
dài lịch sử khác nhau đã được phản ánh một cách đa diện, nhiều chiều mà trung
tâm của nó là con người thời đại với những số phận cụ thể gắn liền với vận mệnh
của dân tộc, đất nước. Và đặc biệt hơn, cảm hứng sử thi và cảm hứng đời thường
không có sự tách biệt mà đã gặp nhau trong cảm hứng sự thật. Với định hướng tư
duy sáng tạo như vậy, những tác phẩm viết theo xu hướng này đã đáp ứng được yêu
cầu khách quan của cuộc sống, đã giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực
trong bối cảnh cuộc sống trắng đen lẫn lộn, thật giả khó phân tách, khó nhận biết.
Điều đáng nói là, ở những tác phẩm viết theo hướng này, chất lý tưởng, vẻ đẹp rực
rỡ của những tính cách nhân vật không hề bị hạ thấp mà càng cháy lên trong biết
bao cái dữ dội, khốc liệt của cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác!
Cảm hứng phê phán trong văn học là một vấn đề đã được bàn đến từ lâu khi
nói về văn học hiện thực XHCN và được xác định như một nhiệm vụ song song
bên cạnh nhiệm vụ khẳng định, ca ngợi cái đẹp, cái anh hùng. Đồng chí Phạm Văn
Đồng đã khẳng định: “Chúng ta cần khuyến khích sự phê phán và có nhiệm vụ phê
12
phán những cái xấu, cái không đúng còn tồn tại trong xã hội ta, để loại trừ nó, để
phá bỏ nó” (Xây dựng nền văn hóa văn nghệ ngang tầm vóc dân tộc ta, thời đại ta,

NXB Sự Thật, H. 1979, tr47). Nền văn học hiện thực XHCN đã vượt qua văn học
hiện thực phê phán ở nhiệm vụ lịch sử mới của nó là khẳng định xu thế phát triển
theo chiều hướng tiến bộ và chiến thắng của hiện thực mới - hiện thực tốt đẹp của
xã hội XHCN. Văn học hiện thực XHCN của chúng ta chỉ thực sự là vũ khí đấu
tranh cách mạng, đấu tranh cho những tư tưởng nhân văn của con người khi nó
đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ phê phán và khẳng định như Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói là nó phải “phò chính trừ tà”.
Nhiều tác giả văn học thời kỳ hiện đại đã ngày đêm trăn trở, viết nhiều trang
sách để phản ánh chân thực sự phức tạp, bề bộn của cuộc sống. Bên cạnh Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp thì Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là
những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này. Mỗi người một tâm sự, một cảm nhận
khác nhau, nhưng ở đó tất cả đều là nỗi đau nhân thế khi phải chứng kiến sự thực
cay nghiệt của cuộc sống. Sự xuống dốc trong quan niệm sống, thói tư duy giáo
điều máy móc, sự tôn thờ chủ nghĩa vật chất, sự coi trọng quyền lực, con người sa
đoạ, độc ác, giả dối… Muôn vàn những nhức nhối của cuộc sống được miêu tả
trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái khiến ta thấm thía
hơn bao giờ hết cái đa đoan, đa sự của cuộc sống thường nhật hôm nay.
Viết không chỉ là phê phán thuần tuý, phủ định sạch trơn những mặt tiêu cực
còn tồn tại trong xã hội, viết nhiều về cái ác nhưng các tác giả đều không hề mất
niềm tin vào con người và cuộc sống. Khát khao hướng thiện và xây dựng một cuộc
sống tươi đẹp trong tâm hồn mỗi con người chính là thông điệp mà các tác giả
muốn gửi tới bạn đọc.
1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác
phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái
1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi
Macxim Goorky đã từng nói: “Văn học là nhân học”, văn học luôn quan tâm
đến đời sống của con người, đến thân phận con người và có nhiều khám phá mới về
con người. Văn học nói chung và các sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ
13
Anh Thái nói riêng đều quan tâm đến giá trị cá nhân trong cuộc sống thường nhật.

Cho nên, bên cạnh những khía cạnh đáng được ca ngợi, cổ vũ của xã hội khi thể
hiện hết tính ưu việt thì cũng cần lên án, phê phán những khiếm khuyết, những kẽ
hở của xã hội đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác nảy nở, hoành hành. Một trong
những điều nhức nhối mà văn học hiện đại đề cập đến chính là thực tế một số không
nhỏ con người đang ngày càng biến chất, tha hoá nhân cách vì mải mê chạy theo
chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi. Trong cuộc sống hiện nay, không ít “con
người vì cái lợi vật chất đang hèn đi, tầm thường đi” (Ma Văn Kháng). Nói đến
những yếu tố khiến con người rơi vào tình trạng tha hoá nhân cách thì không thể
không kể đến sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền chi phối đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của con người. Đứng trước sự cám dỗ của đồng tiền, con người
không biết kìm hãm lòng tham và dễ dàng trở thành nô lệ của đồng tiền, trở nên tha
hoá nhân cách.
1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách
Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là một trong số các tác giả
thường đi sâu khai thác về mảng đề tài thế sự đời tư của con người hiện đại. Qua
những tác phẩm của ba nhà văn, ta thấy một xã hội đa chiều, đa màu sắc được tái
hiện một cách sinh động dưới ngòi bút đậm tình người, với chiều sâu của tâm tư,
với khao khát cháy bỏng về một cuộc sống nhân ái, tốt đẹp. Trong tác phẩm của Ma
Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, bên cạnh nội dung ca ngợi những trí thức
giàu phẩm chất, tâm huyết thì các tác giả còn chú trọng tới việc xây dựng nên loại
trí thức tha hoá về nhân cách. Trí thức tha hoá về nhân cách là những con người vốn
mang danh là trí thức nhưng nhân cách đã bị huỷ hoại mạnh mẽ bởi đồng tiền, bởi
danh vị, họ đã lợi dụng quyền lực của mình để gây ra bao nỗi éo le, bi kịch cho
những người có tài, có tâm, những con người có đạo đức trong xã hội. Đáng tiếc và
đau đớn nào bằng sự tha hoá của kẻ có học lại bắt nguồn, có mầm, cõ rễ từ những
ham hố cá nhân và trước sức mạnh của vật chất thì sự tha hoá của người tri thức còn
đáng sợ gấp ngàn lần hơn sự tha hóa của kẻ vô học.
Ma Văn Kháng bắt đầu đến với văn chương từ năm 1959 với truyện ngắn
“Phố cụt” trong thời điểm cuộc chiến tranh của dân tộc đang diễn ra cam go, khốc
liệt. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, Ma Văn Kháng có quan niệm khác

14
nhau về con người. Trong sáng tác sử thi của Ma Văn Kháng, ông thường viết với
mạch cảm xúc chung của văn học cách mạng với sự phân định rõ ràng của hai thái
cực: tốt - xấu, ta - địch, bạn - thù. Sáng tác giai đoạn đầu của Ma Văn Kháng chủ
yếu ca ngợi con người mới của thời chiến tranh vệ quốc có đau thương, mất mát mà
hào hùng. Bước chân của ông nối tiếp nhà văn Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Mạc Phi…
để khẳng định những giá trị cao đẹp trong tâm hồn của con người miền núi nói
chung và đồng bào Tây Bắc nói riêng. Bước sang giai đoạn mới, cùng với sự
chuyển mình của đất nước, dân tộc, thì văn học cũng có những sự thay đổi lớn. Nếu
các tác phẩm mang tính sử thi trọng tâm tạo dựng bức tranh lịch sử hoành tráng về
một thời đại chiến tranh có mất mát hy sinh mà không kém phần hào hùng của các
dân tộc vùng biên ải thì tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng nhiều khi
khiến cho người đọc cảm thấy nhà văn đang đối thoại với cuộc sống, đối thoại với
con người, đối thoại với những dòng chảy cảm xúc của nhân vật mà ông đang đào
sâu, tìm tòi để thể hiện chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Những sự kiện đời sống
trong tác phẩm của Ma Văn Kháng là những sự kiện của cuộc sống đan kết bởi vô
vàn điều bất ngờ, nhỏ nhặt. Khác với cái quyết liệt trong đời sống chiến tranh người
ta có thể nhận định rõ được ranh giới giữa hai thái cực tốt - xấu, trắng - đen, chính -
tà của cuộc sống, trong cuộc sống thời hậu chiến bề ngoài có vẻ như bình yên
nhưng trong lòng đầy mâu thuẫn đã trở thành cuộc chiến nội tâm đầy dai dẳng hiện
diện trong mối con người, mỗi số phận, mỗi gia đình. Thật dễ hiểu vì sao sau chiến
tranh, con người không còn ở thế giằng co giữa sự sống và cái chết nhưng trong tâm
hồn luôn luôn cảm thấy chông chênh, lạ lẫm với chính mình.
Với giọng văn mềm mại, hiền lành nhưng quyết liệt, Ma Văn Kháng viết về
những mặt trái của xã hội với nội dung nhấn mạnh ma lực của đồng tiền đã làm hoại
suy ý chí, tình cảm và nhân cách của con người một cách mạnh mẽ. Ma Văn Kháng
đã từng khẳng định: “Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền là một hoàn cảnh lắm
vi trùng làm cho con người ta bị nhiễm một thứ bệnh mất nhân tính” (Mùa lá rụng
trong vườn). Cũng như những nhà văn khác như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh
Khuê, Ma Văn Kháng đã không ngần ngại nhấn mạnh giá trị vật chất của đồng tiền

ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân tính của con người. Một trong những tác phẩm đề
cập đến vấn đề này của ông là: Đám cưới không có giấy giá thú (1988), Côi cút
15
giữa cảnh đời (1989) và Ngược dòng nước lũ (1999).
Đám cưới không có giấy giá thú (1988) ra đời được bạn đọc đón nhận một
cách nồng nhiệt. Đọc tiểu thuyết này, độc giả khó có thể quên được cảm giác xót xa
đến não nề dâng trào trong lòng mình bởi vô vàn những trái khoáy ập vào số phận
của từng nhân vật. Đây là một tác phẩm phản ánh sâu sắc hình ảnh những con người
bị cơn lốc ham muốn vật chất cuốn đi trong nền kinh tế thị trường có vô vàn điều
cám dỗ lòng người. Họ đã bị những dục vọng tầm thường, những cơn lốc của ham
muốn cuốn trôi một cách mạnh mẽ. Trước thực tế ấy, nhiều người đã bị mất nhân
cách, bản lĩnh của mình.
Ma Văn Kháng tập trung phản ánh hiện tượng những trí thức bị tha hoá, tự
đánh mất giá trị bản thân mình một cách sinh động với một tâm trạng buồn đến da
diết. Sự sùng bái đồng tiền trở thành biểu hiện bằng cuộc chạy đua đầy cuồng vọng
đuổi bắt những món lợi vật chất tầm thường hàng ngày. Sau những năm tháng chiến
tranh gian khổ, con người trở về với một cuộc sống bình yên nhưng cũng phải đối
mặt với không ít những khó khăn. Đối mặt với mọi cám dỗ của đồng tiền, nếu
không kiên định trong ý thức vì mất phương hướng, rơi vào bóng tối của sự tha hoá
biến chất là lẽ đương nhiên. Hình ảnh những nhân vật trong “Đám cưới không có
giấy giá thú” cho ta thấy được một bức tranh đủ màu sắc về những con đường dẫn
nhân cách người trí thức rơi vào bùn lầy. Ta thấy ở đó bóng dáng của Xuyến, Trình,
Quỳnh, Thảnh, Thầy Thuật. Đối với Ma Văn Kháng, bên cạnh việc ca ngợi những
trí thức được nâng lên thành kiểu mẫu của giá trị thì ông còn tập trung bóc tách
nhân cách của những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất bản ngã của mình. Với những
cán bộ, thầy giáo, học sinh trong miêu tả của ông phần nhiều bị chìm trong lối sống
lạnh nhạt, thiếu tình người, một cách sống thờ ơ và vô trách nhiệm với chính tư
cách bản thân mình. Ma Văn Kháng nhận ra và xót xa thốt lên một sự thật đau lòng:
“Học trò giờ lẫn lộn với lưu manh. Chúng có thể lột truồng thầy giáo của chúng ra
và chơi trò phết sơn đỏ lắm” [24,299]. Cu học trò Tuẫn - con trai Bí thư Lại đã cậy

quyền lực của bố mà hỗn láo, phỉ báng thầy trước mặt bạn bè. Thầy Tự phạt Tuẫn
bằng một cái tát thì hắn nói: đời ông từ nay khốn khổ rồi. Bên cạnh đó, cô nữ sinh
Trình vốn là một người ngoan ngoãn, chỉ vì bệnh tật và bị bỏ rơi, bị nghèo đói đã
trở nên mất niềm tin vào cuộc sống, trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù
16
đời. Còn Xuyến, vợ Tự, vốn là một cô thủ thư, do ham muốn vật chất quá độ đã trở
thành một người đàn bà đầy bản năng, với một nguyện vọng là giàu có, sung sướng.
Nhân vật Thầy Thuật trong “Đám cưới không có giấy giá thú” là một nhân
vật vừa đáng thương và đáng trách, anh bị cái lợi vật chất lôi đi dần xa những giá trị
cao quý của cuộc sống. Vốn là bạn thân của Tự và Kha, nhưng khác với Tự và Kha
là những con người tuy đối diện với sóng gió vùi dập của cuộc đời nhưng vẫn giữ
được tâm hồn thanh cao, Thuật lại rơi vào bi kịch của cơn lốc vị kỷ tầm thường
cuốn trôi. Buồn vì sự thay đổi của bạn, Tự vẫn luôn tự hỏi vì sao: “Vậy thì từ lúc
nào Thuật đã cách xa anh?” Thuật là nạn nhân trong sự giả dối, sự lôi kéo của Cẩm
và Dương. Bị Dương và Cẩm vừa ra đòn dụ dỗ vừa ngấm ngầm hành hạ, Thuật dần
dần bị chìm trong cuộc sống mất niềm tin và bị lối sống bất cần, ngạo mạn lôi kéo.
Tài năng của Thuật bị xuống dốc bắt nguồn từ sự đố kỵ, mưu chước, sự chèn ép
ngáng chân của Cẩm và Dương. Anh trở nên suy đốn, trở thành một kẻ “ngông ngạo
khinh bạc và độc địa” [24,266], anh “lạm dụng uy tín của thầy dạy giỏi, lao như
điên vào các lớp dạy thêm, thoát ra khỏi cảnh túng bấn” [24,256-257], và “chỉ nhăm
nhăm kiếm tiền làm giàu gây bao tiếng xấu đến thanh danh nhà trường, …gây ai
oán cho bao gia đình học sinh”. [24,273]. Khi bị kìm hãm quá mức, Thuật đã đánh
mất giá trị và tài năng của một người thầy dạy giỏi và đã phát điên chỉ trong một
thời gian ngắn. Đau đớn thay và tiếc nuối cho Thuật, từ một người trí thức có bản
lĩnh, tâm huyết với nghề nghiệp lại trở thành nạn nhân của thế giới biến động và
quay đảo.
Khác với những nhà văn của thế hệ trước, Tạ Duy Anh đặc biệt quan tâm thể
hiện trạng thái tinh thần con người hiện đại với tất cả những mặt xấu - tốt của nó.
Đời sống hiện thực được phản ánh trong ba cuốn tiểu thuyết của anh: Đi tìm nhân
vật (2004), Lão Khổ (2005) và Thiên thần sám hối (2005) là muôn vàn mặt trái, mặt

mâu thuẫn và phức tạp của cuộc sống. Anh đã phản ánh trong tác phẩm của mình
hiện thực con người đối xử với nhau bằng sự nhẫn tâm, sự vô tâm và vô ơn. Những
dòng suy tưởng, những câu hỏi được đưa ra với sự chua xót khôn nguôi: “Cuộc
sống này tồn tại phải chăng bằng sự vờ vĩnh? Chao ôi, bao giờ con người mới gỡ
được chiếc mặt nạ phải đeo vào kể cả khi ngủ với tình nhân? Đối với lão, ông Bùi bí
thư huyện - chỉ là một thằng ăn cắp mạt hạng. Ông ta ăn cắp từ cái dăm cối cho đến
17
lòng tin của lão và hàng vạn người” [1,61]. “Ai đó chết chứ không phải ta: thằng bé
đánh giầy nào đó chết chứ không phải con cháu ta…Thậm chí ý nghĩ ấy khiến
chúng ta hoan hỉ, sự hoan hỉ của những người đứng ngoài nỗi bất hạnh, hoặc không
khỏi có lúc ta tặc lưỡi “cho chúng nó chết đi, bọn lưu manh” [2, 6]. “Đứa nào chết
mặc mẹ chúng nó. Không thích sống thì chết liên quan gì đến tôi! Buổi sớm ông
đừng có nói chuyện chết chóc nghe chưa? [2,10]. “Án mạng à? Thì đã sao? Liên
quan gì đến con Miss của tôi? [2,12]. “Cô sinh viên oằn mình móc trong túi ra
những tờ giấy màu xanh mà tôi đã kể. ông bác sĩ lạnh lùng đếm lại rồi bỏ vào túi áo
blu của ông ta. Khiếp cái tay vừa lầy nhầy máu giờ đã lại trắng muốt. Những tờ
giấy màu xanh khiến ông ta phấn chấn hẳn lên, miệng huýt sáo một giai điệu rất
nhộn” [3,18]. Chính sự thản nhiên, vô tư, thờ ơ, ích kỷ của con người và lối đối xử
vì đồng tiền đã dẫn đến những hậu quả khôn lường, là nguồn gốc cho những bi kịch
của số phận con người.
Đi tìm nhân vật là hành trình tìm kiếm chính mình, tìm kiếm bản chất của
con người và là tiểu thuyết mang đậm màu sắc triết lý, luôn đặt ra cho bản thân và
độc giả phải trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Ai là tôi? Tôi là hắn? Hắn giết tôi? Trong tác
phẩm này, nhà văn đã đi tìm những mẫu nhân vật mới phù hợp với con người hiện
đại. Con người hiện đại đang có những thay đổi cơ bản và mạnh mẽ cả về hình thức
lẫn bản chất. Những thay đổi đến chóng mặt đã khiến cho chúng ta không còn nhận
ra mình là ai nữa. Có người nói rằng, tiểu thuyết Ði tìm nhân vật của Tạ Duy Anh
mở đầu như một tiểu thuyết trinh thám: một kẻ tình cờ vớ được mẩu báo, vỏn vẹn
mấy hàng: nạn nhân là thằng bé đánh giầy, quãng 10-12 tuổi bị một gã đàn ông đâm
chết ngay tại chỗ. Hung thủ được tạm mô tả như kẻ mắc chứng thần kinh, ăn mặc

sang trọng. Việc truy bắt đang được tiến hành ráo riết. Với sự mở đầu đầy tính nghi
vấn như vậy, cả tác phẩm được mở ra với vô vàn câu hỏi, câu hởi lớn nhất vẫn là
câu hỏi về tình người.
Tác phẩm viết nhiều về nhân vật “tôi” - Chu Quý, nhưng nếu như nhân vật
“tôi” bị ám ảnh bởi những hận thù, thì nhân vật tiến sĩ N lại sống trong cảnh huống
tìm kiếm những vị kỷ cá nhân, đi theo sự chỉ đạo của “hắn”, một kẻ vô hình, nhưng
có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ chỗ nào con người có sự ganh ghét thù hận. Có người ví
tiến sĩ N trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh và nhân vật Khuynh trong Người
18
và xe chạy dưới ánh trăng của Hồ Anh Thái là một cặp anh em sinh đôi được tách
ra sống ở hai môi trường khác nhau nhưng lại có tính cách giống nhau tương đồng.
Tiến sĩ N luôn sống trong hai trạng thái một là của con người an nhiên, thành đạt
trong cuộc đời giả và một kẻ cô đơn cực độ trong những suy nghĩ về lẽ sống chết
trong cuộc đời thật của mình. Bề ngoài là một con người hết sức hoàn hảo “Ông là
hình mẫu của một con người tự làm nên sự nghiệp, một nhà khoa học tận tuỵ, một
công chức mẫn cán, một người đàn ông điềm đạm và đức độ. Ông biết nương theo
thời thế để sống và hiến mình cho sự nghiệp chung - một cách đánh giá phổ biến và
chính xác” [2,128]. Vậy nhưng, trong tận sâu trong tâm hồn, ông lại là một con
người hoàn toàn khác. Tiến sĩ N vì muốn bảo vệ lí lịch trong sáng của mình, muốn
giữ cái địa vị mà mình đang có nên đã để mặc đứa em trai của mình bị chết trong
thê thảm. N đã bị ám ảnh bởi cái chết của đứa em trai, nên đã tìm ra chiến trường để
tìm kiếm một cái chết nhưng đây là hành động mang tính chất vụ lợi. "Không một
ai hồi đó hiểu được động cơ nhập ngũ của tôi. Tôi quyết định tìm kiếm một cái
chết." (2,127) Tiến sĩ N càng dằn vặt lương tâm thì hắn càng muốn xung trận để
được chết nhưng đó là hành động nhằm nguỵ trang cho những tham lam và dục
vọng của ông. Nhưng “éo le” thay, mọi người lại nghĩ đó là hành động dũng cảm và
con người này cần được gìn giữ. May cho N, hắn đã không phải ra trận mà còn
được cử đi học ở nước ngoài. Dường như đó cũng là một hình phạt dành cho hắn, N
đã phải sống từ giả dối này kéo theo giả dối khác, và giả dối đã được đẩy lên thành
cực điểm trong mối quan hệ với vợ mình. Ông nhận thấy mình thực sự là một con

người đê tiện, ngay cả khi ngủ với vợ, ông cũng phải sống giả dối để rồi khi đồng
hồ điểm 4h sáng, ông lại bước vào căn phòng làm việc và tự đối diện với chính
mình và sự dày vò day dứt khôn nguôi. Không thể chịu đựng được những cuộc “tra
tấn tinh thần” khi ông đặt chân vào phòng làm việc, vào 4h sáng của một ngày, tiến
sĩ N đã giết vợ và tự kết thúc cuộc đời, kết thúc cuộc sống dằng dặc cô độc và giả
dối.
Viết về cái xấu trong xã hội, Hồ Anh Thái là một trong những tác giả tiên
phong của nền văn học hiện đại. Bắt đầu cầm bút từ khi là cậu sinh viên 17 tuổi và
thành danh khá sớm khi chưa đầy 20 tuổi, Hồ Anh Thái trở thành một trong những
hội viên Hội Nhà văn trẻ tuổi nhất vào thời điểm lúc bấy giờ. Từ những tác phẩm
19
đầu tiên, Hồ Anh Thái đã viết về những chủ đề sắc bén về các vấn đề xã hội và nhân
tình thế thái. Những sáng tác đầu tay của Hồ Anh Thái thường gắn với chủ đề cuộc
sống của lớp thanh niên trí thức trên con đường lựa chọn hướng đi cho mình. Khi
đất nước bước vào con đường mở cửa, Hồ Anh Thái lại hướng về đề tài viết về
những nỗi đa đoan của cuộc sống và con người miền đô thị với bao trăn trở. Một
trong những số đó là Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận
thế, Mười lẻ một đêm.
Người và xe chạy dưới ánh trăng có bối cảnh là khu nhà tập thể, một tổ dân
phố, là một bức tranh thu nhỏ của xã hội thời hậu chiến. Bên cạnh việc miêu tả
những con người có lối sống trong sáng, có nhân cách, có ý chí; thể hiện niềm tin
yêu của tác giả đối với thế hệ trẻ, tác giả đã khắc hoạ một cách chân thực chân dung
của những con người có lối sống tham lam, vị kỷ, chạy theo dục vọng cá nhân nổi
bật nhất là nhân vật Khuynh-Diệu. Khuynh là một nhân vật được Hồ Anh Thái miêu
tả cặn kẽ từ hình dáng đến tính cách. Tuổi thơ Khuynh đã mang sự lọc lõi của một
con người, “Khuynh sống một tuổi thơ sung sướng, những ý thích oái oăm đều
được thỏa mãn, và một thời thanh niên thoải mái, buông thả” [34,172]. Để gột rửa
tàn dư của những điều xưa cũ, “Khuynh đã lao vào cuộc sống hừng hực khí thế mới
của thủ đô giải phóng, nhiệt tình tham gia các hoạt động của sinh viên, sau đó tình
nguyện gia nhập quân đội” [34, 172]. Con người lạnh lùng, thiếu tình người của

Khuynh được tác giả miêu tả trong mối quan hệ với người vợ cũ của Khuynh. Khi
vào sâu trong tuyến lửa, “để lại vợ con tại hậu phương, anh như cảm thấy trút được
gánh nặng, vì đã để được vợ con ở lại. Cũng lạ, trong suốt mấy năm ở tuyến lửa,
Khuynh ít nghĩ đến họ” [34, 177]. Khi từ tuyến lửa trở về, một ngày sau Khuynh
mới hỏi đến thông tin về vợ con và hay vợ con đã bị bom chết nhưng anh vẫn dửng
dưng, chỉ cần một vài lời ngọt nhạt dỗ dành của mẹ đã đủ giải thoát cho Khuynh nỗi
day dứt, bất an về vợ con. Khuynh, con trai bà, “nếu làm chồng, làm cha sẽ là một
người chồng, người cha dửng dưng lạnh lẽo. Nếu là một người yêu sẽ là một người
yêu ích kỷ, không bao giờ yêu hết mình, ngoại trừ nỗi đam mê xác thịt đến cuồng
bạo” [34,179].
Khuynh điển trai, giỏi tiếng Anh nhưng lắm tham vọng, ích kỷ và trống rỗng
tình người. Là một người mang trong mình sự tham vọng mãnh liệt và tham vọng
20
ấy thực sự bùng lên khi anh được chuyển từ tuyến lửa ra Hà Nội công tác ở ngành
ngoại giao. Năm 1865, Khuynh có may may mắn gặp được “anh Chín”, lúc đó là
cấp Vụ trưởng Vụ Ngoại giao, do có thiện cảm với Khuynh vì sự tháo vát, dáng vóc
cao ráo và có vốn tiếng Anh khá, vị Vụ trưởng rất mến mộ Khuynh và ông tìm cách
cất nhắc Khuynh về Hà Nội làm việc. Khi về làm việc tại Bộ Ngoại giao, được sự
tin yêu của cấp trên dành cho, với chức danh là Trợ lý Bộ trưởng, ông ta đã mặc sức
tung hoành, lạm dụng chức tước kìm nén tương lai và công việc của người khác với
đủ mưu mô, mánh lới quỷ quyệt. Khi Toàn đã trải qua kỳ thi để đạt được suất đi học
nước ngoài, Khuynh đã dùng mưu mô hèn hạ ngăn cản việc Toàn đi học để dành
suất học bổng đó cho em vợ. Là một kẻ ngạo mạn, dối trên lừa dưới, những khi có
sai trái gì trong công việc, Khuynh chối cãi bằng cách “vật mình vật mẩy với Bộ
trưởng” để đánh trống lảng mong thoát tội, nhưng những mánh khoé của Khuynh
cũng đã bị lột tẩy.“Khuynh quên rằng không nên lạm dụng chiến thuật cổ điển vào
cái thập kỷ tám mươi này nữa. Bộ trưởng đã quá quen thuộc, đã quá ngán cái trò rẻ
tiền này, nhất là kho trong tay đã nắm được những bằng chứng không thể chối cãi.
Cho nên Khuynh thật sự kinh hoàng, khi ở giữa cuộc họp lãnh đạo Bộ, Bộ trưởng
tuyên bố dứt khoát: “Tôi chấp nhận nguyện vọng của anh Khuynh. Nếu có Viện,

hoặc Vụ nào nhận thì anh về đó công tác. Nhưng vụ nào cũng sợ, vì ông ta có
truyền thống đi tới đâu làm mất đoàn kết nội bộ đến đó.” [34,149].
Bất chấp tất cả để đạt được mục đích, bất kể đó là mục đích gì, đó là cách
sống của Khuynh. Sống trong một gia đình không hạnh phúc với người vợ đáo để,
hắn vẫn cố gượng, sống giả dối, tình cảm giả dối với người vợ hắn khinh bỉ, ghê
tởm chỉ nhằm bảo toàn chức vụ. Hồ Anh Thái soi chiếu nhân vật trên nhiều bình
diện để lột trần bộ mặt của hắn. Sống bên người vợ như Diệu, một người đàn bà
không có nhan sắc bề ngoài nhưng lại vô cùng tinh quái, mưu mô và quỷ quyệt đến
thâm, Khuynh muốn thoát ra khỏi cuộc sống ngột thở đó. Hoàn toàn bất lực trước một
con người tinh quái như Diệu, Khuynh trở thành một con người nhu nhược, hèn yếu
đáng thương. Khi bản chất xấu xa đến lúc bị đưa ra ánh sáng, mất hết chức quyền,
gia đình tan nát, hắn lại càng rời xa tính người, như một kẻ vô hồn mất hết ý thức,
Khuynh lao ra khỏi nhà “chạy roàm roạp trên con đường nước ngập quá đầu gối” và
“Giờ đây Khuynh chẳng cần gì giữ gìn tư thế chức vụ, phẩm hàm, tước bỏ hết cả rồi.
21
Trước mắt Khuynh chỉ còn người đàn bà bị rạch mặt và căn nhà có căn phòng tắm
nước nóng kia” [34, 360].
Cũng giống như Khuynh là một trí thức tha hóa về nhân cách, Thế trong Cõi
người rung chuông tận thế cũng từng là cán bộ cao cấp từ thời chiến. Chiến tranh
qua đi, khi xã hội chuyển sang nền kinh tế thị trường, sẵn trong tay một số tiền, Thế
từ bỏ con đường chính trị lao vào làm ăn và xây khách sạn. Đây là lĩnh vực tạo
nhiều cơ hội để Thế phát huy cái khôn ngoan, lọc lõi có từ trong máu của mình. Thế
đã xây dựng được mạng lưới hậu thuẫn vững chắc nên có thể vươn tay thao túng
được nhiều thế lực kể cả những nhân vật có chức sắc, có máu mặt, ông ta có thể sắp
đặt mọi việc theo ý thích của mình. Không giống như Khuynh, Thế không phải là
kẻ nhiều tham vọng và mù quáng nhưng lại có được cái đầu luôn tỉnh táo, khôn
ngoan, nhanh nhạy, nắm được biến hóa của thời thế để tự điều chỉnh mình cho thích
nghi: “Trong mọi tình huống nước sôi, lửa bỏng. Thế luôn là người lạnh, bình tĩnh,
sáng suốt. Đường đi nước bước, cắt đặt công việc gọn. Xử sự đẹp.” [38,32]. Không
giống như Khuynh nhưng hành xử kiểu đại gia như Thế cũng là kiểu tha hóa một

cách hiện đại hơn Khuynh.
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, sự tha hóa còn len lỏi cả vào nhà trường,
nơi vốn được xem môi trường nghiêm túc, vững chắc nhất để giữ gìn nền tảng đạo
đức làm người. Ngoài hai hình ảnh là nhân vật Khuynh và Thế, trong tác phẩm của
Hồ Anh Thái, tác giả còn xây dựng cặp giáo sư Xí - Khoả để nhấn mạnh sự tha hoá
trong nhân cách người trí thức. Đây là hai trí thức nhưng lại hiện lên trong mắt
người đọc là những con người tham lam, bỉ ổi, vô nhân cách, vô đạo đức. Một ông
thì mắc bệnh cười, một khi cười thì không sao kìm hãm được, cười như một người
điên, và có một tật xấu là chuyên sờ đùi nữ sinh viên trẻ. Còn một ông thì ăn uống
tham lam, tục tằn, ăn mặc tềnh toàng, phát biểu thì tràn lan trong một thời gian hạn
hẹp, nói liên miên không dứt làm nhiều người phải khó chịu và có một sở thích là
đái bậy vào tượng đài - một biểu tượng được coi là công trình văn hoá mà ông được
coi là nhà văn hoá lớn. Đây là hình ảnh của một nhà trí thức lớn nhưng nhân cách
chỉ ngang tầm với một kẻ lưu manh vô học. Ông Khỏa hướng dẫn luận văn cho nữ
sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân: “Thầy bật cười
khan… Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà
22
thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu
nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế
nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy” [36,77]. Từ hình ảnh một ông giáo
già, tay nắm chân một cô gái trẻ, miệng cười không dứt cho người đọc bóc lột cái
dâm, cái quái đản, cái tha hóa của một trí thức.
Với kiểu trí thức tha hóa về nhân cách, Hồ Anh Thái cho ta thấy những thói
hư tật xấu của con người trong xã hội, không chỉ giúp ta nhận ra sự phức tạp trong
cơn chuyển mình của xã hội Việt Nam từ bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường mà
còn mang ý nghĩa cảnh báo sâu sắc, động chạm đến những vấn đề mà không phải
cây bút nào cũng dám nói tới một cách thẳng thắn và đau xót trong tác phẩm của
mình.
1.2.1.2. Trí thức giả danh, những người đội lốt trí thức nhưng bất tài, vô
dụng

Lợi dụng thế lực chèn ép gây bao tấn bi kịch cho những người có thân phận
nhỏ bé không có quyền lực là một trong những nội dung được phản ánh chân thực
trong văn xuôi hiện đại. Trong Đám cưới không có giấy giá thú, Ma Văn Kháng có
nêu: “Cuộc đánh tráo các giá trị vì lợi ích nhỏ nhen và là biểu hiện của sự tha hóa
cuối cùng của phẩm cách con người, lưu manh tính đang trở thành đặc điểm của
thời đại lịch sử”. Sự độc đoán của kẻ có quyền đã vi phạm tới quyền dân chủ, hủy
hoại tài năng và niềm tin của người trí thức. Đó là loại trí thức giả danh như Hiệu
trưởng Cẩm, Bí thư Chi bộ Dương, Bí thư Thị ủy Lại.
Cẩm là loại trí thức giả danh dốt nát và bần tiện, trình độ văn hoá chỉ học lớp
bẩy, hiểu biết ít nhưng nhờ may mắn lợi dụng được khe hở của xã hội nên Cẩm đã
luồn lách để đạt tới chính danh. “Cẩm là sản phẩm của một thời lấy lý lịch ba đời
nghèo khó, lấy tấn phân xanh, phân chuồng làm ra thước đo giá trị duy nhất mỗi
con người… “ [25, 133]. “Lý lịch ba đời Cẩm, khỏi chê. Cụ, ông nội, bố đều là mõ,
loại cùng đinh, mạt hạng lúc bấy giờ” [25,133]. Làm hiệu trưởng trong một thời
gian dài nhưng “Cẩm vẫn là kẻ dở ông giở thằng. Vẫn cứ không sao xoá được cái
cốt cách mõ làng của gia hệ mình] “25,133]. Hơn nữa, Cẩm là giáo viên văn nhưng
hắn lại không dạy nổi học sinh vì không có năng lực, không có cảm quan thẩm mỹ
về văn học. Giải thích từ sai, bắt học trò chữa cụm từ “Hào khí đông a” thành “Hào
23
khí đông nam châu Á”, đặc biệt hơn, trong mỗi tiết văn, Cẩm đã biến bài văn thành
bài chính trị, luận lý, đạo đức ngô nghê. Không những là một trí thức dốt mà Cẩm
còn lười trau dồi học vấn và rất ngại đọc sách “Sách hoá ra là một sản phẩm vừa xa
xỉ, vừa vô bổ. Với Cẩm, giỏi lắm nó chỉ đóng vai một thứ thuốc ngủ” [25,132]. Là
thầy dạy văn nhưng Cẩm chưa một lần đọc Truyện Kiều nên khi học sinh hỏi nghĩa
của câu thơ “Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường” thì
hắn chỉ biết trả lời chung chung là: “Thế mới hay chứ…thì thế mới gọi là thơ chứ”.
Khi học trò không hiểu nghĩa cần giải thích, hắn lại trách: “Cái cậu này dốt bỏ mẹ,
thế thì mới gọi là đại thi hào Nguyễn Du chứ” [24,115]. Dốt nát như vậy nhưng con
đường tiến thân của Cẩm lại hết sức may mắn, Cẩm được đề đạt làm hiệu trưởng vì
Cẩm là đảng viên duy nhất. Do xuất thân từ gia đình làm mõ nên Cẩm mang bản

chất là tư cách mõ rất rõ nét: “Hắn tham lam vô độ và bần tiện, liều lĩnh, lắm khi kể
cả mặt ái tình…đã mấy phen khốn đốn vì đàn bà” [24,124]. Với dục vọng tham lam,
hắn đã gây ra những vụ xì căng đan với đàn bà. Vốn xấu tính, dốt nát và bần tiện,
hắn luôn có tính đố kị với người khác. Khi nắm được quyền lực trong tay, với suy
nghĩ mọi người ngáng đường thăng tiến của mình, Cẩm đã làm cho Tự, Thuật khốn
đốn và vu khống tội làm cho ông Thống trở nên tàn phế. Cẩm đã không từ bỏ một
âm mưu nào nhằm tước bỏ mọi chức danh của Tự: danh hiệu giáo viên dạy giỏi, chủ
nhiệm lớp, tổ trưởng tổ chuyên môn. Cẩm thiết tha mong muốn Tự bị đuổi khỏi
trường. Số phận của ông Thuật và ông Thống cũng rơi vào cảnh bi thương khi bị
Cẩm phá bĩnh. Hắn đã lôi kéo Thuật sa ngã, làm ông Thuật bị điên và phải vào bệnh
viện tâm thần. Cẩm đã kết tội vu khống ông Thống trong khi chính hắn là kẻ làm
chuyện xằng bậy sửa điểm cho học sinh để tránh bị mang tiếng là trường dạy dốt, đã
làm ông Thống lên cơn cao huyết áp và ngã bất tỉnh.
Bên cạnh Cẩm, Dương cũng nổi bật là một loại trí thức giả danh nguy hiểm.
Dương giữ chức Bí thư Chi bộ suốt 15 năm với 30 năm tuổi Đảng, luôn tự hào mình
là đỉnh cao. Mặc dù thường nói về chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng Dương hoàn toàn
không hiểu Lênin là ai, là một người hay hai người. Trình độ văn hoá “năm lớp nhì
thứ nhất” nhưng Dương lại tốt nghiệp lý luận cao cấp nên ông ta được Bộ Giáo dục
đưa sang làm giáo viên dạy chính trị. Do vậy, ông ta có biệt danh là “quan tắt”, trí
thức tắt bởi “ông chưa có bằng tiểu học mà lại là ông giáo trung học”. Ông ta còn
24
biết lợi dụng lời lẽ của những danh nhân để loè người: Dương “dẫn định nghĩa tri
thức của Mao chủ tịch, và cho biết, thực tiễn cách mạng là trường đại học lớn nhất,
thực tiễn cách mạng của ông phong phú hơn tất cả kiến thức của các trường đại học
cộng lại” [25,156]. Dương sống theo nguyên tắc cứng nhắc, cái gì cũng quy hết vào
tư tưởng, lập trường chính trị. Dương nhìn cuộc đời, nhìn mọi việc rất vô lối và khắt
khe nghiệt ngã, luôn nói câu cửa miệng: “Theo quan điểm toàn diện”, “xét theo
quan điểm toàn diện”, quen thuộc như một bửu bối vạn năng trong lý luận để phê
phán người khác “Dương tự coi mình là vị lãnh tụ anh minh của tập thể”. Thực tế
thì “Dương bị chức trách của mình lừa mình. Ông đồng hoá ông với chức vụ và

càng thâm niên đảm nhiệm chức vụ đó, ông càng xa cách con người bình thường tự
nhiên. Hay quan trọng hoá là đặc điểm của người ít học. Lên mặt, cường điệu vai
trò của mình là thói tật của kẻ kém phát triển trí tuệ. Kém phát triển trí tuệ, thiếu
chiều rộng, chiều sâu hiểu biết, nên trên thực tế, Dương lại phản lại ý định của
mình: ông thực thi công tác đảng một cách vô cùng thông tục tầm thường” [25,
159]. Con người Dương được Ma Văn Kháng lật xới tới tận cùng bản chất: “Tính
nguyên tắc và thói máy móc, tệ giáo điều. Niềm tin vào chủ nghĩa duy tín mù
quáng, ổn định và trí tuệ. Kiên trì và cố chấp, bảo thủ, đối lập nhau, tiếc thay lại
cùng chung sống, núp bóng nhau, đan xen hình ảnh lẫn lộn vào nhau, ở Dương”
[25, 158]. “Đã xảy ra hai hiện tượng thuộc hai cực đối lập trong mỗi hành vi của
Dương. Dương tự coi mình là vị lãnh tụ anh minh của tập thể, nhưng trên thực tế
ông lại bị tập thể coi thường ngấm ngầm. Luôn tự nghĩ rằng mình như vị tư lệnh tả
xung hữu đột trên mặt trận chính trị, tư tưởng, nhưng thực chất Dương chỉ là
Đôngkisốt đánh nhau với cối xay gió và đàn cừu: ông không có đối thủ. Tiếc thay,
công tác Đảng, cái động lực vĩ đại của cuộc sống, cái linh hồn sống động của sự
phát triển, thông qua Dương, biến thành một chuỗi công việc đối phó vặt vãnh, ngô
nghê Dương, khi thì là một lão già cổ hủ, dốt nát, khi ở trong vai một mụ dì ghẻ
cay nghiệt, lúc hiện hình là một gã cảnh sát chỉ nhăm nhăm phạt vi cảnh người bộ
hành, lại có lúc có hành tung của một tên mật thám quỷ quyệt. Và cuối cùng, giữa
cái tập thể toàn những tay trí thức già dặn này, là một trò cười lố lăng”. [25,159].
Để nhấn mạnh sâu hơn, cụ thể hơn nữa, Ma Văn Kháng khẳng định thêm: Dương,
tên đầu cơ sinh mệnh chính trị của người khác, hắn chỉ làm được cái việc thô bạo
25

×