Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tín hiệu thẩm mĩ xuân trong hai tập thơ thơ và gửi hương cho gió

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.43 KB, 20 trang )

Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
Tín hiệu thẩm mĩ xuân trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của dân téc. Ông là nhà thơ
có công rất lớn trong việc làm mới thơ ca về phương diện nội dung và nghệ
thuật. Thơ Xuân Diệu có sự kết hợp nhuần nhị, uyển chuyển giữa ngôn ngữ
truyền thống mang màu sắc dân téc và ngôn ngữ mang màu sắc hiện đại.
Những hình ảnh, hình tượng trong thơ Xuân Diệu đều hết sức độc đáo, sáng
tạo và mang ý nghĩa biểu trưng cao. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Xuân Diệu để
tìm ra cái hay, cái đẹp của " nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" là công
việc các nhà phê bình đã, đang và sẽ làm để hoàn thiện cái nhìn đúng đắn về
gia tài thơ Xuân Diệu.
2. Hơn thế nữa, Xuân Diệu là một trong những tác gia quan trọng được
đưa vào dạy trong chương trình Trung học phổ thông và trung học cơ sở với
dung lượng số bài, số tiết khá lớn. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Xuân Diệu sẽ giúp
cho giáo viên và học sinh có thêm tư liệu để tham khảo trong quá trình dạy và
học Ngữ Văn và hiểu hơn về phong cách thơ Xuân Diệu cũng như những đóng
góp của ông cho thi đàn thơ Việt.
3. Tín hiệu thẩm mĩ trong một tác phẩm văn học là chìa khóa để mở ra bí
Èn của nội dung, nghệ thuật. Tín hiệu nghệ thuật bao giê cũng được nhà văn sử
dụng có mục đích và đát đến những hiệu quả nghệ thuật nhất định.Tín hiệu thẩm
mĩ Xuân trong thơ Xuân Diệu là một trong những tín hiệu nghệ thuật quan trọng
chứa đựng rất nhiều ý nghĩa biểu trưng về tư tưởng của nhà thơ. Bài tập này sẽ
đi sâu nghiên cứu và khảo sát " Tín hiệu thẩm mĩ Xuân trong hai tập " Thơ thơ"
và " Gửi hương cho giã""- hai tập thơ được đánh giá là hay nhất trong toàn bộ di
sản thơ Xuân Diệu.
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU


Ngay từ khi tập " Thơ thơ" ra đời Thế Lữ đã phát hiện được cốt lõi đặc
trưng của phong cách thơ Xuân Diệu : "Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng
hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất
đầy trong bầu trời tim mây trời thanh sắc. Ông hăm hở đi tìm những nơi sự sống
dồi dào tụ lại Nhưng xuân không dài dặc, tình có bền đâu. Xuân với tình cũng
vô định như sự thực không bền và lại còn mong manh hơn cuộc đời chảy trôi"
(Tựa tập Thơ thơ- Thế Lữ).
Và đến khi "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh và Hoài Chân ra đời
bạn đọc mới thấy được chân dung Xuân Diệu hiện lên thật rõ nét, sinh động- Êy
là cái hồn của nhà thơ đã được khai mở, bóc tách " Thơ Xuân Diệu còn là một
nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say
đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận
hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui còng nh khi buồn người đều nồng
nàn, tha thiết Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã biểu hiện ra một cách đầy đủ
chỉ trong những rung động tinh vi".
Ngoài ra, thơ Xuân Diệu còn là đối tượng nghiên cứu của một số nhà thơ,
nhà phê bình trong và ngoài nước. Sự đánh giá về thơ Xuân Diệu ở những giai
đoạn khác nhau không thống nhất. Tuy nhiên, không thể phủ nhận được những
đóng góp của Xuân Diệu về phương diện nghệ thuật thơ.
Công trình nghiên cứu "Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng 8" của Lý
Hoài Thu đã nhấn mạnh đến giá trị thơ Xuân Diệu ở phương diện nghệ thuật
trong đó có ngôn ngữ: "Thế giới ngôn ngữ của Thơ thơ và Gửi hương cho giã là
một thế giới ngôn ngữ trữ tình, chứa chan cảm xúc và có rất nhiều mới lạ". Cũng
trong tác phẩm này Lý Hoài Thu đã phát hiện bên cạnh tín hiệu thẩm mĩ mùa
thu xuất hiện đậm đặc còn có tín hiệu xuân. Thơ Xuân Diệu vốn đã nồng, khi
viết về mùa xuân càng trở nên tha thiết, đắm đuối. Theo Xuân Diệu " Với lòng
tôi trời đất chỉ có hai mùa Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa của
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
bình minh. Xuân và Thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng

nhất cho tâm hồn". Đây cũng chính là cơ sở để tác giả đi sâu nghiên cứu, khảo
sát,tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ xuân trong hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho giã.
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
1. Nguồn gốc tín hiệu thẩm mĩ.
Về nguyên tắc, mọi sự vật, đối tượng thực thể trong thế giới này đều có
thể trở thành tín hiệu nếu hình thức biểu hiện của nó chứa đựng nội dung thông
tin nhất định. Đó chính là cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Có thể thấy ngôn
ngữ nghệ thuật là một hệ thống tín hiệu đặc biệt " Với tư cách là thể chất của tác
phẩm văn học" ngôn ngữ nghệ thuật có thể được xem là một hệ thống tín hiệu
tín hiệu bao gồm các tín hiệu thông thường và tín hiệu thẩm mĩ.
Tín hiệu thẩm mĩ có nguồn gốc từ tự nhiên. Trong quá trình tiếp xúc với
thế giới, thoạt tiên con người tìm cách đọc được những thông tin đó từ những
biểu hiện cảm tính của đối tượng sau đó con người sử dụng những biểu hiện cảm
tính đó để truyền đạt những nội dung thông tin tương ứng. Khởi thủy, khi những
tín hiệu đầu tiên đi vào trong tư duy và giao tiếp của con người, mối quan hệ
giữa mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện của chúng là mối quan hệ có lÝ do.
Sự tổ chức lại các tín hiệu tù nhiên thành các tín hiệu thẩm mĩ để nâng cấp hoạt
động nhận thức và biểu hiện thế giới trong đời sống tinh thần của con người là
bước tiến quan trọng nhất trong tư duy của con người, biểu hiện sự kết hợp giữa
tư duy lÝ tính và tư duy biểu tượng. " Con người không chỉ phản ứng một cách
trực tiếp và thô sơ trong phạm vi những nhu cầu thực dụng, trái lại, những mối
liên hệ đầy ý nghĩa của các sự vật, đối tượng luôn bao bọc thế giới của con
người. Nói cách khác, phản ứng của con người trong một chõng mực nhất định,
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
phụ thuộc vào ý nghĩa tượng trưng của sự vật, hơn nữa con người còn khác xa
loài vật ở chỗ không chỉ nhận biết ý nghĩa mối liên hệ của các sự vật riêng biệt
mà luôn cố gắng sáng tạo, phủ định, điều chỉnh lại sù diễn đạt bằng biểu
tượng". Nh vậy, các biểu tượng là dạng nguyên thủy nhất, có thể coi nh là các cổ
mẫu, mẫu gốc của một nền văn hóa. Đó là nguồn gốc phát sinh các tín hiệu thẩm

mĩ mang tính truyền thống của các ngành văn học nghệ thuật. Những tín hiệu
thẩm mĩ này có nguồn gốc từ hiện thực, từ các mẫu gốc của một nền văn hóa,
chúng chính là các tín hiệu thẩm mĩ nguyên cấp. Các tín hiệu thẩm mĩ, do đó gắn
liền với sự nhận thức về bản chất của đối tượng trong những điều kiện lịch sử xã
hội, văn hóa nhất định. Chẳng hạn, bến - đò là một cặp tín hiệu thẩm mĩ có nguồn
gốc từ văn hóa dân gian Việt Nam đã đi vào thơ Nguyễn Bính như một Èn dụ về
tình yêu lứa đôi:
Bao giê bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau
(Tương tư)
Ngôn ngữ chính là một hệ thống trung gian chuyển hóa các tín hiệu thẩm
mĩ của văn hóa chung vào văn học nghệ thuật ngôn từ. Mét tín hiệu thẩm mĩ của
một nền văn hóa có thể chuyển vào nhiều ngành nghệ thuật qua chất liệu,
phương tiện đặc trưng của ngành. Các ngành nghệ thuật tạo hình như hội họa,
điêu khắc chuyển hóa các tín hiệu thẩm mĩ qua chất liệu hình ảnh, đường nét,
màu sắc Các ngành nghệ thuật biểu hiện như âm nhạc, văn học chuyển hóa các
tín hiệu thẩm mĩ vào hệ thống âm thanh đặc trưng cho từng ngành. Văn học sử
dụng tín hiệu thẩm mĩ dưới hình thức âm thanh ngôn ngữ tức là chuyển hóa các
tín hiệu thẩm mĩ vào hệ thống từ ngữ, cú pháp của văn bản nghệ thuật. Trong
quá trình phát triển của các ngành nghệ thuật, do sù giao lưu tiếp xúc văn hóa,
các tín hiệu thẩm mĩ của một nền văn hóa, văn học có thể gia nhập vào một nền
văn hóa, văn học khác. Có thể coi đây là các tín hiệu thẩm mĩ thứ cấp, phái sinh.
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
Liễu, Chương Đài, Tiêu Tương trong văn học trung đại Việt Nam là những tín
hiệu nh vậy.
2. Tính chất của tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ văn học
Tính nhân loại, tính dân téc, tính lịch sử của tín hiệu thẩm mĩ
Xét ở bình diện văn hóa, tín hiệu thẩm mĩ là cấp độ biểu hiện của các mẫu
gốc và các biểu tượng của một nền văn hóa nhất định. Mẫu gốc chính là yếu tố

tạo nên cơ tầng văn hóa ở chiều sâu nhất của nó. Mỗi nền văn hóa đề có những
mẫu gốc đặc trưng mang tính dân téc nhưng vẫn còn nằm trong mối liên hệ sâu
xa với cái nôi chung của văn hóa nhân loại.
Từ các hệ biểu tượng văn hóa hình thành các tín hiệu thẩm mĩ trong
những ngành nghệ thuật nhất định như là chất liệu cơ bản trong sáng tạo nghệ
thuật. Các mẫu gốc và biểu tượng thuộc cấp độ bản thể liên quan đến bình diện
văn hóa, các tín hiệu thẩm mĩ thuộc cấp độ biểu hiện mang đặc trưng loại hình
liên quan đến bình diện chủ thể. Khi xuất hiện trong một ngữ cảnh nhất định,
một tín hiệu thẩm mĩ chuyển thành một hình tượng cụ thể, để giải thích được
một cách có căn cứ ý nghĩa của một tín hiệu thẩm mĩ, một hình tượng nghệ thuật
mà chúng ta phải chỉ ra được cái nguồn gốc biểu tượng tồn tại trong nó. Sự
chuyển hóa từ mẫu gốc, hệ biểu tượng đến các tín hiệu và các hình ảnh cụ thể là
quá trình biểu hiện rõ tính nhân loại cũng như đặc trưng văn hóa dân téc mang
tính truyền thống và sự sáng tạo của chủ thể.
Trong khi xét tính lịch sử, tính dân téc và tính nhân loại của tín hiệu thẩm
mĩ, chúng ta phải xét đến sự biến đổi trong mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái
được biểu đạt và mối quan hệ giữa các tín hiệu trên trục hệ hình mang tính lịch
sử của nó. Quan hệ thứ nhất thường được các nhà ngôn ngữ học gọi là quan hệ
tượng trưng, ý thức tượng trưng của kí hiệu. Quan hệ thứ hai là ý thức hệ pháp
của tín hiệu. Chính ý thức hệ pháp này đã giúp chúng ta có thể chỉ ra mối liên hệ
giữa các mẫu gốc, các biểu tượng, các tín hiệu thẩm mĩ giữa các cộng đồng, các
nền văn hoá hay trong phạm vi một nền văn hóa, văn học nhất định. Tuy nhiên
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
cần phải nhận thấy rằng một hệ hình của các biểu tượng, các tín hiệu thẩm mĩ
xét trên trục lịch đại của nó luôn là một hệ hình mở. Sự tiêu biến của một số yếu
tố, sự gia nhập của các yếu tố khác từ các dòng văn hóa khác nhau tạo nên
những mối liên hệ và những giá trị mới cho toàn bộ hệ thống
b. Tính " phi vật thể" và "phi trực quan" của tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn
ngữ nghệ thuật

Ý nghĩa của một mẫu gốc, một biểu tượng không nằm trong vô số những
hình ảnh tồn tại nhất thời mang tính cảm tính và cá biệt của chúng. Xuất phát từ
những sự vật cụ thể nhưng biểu tượng không phải là chính sự vật cụ thể đó mà
là sự tri nhận của con người về đối tượng. Do đó biểu tượng chính là những đặc
điểm của bản thể đối tượng có khả năng gợi lên một ý nghĩa rộng hơn trong ý
thức của con người (cả ở chiều sâu vô thức và sự soi tỏ của ý thức) chứ không
phải là những yếu tố ngoại hiện trong đó sự tồn tại của sự vật hoàn toàn mang
tính khách quan. Do đó, bản thân các biểu tượng văn hóa luôn luôn là biểu
tượng phi vật thể, biểu tượng phi trực quan.
Tính chất " phi vật thể" và " phi trực quan" của tính hiệu thẩm mĩ trong
tác phẩm văn học còng nh các biểu tượng phi trực quan nói chung trong nghệ
thuật là sự thay đổi về chất so với các biểu tượng cảm tính, trực quan nguyên
cấp. Mục đích của nghệ thuật thực sự không phải là những kích thích những
phản úng thô sơ và thực dụng qua các giác quan ngay cả khi nó miêu tả các cảm
giác nhất định một cách sống động qua các chi tiết tạo hình.cái mà nghệ thuật
hướng tới không phải là những yếu tố ngoại hiện, làm thỏa mãn trí tưởng tượng
của người thưởng thức mà là sự thanh lọc cảm xúc và trí tưởng tượng, dẫn đến
sự khám phá bản chất sâu xa của đời sống trong sự tự khám phá chính mình. Sù
tổ chức lại các biểu tượng, tín hiệu mang tính kích thích trực quan thông thường
thành các biểu tượng văn hóa, tín hiệu thẩm mĩ phi trực quan chính là sự chống
đối lại cái Êu trĩ, hỗn độn và rời rạc của trí tưởng tượng tùy tiện, cảm tính nhằm
nâng cấp những năng lực cảm xúc, tinh thần của con người.
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
Tính phi vật thể và phi trực quan của tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ
nghệ thuật thể hiện một cách tập trung nhất ở thơ trữ tình. Từ những tín hiệu
nguyên cÊp và tín hiệu ngôn từ thông thường, ngôn ngữ thơ trữ tình là sự vượt
thoát lên cái nặng nề của chất liệu để đạt tới sự hài hòa- một phẩm chất cần yếu
nhất của nghệ thuật. Đòi hỏi ở nghệ thuật một vai trò biểu hiện những thông tin
trực quan và thực dụng là đi ngược lại với bản chất thẩm mĩ của nghệ thuật. Một

người nghệ sĩ thực sự có bản lĩnh trong quá trình sử dụng các tín hiệu phi trực
quan, phi vật thể là người phải xác định được những mối quan hệ đảm bảo cho
người đọc một sự tưởng tượng và một cách hiểu theo cái điều mà anh ta định
biểu hiện qua ngôn từ dù anh ta trình bày nó dưới bất kì hình thức nào.
c. Tính hình tuyến của tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ văn học
Trong ngôn ngữ văn học, các tín hiệu thẩm mĩ đều phải được tổ chức lại
dùa trên tính hình tuyến chặt chẽ của ngôn từ. Những mối quan hệ ngữ đoạn
đảm bảo một ý nghĩa nhất định cho các từ ngữ mà tác giả sử dụng còng nh định
hướng cho sự tiếp nhận của người đọc. Trong những mối quan hệ tuyến tính cụ
thể tập hợp những khả năng gợi ra ý nghĩa của các biểu tượng văn hóa được
định hình trong một số ý nghĩa xác định hoặc mở rộng các ý nghĩa này bởi các
ngữ đoạn của tín hiệu.
Trong những mối liên hệ tuyến tính của tín hiệu, những quan hệ của đối
tượng được biểu hiện theo những cách khác nhau dùa trên sự tuân thủ những
quy tắc ngữ nghĩa- cú pháp hay thay đổi những quy tắc này. Trong ngôn ngữ
nghệ thuật có thể xuất hiện những cấu trúc ngữ nghĩa cú pháp không bao giê
đánh giá theo lôgic của ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ giao tiếp thông thường.
Trong thơ ca, những kết hợp bất thường được chấp nhận nh mét lối biểu hiện
đặc biệt, đem tới cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Những mối
quan hệ tưởng nh không thể có được lại xuất hiện trong các ngữ đoạn nh là một
sự gợi mở, đưa dẫn người đọc đến với một chiều kích khác của đời sống.
Trong mối quan hệ ngữ đoạn, sự liên tưởng được hiện thực hóa qua những lối
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
kết hợp cụ thể, đảm bảo một cách hiểu sáng rõ. Như vậy, giải thích một tín
hiệu thẩm mĩ ngoài mối liên hệ ngữ đoạn là một điều hết sức nguy hiểm bởi lẽ
trong rất nhiều khả năng ý nghĩa của một tín hiệu thẩm mĩ trên bình diện văn
hóa, chúng ta có thể chỉ ra những ý nghĩa sai lệch hoàn toàn so với ý nghĩa xác
định trong ngữ đoạn.
Tính hình tuyến của tín hiệu thẩm mĩ vừa là mặt mạnh vừa là hạn chế của

tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Trên trục hình tuyến, khả năng biểu hiện những
diễn biến, những sự kiện, những quá trình phát triển số phận và tâm lí của tín
hiệu ngôn ngữ nghệ thuật là một ưu thế so với các ngành nghệ thuật tạo hình.
Nhưng tính tạo hình, khả năng biểu hiện đối tượng theo các chiều không gian lại
luôn bị cái ngưỡng thời gian tuyến tính này cản trở. Chính vì thế các tác giả,
những người cảm thấy sự trãi buộc của chất liệu đã luôn tìm kiếm những lối
biểu hiện mới, những trật tự mới, những lối kết hợp khác thường nhằm khắc
phục những hạn chế của tín hiệu ngôn ngữ.
CHƯƠNG II : TÍN HIỆU THẨM MĨ "XUÂN" TRONG HAI TẬP
"THƠ THƠ" VÀ "GỬI HƯƠNG CHO GIÓ" CỦA XUÂN DIỆU
I. Khảo sát, thống kê, phân loại
1. Các câu thơ có xuất hiện tín hiệu thẩm mĩ Xuân
TẬP " THƠ THƠ"
STT Câu thơ Bài thơ
1 - Sao buổi đầu xuân êm ái thế
- Mùa xuân chín ửng trên đôi má
- Chưa từng hẹn đến giữa xuân tươi
Nụ cười xuân
2 - Xuân của đất trời nay mới đến
- Trong tôi, xuân đã đến lâu rồi
Nguyên đán
3 -Tháng Giêng ngon nh mét cặp môi gần
- Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Vội vàng
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
- Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
- Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
- Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
4 - Mùa xuân khó chịu quá đi thôi Đơn sơ
5 - Giã đào thá thẻ bảo hoa xuân Với bàn tay Êy
6 - Mùa xuân tôi chưa hề có hoa tươi Dối trá
TẬP " GỬI HƯƠNG CHO GIÃ"
STT Câu thơ Bài thơ
1 - Xuân vội bước nhưng mà hương chẳng mất Lời thơ vào tập gửi
hương
2 - Tháng Giêng cười không e lệ chút nào Mời yêu
-Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm
-Làm êm Êm đôi ngày xuân trống trải
3 -Sắc tàn hương nhạt mùa xuân rụng Xuân rông
4 - Chong chóng ngày thơ vụt đến xuân Hư vô
5 - Xuân ta đã cất trong thơ phú Tặng bạn bây giê
6 - Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ Tình thứ nhất
7 - Máu mùa xuân chưa nở hết bông hoa Xuân đầu
8 - Vừa độ trai tơ xuân lại sang
- Xuân hỡi, trời ơi, xuân sắc ơi
- Lóc khoan thai xuân lại lên đường
- Như đầu xuân chỉ một hoa tươi
Trò chuyện với Thơ
thơ
9 -Sẵn kho xuân quên cả tói không tiền
- Trên gác về trống lạnh cả lòng xuân
Đêm thứ nhất
10 -Họ chưa hề đẹp: lúc xuân sang
- Xuân mình tất cả đã trôi đi
Những kẻ đợi chờ
11 -Xuân có hồng thì tôi có tình tôi Tặng thơ
12 -Êy là vạn vật nức xuân tâm Đi dạo

13 -Mùa xuân bay lượn bướm nh thơ ý thoáng
14 -Chỉ còn lại của mùa xuân quá vãng hè
15 -Ai ngắt hoa xuân đang độ hương Kẻ đi đày
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
- Hoa xuân đâu nì để rơi đường
- Ngày tháng rơi xuân sang rụng đông
- Vĩnh viễn già nua xuân ngắn ngủi
16 - Uổng cho áo mới mừng xuân rộn Rạo rực
17 - hãy làm dáng điệu xuân ôm Êp Dâng
18 -ở trong máu thắm vì xuân trộn ánh
-Ôi thanh niên! Ngươi mang hết xuân thì
- thuyền mộng hoa không chở kẻ tàn xuân
Thanh niên
* Trong hai tập thơ, có 45 lần tín hiệu thẩm mĩ Xuân xuất hiện trong đó có 43
tín hiệu Xuân và 2 biến thể của Xuân là Tháng Giêng.
* Sè lần xuất hiện tín hiệu Xuân ở tập " Gửi hương cho gió" nhiều gấp đôi
(30/15) sè lần tín hiệu Xuân ở tập " Thơ thơ".
* Nhận xét bước đầu từ kết quả khảo sát:
a. Tín hiệu thẩm mĩ Xuân và biến thể xuất hiện trong hai tập thơ đầu tay của
Xuân Diệu theo hai hướng:
- Dùng với nghĩa tả thực: Hình ảnh Xuân gợi tả thiên nhiên, dùng với nghĩa mùa
xuân.
- Dùng với nghĩa chuyển: Hình ảnh Xuân xuất hiện tượng trưng cho tuổi trẻ,
tình yêu, sự bắt đầu và diễn tả bước đi của thời gian.
b. Đặc điểm kết hợp của tín hiệu thẩm mĩ Xuân
- Danh từ khái quát chỉ loại (mùa, ngày, điệu, kho, lòng ) đứng trước từ Xuân
tạo thành từ ghép phân nghĩa.
- Từ Xuân đứng độc lập: Đóng vai trò là tính từ hoặc là danh từ.
- Từ Xuân đứng trước + tính từ chỉ tính chất, trạng thái: miêu tả cảm xúc.

- Từ Xuân đứng trước + động từ : thể hiện sự chuyển biến, bước đi của thời
gian, sự vận động của cảm xúc.
2. Ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ Xuân trong thơ Xuân Diệu
2.1 Hướng biểu trưng cơ bản thuộc bình diện văn hoá của tín hiệu
thẩm mĩ Xuân
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
Trong “Từ điển tiếng Việt” của Nhà xuất bản khoa học xã hội do PGS Hồ
Lê hiệu đính, từ “ Xuân” có hai ý nghĩa cơ bản sau:
1. Năm (Đã mấy xuân qua)
2. Mùa đầu tiên của năm trước mùa hạ
Trong đó nghĩa thứ hai là nghĩa cơ bản, nghĩa thứ nhất là nghĩa chuyển
theo phương thức hoán dụ.
Thông thường, văn học thường sử dụng cả hai ý nghĩa này vào các sáng
tác để xây dựng thành các biểu tượng có giá trị nghệ thuật. Ngoài ra, Xuân còn
được dùng với rất nhiều nghĩa. Ngoài những nghĩa thông dụng chỉ thời gian trời
đất (mùa xuân), thời gian của tuổi người (tuổi xuân) còn những nghĩa thông
dụng liên quan đến tình yêu- xuân là tình. Đây cũng chính là nghĩa thứ sáu trong
“ Hán ngữ đại từ điển”. Có thể thấy, ý nghĩa hằng thể của tín hiệu Xuân rất
phong phú, đa dạng và có tần số xuất hiện nhiều trong văn chương. Tuy nhiên,
thông qua khảo sát của chúng tôi, tín hiệu thẩm mĩ Xuân trong hai tập “ Thơ
thơ” và “Gửi hương cho giã” thể hiện một số ý nghĩa cơ bản sau:
a. Biểu trưng cho thời gian của trời đất gắn liền với sự tận hưởng
của cái Tôi Xuân Diệu
Qua khảo sát hai tập thơ, chúng tôi nhận thấy, tín hiệu thẩm mĩ “ Xuân”
dùng để biểu trưng cho thời gian của trời đất gắn liền với sự tận hưởng của cái
Tôi nhà thơ gồm các trường hợp sau:
Tập “ Thơ thơ” : - Sao buổi đầu xuân êm ái thế
- Mùa xuân chín ửng trên đôi má
- Chưa từng hẹn đến giữa xuân tươi

- Xuân của đất trời nay mới đến
-Tháng Giêng ngon nh mét cặp môi gần
- Mùa xuân khó chịu quá đi thôi
Tập “ Gửi hương cho gió” :
- Tháng Giêng cười không e lệ chút nào
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
- Xuân đầu mùa trong sạch vẻ ban sơ
-Mùa xuân bay lượn bướm nh thơ
- Máu mùa xuân chưa nở hết bông hoa
- Như đầu xuân chỉ mét hoa tươi
Nghiên cứu thơ Xuân Diệu người ta nhận thấy rằng không gian thơ ông là
không gian của cuộc sống trần thế đẹp đẽ, tươi mới. Có được điều này theo
chúng tôi cũng chính là nhờ những tín hiệu “ Xuân” mang ý nghĩa biểu trưng
này- Mùa xuân của đất trời với hoa tươi, trong sạch vẻ ban sơ. Theo khảo sát
chúng tôi thấy với hướng biểu trưng này tín hiệu Xuân thường được kết hợp với
danh từ chỉ loại để tạo thành từ ghép phân nghĩa như mùa, đầu…Mặt khác, ở ý
nghĩa biểu trưng này, tác giả còn sử dụng biến thể Tháng Giêng. Tháng Giêng là
thời điểm bắt đầu của mùa xuân. Nh vậy, đối với Xuân Diệu mùa xuân tràn đầy
sinh lực và sự sống là vào thời điểm đầu xuân. Khác với Hàn Mặc Tử là mùa
xuân chín, Xuân Diệu tận hưởng cái vẻ non tơ, tươi mới của mùa xuân và nhận
ra được hồn của cảnh vật vào thời điểm đầu xuân. “Thơ thơ” và “ Gửi hương
cho gió” là hai tập thơ đầu tay của Xuân Diệu trình làng. Hai tập thơ thể hiện
một con mắt nhìn tươi mới, rạo rực của một tâm hồn ham mê tận hưởng hương
sắc của cuộc sống.
Từ Xuân ở đây thường được xuất hiện với đặc điểm:
* Danh từ khái quát chỉ loại + Xuân : tạo nên từ ghép phân nghĩa (ví dô
nh mùa xuân, đầu xuân…)
* Xuân(hoặc biến thể tháng Giêng) + tính từ : nêu lên đặc điểm của mùa
xuân (tháng Giêng ngon, tháng Giêng cười, xuân tươi)

Với đặc điểm kết hợp này, tín hiệu Xuân nêu lên được không gian của bài
thơ hết sức đẹp đẽ,cảnh vật dồi dào sức sống qua đó thấy được quan niệm của
nhà thơ về sự sống và tân hưởng. Trong bài thơ “ Vội vàng” (tập “ Thơ thơ”)
nhà thơ đã vẽ nên một không gian trần thế – Xuân :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Thiên đường mặt đất đầy đủ dư vị hồng hào và tươi tắn luôn được hiện
lên trong thơ Xuân Diệu. Thiên nhiên mùa xuân tươi sáng về màu sắc, rộn rã về
âm thanh. Đấy cũng là lÝ do để nhà thơ khao khát " muốn đi mãi ở vườn trần",
say sưa sống ở vườn trần. Thơ Xuân Diệu vốn đã nồng khi viết về mùa xuân
càng trở nên thiết tha, đắm đuối với những nhan sắc ơi, bình minh quá ý nghĩa
biểu trưng này chiếm tỷ lệ rất Ýt song cũng phần nào cho người đọc hiểu thêm
được rất nhiều về phong cách thơ Xuân Diệu.
b. Biểu trưng cho tình cảm tươi trẻ của lòng người và khát khao tình yêu
Trước khi đi vào tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mĩ Xuân ở
phương diện này người viết muốn cắt nghĩa từ Xuân trong tên riêng của nhà
văn. Phải chăng là một định mệnh? Thơ Xuân Diệu luôn gắn với xuân tình, xuân
ý? Trong công trình " Ba đỉnh cao thơ mới" của Chu Văn Sơn, tác giả cũng đã
đề cập đến chi tiết này : " Cái tên Xuân Diệu dường như là sự lùa chọn của một
duyên nghiệp, trong đó như chứa sẵn cả cái bản mệnh, cái căn số của một kẻ rồi
đây sẽ thành thi sĩ ái tình".
Trở lại với tín hiệu thẩm mĩ Xuân trong hai tập " Gửi hương cho gió" và "
Thơ thơ", ở ý nghĩa biểu trưng cho tình cảm tươi trẻ của lòng người và khát

khao tinh yêu xuất hiện ở các trường hợp sau:
- Xuân của đất trời nay mới đến
- Trong tôi, xuân đã đến lâu rồi
- Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
- Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
- Làm êm Êm đôi ngày xuân trống trải
- Vừa độ trai tơ xuân lại sang
- Xuân hỡi, trời ơi, xuân sắc ơi
- Sẵn kho xuân quên cả tói không tiền
- Trên gác về trống lạnh cả lòng xuân
-ở trong máu thắm vì xuân trộn ánh
-Ôi thanh niên! Ngươi mang hết xuân thì
- thuyền mộng hoa không chở kẻ tàn xuân
Trong các tín hiệu thẩm mĩ thuộc hướng biểu trưng này, chúng tôi nhận
thấy khả năng kết hợp của chóng nh sau:
* Danh từ khái quát chỉ loại + Xuân: Ví dô nh lòng xuân, kho xuân, ngày xuân
* Xuân + tính từ: Ví dô nh xuân sắc, xuân hồng, xuân tươi, xuân trống trải
* Xuân đứng độc lập đóng vai trò là tính từ
Với ba kiểu kết hợp này, chúng ta có thể thấy nhà thơ thể hiện niềm khao
khát tình yêu tuổi trẻ hết sức mãnh liệt và đắm say. Có nhà phê bình đã khẳng
định " Cái Tôi cá nhân cá thể của thơ Mới và tiếng lòng trẻ, nguồn sống trẻ, điệu
sống trẻ", chính vì thế thơ Xuân Diệu cũng thể hiện khát khao tình yêu, ngọn lửa
tình yêu tuổi trẻ. Mùa xuân ở đây đồng nghĩa c\với tuổi trẻ. Tình yêu là nguồn
năng lượng trẻ, nguồn sống trẻ. Mùa xuân của lòng người được nhà thơ diễn tả ở
nhiều cung bậc khác nhau: lúc thì trống trải, lúc thì vồ vập cuống quýt cũng có
khi lại hiền hòa, dịu dàng. Kỳ thực Xuân Diệu muốn bộc lé đến tận đáy nhiệt
tình sống của mình. Đã bao lần ông uống tình yêu đến dập cả môi mà vẫn chưa
nguôi nỗi khát thèm. Hai tập thơ bộc lé khát khao tình yêu dào dạt, tuôn trào.

Xuân Diệu luôn ao ước được mãi mãi sống với tuổi xuân, mãi mãi hoài xuân : "
Với lòng tôi trời đất chỉ có hai mùa Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt có ý nhị, hai
mùa có bình minh Xuân và Thu là hai binh minh trong một năm, sự thay đổi hệ
trọng nhất cho tâm hồn". Nói nh vậy là một cách bày tỏ ước muốn lưu giữ mãi "
lòng xuân" của tâm hồn yêu đời Xuân Diệu. Cùng với tình yêu tuổi trẻ, yêu con
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
người là khát khao níu giữ " Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi", khát khao
được tận hưởng. Chính điều này đã làm nên đặc trưng rất riêng cho phong cách
thơ Xuân Diệu. Sử dụng tín hiệu với ý nghĩa biểu trưng này, nhà thơ đã tiếp thu
từ truyền thống của văn hóa chung nhân loại và từ văn học Việt Nam thời kì
trung đại. Thơ Hồ Xuân Hương sử dụng rất nhiều tín hiệu Xuân với ý nghĩa biểu
trưng này:
- Chơi xuân có biết xuân chăng tá
- Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu
- Đá kia còn biết xuân già dặn
hay nh trong " Truyện Kiều" của Nguyễn Du:
Mặc người mây sở mưa Tần
Riêng mình nào biết có xuân là gì
Tuy nhiên phần lớn các nhà thơ trung đại nh Hồ Xuân Hương chỉ sử dụng
tín hiệu này để chỉ tình sự, lạc thó con người. Còn với Xuân Diệu, ông khai thác
chữ Xuân về phương diện tình yêu, khát khao tuổi trẻ, tình yêu. Đó là sự kế thừa
và phát triển tín hiệu trong văn chương nghệ thuật.
c. Biểu trưng cho bước đi của thời gian
Ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu Xuân trong thơ Xuân Diệu thể hiện sự tìm
tòi, sáng tạo xuất sắc của nhà thơ phải kể đến ý nghĩa biểu trưng cho bước đi của
thời gian. Theo khảo sát của chúng tôi, ý nghĩa này thể hiện trong các câu thơ sau:
- Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
- Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

- Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
- Xuân vội bước nhưng mà hương chẳng mất
- Sắc tàn hương nhạt mùa xuân rụng
- Chong chóng ngày thơ vụt đến xuân
- Xuân mình tất cả đã trôi đi xuân
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
- Ngày tháng rơi xuân sang rụng đông
Nhạy cảm với bước đi thời gian là đặc trưng phong cách thơ Xuân Diệu. ở
đây chúng tôi nhận thấy khả năng kết hợp của tín hiệu Xuân nh sau:
* Xuân + động từ chỉ sự di chuyển (nh rụng, vội bước, sang, trôi )
* Xuân + phô từ chỉ thời gian (sẽ, còn, vẫn)+ tính từ (non, già, tuần hoàn)
Với kiểu kết hợp này, tín hiệu Xuân mang đến ý nghĩa biểu trưng chỉ sự
trôi chảy, phôi pha của thời gian. Và cũng chính ở ý nghĩa biểu trưng này người
đọc thấy rõ quan niệm về thời gian của nhà thơ. Đối với Xuân Diệu, thời gian
không tuân hoàn theo kiểu " Xuân qua trăm hoa rông / Xuân tới trăm hoa nở"
mà thời gian là một vòng quay vô tận của tạo hóa. ý thức được điều đó nhà thơ
luôn lo âu, phấp phỏng, sợ thời gian trôi " tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại". Và
cóng chính từ cảm quan triết học này, Xuân Diệu luôn có thái độ sống tích cực:
sống hết mình, hưởng thụ vồ vập tất thảy. Nhà thơ cực kì nạy cảm với bước đi
của thời gian. Thời gian với Xuân Diệu mang tính lưỡng giá. Một mặt ngọn gió
thời gian đem tuổi trẻ, tình yêu đến mặt khác nó cũng mang lại bao sự phôi pha,
úa héo. Bởi vậy vội vàng là một triết lí sống, một ứng xử nghệ thuật của nhà thơ.
Điều này sẽ cắt nghĩa cho hiện tượng thế giới thơ Xuân Diệu đầy ắp những từ
ngữ nh giục giã, vội vàng, mau, gấp bởi thi nhân e sợ sự lỡ làng, muộn màng.
Mau lên chứ vội vàng lên với chứ
Em ơi em tình non sắp già rồi
Thơ Xuân Diệu là một sự khát thèm sự sống: mùa xuân (thời kì của sự
sống sinh sôi), tuổi trẻ (lúc sự sống tràn đầy), tình yêu (sự bùng nổ của sức
sống). Cái '" xuân lòng " của Xuân Diệu cũng từ đó mà nẩy nở, bộc phát. Chính

vì cảm nhận được bước đi thời gian hết sức tinh tế như vậy , Xuân Diệu viết rất
nhiều về thơ Xuân.Và có lẽ, cái tên Xuân Diệu (sự kì diệu của mùa xuân) cũng
nằm trong chuỗi những cảm xúc Êy. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã nhận xét "
Thơ thơ: nghệ thuật như là một sự vĩnh cửu hóa thời gian, Gửi hương cho giã :
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
tình yêu như là sự chiến thắng của thời gian" cũng chính là đã phát hiện ra cái
bản chất cốt lõi của phong cách thơ Xuân Diệu qua hai tập thơ.
Nh vậy, có thể thấy, ý nghĩa biểu trưng cho bước đi của thời gian của tín
hiệu thẩm mĩ Xuân là một sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu. Sự sáng tạo này chi
phối nhân sinh quan, thế giới quan nghệ thuật của thơ Xuân Diệu. Còng chính
sự sáng tạo này mới làm nên phong cách thơ Xuân Diệu mang tính hiện đại.
3. Mối quan hệ giữa tín hiệu Xuân và hình tượng tác giả
Hình tượng tác giả là " phạm trù thể hiện cách tự ý thức của tác giả về vai
trò xã hội và văn học của mình trong tác phẩm, một vai trò được người đọc chờ
đợi Hình tượng tác giả có tính chất loại hình sâu sắc, nhưng cũng mang đậm
tính tác giả, khi vai trò của cá tính sáng tạo của cái Tôi cá nhân được ý thức
đầy đủ". Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ mà người nghệ sĩ
sáng tạo ra bằng tất cả tâm huyết của mình. Cho nên, Ýt nhiều tác phẩm Êy cũng
thể hiện tư tưởng, tình cảm, thế giới nhân sinh quan của người viết. Hai tập thơ "
Thơ thơ" và " Gửi hương cho giã" của Xuân Diệu thể hiện rõ nét con người nhà
thơ trước cách mạng Tháng Tám.
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và nhận ra cái cốt lõi của tình
yêu trong thơ Xuân Diệu ngay từ cái tên của tác giả. Xuân Diệu - sù kì diệu của
tình yêu. Khát khao sự sống tươi non, khát khao tình yêu tuổi trẻ nên Xuân Diệu
vội vàng cuống quýt, nhà thơ như dang rộng tay mình, mở rộng hồn mình để
đón lấy những gì tinh túy, xuân sắc nhất của cuộc sống. Và không chỉ trong hai
tập thơ đầu tay " Thơ thơ" và " Gửi hương cho gió" Xuân Diệu mới bộc lé điều
này mà cả những vần thơ sau cách mạng Tháng Tám người ta vẫn nhận ra một
Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt của tình yêu.

Thông qua hệ thống ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mĩ Xuân trong tác
phẩm, niềm yêu sống, khát khao sống của nhà thơ được thể hiện sinh động và đáng
được trân trọng. Đặt vào không khí của phong trào thơ Mới, thời kì mà mỗi thi sĩ tự
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
tìm cho mình một nơi trú ngụ để thoát li thực tại người ta mới thấy hết được những
điều đáng quý, đáng trân trọng trong tư tưởng của nhà thơ Xuân Diệu.
Nói tóm lại: "Thơ thơ" và " Gửi hương cho giã" là hai tập thơ đầu tay của
Xuân Diệu thể hiện đặc trưng nghệ thuật của nhà thơ về phương diện nội dung
và nghệ thuật một cách trọn vẹn nhất.
Tín hiệu thẩm mĩ "Xuân" trong hai tập thơ này được chúng tôi khảo sát
thể hiện phong cách thơ Xuân Diệu rõ nét và thể hiện tài năng sáng tạo của một
nhà thơ lớn.
Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huy Cận - Thơ tình Xuân Diệu, NXB Tác phẩm mới, 1987.
2. Xuân Diệu - Thơ thơ và Gửi hương cho giã.
3. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Phân tích phong cách ngôn ngữ
trong tác phẩm nghệ thuật, NXB Đại học sư phạm, 2003.
4. Lê Quang Hưng- Cảm xúc thời gian trong thơ Xuân Diệu, tạp chí văn học,
số 1, 1987.
5. Đoàn Thị Đặng Hương - Xuân Diệu, hoàng tử của thi ca Việt Nam, Tạp chí
Tác phẩm mới, số 3, 1992.
6. Thế Lữ - Tựa tập Thơ thơ, Xuân Diệu tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001.
7. Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam.
8. Lý Hoài Thu- Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám,NXB Giáo dục,
1997.
9. Đỗ Lai Thúy- Con mắt thơ, NXB Đông Tây.
10. Chu Văn Sơn- Ba đỉnh cao thơ Mới, NXB Giáo dục, 2006.

Bài tập chuyên đề tiếng Việt Nguyễn Thị Thu Hiền - K54B
Ngữ văn
MỤC LỤC
Trang

×