Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “mùa xuân” và “trái tim” trong thơ Xuân Diệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 138 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


ĐỖ NGỌC THƯ




KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ




THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

ĐỖ NGỌC THƯ

KHẢO SÁT CÁC TÍN HIỆU THẨM MĨ
“MÙA XUÂN” VÀ “TRÁI TIM ” TRONG THƠ XUÂN DIỆU


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ


MÃ SỐ: 602201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGÔN NGỮ
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS NGUYỄN ĐỨC TỒN




THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với PGS .TS Nguyễn Đức Tồn đã
nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hƣớng dẫn em thực hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học, khoa
Ngữ Văn Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, Viện Ngôn ngữ học cùng các
thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, các em sinh viên và
những ngƣời thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Tác giả
Đỗ Ngọc Thư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TH: Tín hiệu
THTM: Tín hiệu thẩm mĩ
THHT: Tín hiệu hằng thể
THTMHT: Tín hiệu thẩm mĩ hằng thể

BTTV: Biến thể từ vựng
BTQH: Biến thể quan hệ
BTKH:Biến thể kết hợp
YNTM: Ý nghĩa thẩm mĩ
CÁC KÍ HIỆU CỦA CÁC TẬP THƠ
Thơ thơ: T1
Gửi hƣơng cho gió:T2
Ngọn quốc kì:T3
Riêng chung: T4
Mũi Cà Mau: T5
Cầm tay: T6
Một khối hồng: T7
Hai đợt sóng: T8
Tôi giàu đôi mắt: T9
Hồn tôi đôi cánh: T10


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
I.Lý do chọn đề tài................................................................................................1
II.Lịch sử vấn đề....................................................................................................2
III.Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu...................................................................3
IV.Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................4
V.Phƣơng pháp nghiên cứu...................................................................................4
VI. Những dự kiến đóng góp.................................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.1.Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ........................................................................6
1.1.1. Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ- Tín hiệu thẩm Mĩ ...6
1.1.1.1.Tín hiệu......................................................................................................7

1.1.1.2.Tín hiệu ngôn ngữ...................................................................................10
1.1.1.3.Tín hiệu thẩm mĩ.....................................................................................13
1.2. Những đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ...........................................................17
1.2.1 Tính đẳng cấu......................................................................................... ..17
1.2.2. Tính cấp độ................................................................................................19
1.2.3. Đặc tính tác động......................................................................................20
1.2.4.Tính biểu hiện.............................................................................................21
1.2.5. Tính biểu cảm............................................................................................23
1.2.6. Tính biểu trƣng..........................................................................................24
1.2.7. Tính truyền thống và cách tân...................................................................25
1.2.8. Tính hệ thống.............................................................................................26
1.2.9. Tính trừu tƣợng và cụ thể..........................................................................28
1.3. Tín hiệu thẩm mĩ và ngôn ngữ văn học........................................................30
1.4. Tín hiệu thẩm mĩ văn chƣơng.......................................................................32
1.5. Tiểu kết chƣơng I.........................................................................................34
CHƢƠNG 2: TÍN HIỆU THẨM MĨ “MÙA XUÂN” TRONG THƠ XUÂN
DIỆU
2.1. Dẫn nhập.......................................................................................................37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.2.Kết quả khảo sát............................................................................................39
2.3.Tín hiệu hằng thể “Xuân”.............................................................................41
2.4.Các biến thể của tín hiệu hằng thể “Xuân”...................................................48
2.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Xuân”.........................................................48
2.4.2.Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Xuân”..........................................51
2.4.3.Biến thể quan hệ của tín hiệu thẩm mĩ “Xuân”..........................................57
2.4.3.1.Các tín hiệu BTQH là danh từ, cụm danh từ...........................................57
2.4.3.2. Các tín hiệu BTQH là động từ /cụm động từ.........................................70
2.5. Tiểu kết chƣơng 2.........................................................................................72
CHƢƠNG 3: TÍN HIỆU THẨM MĨ “TRÁI TIM” TRONG THƠ XUÂN DIỆU
3.1.Dẫn nhập........................................................................................................76

3.2.Kết quả khảo sát............................................................................................80
3.3. THTM hằng thể “Tim/Trái tim”..................................................................80
3.4.Biến thể của tín hiệu hằng thể “Trái tim”.....................................................81
3.4.1.Biến thể từ vựng của THHT “Trái tim”.....................................................82
3.4.2. Biến thể kết hợp của tín hiệu hằng thể “Trái tim”....................................85
3.4.2.1. Ý nghĩa thẩm mĩ “tình yêu" của BTKH “trái tim”.................................86
3.4.2.2.Ý nghĩa thẩm mĩ “trái tim công dân”của BTKH“Trái tim”....................89
3.4.3. Biến thể quan hệ của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ trái tim.............................98
3.4.3.1.Những THBTQH là những động từ hoặc cụm động từ...........................99
3.4.3.2. Những tín hiệu biến thể quan hệ là những tính từ hoặc cụm tính
từ.....102
3.4.3.3.THBTQH là danh từ chỉ thời gian,không gian của THTM Trái tim trong
thơ Xuân Diệu...................................................................................................104
3.5.Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................105
KẾT LUẬN…………………………………………………………..…...….109
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….…………………………113
PHỤ LỤC………………………………………………...…………...………118

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Nói đến tín hiệu thẩm mỹ là nói đến vấn đề có liên quan đến nhiều chuyên
ngành, bởi vậy nó được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn
ngữ thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. Một tín hiệu ngôn ngữ thông thường khi
đi vào thế giới thơ ca thì đã được chuyển hóa thành một tín hiệu nghệ thuật, tín
hiệu thẩm mĩ - ngôn ngữ hay còn gọi là tín hiệu văn chương. Tín hiệu văn chương
nói riêng và tín hiệu thẩm mĩ nói chung có thể được hiểu là tín hiệu thuộc hệ thống
các phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật bao gồm toàn bộ những yếu tố
của hiện thực, tâm trạng, cảm xúc... Những yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn

chương; như các yếu tố của chất liệu mằu sắc với hội họa; âm thanh, tiết tấu với âm
nhạc... được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mĩ.
Như vậy, một tín hiệu thẩm mĩ phải hội tụ đủ các nhân tố sau: 1) cái biểu
hiện, đây là hình thức vật chất nghệ thuật. 2) Cái được biểu hiện là các giá trị ý
nghĩa thẩm mĩ. 3) Chủ thể sáng tạo( thế giới phát ngôn và tiếp nhận). 4) Thuộc một
hệ thống tín hiệu thẩm mĩ nhất định.
Chính vì vậy khi xem xét cấu trúc của tín hiểu thẩm mĩ cần thấy tính hệ
thống của nó được biểu hiện ở bình diện trừu tượng và cụ thể. Thuộc bình diện trừu
tượng là những hằng thể “ nguyên mẫu” có tính cố định, bất biến. Thuộc bình diện
cụ thể là những biến thể của tín hiệu thẩm mĩ trong mỗi lần xuất hiện nó mang tính
hiện hữu cụ thể sinh động.
Thực tế cho thấy nghiên cứu giá trị của tín hiệu thẩm mĩ là nghiên cứu những
biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện và việc nghiên cứu hệ thống tín hiệu thẩm mĩ
cũng chính là nghiên cứu cấu trúc hình tượng mang tính cụ thể hiện hữu của tác
phẩm nghệ thuật. Tìm hiểu các tín hiệu văn chương là phải tìm hiểu các yếu tố
ngôn ngữ giúp biểu hiện nó. Khi phân tích một tín hiệu văn chương, chúng ta phải
bám sát vào tổ hợp ngôn ngữ biểu hiện nó để phân tích.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Chính vì vậy, để hiểu và đánh giá đúng đắn và có cơ sở khoa học một tác
phẩm văn học rất cần sự khảo sát, đánh giá hệ thống các tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm. Do đó gần đây vấn đề Tín hiệu thẩm mĩ đã được nhiều học giả trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên ở Việt Nam công việc nghiên cứu
THTM văn chương cũng mới chỉ là bắt đầu.
2. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và Thơ Mới nói riêng,
Xuân Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học hết sức rực rỡ. Đặc biệt trong lĩnh
vực thơ tình yêu thì có lẽ cho đến nay vẫn chưa có ai xứng đáng hơn Xuân Diệu với
danh hiệu: Nhà thơ tình lớn nhất trong văn học Việt Nam hiện đại - như nhiều nhà
phê bình văn học trong và ngoài nước nghiên cứu Xuân Diệu đã đánh giá: Thế Lữ,
Hà Minh Đức, Hoài Thanh- Hoài Chân, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng

Mạnh, Nguyễn Bùi Vợi, Alêchxây Vaxiliep, Mirây Găngxen, Blaga Đimitrôva...
Nhưng trong những nhà nghiên cứu nổi tiếng này, hầu như còn ít có người
quan tâm tới tài năng của Xuân Diệu trong lĩnh vực ngôn ngữ. Ở đây chúng tôi
muốn bàn về “Mùa xuân- Trái tim” trong thơ tình Xuân Diệu dưới góc độ là những
tín hiệu thẩm mĩ nhằm góp phần khẳng định một cách tiếp cận mới các hình tượng
văn học từ góc độ lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ để góp thêm tiếng nói ca ngợi tài
năng xuất chúng của nhà thơ, đồng thời phục vụ cho việc giảng dạy các tác phẩm
văn học trong nhà trường hiện nay, và ở mức độ nhất định góp phần nâng cao năng
lực cảm thụ thẩm mĩ các thi phẩm của Xuân Diệu nói riêng, các tác phẩm thơ ca
nói chung.
II. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương có rất nhiều hướng đi,
song những năm gần đây, nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi dưới cái nhìn
của ngôn ngữ học hiện đại; trong đó vấn đề lí thuyết về tín hiệu tỏ ra rất có ưu thế.
Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mĩ đã được các tác giả như Hoàng Tuệ,
Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh... quan tâm nghiên cứu nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Nhiều luận án triển khai theo hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định được ý
nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học; đồng thời
đã có những đóng góp bổ sung quan trọng vào lí thuyết về tín hiệu thẩm mĩ. Có thể
kể đến các luận án của tác giả Trương Thị Nhàn “ Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của
THTM- không gian trong ca dao”, Phạm Thị Kim Anh “Tín hiệu thuộc trường
nghĩa cây trong thơ Việt Nam”, Bùi Thị Hồng “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Huy Cận”, Lê Thị Tuyết Hạnh “Một số tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Xuân
Quỳnh” ... Nhiều luận văn và các bài viết khác cũng góp phần khẳng định thế mạnh
của hướng nghiên cứu này.
Các nhà nghiên cứu Xuân Diệu mới tập trung vào tìm hiểu các tác phẩm của
ông từ góc độ văn học. Những công trình nghiên cứu các tác phẩm của nhà thơ từ
góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều. Riêng việc nghiên cứu thơ Xuân Diệu từ lí

thuyết Tín hiệu thẩm mĩ nói chung, đặc biệt tín hiệu Tín hiệu thẩm mĩ Mùa
xuân/Trái tim trong thơ ông hầu như cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình
chuyên khảo nào. Đây chính là lí do chính để đề tài luận văn của chúng tôi dành
cho vấn đề còn bỏ ngỏ này.
III. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
1. Mục đích : Dựa trên những cơ sở lý thuyết về tín hiệu thẩm mĩ, chúng tôi
mong muốn tiếp tục thể nghiệm phương pháp nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của
tín hiệu học nói chung, ngôn ngữ học nói riêng, đồng thời đóng góp tiếng nói
khẳng định thêm những thành công của thơ Xuân Diệu nói riêng và dòng thơ ca
lãng mạn nói chung, qua đó khắc họa phong cách ngôn ngữ của thi sĩ này.
2. Đối tượng nghiên cứu tín hiệu thẩm mĩ có ý nghĩa quan trọng trong phong
cách thơ tình Xuân Diệu nói riêng và trong dòng văn học lãng mạn nói chung là các
tín hiệu “Mùa xuân” và “trái tim” vốn đã trở thành những biểu tượng quen thuộc,
thân thiết không chỉ đối với người Việt Nam mà cả nhân loại, đồng thời chúng đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
đi vào văn chương và trở thành những tín hiệu thẩm mĩ, những hình tượng nghệ
thuật đặc sắc.
IV. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát của đề tài là các tập thơ: Thơ Thơ, Gửi hương cho gió,
Ngọn quốc kỳ, Riêng chung, Mũi Cà Mau, Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng,
Tôi giàu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh. Đây là những tác phẩm của Xuân Diệu viết
trước và sau CMT8
V. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng các phương
pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:
1. Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân loại:
Luận văn tiến hành thống kê tần số xuất hiện của các tín hiệu thẩm mĩ chỉ
“Mùa xuân”-“Trái tim” trong mọi hoàn cảnh xuất hiện của chúng - dưới dạng
hằng thể , biến thể và các yếu tố ngôn ngữ khác cùng xuất hiện với các tín hiệu

thẩm mĩ này.
2. Phương pháp phân tích diễn ngôn và ngữ dụng học tức phân tích nghĩa của
từ theo ngữ cảnh sử dụng: Phương pháp này được áp dụng khi khảo sát sự xuất
hiện của các từ ngữ chỉ “mùa xuân” và “trái tim” cùng với các từ ngữ khác xuất
hiện kèm theo ở những ngữ cảnh khác nhau trong thơ Xuân Diệu với tư cách là
những tín hiệu thẩm mĩ văn chương, phân tích ý nghĩa của các từ ngữ đó trong từng
hoàn cảnh sử dụng, đối tượng sử dụng.
3. Phương pháp xác lập ngữ cảnh trống để tìm sự khác biệt ngữ nghĩa giữa
các từ đồng nghĩa: Các từ ngữ cùng chỉ về “mùa xuân” hoặc “trái tim” tuy là
đồng nghĩa nhưng ở mỗi ngữ cảnh sử dụng từ chúng lại có sự khác nhau về ý
nghĩa, về sắc thái biểu cảm - đánh giá và phạm vi sử dụng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
VI. Những dự kiến đóng góp
Thực hiện đề tài “Khảo sát các tín hiệu thẩm mĩ “Mùa xuân” và “trái tim”
trong thơ Xuân Diệu”, chúng tôi mong muốn có được những đóng góp nhất định
đối với sự phát triển chuyên ngành Việt ngữ học trong lĩnh vực tín hiệu thẩm mĩ
văn chương vốn còn chưa được nghiên cứu nhiều ở nước ta. Đồng thời luận văn
cũng mong muốn góp thêm cứ liệu làm rõ cơ chế hình thành - giải mã tín hiệu thẩm
mĩ văn chương gắn với cấu trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả.
Chúng tôi hi vọng rằng những kết quả đạt được của luận văn này sẽ có những bổ
sung đối với bộ môn phong cách học và giúp ích thiết thực cho việc giảng dạy tác
phẩm của Xuân Diệu trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Chƣơng 1:
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ TÍN HIỆU THẨM MỸ
Tín hiệu thẩm mĩ (THTM) có liên quan đến nhiều chuyên ngành, bởi vậy
nó phải được xem xét dưới nhiều góc độ, đặc biệt là những tín hiệu ngôn ngữ trong
tác phẩm văn học. Đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn về tín hiệu thẩm mĩ

trong các tác phẩm văn học, chẳng hạn như: M.B.Khrapchencô, Iu.A.Philipiep, Đỗ
Hữu Châu, Trần Đình Sử, Hoàng Trinh, Nguyễn Lai…
Vận dụng các cơ sở lí thuyết ngôn ngữ học như: các lí thuyết về tín hiệu,
hoạt động giao tiếp, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để xem xét các
tín hiệu thẩm mỹ, các luận án tiến sĩ của Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh và
một số tác giả khác đã có những đóng góp nhất định vừa bổ sung vào lí thuyết về
THTM vừa khẳng định ưu thế của hướng nghiên cứu này. Luận văn của chúng tôi
cũng dựa vào những thành tựu của các nhà khoa học nói trên để xây dựng cơ sở lí
luận cho việc nghiên cứu một số tín hiệu thẩm mỹ đặc trưng trong thơ Xuân Diệu,
đồng thời chỉ ra cơ chế hình thành-giải mã tín hiệu thẩm mỹ văn học gắn với cấu
trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả. Hi vọng rằng những nỗ lực
của luận văn này sẽ có những bổ sung nhất định vào việc nghiên cứu THTM trong
tác phẩm văn học.
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TÍN HIỆU THẨM MĨ
Như chính tên gọi của khái niệm đã chỉ ra một cách hiển minh, Tín hiệu thẩm
mĩ trước hết về mặt bản chất cũng là một loại tín hiệu, bởi vậy để nghiên cứu
THTM phải xem xét nó trong phạm trù chung - tức phạm trù tín hiệu. Đồng thời
các THTM còn cần phải được xem xét trong mối quan hệ hữu cơ với hệ thống tín
hiệu ngôn ngữ được sử dụng làm phương tiện thể hiện trong tác phẩm văn học.
1.1.1 Mối quan hệ của bộ ba: Tín hiệu-Tín hiệu ngôn ngữ-Tín hiệu thẩm mĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
1.1.1.1. Tín hiệu
Trước hết, như đã nói trên,THTM vốn là một loại tín hiệu cho nên nó cũng
mang những đặc trưng của tín hiệu (TH) nói chung. Vậy TH là gì?
Theo P. Guiraud: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ
thể gợi ra hình ảnh kí ức của một kích thích khác (Dẫn theo ĐHC [ 7 ]). Theo cách
hiểu như vậy thì bất kì hình thức vật chất nào mà có khả năng gợi ra trong kí ức
của con người một hình ảnh nào đó thì đều được coi là TH cả, không phân biệt
nguồn gốc của nó là tự nhiên hay nhân tạo, có chức năng giao tiếp hay không v.v .

Chẳng hạn, một bầu trời đầy sao có khả năng gợi ra hình ảnh về một ngày hôm sau
sẽ nắng đẹp trong nhận thức của con người; một hồi kẻng được đánh lên để báo
hiệu khi có hội họp hoặc giờ ra chơi đã tới theo quy ước giữa những người nào đó;
một câu hỏi nhưng chính là một lời tỏ tình trong câu ca dao:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Vườn hồng đã có lối vào hay chưa?”
Và câu trả lời nhưng cũng có thể là “ bật đèn xanh” cho lời tỏ tình đó:
“Chàng hỏi thì thiếp xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”
Các nhà nghiên cứu về lí thuyết thông tin gọi đó là những yếu tố mang tin
(thông tin), còn các nhà nghiên cứu nghĩa học gọi đó là những yếu tố mang nghĩa..
Kế thừa thành quả của những người đi trước, Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra những
đặc tính như là dấu hiệu nhận biết của một tín hiệu, gồm các nhân tố sau:
- Nó phải có một hình thức cảm tính: tức là TH phải cho phép con người cảm
nhận được bằng giác quan;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Nó phải gợi ra, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó (phải mang
một nội dung ý nghĩa), " một tín hiệu là một khái niệm về quan hệ giữa cái biểu đạt
và cái được biểu đạt(ý nghĩa)”;
- TH phải được nhận thức bởi một chủ thể nào đó;
- TH phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định.
Các nhà nghiên cứu Tín hiệu học đã phân các tín hiệu thành những phạm trù
(hay loại) khác nhau. Ch.S.Pierce phân chia tín hiệu thành ba loại chính: Hình hiệu
(icones), dấu hiệu hay dấu vết (indexes) và biểu trưng (symboles). Ch. W. Morris
dựa vào mối quan hệ giữa tín hiệu với các loại sự vật mà chúng biểu thị để chia tín
hiệu thành hai loại:các chỉ hiệu (single indexes) và định hiệu (singnes
caracterisant). Tiếp theo ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu
trưng (symbole).
P.Guiraud lại dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con

người, trong đó tác giả quan tâm tới những tín hiệu biểu hiện.Những tín hiệu biểu
hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ
giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan, ví dụ như bức
ảnh, bản nhạc, v.v . P. Guiraud tiếp tục phân chia tín hiệu thành tín hiệu tự nhiên
(là đối tượng của khoa học tư nhiên ) và tín hiệu nhân tạo; trong tín hiệu nhân tạo
ông lại chia thành tín hiệu không giao tiếp và tín hiệu giao tiếp. Ông còn dựa theo
đặc tính thể chất của TH mà phân chia các TH thành TH thị giác, TH thính giác,
TH xúc giác.Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia các TH thành
TH thứ cấp (còn gọi là kí hiệu) và TH sơ cấp...Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn
nhau của các loại tín hiệu.
Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại tín hiệu theo quan điểm riêng
của mình.Theo ông, tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các phương
diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau.Mỗi lần vận dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu chí phân loại mà Đỗ
Hữu Châu đưa ra là:
1/Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện;
2/ Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu;
3/ Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện;
4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu.
Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được các loại tín hiệu
như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v.v, trong đó tín hiệu ngôn ngữ được coi
là một loại tín hiệu đặc biệt.
Ch.S. Pierce đề ra quan niệm tam diện về tín hiệu, nhưng phải đến khi Ch.
W. Morris hệ thống hóa và xây dựng một lí thuyết tổng quát về tín hiệu thì ba chiều
của tín hiệu mới thực sự có ý nghĩa trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
đặc biệt với ngành tín hiệu học. Ch. W. Morris cũng như Ch.S. Pierce chia ra ba
chiều của tín hiệu:
Thứ nhất là chiều kết học;

Thứ hai là chiều nghĩa học;
Thứ ba là chiều dụng học.
Nhưng Ch. W. Morris còn cho rằng có thể tách ra trong quá trình tín hiệu
hóa ba cặp nhị diện cũng là ba cặp quan hệ nhị diện như sau:
* Chiều kết học: là chiều của quan hệ hình thức giữa các tín hiệu với nhau.
* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và sự vật: đó là chiều nghĩa học của tín hiệu
học.
* Chiều quan hệ giữa tín hiệu và người lí giải: đây là chiều dụng học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Như vậy, TH ngôn ngữ sẽ nằm trong loại TH nhân tạo, thuộc loại TH âm
thanh, là TH giao tiếp. Vậy TH ngôn ngữ là gì?
1.1.1.2. Tín hiệu ngôn ngữ
Trên cơ sở lí thuyết Tín hiệu học, mỗi TH gồm có hai mặt là cái biểu hiện
(cbh) ( tức hình thức vật chất cảm tính) và cái được biểu hiện(cđbh)( tức nội dung ý
nghĩa), F. de Saussure xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: “Tín hiệu ngôn ngữ kết
liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một
hình ảnh âm thanh," hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là
có cái kia.Trong đó khái niệm được gọi là cái được biểu hiện(cđbh) và hình ảnh âm
thanh được gọi là cái biểu hiện(cbh). [31; 84 ]
Dựa trên tính nhị diện của tín hiệu ngôn ngữ, F. de Saussure cũng nói tới hai
loại tín hiệu ngôn ngữ : Tín hiệu võ đoán và tín hiệu có lí do tương đối.
Theo quan niệm của Ch.S. Pierce qua cách phân loại đã nêu ở trên, đại đa
số tín hiệu ngôn ngữ thuộc loại ước hiệu, loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa cái
biểu đạt và cái được biểu đạt là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên
do. Loại tín hiệu này sẽ mất tư cách là tín hiệu nếu không có cái lí giải.
Theo Ch.W. Morris, tất cả các tín hiệu đều nằm trong quan hệ với các tín
hiệu khác và quy định lẫn nhau. Do đó các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống
nhất định. Ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ
thống. Chính F. de Saussure cũng đã khẳng định điều này và cho rằng giá trị của

mỗi yếu tố là do các yếu tố khác trong hệ thống quy định. Tuy nhiên, Đỗ Hữu Châu
đã chỉ rõ : Mặc dù F. de Saussure có khẳng định vai trò của hệ thống đối với tín
hiệu ngôn ngữ nhưng do xác định một cách riêng rẽ từng tín hiệu tách rời một nên
ông chỉ thấy có hai mặt ( cbđ, cđbđ ) quy định lẫn nhau. [7, tập 1, 695 ]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Trong cuốn Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng [7] , Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ
là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật
chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người làm ra. Ông xác
định TH ngôn ngữ là loại TH thính giác, TH giao tiếp, TH nhân tạo, ước hiệu (võ
đoán) v.v… Đỗ Hữu Châu đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức
năng của các TH ngôn ngữ so với các hệ thống TH nói chung và TH mang chức
năng giao tiếp nói riêng. Đó là: Ngôn ngữ không chỉ thuần tuý mang chức năng
giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự
sống của con người và còn mang chức năng thi pháp v.v… Vì vậy, TH ngôn ngữ
vừa là TH giao tiếp, vừa có thể là TH nhận thức, TH biểu hiện v.v… riêng đối với
chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các chức năng khác nhau có liên quan
đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả, chức năng
dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học.
Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa ( tức các đơn vị có
hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ, ngữ hay một câu nói nào đó
có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ
những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lí của người nói
v.v…Chẳng hạn, nghe câu thơ Trám bùi để rụng, măng mai để già ( Tố Hữu) ta
biết ngay nhà thơ đang nói về một số đặc sản của vùng núi rừng Việt Bắc. Hoặc khi
nghe lời đối thoại sau:
“ Vải hôm nay bán được mấy xu hả dì?
-Kém hôm qua năm xu?
-Hàng họ thế này thì ăn bằng gì?

(Chí Phèo-Nam Cao)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Chúng ta có thể nhận ra các nhân vật làm nghề dệt vải hoặc buôn bán vải
vóc.
Ở bất kì cấp độ nào, mỗi TH ngôn ngữ cũng đều phải bao hàm một hình thức
ngữ âm(cbh) tương ứng với một nội dung ngữ nghĩa (cđbh), và giá trị của TH ngôn
ngữ cũng do những mối quan hệ thuộc hệ thống ngôn ngữ quy định. Vậy những
mối quan hệ hệ thống của TH ngôn ngữ là những quan hệ nào?
F.de Saussure đã nêu hai loại quan hệ chung nhất. Đó là :
1) Quan hệ đồng nhất - đối lập và quan hệ khác biệt;
2) Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến {Saussure F.D: 1973 “Giáo
trình ngôn ngữ học đại cương].
Trong ngôn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại
quan hệ khác như: quan hệ tôn ti (giữa các cấp độ của ngôn ngữ) và quan hệ hiện
thực hoá ( giữa bình diện trừu tượng và bình diện cụ thể, giữa điển dạng và hiện
dạng)
Chính các nguyên tắc đồng nhất và đối lập, kết hợp (hay tuyến tính) và liên
tưởng(hay trực tuyến), điển dạng ( hay hằng thể) và hiện dạng (hay biến thể) trong
hệ thống ngôn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết quan trọng giúp chúng ta lí giải về
các TH ngôn ngữ trong quá trình hoạt động thực hiện các chức năng của ngôn ngữ
trong giao tiếp, trong đó có giao tiếp nghệ thuật (giao tiếp của văn học) có liên
quan đến những nhiệm vụ mà đề tài luận văn này cần giải quyết.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ đã được Đỗ
Hữu Châu đặt trong chức năng xã hội của ngôn ngữ. Sự hiện thực hóa chức năng
xã hội của ngôn ngữ được biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống; qua
những mối quan hệ ngang ( tuyến tính, ngữ đoạn , tiếp đoạn cú đoạn:khả năng kết
hợp của các yếu tố ngôn ngữ với nhau để tạo thành một đơn vị cao hơn ) và mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13

quan hệ giữa các cấp độ của hệ thống ngôn ngữ.Trong các kết hợp cụ thể, mối
quan hệ giữa hình thức ngôn ngữ (cbđ) và ý nghĩa (cđbđ) rất khác nhau.Ví dụ :
tín hiệu bến trong những kết hợp sau là rất khác nhau về đối tượng được nó biểu
trưng:
(1) Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(ca dao)
(2) Để lòng anh hóa bến
Nghe thuyền em ra đi.
(Chế Lan Viên)
1.1.1.3 Tín hiệu thẩm mĩ (THTM)
Khái niệm THTM xuất hiện cùng với khuynh hướng cấu trúc trong nghiên
cứu mĩ học và nghệ thuật từ những năm giữa thế kỉ XX và được tiếp nhận vào Việt
Nam từ những năm 70 qua những bản dịch các công trình khoa học xuất hiện trong
các bài viết của Đỗ Hữu Châu(Lý thuyết hệ thống trong ngôn ngữ học dưới ánh
sáng của phương pháp luận khoa học của Mác), Nguyễn Lai(Từ một số luận điểm
của Mác suy nghĩ về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ), Hoàng Trinh(Từ kí hiệu học
đến thi pháp học) ,Trương Thị Nhàn (Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm
mĩ không gian trong ca dao)
Trong công trình của mình, các nhà nghiên cứu tuy chưa đưa ra một định
nghĩa hoàn chỉnh, thống nhất về tín hiệu thẩm mỹ, song họ đều thừa nhận THTM là
yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương
tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mĩ, được chúng ta
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giới
tinh thần của chúng ta (Dẫn theo [30, 17]).
Những phương tiện này đã được M.B. Khrapchenco nêu cụ thể : nhân hoá,
ẩn dụ cố định, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật đã được mài
mòn và cố định hoá về mặt ý nghĩa mà theo tác giả phù hợp với điều kiện hoạt

động chức năng quan trọng của kí hiệu là phải có một cách hiểu thường xuyên
được nhiều người biết đến Theo Hoàng Trinh, đó có thể là một bức hoạ, một vở
múa, một hình ảnh ẩn dụ, một figure ( hình thể từ ngữ ) là ẩn dụ, hoán dụ trong văn
học mang đặc tính của biểu trưng với cái biểu trưng và cái được biểu trưng của nó.
Các nhà phong cách học có thể giới hạn khái niệm THTM trong phạm vi hẹp hơn là
những tín hiệu nghệ thuật chìa khoá có giá trị tổ chức để biểu hiện tư tưởng tình
cảm của bài văn (Đái Xuân Ninh, dẫn theo Nhàn,số 93), hay những “ thần cú”,
những “nhãn tự”, những TH ngôn ngữ mang phẩm chất thẩm mĩ: những đối thoại
có tính thẩm mĩ trong văn học {48}v.v
Khi vào thế giới nghệ thuật, các TH thông thường sẽ chuyển hoá thành
THTM, mang những nét đặc thù của nghệ thuật. Có thể hiểu một cách chung nhất ,
THTM là yếu tố thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Nói đến
phương tiện nghệ thuật là nói đến hai mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất chính
là những hình thức vật chất được sử dụng trong mỗi ngành nghệ thuật ( như: đường
nét, màu sắc trong hội họa, hình khối trong kiến trúc, âm thanh, tiết tấu trong âm
nhạc, ngôn ngữ trong văn học). Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩ ,
nhiều tầng khái quát hoá, trừu tượng hoá có tính thẩm mĩ [8, 755]. Philipiep cũng
khẳng định rằng từ một hình thức vật chất cụ thể thì mặt tinh thần, mặt nội dung ý
nghĩa có thể đồ sộ hơn rất nhiều so với ý nghĩa của bản thân thực tế, cuộc sống
(Dẫn theo [30,18])
Ở đây có sự phân biệt khá rạch ròi giữa phương tiện và chất liệu khi ta nhìn
nhận tín hiệu trong chức năng của chúng. Nếu như trong các loại hình nghệ thuật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
khác, chất liệu có thể được cảm nhận một cách trực tiếp bằng các giác quan, thì đối
với văn học chất liệu là ngôn ngữ. Không thể xác định tín hiệu thẩm mỹ chỉ dựa
trên chất liệu cũng như trong văn học, không thể đồng nhất tín hiệu ngôn ngữ thông
thường được dùng làm chất liệu trong tác phẩm văn học với phương tiện của nghệ
thuật là tín hiệu thẩm mỹ . Chính vì vậy, Lotman đã viết: “Văn học nói bằng một
thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ được xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên

với tư cách là một hệ thống cấp hai . ( Dẫn theo M.B. Khrapchenco, Những vấn đề
lí luận và phương pháp luận nghiên cứu,VH.,H.,2002,tr.64). Hoặc có thể nói theo
Đinh Trọng Lạc là TH ngôn ngữ - văn học ấy đóng vai trò là hệ thống TH thứ nhất
làm cơ sở cho hệ thống TH thứ hai THTM
Như vậy có sự chuyển hóa các kí hiệu ngôn ngữ phổ thông thành các yếu tố
của tín hiệu nghệ thuật, hay nói khác đi, tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật được xây
dựng trên cơ sở ngôn ngữ tự nhiên.
Trên cơ sở phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, tác giả Đỗ
Hữu Châu đã giải thích cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ như sau. THTM là phương
tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú
pháp THTM. TH ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức CBH của
THTM [ 8,576 ]. Để trả lời cho câu hỏi: Thế nào là một THTM?”, Đỗ Hữu Châu
chủ trương căn cứ vào sự tương ứng của THTM với các vật quy chiếu thuộc thế
giới hiện thực: THTM phải tương ứng với một vật quy chiếu nào đấy trong thế
giới hiện thực. Chẳng hạn như một con thuyền, một dòng sông, hay một nỗi
buồn nào đó [ 8, 576 ].
Từ đó có thể hiểu THTM chính là toàn bộ những yếu tố hiện thực, những chi
tiết, những sự vật, hiện tượng của đời sống được đưa vào tác phẩm vì mục đích
biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Đỗ Việt Hùng cũng có ý kiến tương tự: “nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ
thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì ngôn ngữ nghệ thuật là hệ
thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu hiện của ngôn ngữ nghệ
thuật bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật - lôgíc của ngôn ngữ tự
nhiên. Cái được biểu hiện là các lớp ý nghĩa hình tượng. Đây chính là trường hợp
mà hệ thống thứ nhất sẽ được dùng làm bình diện thể hiện hoặc làm cái biểu đạt
cho hệ thống thứ hai” [Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học ]
Từ những điều đã được trình bày trên đây, để hiểu rõ mối quan hệ giữa TH
ngôn ngữ và THTM, có thể hình dung theo sơ đồ sau:

cbh:âm thanh ngôn ngữ
cbh:tín hiệu ngôn ngữ---------------------------------------
Cđbh:ý nghĩa ngôn ngữ
THTM : -------------------------------------------------------
Cđbh: ý nghĩa thẩm mỹ
(Dẫn theo Luận án PTS của Nhàn, tr.28)
Từ sơ đồ này, có thể thấy rằng cả cái hợp thể CBH và CĐBH tạo thành TH
ngôn ngữ đã trở thành CBH cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mĩ của THTM
trong tác phẩm văn học. Chính vì thế, trong văn học không được đồng nhất phương
tiện văn học THTM với TH ngôn ngữ thông thường được sử dụng làm chất liệu
của tác phẩm văn học. Chính sự khác biệt có tính vượt cấp này là do vai trò quyết
định của chủ thể sáng tạo. Điều đó khiến cho, nói theo Ch. bally, giữa cách dùng
ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm không vượt qua
được [22, 9].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Điều đáng lưu ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được
biểu hiện trong ngôn ngữ tự nhiên có thể là võ đoán thì mối quan hệ giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện trong tín hiệu thẩm mỹ lại là luôn có lí do và là lí do liên
hội. Tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên muốn trở thành tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm
nghệ thuật thì phải trải qua một quá trình khái quát hóa nghệ thuật mang tính biểu
trưng để đạt đến ý nghĩa thẩm mĩ nhất định.
Trong Luận văn này, để tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi chấp nhận cách
hiểu về THTM như sau: “THTM là TH thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện
của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm
trạng (những chi tiết, những sự vật, hiện tượng, những cảm xúc thuộc đời sống hiện
thực và tâm trạng), những yếu tố của chất liệu (các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ
với văn chương; các yếu tố của chất liệu mầu sắc với hội họa; âm thanh có nhịp
điệu với âm nhạc) được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì mục
đích thẩm mỹ [ 1, 23], [30, 26] .

Trong các tác phẩm nghệ thuật , THTM được biểu hiện rất đa dạng đối với
từng ngành nghệ thuật, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố ; điều cần thiết là phải xem
xét nhìn nhận THTM qua những đặc trưng cụ thể.
1.2 NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ
1.2.1 Tính đẳng cấu
Đẳng cấu là sự giống nhau về quan hệ, về nội dung nhưng khác nhau về hình
thức biểu hiện. Iu.A. Philipiep đã rất chú ý tới đặc tính về sự đẳng cấu thông tin của
THTM: Những biểu hiện vật lí của TH có thể khác nhau nhưng ý nghĩa của TH
vẫn chỉ là một ([ Dẫn theo [30, 17]).
Đỗ Hữu Châu cũng đã khẳng định: “ Rất nhiều THTM được sử dụng trong
văn học, trong hội họa, trong điện ảnh, trong âm nhạc như những tín hiệu đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
nghĩa (có thể là đồng cảm xúc), chỉ khác nhau ở sự thể hiện bằng các chất liệu
riêng của từng ngành. [ 8, 572] . Chẳng hạn, các từ thuyền và bến là cái biểu hiện
bằng ngôn ngữ của hai tín hiệu thuyền , bến. Hai tín hiệu này xuất hiện trong một
bức vẽ, trong một cuốn phim và trong các bài hát: con thuyền không bến , con
thuyền xa bến ,…bằng hình vẽ, bằng hình ảnh hay bằng chuỗi âm thanh có nhạc
tính,…Như vậy, một tín hiệu thẩm mỹ của một nền văn hóa có thể chuyển hóa vào
nhiều ngành nghệ thuật qua chất liệu, phương tiện đặc trưng của từng ngành này.
Tính đẳng cấu của THTM không chỉ biểu hiện qua các ngành nghệ thuật
khác nhau mà còn qua từng hệ thống, từng kết cấu, từng lần xuất hiện khác nhau
của các TH trong hệ thống. Theo Phạm Thị Kim Anh: “ Nghĩa của từng tín hiệu là
khác nhau, quan hệ nghĩa giữa các tín hiệu trong từng cặp cũng khác nhau, song
nếu cùng đặt vào trong một hệ thống nào đó, chúng lại có quan hệ, ý nghĩa, cảm
xúc giống nhau. ”[ 1, 20 ]
Điều này cho phép chúng ta đặt các tín hiệu trong quan hệ với các yếu tố cấu
thành tác phẩm, ở phương diện trực tuyến, lại có thể xem xét trên trục đồng đại hay
lịch đại. Đó cũng là cơ sở cho quan hệ lựa chọn và quan hệ kết hợp.
Có thể nhấn mạnh thêm rằng tính đẳng cấu của THTM còn được thể hiện

trong tương quan giữa các hệ thống hoạt động của THTM. Tham gia vào một hệ
thống, tức là tham gia vào một kết cấu, một mạng quan hệ không giống với trong
các hệ thống khác THTM có thể đồng nghĩa trong những hình thức kết cấu khác
nhau của các hệ thống.
Chẳng hạn, các THTM được thể hiện qua một loạt những câu ca dao sau đều
có ý nghĩa chung nói về thân phận thụ động, không tự quyết định được số phận của
người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa.../ Thân em như hạt mưa rào.... / Thân em
như tấm lụa đào…/ Em như giếng nước giữa đàng... Chúng đều nói về thân phận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
của người phụ nữ trong xã hội xưa: bị phụ thuộc vào kẻ khác, bất lực và không tự
định đoạt được số phận của mình.
Giữa chất liệu hiện thực và tín hiệu thẩm mĩ cũng có quan hệ đẳng cấu. Hãy
xét ví dụ: nước, non trong bài Thề non nước của Tản Đà: Hiện tượng tự nhiên
“ non ” với đặc tính cố định, ở trên cao, thích hợp để có thể biểu trưng cho người
con gái đợi chờ, ngóng trông; đó là cơ sở để nhà thơ xây dựng hình tượng “ non ”
trong bài thơ. Còn “ nước ” là thứ chất lỏng có đặc tính trôi chảy, lưu động, giống
như người con trai “lãng du” nay đây mai đó nên thích hợp đối với việc xây dựng
hình tượng “non” trong bài thơ. “ non, nƣớc ” cũng là những tín hiệu mang tính
biểu trưng để nói về tình yêu quê hương, đất nước. Người ta thường tìm ra các lớp
nghĩa khác nhau trong tác phẩm dựa trên tính đẳng cấu này. Những hình ảnh tượng
trưng, ước lệ cũng phần nào được lí giải trên cơ sở tính đẳng cấu giữa chất liệu hiện
thực và tín hiệu thẩm mĩ
Như các ví dụ đã dẫn trên đây cho thấy, các tín hiệu thẩm mĩ thường đi với
nhau thành từng cặp, bởi vậy cũng có sự đẳng cấu giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ
với nhau.Tuy nhiên giữa các cặp tín hiệu thẩm mĩ có khi diễn ra sự đổi chiều; khi
đó ý nghĩa thẩm mĩ cũng có sự thay đổi tương thích(sự thay đổi nghĩa của chính
từng tín hiệu thẩm mĩ và của cặp tín hiệu thẩm mĩ ) , như hình ảnh tấm lụa đào
trong kết hợp sau:
Thân em như tấm lụa đào

Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai
(ca dao)
Ý nghĩa của hình ảnh tấm lụa đào trong câu ca dao trên nói về vẻ đẹp, cái
thanh cao cần phải được gìn giữ, chứ không phải là thân phận người phụ nữ bị phụ

×