Đặc điêm tri nhận của người Việt qua trường từ vựng chỉ trang
sức trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bộ ba tư duy – ngôn ngữ - văn hoá có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Trong khoa học ngôn ngữ, việc lựa chọn cách thức nghiên cứu ngôn
ngữ trong mối quan hệ với văn hoá, tư duy là một hướng đi đúng đắn trong
giai đoạn hiện nay.
1.2. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong vốn ngôn ngữ văn hoá chớnh
những yếu tố phản ánh tư duy và ý thức văn hoá dõn tộc. Thông qua ý
nghĩa của những sự vật trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao ta có thể hình
dung được “lối nghĩ” riêng của mỗi con người trên từng vùng lónh thổ. Vì
vậy, thành ngữ, tục ngữ, ca dao không chỉ được coi là một đơn vị ngôn ngữ
mà hơn thế, nó cũn là một đơn vị ngôn ngữ văn hoá.
1.3. Trang sức (nhẫn, vòng tai, xuyến, trõm…) được coi là một di
sản văn hoá phi vật thể đã lưu giữ những phong tục, tập quán, tín ngưỡng
của mỗi vùng, miền, mỗi quốc gia, lónh thổ. Thông qua trang sức mà con
người sử dụng, ta sẽ thấy được những khớa cạnh khác nhau trong đời sống
của họ. Với chất liệu, chức năng …khác nhau của trang sức được sử dụng ở
những giới tớnh, đẳng cấp…khác nhau của con người sẽ tạo ra ý nghĩa biểu
trưng khác nhau.
Nghiên cứu ý nghĩa của những trang sức được nhắc đến trong thành
ngữ, tục ngữ, ca dao, đề tài sẽ cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về vị trí
của biểu tượng này trong đời sống tinh thần người Việt, sự tiếp nhận và
sáng tạo chúng trong ngôn ngữ nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
1
2.1. Tổng quan về sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học tri nhận.
2.1.1. Trên thế giới
Ngôn ngữ học tri nhận ra đời vào những năm đầu của thập niên 60
của thế kỉ XX, song song với một khuynh hướng mới có tên gọi là ngữ
pháp cải biến gắn liền với tên tuổi của Chomsky. Chomsky và Miler được
coi là những người sáng lập ra khoa học tri nhận. Đến cuối những năm 70,
ngôn ngữ học bắt đầu xuất hiện những nghiên cứu mang hơi hướng tri
nhận. Nhưng “thời điểm ra đời chính thức của ngôn ngữ học tri nhận
thường được tính là năm 1989 là năm mà tại Duisburg (Đức) các nhà khoa
học tham dự hội thảo đã thông qua quyết nghị thành lập hội ngôn ngữ học
tri nhận và sau đó bắt đầu ra tạp chí “Cognitive Linguistics”[43, 15].
Tuy nhiên, từ trước đến nay, những công trình kinh điển về lí thuyết
tri nhận phải kể đến:
- Langacker, Ronald W. 1987, 1999. Foundations of cognitive
grammar.
- Dirven, Rene and Marjolijn Verspoor, eds. 1998. Cognitive
exploration of language and linguistics. Philadelphia: John Benjamins
Publishing Company.
- Evans, Vyvyan, and Melanie Green. 2006. Cognitive linguistics:
An introduction. Mawhaw, N.J.: Erlbaum.
- Lee, David. 2001. Cognitive linguistics: An introduction. New
York: Oxford University Press.……
Theo bài tổng thuật khá uy tín của các tác giả Vyvyan Evans,
Benjamin K. Bergen and Jorg Zinken (The cognitive linguistics enterprise:
an overview - Tổng quan về trường phái ngôn ngữ học tri nhận) (2006),
ngôn ngữ học tri nhận phát triển theo hai hướng chớnh:
Hướng đi thứ nhất: Ngữ nghĩa học tri nhận, với các tác giả tiêu biểu:
Lakoff, Johnson, Rosch, Fillmore, Fauconier, …bao gồm các nhánh:
2
(1) Image schema theory (Lí thuyết lược đồ hình ảnh)
(2) Encyclopeadic semantic (Ngữ nghĩa học bách khoa)
(3) Categorization and Idealized Cognitive Model (ICMs) (Phạm trù
hoá và các mô hình lí tưởng).
(4) Cognitive lexical semantics (Ngữ nghĩa từ vựng tri nhận)
(5) Conceptual metaphor theory (Lí thuyết ẩn dụ ý niệm)
(6) Conceptual mentonymy (Hoán dụ ý niệm)
(7) Mental spaces theory (Lí thuyết không gian tinh thần)
(8) Conceptual blending theory (Lí thuyết hỗn dung ẩn dụ)
Hướng đi thứ hai: Ngữ pháp học tri nhận, với các tên tuổi: Talmy,
Langacker, Goldberg… bao gồm các nhánh:
(1) Talmy’s grammartical vs. lexical sub-systems approach (Hướng
tiếp cận hệ thống ngữ pháp trong quan hệ với từ vựng của Talmy)
(2) Cognitive grammar (Ngữ pháp tri nhận)
(3) Constructional approaches to grammar (Các hướng tiếp cận ngữ
pháp từ cấu trúc), gồm:
. Fillmore’s Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc của
Fillmore)
. Goldberg’s Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc của
Goldberg)
. Radical Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc gốc)
. Enbodied Construction Grammar (Ngữ pháp cấu trúc nghiệm thõn)
(4) Cognitive approaches to grammarticalization (Các hướng tiếp cận
tri nhận về ngữ pháp hoá)
Về các quan điểm và nguyên lí cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, có
các vấn đề sau:
(1) Ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự tri (autonomos)
3
(2) Ngữ nghĩa và ngữ pháp là sự ý niệm hoá (conceptualisation)
(3) Tri thức ngôn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngôn ngữ.
(4) Ý nghĩa của ngôn ngữ không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn
ngữ mà có nguồn gốc sõu xa từ kinh nghiệm được hình thành trong quá
trình con người và thế giới tương tác với nhau, từ tri thức và hệ thống niềm
tin của con người; ngữ nghĩa là một bộ phận của hệ thống ý niệm tổng thể
chứ không phải là một “module” tự trị độc lập.
(5) Vì chức năng cơ bản của ngôn ngữ là chuyển tải ý nghĩa nên sự
khác biệt về hình thức phản ánh những sự khác biệt về ngữ nghĩa. Ngữ
pháp không nên được coi không phải là một hệ thống quy tắc mà là một
bảng danh mục các biểu hiện (symbol) có cấu trúc nội tại bởi sự kết hợp ý
nghĩa và hình thức… [43, 20-30]
2.1.2. Ở trong nước
Trước tiên phải kể đến các tác giả đã có công lao dịch thuật và đưa lí
thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào Việt Nam:
- Tác giả Lí Toàn Thắng đã xuất bản công trình “ Ngôn ngữ học tri
nhận - từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt” (2005), tái bản năm
2009. Trong cuốn sách này, tác giả đã phác thảo ngôn ngữ học tri nhận từ
lịch sử hình thành cho đến những thành tựu tiêu biểu. Tác giả tập trung viết
về vấn đề điển dạng và các phạm trù tri nhận. Một đóng góp quan trọng
nữa của cuốn sách này là kết quả nghiên cứu kì công, tỉ mỉ của tác giả về
mô hình tri nhận không gian của người Việt.
- Trần Văn Cơ đã xuất bản hai cuốn “Ngôn ngữ học tri nhân (ghi
chép và suy ngẫm)” và “Khảo luận về ẩn dụ tri nhận”. Đõy là hai cuốn
sách tõm huyết của ông nhằm truyền bá khuynh hướng ngôn ngữ học tri
nhận.
4
- Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, thông qua việc dịch cuốn sách Nhập
môn ngữ nghĩa học của John Lyons, trong phần Định nghĩa về nghĩa của
từ, đã đi vào tỡm hiểu về điển dạng.
- Lê Văn Thiêm với Tập bài giảng ngữ nghĩa học, bài 5, Ngữ nghĩa
học tri nhận, trình bày về Ngữ nghĩa học tri nhận theo nghĩa hẹp.
Tiếp sau này, đã có nhiều bài báo của các tác giả trình bày về ẩn dụ
tri nhận, các luận văn, luận án, khoá luận tốt nghiệp đã ứng dụng lí thuyết
vào nghiên cứu cụ thể:
Nghiên cứu theo ngữ nghĩa học có các công trình:
- Nguyễn Đức Tồn (2007-2008), Bản chất của ẩn dụ, Tạp chí ngôn
ngữ số 10, 11/2007.
- Nguyễn Đức Tồn, Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị cảm
giác trong tiếng Việt.
- Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng tư duy người Việt qua ẩn dụ tri nhận
trong thành ngữ, Tạp chí ngôn ngữ, 12/2008 và 1/2009.
- Nguyễn Ngọc Vũ, Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có
yếu tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, 2008.
- Phan Thế Hưng, Ẩn dưới góc độ tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt
và tiếng Anh), 2009.
- Nguyễn Thị Thanh Huyền, Ẩn dụ tri nhận, mô hình cấu trúc trên
ngữ liệu ca từ Trịnh Công Sơn, 2009.
- Bựi Thị Dung, Ẩn dụ tri nhận trong ca dao, 2008.…
Nghiên cứu theo hướng ngữ pháp học tri nhận, tiêu biểu là các công trình:
- Đỗ Hồng Dương, Bước đầu áp dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên
cứu thành phần chủ ngữ trong câu tiếng Việt, Tạp chí ngôn ngữ, 11/2008.
- Nguyễn Khánh Hà, Lí thuyết điển mẫu và câu điều kiện điển mẫu
trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, 8/2008.
5
- Ly Lan, Ý niệm biểu đạt trong biểu thức có từ “mặt”, từ “anger”
của tiếng Việt và tiếng Ạnh: một khảo sát ẩn dụ tri nhận, Tạp chí ngôn ngữ,
10/2009.……
Có những công trình không đích danh đặt nghiên cứu của mình dưới
góc độ lí thuyết tri nhận nhưng cách thưc và kết quả lại là một hướng tiếp
cận tri nhận. Có thể kể đến các công trình sau:
- Nguyễn Thị Ngõn Hoa, Sự phát triển ý nghĩa hệ biểu tượng trang
phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, LA TS KHNV, 2005.
- Nguyễn Đức Tồn, Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy người Việt, NXB ĐHQGHN, H.2009.
2.2. Lịch sử nghiên cứu trường từ vựng trang sức
Ở một số công trình, theo cách này hay cách khác cũng đã nhắc đến
nhúm từ ngữ liên quan đến trang sức như Nguyễn Đức Tồn với “Tìm hiểu
đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự
so sánh với dân tộc khác)”[48]. Trong công trình này, bên cạnh những vấn
đề chung về sự phản ánh đặc trưng văn hoá dõn tộc trong ngôn ngữ, tác giả
đã đi vào một số trường từ vựng tiêu biểu. Ở một vài ví dụ trong các
chương, tác giả đã nhắc đến một vài thành ngữ liên quan đến trang sức như
“trõm góy bỡnh tan”,…. Nhưng với hướng nghiên cứu trong công trình,
thành ngữ liên quan đến trang sức chỉ được tiếp cận như một dẫn chứng mà
chưa thực sự trở thành đối tượng nghiên cứu.
Tác giả Đỗ Hữu Chõu trong Từ vựng học tiếng Việt [4] cũng đã nhắc
đến tên gọi một số trang sức (thắt lưng, hoa tai…). Tác giả cho rằng đõy là
phương thức chuyển nghĩa của từ theo hướng hoán dụ và ẩn dụ. Như vậy,
dù không trực tiếp nhưng nhúm từ gọi tên trang sức đã được nghiên cứu
như một đối tượng. Tuy nhiên, do tớnh chất điển hình, trang sức không
được chú ý đến nhiều trong công trình trên.
6
Đầy đủ và hệ thống hơn, Nguyễn Thị Ngân Hoa trong luận án Tiến sĩ
[22] đã nghiên cứu “Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục
trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam”. Công trình đã trực tiếp tìm hiểu ngữ nghĩa
và tính biểu trưng của hệ biểu tượng trang phục nói chung và biểu tượng
trang sức nói riêng. Dù công trình không xác nhận mình sử dụng lí thuyết tri
nhận nhưng cách thức tiến hành và kết quả tìm ra lại cũng chính là một
hướng tiếp cận biểu tượng trang sức dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận.
Như vậy, trường từ vựng chỉ trang sức đã bước đầu được nghiên cứu
trên bình diện cấu trúc ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng, giá trị văn hoá và
tớnh dõn tộc.
Tiếp nối kết quả của những người đi trước, chúng tôi tiếp tục hướng
nghiên cứu nhóm từ gọi tên trang sức với sự quan tâm trực tiếp là đặc điểm
tri nhận của người Việt qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Đặc điểm tri nhận
này đã bước đầu được nói tới trong các mối quan hệ nhận thức, tư duy về
trang sức. Với tình hình nghiên cứu như vậy, chúng tôi mong muốn tiếp cận
thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến trang sức một cách hợp lí từ góc độ
lí thuyết tri nhận để tìm ra đặc trưng văn hoá và tư duy của người Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu nội dung tri nhận và cơ chế tri nhận
trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến trang sức. Để từ đó tỡm ra
đặc điểm tư duy người Việt về trang sức và mối quan hệ giữa chúng với đời
sống cư dõn Việt
Để đạt những mục đích đó, chúng tôi tiến hành:
- Thống kê tất cả những từ gọi tên trang sức trong từ điển và nguồn
tự nhiên.
- Thống kê tất cả những thành ngữ, tục ngữ, ca dao liên quan đến
trang sức.
7
- Đặt ra và trả lời câu hỏi: quá trình phạm trù hoá trang sức đã
được người Việt thực hiện như thế nào thông qua cách thức phân loại
dân dã trang sức, mô hình thuộc tính phạm trù trang sức và điển dạng
của trang sức.
- Tỡm hiểu ẩn dụ tri nhận trong trường từ vựng chỉ trang sức
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các từ ngữ thuộc trường từ vựng liên
quan đến trang sức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi tiến hành khảo sát thống kê, nghiên cứu thông qua một số
cuốn từ điển sau:
- Từ điển thành ngữ tiếng Việt - Nguyễn Lực, Lương Văn Đang.
NXB KHXH.H, 1993.
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nguyễn Lõn, NXB Văn
hoá, H.1989.
- Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Hoàng
Văn Hành, Lê Xuõn Thoại, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuõn Thành, NXB
GD, 1997.
- Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông, Nguyễn Như Ý (chủ biên),
NXB ĐHQG HN, 2002.
- Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hoá
thông tin.
- Tổng tập văn học dõn gian người Việt, tập 1, 2, 15, 16, Nguyễn
Xuõn Kớnh, Trung tõm khoa học XHNV quốc gia, 2002.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại
8
Chúng tôi thống kê các đơn vị của trường từ vựng chỉ trang sức trong
tiếng Việt và hoạt động của chúng trong ngôn ngữ tự nhiên, thành ngữ, tục
ngữ, ca dao.
5.2. Phương pháp miêu tả
5.2.1. Thủ pháp phân tích thành tố
Có thể hiểu phương pháp này là phương pháp nghiên cứu mặt nội
dung các đơn vị có ý nghĩa, nhằm phõn giải các ý nghĩa thành các thành
phần ngữ nghĩa tối thiểu. Đối tượng của phương pháp này là tổng thể các từ
liên quan với nhau về ngữ nghĩa.
Khi sử dụng phương pháp này, để xử lí ngữ liệu trước tiên là tổ chức
sắp xếp ngữ liệu theo nguyên tắc đồng nhất (các từ trong cùng một trường
nghĩa). Ví dụ: các từ cùng được xếp vào nhúm đồng nhất về mặt vị trí, đặc
điểm…Trong mỗi nhóm lớn lại xếp các nhúm đồng nhất nhỏ hơn, rồi trong
mỗi nhúm như vậy lại tiếp tục phõn chia thành các nhúm nhỏ hơn nữa.
5.2.2. Thủ pháp miêu tả ý niệm
Miêu tả miền ý niệm nguồn, miền ý niệm đớch phía sau mỗi biểu
thức ngôn ngữ cụ thể.
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Khoá luận lấy một số đơn vị ngôn ngữ thuộc trường từ vựng chỉ
trang sức trong tiếng Anh để so sánh đối chiếu, nhằm chỉ ra một số điểm
tương đồng và dị biệt, từ đó bước đầu nhận định về đặc điểm tri nhận trang
sức giữa người Anh và người Việt.
5.4. Phương pháp thực nghiệm
Kiểm chứng về điển dạng trong trường từ vựng chỉ trang sức thông
qua khảo sát một số nhúm đối tượng cụ thể. (Nội dung thực nghiệm chúng
tôi xin trình bày cụ thể ở chương 2)
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm ba chương sau:
9
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Khảo sát những biến thể ngôn ngữ trường từ vựng chỉ
trang sức.
Chương 3: Đặc điểm tri nhận về khách thể (trang sức) và chủ thể
(con người) qua trường từ vựng trang sức trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Việt Nam.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học tri nhận
Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) là một khuynh hướng
ngôn ngữ học ra đời vào những năm 80 của thế kỉ XX với nhiệm vụ trung
tâm là nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy của con người,
nghiên cứu cách con người nhận thức thế giới (thế giới thực tại, thế giới phi
thực tại) qua lăng kính ngôn ngữ và văn hóa. Do đó đối tượng nghiên cứu
chính của ngôn ngữ học tri nhận không chỉ là những hiện tượng có thể quan
sát trực tiếp được, mà còn cả những hiện tượng không thể quan sát trực tiếp
được như tri thức, ý thức, tinh thần, ý chí v.v., những cái được gọi là những
biểu tượng tinh thần. Đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ học tri nhận không phải
là từ, cũng không phải là câu, mà là ý niệm (concept).
Ngôn ngữ học tri nhận cũng chủ trương rằng cùng với ngôn ngữ tự
nhiên của con người và liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ là yếu tố văn hóa
dân tộc mà người bản ngữ đại diện. Với ý nghĩa đó, văn hóa cũng có cương
vị là công cụ (hoặc phương tiện tri nhận), cũng nghĩa là cái lăng kính phản
chiếu sự tri nhận thế giới của con người. Phương thức tri nhận thứ ba (cùng
với ngôn ngữ và văn hóa) làm thành một trong những cơ sở của ngôn ngữ
học tri nhận là kinh nghiệm (experientialism). Tri nhận là một hoạt động
thực tiễn của con người nhằm kiến tạo tri thức về thế giới bằng kinh
nghiệm của chính mình thông qua bản thân mình. Cỏi cỏch tri nhận này
được gọi là nhập thân ý niệm (conceptual embodiment).
Tìm hiểu về ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi dựa trên nguyờn lớ “dĩ
nhân vi trung”, ý niệm hóa về thế giới , cơ chế ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận.
1.1.1.1. Nguyờn lí “dĩ nhân vi trung” (anthropocentric)
11
Ngôn ngữ học tri nhận đã thiết lập mối liên hệ mật thiết với tất cả các
khoa học tri nhận: tõm lớ học tri nhận, văn hóa học, thần kinh học, nhận
thức luận, triết học, trí tuệ nhân tạo v.v., lôi cuốn vào phạm vi nghiên cứu
của mỉnh cả những hiện tượng ngoài ngôn ngữ. Chính vì vậy, ngôn ngữ học
tri nhận được xem là môn khoa học liên ngành. Ngôn ngữ học tri nhận, một
mặt, liên hệ chặt chẽ với viờc nghiên cứu hiện tượng tri nhận trong tất cả
các bình diện ngôn ngữ học: từ vựng, ngữ pháp, âm vị; mặt khác, nghiên
cứu sự hiểu biết, tri thức trong đầu con người, tạo ta những phương thức
miêu tả thế giới, truyền đạt thông tin về thế giới (Soames 1988, Schwarz
1992). Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với
con người (con người suy nghĩ, con người hành động), giương cao ngọn cờ
“hướng tới con người ” – lấy con người là trung tâm. “Ngôn ngữ được tạo
ra theo thước đo của con người và thước đo đó được in sâu vào trong bản
thân sự định hướng của ngôn ngữ”. Nguyờn lớ này trở thành phương pháp
luận chủ đạo của ngôn ngữ học tri nhận.
Tư tưởng “dĩ nhân vi trung” đã có lịch sử lâu đời. Ngôn ngữ học tiếp
thu tư tưởng này từ khá sớm (V.Humboldt “sức mạnh tinh thần của con
người”, Benvenise “con người trong ngôn ngữ”) và cuối cùng hình thành
khuynh hướng ngôn ngữ học hiện đại hay còn gọi là ngôn ngữ học tri nhận.
Vận dụng nguyờn lớ này trong việc nghiên cứu mô hình không gian,
tác giả Lí Toàn Thắng [43] đã tìm ra tư thế “chuẩn tắc” (tư thế thẳng đứng)
và “không chuẩn tắc” của con người trong định hướng không gian. Nhân tố
trung tâm con người được thể hiện rất rõ nét trong cách định hướng không
gian, xác định kích cỡ và hình dáng của các bộ phận cơ thể con người. Từ
không gian cơ thể người sẽ đi đến cách tri nhận về không gian cơ thê vật.
Thông qua cách phân tích mô hình tri nhận không gian trên có thể
thấy trong ngôn ngữ phản ánh không chỉ tri thức của con người về thế giới
mà còn cả sự hình dung về thế giới đó. Trong ngôn ngữ tồn tại không phải
12
một thế giới khách quan mà là một thế giới chủ quan, thế giới đã được
“con người húa”. Xuất phát từ con người để nhìn nhận ngôn ngữ, nhìn
nhận thế giới, ngôn ngữ học tri nhận đã nghiên cứu ngôn ngữ trong mối
quan hệ với con người.
Trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt, nguyên lí “dĩ nhân vi
trung” của ngôn ngữ học tri nhận được thể hiện rõ nét. Ở đó, mọi sự vật
đều để chỉ con người, hướng tới con người và lấy con người làm trung tâm.
1.1.1.2. Ý niệm hóa thế giới và “bức tranh ngôn ngữ về thế giới”
Theo William Croft and D.Alan Cruse, “ngôn ngữ học tri nhận hoạt
động bên ngoài cấu trúc có thể nhìn thấy được của ngôn ngữ và nghiên
cứu những thao tác tri nhận rất phức tạp ở hậu trường, điều đó tạo ra ngữ
pháp, ý niệm hóa, ngụn bản và sự suy nghĩ trực tiếp”. Hơn thế, hiện thực là
một đường liên tục không có đường phân giới rõ ràng, tuyệt đối, dứt khoát.
Trong quá trình nhận thức hiện thực khách quan và biểu hiện nhận thức ấy
bằng ngôn ngữ, con người đã phạm trù hóa hiện thực khách quan, cấu trúc
lại hiện thực hay ý niệm hóa thế giới theo cách nhất định.
Đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ học tri nhận không phải là từ, cũng
không phải là câu, mà là ý niệm (Concept).í niệm là đơn vị cơ bản nhất của
ngôn ngữ học tri nhận. Một trong những luận thuyết cơ bản của ngôn ngữ
học tri nhận là: ngữ nghĩa học là sự ý niệm hóa (semantics is
conceptualization [46] Các đơn vị ngôn ngữ (từ, ngữ, kết cấu) biểu đạt ý
niệm (concepts) và ý niệm tương đương với ý nghĩa (meanings). Ý niệm là
“cái chứa đựng sự hiểu biết của con người về thế giới được hình thành
trong quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ. Trong ý niệm cú cỏi
phổ quát (khái niệm) và các đặc thù (văn hóa được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau)” [7, 142]. Trong cấu trúc nội tại của ý niệm bao gồm
nhiều nội dung thông tin về thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng
13
mang nét phổ quát. Mặt khác, nó bao gồm cả những nét đặc trưng văn hóa
dân tộc riêng biệt.
Liên quan đến vấn đề ý niệm, các nhà khoa học khẳng định: ý niệm
chính là một mảng thế giới do con người cắt bằng “lưỡi dao ngôn ngữ” để
nhận thức. Thế giới tồn tại khách quan nhưng việc chia cắt nó là khác nhau
ở các dân tộc mang những nền văn hóa khác nhau. Ý niệm hóa thế giới cho
chúng ta những “bức tranh thế giới” trong đó có bức tranh ngôn ngữ về thế
giới. Đó là bức tranh biểu hiện thế giới khách quan của con người được
phác họa bằng những chất liệu ngôn ngữ. Do chỗ “ngôn ngữ có liên hệ mật
thiết với những đặc trưng văn hóa – dân tộc của người bản ngữ với những
gam màu đặc trưng cho nền văn hóa dân tộc [8, 180]. Vì thế nó có tính phổ
quát và tính đặc thù. Trong ngôn ngữ học tri nhận, bức tranh ngôn ngữ về
thế giới được phản ánh trong vốn từ vựng của ngôn ngữ in đậm dấu vết của
lối tư duy “dĩ nhân vi trung”.
Như vậy, dựa trên những tiền đề ngôn ngữ học tri nhận như đã nêu
trên, chúng tôi xuất phát từ ý niệm “trang sức” để nghiên cứu về mối liên
hệ giữa thế giới và con người. Đõy cũng chớnh là con đường đi vào nghiên
cứu những vấn đề như ngôn ngữ và nhận thức, ngôn ngữ và văn hoá, ngôn
ngữ và xã hội. Trung tõm chú ý của ngôn ngữ học tri nhận là hình ảnh con
người trong văn hoá và ngôn ngữ, do đó với nguyên tắc lấy con người làm
trung tõm, chúng tôi tiến hành khảo sát đặc trưng bản sắc dõn tộc của mô
hình “trang sức” và cách nhìn trang sức của con người trên ngữ liệu thành
ngữ, tục ngữ, ca dao.
1.1.1.3. Cơ chế ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận
Trong lý thuyết ngôn ngữ học cổ điển, ẩn dụ được coi là một vấn đề
thuộc ngôn ngữ chứ không phải là vấn đề của tư duy. Lối nói ẩn dụ được
cho là không có trong ngôn ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng
ngày không có ẩn dụ. Nói cách khác, ẩn dụ chỉ được dùng trong các địa hạt
14
bên ngoài ngôn ngữ đời thường. Trong nhiều thế kỷ, người ta đã quá tin
vào lý thuyết cổ điển, tới mức, chẳng hề nhận ra được rằng chẳng qua nó
cũng chỉ là lý thuyết mà thôi. Người ta không chỉ tin lý thuyết đó là thật,
mà còn lấy nó để làm định nghĩa. Chữ phép ẩn dụ (metaphor) được định
nghĩa là cách biểu đạt ngôn ngữ của tiểu thuyết hoặc thi ca trong khi chỉ có
một hay vài từ chỉ một khái niệm nào đó được dùng vượt ra ngoài ý nghĩa
thông thường của nó để diễn đạt một khái niệm tương tự. Nhưng đây lại
không phải là vấn đề định nghĩa, mà là vấn đề kinh nghiệm. Với tư cách là
một người làm khoa học thực chứng và là một nhà ngôn ngữ học, người ta
có thể hỏi: Sự khái quát nào khiến cho những diễn đạt ngôn ngữ trở nên cái
mà các nhà nghiên cứu cổ điển gọi là ẩn dụ thi ca? Khi vấn đề này được tra
xét kỹ lường thì người ta sẽ thấy sự sai lầm của ngôn ngữ học kinh điển. Sự
khái quát thể hiện thành cách diễn đạt ẩn dụ có tính thi ca diễn ra không
phải ở trong ngôn ngữ, mà ở trong tư duy: nó là những liên tưởng khái quát
vượt qua ranh giới khái niệm. Hơn nữa, những nguyên tắc chung quy định
những định dạng ý niệm này không chỉ áp dụng vào những hình thức diễn
đạt trong thi ca và tiểu thuyết mà còn xuất hiện vô số trong ngôn ngữ thông
tục hàng ngày. Tóm lại, chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là
ở trong cỏi cỏch chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng
một hiện tượng tinh thần khác. Lý thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những
đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó,
những khái niệm trừu tượng hàng ngày như thời gian, trạng thái, thay đổi,
nguyên nhân kết quả hoặc mục đích đều trở nên có tính ẩn dụ. Hệ quả là
ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tưởng) chính là tâm điểm tuyệt đối của
ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ
văn học là một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng
ngày. Phép ẩn dụ được dùng đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thường nhật)
là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những khái quát liên tưởng, và hệ
15
thống này được sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả thực
chứng này, chữ ẩn dụ đã được dùng theo một cách khác trong những
nghiên cứu về ẩn dụ hiện thời. Chữ ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát
có tính liên tưởng trong hệ thống khái niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính
ẩn dụ được dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ, một cụm từ, hoặc
một câu) thực hiện được sự khái quát có tính liên tưởng đó. [ ] Khác với
ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ ý niệm (hay tri nhận), ngoài chức năng
quy ước hóa và từ vựng hóa cũn có chức năng ý niệm hóa, thể hiện cách tư
duy, tri nhận về sự vật của người bản ngữ.
Từ gúc nhỡn tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là một sự “chuyển di”
(transfer) hay một sự “đồ hoạ” (mapping) cấu trúc và các quan hệ nội tại
của một lĩnh vực hay mô hình tri nhận nguồn (source) sang một lĩnh vực
hay mô hình tri nhận đích (target) [43, 2005]. Thường thỡ cỏc phạm trù ở
mô hình đích trừu tượng hơn, các phạm trù ở mô hình nguồn thì cụ thể hơn,
nghĩa là chúng ta thường dựa vào kinh nghiệm của mình về những con
người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm những
phạm trù sự vật khác.
Lí thuyết ẩn dụ của ngôn ngữ học tri nhận cũng đã mở ra cách tiếp
cận hoàn toàn mới mẻ và hé lộ cho việc nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ.
Theo cách hiểu truyền thống, thành ngữ (idiom) mang tính võ đoán nhưng
theo cách hiểu của ngôn ngữ học tri nhận, thì hoàn toàn khỏc. Chỳng không
hoàn toàn võ đoán mà là có nguyên do. Nghĩa là, thành ngữ xuất hiện tự
nhiên theo các quy tắc sản sinh (producetive rule), nhưng lại chỉ có thể phù
hợp với một hay hơn một mô thức hiện hữu trong hệ thống ý niệm. Một
thành ngữ như spinning one’s wheel theo nghĩa tinh thần truyền thống là
bánh xe của xe hơi bị kẹt trong các vật liệu nào đó như bùn, cát, hay tuyết
nên xe không thể nào chuyển động dự mỏy đó khởi động và bánh vẫn quay.
Một phần tri trức của chúng ta về hình ảnh này là tốn kếm rất nhiều sinh
16
lực, năng lượng mà không mang lại kết quả, tiến bộ nào, rằng tình hình sẽ
vẫn không thay đổi hiện trạng, và rằng sẽ phải mất rất nhiều công sức mới
làm cho xe khởi động và chuyển động được, và rằng điều đó là hầu như
không thể. Ẩn dụ Love-as-Journey áp dụng vào trong tri thức về hình ảnh
này. Ẩn dụ này vạch ra đồ chiếu về tri thức phương tiện với tri thức về
quan hệ tình yêu: Tốn công phí sức nhưng thể nào đạt được đến được mục
đích chung, sẽ không thể nào thay đổi được hiện trạng, sẽ phải tốn rất nhiều
công sức để cả hai cựng nhỡn về một hướng v.v
Tóm lại, khi thành ngữ, tục ngữ, ca dao có liên hệ với các hình ảnh
quy ước, thì tất yếu sẽ phải có những ẩn dụ ý niệm mang tính nguyên nhân
gắn kết, phụ thuộc để vạch ra đồ chiếu tri thức từ nguồn tới đớch.Thật thú
vị khi thấy những khái niệm về tình cảm như tình yêu và sự giận dữ được
biểu đạt qua rất nhiều ẩn dụ cũng như rất nhiều trong số những khái niệm
cơ bản thuộc các hệ thống ý niệm cũng được hiểu thông thường qua các
khái niệm ẩn dụ như thời gian, chất lượng, tình trạng, sự thay đổi, hành
động, nguyên nhân, mục đích, phương tiện, tỡnh thỏi và thậm chí là các
khái niệm về một phạm trù lớn Đõy chính là cơ sở để hình thành cấu trúc
bề mặt, miền nguồn và miền đích trong thành ngữ, tục ngữ.
Một trong những cơ chế tri nhận về trang sức của con người
trong thành ngữ, tục ngữ chính là ẩn dụ tri nhận.
1.1.1.4. Lí thuyết về các phạm trù tri nhận và điển dạng
Lí thuyết phạm trù tri nhận và điển dạng chúng tôi thừa hưởng những
kết quả được trình bày trong công trình của Lí Toàn Thắng và lược thuật
rất cụ thể trong [43, 25-35]. Ở đõy chỳng tôi chỉ nhấn mạnh vào một số vấn
đề quan trọng sau:
Thế giới xung quanh ta bao gồm vô số những sự vật, hiện tượng mà
con người phải nhận diện, phõn loại và đặt tên cho chúng. Chẳng hạn, khi
ta cần gọi tên màu sắc, người ta cần phải tỡm ra tiêu chí phõn loại các màu
17
sắc đó. Sự phõn loại các màu đó là một quá trình tinh thần phức tạp mà
người ta gọi là quá trình “phạm trù hoá” mà sản phẩm của nó là phạm trù
tri nhận (như đỏ, vàng, xanh…hay các ý niệm) [43, 30]. Các nhà nghiên
cứu cho rằng khi phạm trù hoá màu sắc người ta dựa vào một số điểm quy
chiếu để định hướng trong việc lựa chọn thẻ màu của một màu nào đó làm
tõm điểm (forci = focal point) và dựa vào các màu trung tõm mà các màu
trung tõm này có một tôn ti nhất định mang tớnh phổ quát. Trong 11 phạm
trù màu cơ bản của 98 loại ngôn ngữ trên thế giới thì hai màu đen - trắng
luôn xuất hiện, nếu một ngôn ngữ có ba từ chỉ màu thì màu tiếp theo là màu
đỏ, nếu có bốn từ thì từ tiếp theo là từ chỉ màu xanh lá cõy hoặc màu
vàng… Trong tiếng Việt, theo Beklin và Kay, chỉ với 9 từ chỉ màu sắc
nhưng đã phát triển đến giai đoạn 7.
Rosch (1973, 1975) khi nghiên cứu sõu hơn về cương vị tõm lí của
các màu trung tõm và mở rộng khái niệm “tõm điểm” (focus) sang “điển
dạng” (propotype). Bà đã áp dụng khái niệm này để khảo cứu những lĩnh
vực thuộc về hình dáng, vật thể và sinh vật. Kết quả là:
S
TT
Phạm trù Điển dạng
1 Chim Chim cổ đỏ (Robin)
2 Quả Cam (Oringe)
3 Xe cộ Ô tô (Automobike)
4 Đồ nội thất Ghế tựa (Chair)
5 Vũ khí Súng (Gun)
Bảng 1.1 Một số điển dạng phạm trù của người Mĩ
Các phạm trù tri nhận có cấu trúc hết sức phức tạp, bao gồm nhiều
điển dạng, các thí dụ đạt, các thí dụ tồi và có các ranh giới mờ.
Cấu trúc thuộc tớnh của các phạm trù điển dạng có thể được hình
dung như sau:
(1) Các thành viên điển dạng của phạm trù tri nhận có nhiều nhất các
thuộc tớnh chung với các thành viên khác của cùng một phạm trù và ít nhất
18
các thuộc tớnh cũng thấy ở phạm trù lõn cận, tức là các thuộc tớnh của một
điển dạng ở phạm trù này là khác tối đa với các thuộc tính của một điển
dạng ở một phạm trù khác.
(2) Các thí dụ tồi chỉ có chung một hoặc hai thuộc tớnh với các thành
viên khác của cùng một phạm trù, nhưng có một số thuộc tớnh vốn cũng
thấy ở các phạm trù khác, nghĩa là ranh giới giữa các phạm trù là ranh giới
mờ.
Trong khoá luận của mình, chúng tôi đi giải quyết vấn đề, trong
trang sức loại nào là điển dạng.
1.1.2. Nghĩa của từ và trường từ vựng ngữ nghĩa
Đề tài kế thừa các quan điểm khoa học và uy tín về nghĩa của từ và
trường từ vựng ngữ nghĩa của GS Đỗ Hữu Chõu.
1.1.2.1. Nghĩa của từ
Trong các công trình của mình, Đỗ Hữu Chõu đã cho rằng “nghĩa
của từ là toàn bộ nội dung tinh thần mà từ gợi ra”[4, 91]. Các thành phần
nghĩa của từ theo chức năng mà từ đảm nhiệm chia ra các thành phần
nghĩa:
a. Ý nghĩa biểu vật tương ứng với các chức năng biểu vật.
b. Ý nghĩa biểu niệm tương ứng với các chức năng biểu niệm.
c. Ý nghĩa biểu thái tương ứng với các chức năng biểu thái.
Đõy là các thành phần ý nghĩa từ vựng, phần ý nghĩa từ vựng này đối
lập với ý nghĩa
d. Ý nghĩa ngữ pháp tương ứng với chức năng ngữ pháp
Trong từ vựng rất phổ biến trường hợp một từ có nhiều nghĩa. Hiện
tượng từ nhiều nghĩa này xảy ra với ý nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu
thái. Đó là kết quả của sự chuyển biến nghĩa của từ.
19
Từ mới xuất hiện chỉ có một nét nghĩa biểu vật. Sau một thời gian sử
dụng, từ có thêm nét nghĩa biểu vật mới. Khi nghĩa biểu vật mới xuất hiện
ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của từ đó càng có khả năng biến đổi.
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phõn loại nghĩa biểu vật của một
từ. Dựa trên tiêu chí lịch sử biến đổi sẽ có nghĩa gốc và nghĩa nhánh, theo
khả năng sử dụng sẽ có nghĩa cổ và nghĩa hiện dùng, theo khu vực địa lí sẽ
có nghĩa địa phương và nghĩa toàn dõn, theo lĩnh vực xã hội có nghĩa thuật
ngữ nghề nghiệp, nghĩa biệt ngữ so với nghĩa phổ thông của từ. Cách phõn
loại phổ biến nhất là phõn loại theo nguyên tắc đồng đại. Đối tượng của sự
phõn loại là tất cả các nghĩa hiện dùng của từ, không kể đó là từ nguyên
hay nghĩa gốc. Các cuốn từ điển trước đó đề nghị phõn chia nghĩa đen hay
nghĩa bóng, hoặc nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, để phõn loại các nét nghĩa hiện
dùng của một từ. Đỗ Hữu Chõu đề xuất cách phõn chia nghĩa chớnh hay
nghĩa phụ.
Hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản nhất là ẩn dụ và hoán dụ. Đó
đều là cách chuyển nghĩa của từ dựa trên những nét tương đồng (ẩn dụ) hay
những nét gần gũi (hoán dụ) giữa các sự vật được gọi tên. Các cơ chế
chuyển nghĩa đã được Đỗ Hữu Chõu trình bày chi tiết trong cuốn Từ vựng,
ngữ nghĩa tiếng Việt. Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng một khuynh
hướng nghiên cứu ngôn ngữ trên lí thuyết tri nhận, trong đó đặc biệt quan
tõm đến quan niệm mới về ẩn dụ của G.Lakoff.
1.1.2.2. Trường từ vựng ngữ nghĩa
Theo Đỗ Hữu Chõu có thể phõn chia trường nghĩa – những tập hợp
từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa – thành trường nghĩa biểu vật, trường
nghĩa biểu niệm, trường tuyến tớnh và trường liên tưởng. Trong đề tài của
mình, chúng tôi quan tõm nhiều nhất đến trường nghĩa biểu vật và trường
nghĩa biểu niệm.
20
Trường nghĩa biểu vật là tập hợp các từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
vật [3,172]. Theo Đỗ Hữu Chõu, để xếp các từ vào cùng một trường nghĩa
biểu vật thì phải chọn các danh từ làm gốc. Các danh từ này phải đảm bảo
có tớnh khái quát cao.
Trường biểu niệm là một tập hợp các từ có chung một cấu trúc biểu
niệm. [3, 178]. Cũng giống như các trường nghĩa biểu vật, trong một
trường nghĩa biểu niệm lại có các trường nghĩa biểu niệm nhỏ hơn. Các
trường biểu vật và trường biểu niệm có thể giao thoa nhau và cốt lừi trung
tõm là các từ điển hình.
Khi áp dụng trường nghĩa vào đề tài của mình, chúng tôi nhận thấy:
các từ trong một trường biểu vật giống nhau về số lượng và tổ chức. Giả sử
trong một trường có các “miền” (trường nhỏ, nhúm nhỏ hơn) thì số lượng
từ trong mỗi miền là khác nhau, đồng thời ở mỗi một ngôn ngữ, cùng một
miền có mật độ cao thấp khác nhau. Do vậy, trường biểu vật có tớnh ngôn
ngữ và tớnh dõn tộc.
Để khảo sát ngữ liệu cho đề tài, điều đầu tiên chỳng tôi quan tõm là
tiêu chí xác lập trường từ vựng trang sức. Đõy là một trường từ vựng khá
rộng, tuỳ từng tiêu chí mà có thể chia thành nhiều tiểu trường khác nhau.
Dựa vào mối quan hệ của đồ trang sức và vị trí cơ thể, có thể chia trang sức
thành 5 tiểu trường sau:
1. Tên trang sức liên quan đến phần đỉnh đầu, tóc.
2. Tên trang sức liên quan đến phần tai
3. Tên trang sức liên quan đến phần cổ
4. Tên trang sức liên quan đến phần tay.
5. Tên trang sức liên quan đến phần thắt lưng.
21
1.2. Cơ sở văn hoá học
1.2.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ - tư duy – văn hoá
Nếu tri nhận luận сú đối tượng nghiên сứu là trí tuệ, tư duy, và các
quá trình tinh thần của con người, thì ngôn ngữ học tri nhận thiết lập mối
quan hệ giữa đối tượng ấy với ngôn ngữ tự nhiên mà con người sử dụng
trong giao tiếp thường nhật. Ở đây thật đúng lúc, nếu ta nhắc lại quan niệm
của F. de Saussure về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy. Ông viết:
"Ngôn ngữ xét như là tư duy được tổ chức trong chất liệu âm thanh. Để
thấy rõ rằng ngôn ngữ chỉ có thể là một hệ thống những giá trị thuần tuý,
thì chỉ cần xem hai yếu tố được vận dụng trong cách hoạt động của ngôn
ngữ: các ý niệm và cỏc õm”. Về phương diện tõm lớ, nếu trừu xuất sự thể
hiện ra bằng từ ngữ, tư duy của chúng ta chỉ là một khối vô hình thù và
không tách bạch. Các nhà triết học và các nhà ngôn ngữ học xưa nay vẫn
đồng ý với nhau mà thừa nhận rằng nếu không có sự hỗ trợ của các dấu
hiệu, thì chúng ta sẽ không thể nào phân biệt được hai ý một cách rõ ràng
và nhất quán. Xét bản thân nó, tư duy cũng tựa hồ một đám tinh vân, trong
đó không có gì được phân giới một cách tất nhiên. Không làm gì có những
ý niệm được xác lập từ trước, và không có gì tách biệt, trước khi ngôn ngữ
xuất hiện. Trước cái địa hạt mông lung này, âm thanh tự nó có phải là
những thực thể được phân định từ trước khụng? Khụng. Vai trò đặc biệt
của ngôn ngữ đối với tư duy không phải là tạo nên một phương tiện ngữ âm
vật chất để biểu hiện những ý niệm, mà là làm trung gian giữa tư duy và
ngữ âm trong những điều kiện như thế nào mà sự kếnhững phương thứct
hợp của hai cái đó tất nhiên dẫn đến chỗ cái này phân định đơn vị cho cái
kia. Tư duy, vốn hỗn mang tự bản chất nó, buộc lòng phải trở thành chính
xác trong khi được phân định ra. Như vậy đây không phải là tư tưởng được
vật chất hoá, cũng không phải là âm thanh được tinh thần hoá; đây là một
sự kiện có phần huyền bí, là cái "tư duy - âm thanh" bao hàm những sự
22
phân chia, và ngôn ngữ cấu tạo nên những đơn vị cho nó bằng cách tự hình
thành ra giữa hai cái khối không có hình thù
Ngôn ngữ còn có thể so sánh với một tờ giấy: mặt phải là tư duy, mặt
trái là âm thanh; không thể cắt mặt phải mà không đồng thời cắt luôn cả
mặt trái; trong ngôn ngữ cũng vậy, không thể nào tách biệt âm thanh ra
khỏi tư tưởng, mà cũng không thể tách biệt tư tưởng ra khỏi âm thanh; chỉ
có thể đạt đến chỗ đó bằng một sự trừu tượng hoá mà kết quả sẽ làm một
công việc tõm lớ học thuần tuý hoặc ngữ õm-õm vị học (phonologie) thuần
tuý" [42, 217-219]. Ngôn ngữ học tri nhận tiếp cận đặc biệt đối với việc
nghiên cứu ngôn ngữ, nghiên cứu những hệ thống ý niệm của con người và
những phương thức tri nhận. Tất nhiên ngôn ngữ có vai trò trong việc cấu
trúc hóa những phạm trù ý niệm cơ bản như không gian và thời gian, những
cảnh và sự kiện, những thực thể và quá trình, sự chuyển động và vị trí,
động lực và quan hệ nhân-quả. Nó cũng liên quan đến việc cấu trúc hóa
những phạm trù tưởng tượng và cảm xúc được quy cho cỏc tỏc thể tri nhận
như sự chú ý và phối cảnh, ý chí và chủ định. Ngôn ngữ học tri nhận thừa
nhận quan niệm cho rằng nghiên cứu ngôn ngữ là nghiên cứu cách sử dụng
ngôn ngữ, song phải là thứ ngôn ngữ tự nhiên được người dân thường sử
dụng trong giao tiếp thường nhật. Thứ ngôn ngữ tự nhiên này là cái lăng
kính phản chiếu cách con người suy nghĩ, ý niệm hóa thế giới, tóm lại,
phản chiếu cách con người tri nhận thế giới.
Đồng thời, ngôn ngữ học tri nhận cũng chủ trương rằng cùng với
ngôn ngữ tự nhiên của con người và liên quan chặt chẽ với ngôn ngữ là yếu
tố văn hóa dân tộc mà người bản ngữ đại diện. Với ý nghĩa đó, văn hóa
cũng có cương vị là công cụ (hoặc phương tiện tri nhận), cũng nghĩa là cái
lăng kính phản chiếu sự tri nhận thế giới của con người. Mối quan hệ giữa
ngôn ngữ và văn hoá từ lõu đã là chủ đề quan trọng của nhiều lí thuyết
ngôn ngữ học. “Lối nghĩ”, “cách tư duy” của một dõn tộc – như một thuộc
23
tớnh của văn hoá là một nội dung chủ yếu của một giả thuyết nổi tiếng
trong ngôn ngữ học được gọi là nguyên lí Spair – Whorf về tớnh tương đối
của ngôn ngữ.
Là một thành tố của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc
biêt bởi ngôn ngữ là điều tất yếu nảy sinh, phát triển những thành tố khác
của văn hoá. Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trưng nhất của một
dõn tộc. Chính trong đặc điểm ngôn ngữ, truyền thống văn hoá dõn tộc
được lưu lại rừ ràng nhất.
Như vậy, với những vấn đề chung về mối quan hệ ngôn ngữ - văn
hoá – tư duy, đề tài của chúng tôi được tiến hành trên cơ sở mối quan hệ
giữa thành ngữ, tục ngữ với tư duy, nhận thức của con người và mối quan
hệ của thành ngữ, tục ngữ, ca dao với văn hoá dõn tộc.
1.2.2. Đặc điểm giá trị văn hoá của trang sức
Là một biểu tượng trong hệ biểu tượng trang phục, trang sức mang
những giá trị văn hoá nhất định.
Theo C. Jung và các nhà nghiên cứu văn hoá: biểu tượng là một biến
thể ở bình diện văn hoá, bình diện chủ thể của mẫu gốc [5, 77-78]. Biểu
tượng được xem xét trong mối quan hệ hai chiều giữa thế giới đời sống tõm
lớ cá nhân và đời sống tâm linh của cộng đồng xã hội, tách khỏi mối quan hệ
đó, biểu tượng không tồn tại với những năng lực mang ý nghĩa giàu có tiềm
tàng của nó nữa. “Không thể xem biểu tượng như một yếu tố tĩnh mà luôn
phải nhỡn nó trong quá trình vận động, trong sử dụng và tái tạo nó trong
quá trình vận động, trong sử dụng và tái tạo nó của đời sống xã hội” [22,
16]. Vì vậy, hệ biểu tượng trang phục nói chung và biểu tượng trang sức nói
riêng chỉ tồn tại trên bình diện chủ thể trên cơ sở bình diện khách thể.
Mang chức năng của một biểu tượng, trang sức có các chức năng cơ
bản sau: chức năng nhận thức, chức năng biểu hiện, chức năng trung
chuyển, chức năng giáo dục và trị liệu, chức năng xã hội hoá…. “Chức
24
năng của biểu tượng thơ ca là sự hiện thực hoỏ cỏc chức năng của biểu
tượng văn hoá thông qua ngôn từ nghệ thuật” [22, 19]. Khi tỡm hiểu trang
sức như một biểu tượng, chúng tôi chú ý đến chức năng thẩm mĩ, chức
năng biểu hiện và chức năng xã hội hoá của chúng.
Với đặc điểm bản thể “che phủ thõn thê”, trang phục nói chung và
trang sức nói riêng có mối liên quan mật thiết với biểu tượng “thõn thể”.
Trong những công trình nghiên cứu theo khuynh hướng nhõn loại học cấu
trúc cũng kết luận rằng y phục (giày, quần áo…) luôn là trung gian giữa tự
nhiên hoang dã (bản năng) và những giá trị tinh thần tốt đẹp (nhõn tớnh,
văn hoá). Như vậy biểu tượng trang sức là một biến thể của biểu tượng
thõn thể và biểu tượng tinh thần. Mỗi bộ phận trên cơ thể đền tương ứng
với những trang sức, gợi ra ý nghĩa biểu trưng cho cả hai chiều tự nhiên và
văn hoá: tay – vòng, nhẫn , eo - thắt lưng, dõy lưng, đai…,tai – khuyên tai,
vòng tai…Theo [22], biểu tượng có thể phõn loại dựa vào hai tiêu chí: tiêu
chí loại hình và tiêu chí nguồn gốc, chất liệu [22, 21-22]. Hai tiêu chí này
chính là cơ sở xác định sự biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trang sức.
(xem sơ đồ 1.2 và 1.3 trong [22]).
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 chúng tôi đã trình bày cơ sở ngôn ngữ học và văn
hoá về ngôn ngữ học tri nhận, về lớp từ thuộc trường nghĩa “trang sức”,
những vấn đề chung về tư duy - ngôn ngữ - văn húa và giá trị văn hoá của
trang sức. Chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ học tri nhận và quá trình tri nhận
của con người là tiền đề cho chúng tôi tỡm hiểu đặc điểm tri nhận của con
người về trang sức – như một mã văn hoá, biểu tượng văn hoá đặc thù của
nhõn loại.
25