Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Công nghệ chế biến gạo xuất khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.85 KB, 19 trang )

Trường Đại học ngoại thương
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
Bộ môn Chuyển giao công nghệ
***
TIỂU LUẬN
Đề tài : Công nghệ xuất khẩu gạo
Giảng viên : thầy Đinh Hoàng Minh
Sinh viên thực hiện : Nhóm Tiềm năng Việt
Phùng Thị Thanh Dung
Hoàng Thị Diệp
Vũ Thanh H ương
Nguyễn Hoàng Liên
Nguyễn Phương Liên
Chu Thị Trang
Mạc Thị Sen
` Lớp : Anh 3 - CĐ K2
1
I - Lý do lựa chọn đề tài :
Nhu cầu gạo trên thế giới đang tăng mạnh. Dự báo những năm tới
nhu cầu gạo trên thị trường thế giới vẫn rất bức xúc. Tình hình bất ổn về
chính trị ở các nước Trung Đông, châu Phi và lũ lụt, hạn hán xảy ra ở
nhiều nước, đã làm xuất hiện xu hướng tăng cầu. Trong khi đó các nước
xuất khẩu gạo lớn đều chịu ảnh hưởng của Elnino, chưa có khả năng tăng
sản lượng nên nguồn cung không tăng. Đối với Việt Nam, hạn hán, lũ lụt,
sâu rầy vẫn còn là những thách thức lớn và sẽ ảnh hưởng đến sản xuất lúa
trong những năm tới. Để đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập thì
đầu tư cải tiến dây chuyền công nghệ là một hướng đi hiệu quả
Sản lượng gạo chưa đáp ứng được nhu cầu, chất lượng chưa cao
và không ổn định : chính vì thế yêu cầu đặt ra là cần phải chú trọng phát
triển công nghệ chế biến gạo để có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước


nói riêng cũng như trên thế giới nói chung.
2
II - Khái quát về nghành và thực trạng :
* Trên thế giới : Hiện nay nguồn cung gạo đang kham hiếm, giá
trên thị trường quá cao :
Tại Thái Lan: Giá gạo xuất khẩu của Thái lan trong tháng
12/07 vẫn tiếp tục ở mức cao. Bên cạnh đó, mặc dù nông dân đã
bắt đầu vụ thu hoạch mới nhưng việc thu mua gạo trong nước
vẫn rất khó khăn. Các thương gia dự báo nhu cầu mới từ
Philippine và Indonexia chắc chắn sẽ gây sức ép hơn nữa tới
nguồn cung gạo tấm các loại. Do nhu cầu mạnh, khối lượng gạo
xuất khẩu của Thái Lan trong 11 tháng đầu năm 2007 tăng 24%
so với năm 2006 nhờ chính phủ nước này tăng cường bán gạo để
giảm bớt lượng gạo tồn kho lớn của mình. Dự báo Thái Lan sẽ
vẫn là nguồn cung cấp chính cho nhu cầu nhập khẩu tăng trong
năm 2008 nhờ lượng dự trữ quốc gia còn nhiều, 2 triệu đến 2,5
triệu tấn. Được hỗ trợ bởi nhu cầu gạo tấm mạnh, cộng với việc
tăng cường xuất khẩu gạo thơm, nhất là sang Trung Quốc, xuất
khẩu gạo Thái Lan năm 2008 sẽ đạt 9 triệu tấn.
Tại Ấn Độ: Ngày 27 tháng 12 năm 2007, Ấn Độ đã tăng giá
xuất khẩu gạo tối thiểu lên mức 500 USD/tấn, lần tăng giá thứ 3
trong gần 1 năm trở lại đây, từ mức 315 USD/tấn vào tháng 2
năm 2007. Tháng 11 năm 2007, Ấn Độ đã bỏ lệnh cấm xuất
khẩu gạo sang Bangladesh nhưng sau đó đưa ra một số điều kiện
và cuối cùng là tăng giá tối thiểu lên 500 USD/tấn vào ngày 27
tháng 12 năm 2007.
Tại Inđônêxia: Hiện tại, Indonexia đang nỗ lực tăng sản lượng
gạo để đáp ứng nhu cầu lương thực cho 226 triệu dân. Năm
2007, Indonexia đã sản xuất khoảng 57,05 triệu tấn thóc, thấp
hơn mục tiêu 58,18 triệu tấn năm trước Chính phủ Inđônêxia

cho phép nhập khẩu gạo vào bất cứ lúc nào trong năm để tránh
tình trạng thiếu hụt trên thị trường nội địa. Nhập khẩu gạo là
một vấn đề nhạy cảm ở Inđônêxia và trong quá khứ đã từng gây
ra làn sóng phản đối từ phía người nông dân. Chính phủ cũng đã
giảm thuế nhập khẩu gạo. Thêm vào đó, Chính phủ vẫn sẽ cấm
3
tư thương nhập khẩu gạo, và chỉ cho phép nhập khẩu một chủng
loại gạo nhất định như gạo nếp hay gạo dinh dưỡng.
Tham khảo 20 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu gạo lớn
nhất trong năm 2007
Thị trường
Năm 2007 So sánh năm 2006
Lượng (Tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng (%) Trị giá (%)
Philippin 1,458,136 466,070,763 -0.52 12.03
Inđônêxia 1,169,429 378,979,955 237.64 255.61
Cu Ba 431,370 167,260,760 -4.80 27.45
Malaixia 376,929 115,867,041 -25.37 -17.14
Bờ Biển Ngà 148,010 45,888,349 -30.69 -13.61
Gana 130,921 39,712,399 13.14 39.15
Ăngôla 115,472 36,202,615 -36.45 -23.86
Singapore 82,390 25,911,742 -16.14 1.63
Nhật Bản 64,640 18,718,676 -60.88 -56.56
Côngô 54,546 16,069,099 -25.14 -13.13
Trung Quốc 42,630 15,903,299 3.12 15.30
Tanzania 50,078 15,564,993 -42.24 -29.20
ĐôngTimo 50,302 15,234,648 1.91 27.61
Nga 38,594 13,209,642 -37.52 -24.05

4
Nam Phi 36,980 10,908,910 -64.66 -56.20
Papua New
Guinea
32,450 9,468,475 26.76 53.89
Môdămbic 31,250 9,372,850 -13.55 6.86
Iran 31,500 9,315,390 12,500 11,931
Đài Loan 19,521 7,855,140 118.60 237.59
Camêrun 25,942 7,750,236 -41.24 -29.67
Tại Việt Nam: Gạo xuất khẩu cũng liên tục tăng giá do nguồn
cung khan hiếm trong khi nhu cầu thế giới lại rất lớnTheo tổng
kết của Xuân Bách, báo Nhân dân số ngày 2/8/2007, trong sáu
tháng đầu năm 2007, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 2,3
triệu tấn, kim ngạch 731 triệu USD, giảm hơn 18% về lượng và
gần 6% về trị giá so cùng kỳ năm trước. Các thị trường nhập
khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam vẫn tập trung ở khu vực châu Á
(chiếm 76,58%), phần còn lại là châu Phi (14,32%) và châu Mỹ
(5,9%). Cho đến thời điểm hiện nay, tổng lượng gạo xuất khẩu
đã ký hợp đồng đạt 4,5 triệu tấn (trong đó các hợp đồng thương
mại chiếm khoảng 30%). Cụ thể số lượng đã ký có thời gian
giao hàng từ ngày 1-7 còn khoảng 2,2 triệu tấn, trong đó có
khoảng 100 nghìn tấn giao vào đầu năm
Thống kê xuất khẩu gạo
Gạo
Đơn vị
Tăng
trưởng
Nghìn
5
tấn

1995 1988.0 -
1996 3003.0 51%
1997 3575.0 19%
1998 3730.0 4%
1999 4508.3 21%
2000 3476.7 -23%
2001 3720.7 7%
2002 3236.2 -13%
2003 3810 18%
2004 4063.1 7%
Sơ bộ
2005 5250.3 29%
Tổng cục thống kê, 2007
6
III - Ưu và nhược đểm của ngành xuất khẩu gạo :
Ưu điểm:
- Ngay khi gia nhập WTO, ngành nông nghiệp mà tiêu biểu
là nghành chế biến gạo xuất khẩu đã được đặc biệt chú trọng
phát triển. Đến nay ngành này đã giữ vai trò quan trọng với nền
nông nghiệp nói riêng và với nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu gạo và liên tiếp từ đó
đến nay chúng ta luôn đứng trong tốp hàng đầu thế giới. Hoạt
động xuất khẩu gạo Việt Nam không chỉ tăng về số lượng mà
còn có tiến bộ về chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị
trường
Việc xuất khẩu gạo ở việt nam đang có xu hướng đi lên : Lúa
gạo luôn là mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh truyền thống của
Việt Nam. Từ chỗ đảm bảo lương thực còn là mối lo, đến nay
sản lưọng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng cao. Việt Nam
vươn lên xếp thứ hai sau Thái Lan trong dự đoán 10 quốc gia

xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
- Có nhiều loại gạo chất lượng cao : Gạo 5% tấm Việt Nam
chào bán 376 USD/tấnGạo 25% tấm là 360 USD/tấn (tăng
5,88%) so với tháng trước. Theo kế hoạch năm 2008 cả nước sẽ
xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo các loại với kim ngạch 1,7 tỷ USD,
giữ nguyên lượng nhưng tăng 21,43% về trị giá so với năm
2007.
Giá gạo đang tăng dần: Năm ngoái, xuất khẩu gạo của Việt Nam
tuy giảm về số lượng (2%) so năm 2006 nhưng lại kim ngạch lại
tăng tới 15%. Có được điều này, chủ yếu là do giá gạo xuất khẩu
bình quân của cả năm đã đạt tới 295 USD/tấn, cao hơn mức giá
bình quân của cả năm 2006 tới 41 USD/tấn. Bước vào mùa xuất
khẩu gạo 2008, hầu hết các chuyên gia về lúa gạo đều có nhận
định lạc quan năm nay, gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục
được giá cao. Hồi đầu tháng 1/2008, nếu như gạo 5% tấm còn ở
mức 355 USD/tấn thì tới ngày 4/2, mức giá xuất khẩu của loại
gạo này đã lên tới 400 USD/tấn, tăng hơn so với cùng kỳ năm
7
ngoái từ 95-100 USD/tấn. Như vậy, đây lại là một mức giá cao
kỷ lục mới của gạo Việt Nam xuất khẩu. Nguyên nhân khiến giá
gạo xuất khẩu tăng mạnh là do nhu cầu tăng cao trên thị trường
thế giới. Ngay trong những tháng đầu năm này, nhu cầu nhập
khẩu gạo đã tăng mạnh ở nhiều nước châu Phi và khu vực Trung
Đông. Nhu cầu sử dụng gạo thơm cũng tăng cao ở một số nước
ở khu vực Đông Á để phục vụ tết Mậu Tý.
- Sự đầu tư của chính phủ cả về tài chính và kỹ thuật đã giúp
cho ngành gạo đóng góp 1 tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất
khẩu. Việc ký kết, đấu thầu xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đang khá thuận lợi. Vừa qua, các doanh nghiệp
Việt Nam đã trúng thầu xuất khẩu 300.000 tấn gạo sang

Philippines nâng tổng số lượng gạo đã ký hợp đồng xuất khẩu ra
nước ngoài trong năm nay lên hơn 700.000 tấn. Tính đến giữa
tháng 2 này, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu được
khoảng 160.000 tấn gạo với mức giá tốt. Việc ký kết, đấu thầu
xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang khá
thuận lợi. Vừa qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã trúng thầu
xuất khẩu 300.000 tấn gạo sang Philippines nâng tổng số lượng
gạo đã ký hợp đồng xuất khẩu ra nước ngoài trong năm nay lên
hơn 700.000 tấn. Tính đến giữa tháng 2 này, các doanh nghiệp
Việt Nam đã xuất khẩu được khoảng 160.000 tấn gạo với mức
giá tốt.
Công nghệ chế biến xay xát gạo và các sản phẩm về gạo tưong
đối phát triển. Đến nay hầu như tất cả các cơ sở chế biến lúa gạo
trên địa bàn thành phố đều trang bị công nghệ hiện đại, đủ năng
lực chế biến gạo phẩm cấp cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Đây
là bước phát triển đáng mừng cho ngành công nghiệp thành phố.
Một chuyển biến tích cực khác trong ngành công nghiệp chế
biến lương thực hiện nay là việc xuất hiện nhiều nhà máy có
công suất lớn, khép kín các công đoạn sản xuất từ xay xát đến
lau bóng gạo, giảm chi phí sản xuất ví dụ: Hoài Đức có 75 cơ sở
lớn nhỏ đang sản xuất, chế biến và kinh doanh các sản phẩm từ
gạo trong đó có 50 cơ sở nằm ngoài thị trấn và 25 cơ sở đặt ngay
tại thị trấn, tỉnh Vĩnh Long có trên 600 dây chuyền chế biến lúa
gạo có khả năng xay xát từ 1,2 - 1,3 triệu tấn/năm, trong đó
8
nhiều dây chuyền được tự động hóa hoàn toàn góp phần nâng
cao giá trị hạt gạo xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của Vĩnh Long
Trong tháng 12/07, các doanh nghiệp đã xuất khẩu nốt 146 lô
hàng cuối cùng của năm. Hầu hết các chủng loại gạo được tiêu

thụ mạnh nhất như gạo 5% tấm, 25% tấm … coi như đã hoàn
thành hợp đồng trong những tháng trước đó. Trong tháng này,
các doanh nghiệp chỉ tập trung xuất khẩu nốt một số lô hàng gạo
15% tấm sang các thị trường Cu Ba, Đông Timo, Malaixia và
Inđônêxia. Kim ngạch xuất khẩu gạo 15% tấm trong tháng cuối
đạt 30 triệu USD với sản lượng 71 nghìn tấn. Ngoài ra, những
mặt hàng gạo xuất khẩu còn lại trong thời gian này đều là những
lô hàng gạo cao cấp, lượng xuất không nhiều nhưng có đơn giá
rất cao. Trong đó, loại gạo giống Nhật 5% tấm có giá xuất khẩu
cao nhất với 613 USD/tấn, được xuất sang 3 thị trường Nhật
Bản, Malaixia và Singapore
Nhược điểm: Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn nhiều
khó khăn phía trước. Một số thách thức đối với ngành xuất khẩu
gạo mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt là:
- Liệu có duy trì được nguồn cung? Tình hình xuất khẩu
gạo của Việt Nam trong tháng cuối cùng của năm 2007 diễn ra
tương đối chậm chạp do chỉ giới hạn ở việc hoàn thành những
hợp đồng cũ. Một thực tế đối với các nước xuất khẩu gạo là hầu
như họ không phải lo đầu ra cho sản phẩm vì nhu cầu tiêu dùng
gạo của thế giới ngày càng cao, trong khi lượng cung luôn thấp
hơn nhiều so với cầu. Theo dự đoán của FAO trong vài thập kỷ
tới, thế giới có hàng tỷ người thiếu đói lương thực, nhu cầu gạo
tiêu dùng thế giới năm 2002 là 410,9 triệu tấn, năm 2003 là
414,2 triệu tấn, năm 2004 là 418 triệu tấn. Việt Nam là một
cường quốc xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng quan trọng trong thị
trường thế giới (từ 12-18% thị trường gạo thế giới). Năm 2005,
để duy trì được 3,9 triệu tấn xuất khẩu và tăng hơn nữa thì bản
thân nông nghiệp Việt Nam phải duy trì và tăng diện tích năng
suất trồng lúa.
9

- Thách thức về sản lượng và chất
lượng: Sở dĩ lượng gạo xuất khẩu còn
chưa cao la do việc sản xuất gạo còn
manh nhúm và thông thường la hoạt
động đơn lẻ, chưa có một tổ chức đứng
lên đại diện tìm đối tác. Thậm chí một
tổ hợp sản xuất đông nhân công nhưng
không được đầu tư về kỹ thuật cũng sẽ
không mang lại hiệu quả kinh doanh tối đa.
Để tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo thì ngoài việc tăng khối
lượng hàng xuất, việc cải tiến chất lượng để tăng giá thành là
vấn đề hết sức quan trọng. kim ngạch xuất khẩu lại biến động
hết sức thất thường do yếu tố giá trên thị trường thế giới và chất
lượng gạo của Việt Nam.Việc xuất khẩu gạo tăng về lượng,
nhưng giá trị lại không tăng, hoặc tăng ở tốc độ không tương
xứng. So với Thái Lan, các chỉ tiêu về xuất khẩu gạo của chúng
ta đều thấp hơn Chất lượng gạo vẫn còn thấp so với yêu cầu
thị trường thế giới và bất ổn khiến cho các khách hàng tiềm
năng không có ý muốn hợp tác lâu dài. Cho dù đã có những tiến
bộ trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nhưng trong sản lượng gạo
xuất khẩu trong những năm gần đây vẫn có tới trên, dưới 60% là
gạo cấp thấp (gạo 25% tấm) và trong số gần 40% còn lại hầu hết
là gạo 5% tấm và 10% tấm, còn gạo thơm và gạo nếp chỉ chiếm
vài phần trăm. Thêm vào đó, sau khi thu hoạch thì thường không
phân loại được gaọ dẫn đến việc gạo chất lượng cao thưòng bị
lẫn với các loại gạo chất lượng thấp hơn. Vì vậy, vấn đề đặt ra
cho xuất khẩu gạo năm 2008 và các năm tới là phải tăng chất
lượng và đa dạng hoá sản phẩm bằng hệ thống các giải pháp
khoa học, công nghệ và thị trường để tăng giá trị trên 1 tấn gạo
xuất khẩu. Dĩ nhiên tăng chất lượng là vấn đề rất nan giải nhưng

bắt buộc chúng ta phải làm, không thể khác được.
- Giá bán chưa cao: do chất lượng gạo chưa cao nên giá
bán bình quân các loại gạo xuất khẩu luôn thấp hơn giá gạo bình
quân của Thái Lan. Khoảng cách chênh lệch giá gạo xuất khẩu
Việt Nam với Thái Lan loại 5% tấm năm 2000 là 40-
50USD/tấn, nay tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn
10
Gạo Sohafarm - một
thương hiệu đã được
người tiêu dùng tin tưởng
sử dụng trong nhiều năm
thấp hơn từ 20- 35USD/tấn so với Thái Lan. Còn so sánh bình
quân tất cả các loại gạo xuất khẩu thì hàng của ta luôn thấp hơn
hàng Thái Lan khoảng 12-24 USD/tấn. Nếu xét về mức tăng
trưởng qua các năm cho thấy mặc dù chỉ tiêu tăng về khối lượng
xuất khẩu của chúng ta không thấp hơn nhiều so với Thái Lan,
nhưng do tăng về giá xuất khẩu lại thấp hơn rất nhiều so với
nước này, kết quả là Thái Lan luôn đạt mức tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu lớn hơn. Thậm chí nếu như có tăng thi đó cũng
là “sự cập nhật muộn màng”. Thực tế cho thấy có những khoảng
thời gian nhu cầu gạo tăng cao khiến cho trị giá hạt gạo vượt
qua giá trị thực của nó. Tuy nhiên đó lại
là lúc các doanh nghiệp ôm đồm số
lượng gạo mà họ đang có và chờ đến
khi có sự sụt giá mới tung ra bán. Điều
này khiến cho các doanh nghiệp cũng
như Nhà nước mất đi một khoản thu
đáng kể.
- Thách thức về thị trường và thương hiệu. Gạo Việt
Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau,

bao gồm. Châu Á 46%; Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu
Mỹ 1%; các nước khác 13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn xuất sang
Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan Phần lớn các khu vực thị trương
này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán hạn chế. So
với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những thị trường
tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế. Nhìn chung
việc xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng
cao đang bị cạnh tranh quyết liệt.
Ngoài ra, để hạt gạo xuất khẩu giành được thế
đứng vững chắc trên thị trường thế giới, việc
xây dựng thương hiệu cho gạo đóng vai trò
rất quan trọng. Sở dĩ không giành được thị
trường tốt ngoài việc chất lượng gạo còn do
chúng ta chậm trong xây dựng thương
hiệu. Không phải chúng ta hoàn toàn yếu
kém về chất lượng, chúng ta cũng có
nhiều sản phẩm chất lượng cao và độc đáo
11
như gạo thơm, gạo đồ nhưng nhiều người tiêu dùng thế giới lại
không biết đến. Họ tưởng chỉ Thái Lan mới có, vì chúng ta chưa
sớm xây dựng thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo này.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chế biến, bảo quản
xuất khẩu đã yếu kém lại phân bố không đều. Hệ thống nhà
máy xay xát, đáo, danh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây
tuy có được trang bị thêm máy móc, thiết bị hiện đại hơn nhưng
số lượng ít, chủ yếu được bố trí ở các TP Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều
lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu lớn như An Giang, Đồng Tháp,
Sóc Trăng, Long An lại không có các nhà máy chế biến và
đánh bóng gạo xuất khẩu hiện đại. Ví dụ: lúa gạo sản xuất và

chế biến chủ yếu ở ĐBSCL, còn cảng xuất khẩu gạo lớn nhất lại
ở TP Hồ Chí Minh nên chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản
lớn. Trong khi đó cảng Cần Thơ dù đã nâng cấp nhưng vẫn chưa
đủ sức đảm bảo yêu cầu xuất khẩu gạo của toàn vùng.
Hình ảnh dây chuyền chế biến gạo :
-
-
Việc tổ chức, điều hành xuất khẩu gạo cũng bộc lộ
nhiều nhược điểm. Kế hoạch xuất khẩu giao từ đầu năm trong
khi chưa biết kết quả sản xuất lúa trong năm như thế nào, do đó
liên tục phải điều chỉnh. Tình trạng kế hoạch không gắn với quy
hoạch đang là một thực tế chưa khắc phục được. Việc dựa vào
"cầu" của các khách hàng theo hợp đồng ký kết để quyết định kế
hoạch xuất khẩu gạo cả năm chưa tính đến khả năng "cung" là
chưa hợp lý. Đã xuất hiện tình trạng một số hợp đồng đã ký từ
đầu năm với giá thấp, cuối năm giá cao nên nông dân không bán
lúa theo giá hợp đồng dẫn đến tình trạng phá vỡ hợp đồng xuất
khẩu gạo, làm giảm lòng tin của khách hàng và thiệt hại cho các
doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Những doanh nghiệp xuất khẩu đã
12
thực hiện xong các hợp đồng bắt đầu bán gạo cho những đơn vị
xuất khẩu còn hợp đồng phải hoàn tất. Mặt khác, việc phân bố
lợi nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó
phần thiệt thòi vẫn thuộc về nông dân và Nhà nước. Cơ cấu gạo
xuất khẩu Việt Nam tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu của các thị trường khó tính.
- Giá cước vận tải cao: Dù giá gạo tăng cao nhưng lợi
nhuận của DN vẫn chưa tương xứng. Nguyên nhân chính là do
giá cước vận chuyển đã tăng gần 40%

so với cùng kỳ năm ngoái (khoảng 30
USD/tấn). Thêm nữa, giá cước tăng
nhưng vẫn khó thuê tàu. Lý do, trong
tổng số hơn 1,7 triệu tấn gạo mà các
DN phải giao từ nay đến cuối năm thì
các DN mới thu mua được 0,6 triệu
tấn. Số còn lại khá “khít” với lượng gạo còn tồn đọng trong
dân.giá cước vận tải tăng nhanh đang là khó khăn rất lớn đối với
hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cước luồng châu Á tăng
từ 18-19 USD/tấn lên 26-30 USD/tấn; luồng vận tải đi châu Phi
còn tăng cao hơn, từ 80-90 USD/tấn lên tới 120-130 USD/tấn,
chiếm trên 30% trị giá FOB của loại gạo cao cấp khi xuất khẩu.
13
IV- GIẢI PHÁP
- Đảm bảo nguồn cung luôn ổn định: Trước tiên cần chú
trọng sản xuất các loại gạo mà thị trường đòi hỏi thay vì xuẩt
khẩu những mặt hàng ta đang có. Thị trường xuất khẩu gạo mở
rộng do Việt Nam là thành viên của WTO và uy tín lúa gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới được cải thiện. Quá trình hội nhập
vào kinh tế thế giới và khu vực, bên cạnh thách thức, gạo Việt
Nam cũng có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong khi đó nhu cầu gạo trên thị trường thế giới và khu vực 5
năm tới dự báo là tiếp tục do cầu vẫn tăng như In-đô-nê-xi-a,
Phi-lip-pin, Nhật Bản. Những năm gần đây, Hiệp hội xuất khẩu
gạo Thái Lan và Việt Nam đã có sự phối hợp trong các hoạt
động xuất khẩu gạo giữa 2 nước trên thị trường thế giới và khu
vực nên tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi nước.
- Cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại mở rộng thị trường
gạo cao cấp: hạn chế hợp đồng xuất khẩu gạo cấp thấp để đạt
giá trị xuất khẩu bình quân khoảng 250-260 USD/tấn. Tăng

mạnh tỷ trọng gạo đặc sản ít nhất lên khoảng 10 – 20% trong
tổng khối lượng gạo xuất khẩu, tức là gấp khoảng 4 – 5 lần so
với hiện nay, nhưng với giá cao gấp khoảng 2-3 lần giá gạo
thường trong bối cảnh nhu cầu về các loại gạo này của thế giới
tăng rất nhanh. Việt Nam cần phải chuyển sang đa dạng hóa mặt
hàng gạo xuất khẩu để bán ở các thị trường cao cấp hơn, nếu
muốn cạnh tranh với các nước láng giềng trong việc sản xuất
gạo chất lượng cao.
- Sớm hình thành tập đoàn xuất khẩu gạo, hình thành
mạng lưới thu gom, vận chuyển lúa gạo xuất khẩu theo hợp
đồng. Xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo xuất khẩu tại
các vùng sản xuất lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu gạo theo quy
hoạch. Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân
và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận
theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa. Mở
rộng thị trường xuất khẩu gạo theo hướng lâu dài, bền vững
bằng tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam về chất lượng và giá
14
cả. Tăng cường hợp tác với các nước xuất khẩu gạo, nhất là Thái
Lan trong các hoạt động liên quan đến điều tiết thị trường lúa
gạo thế giới với lộ trình hội nhập kinh tế thế giới.
- Kỹ năng tiếp thị, xây dựng thương hiệu sản phẩm và
tăng cường các mối liên kết trong chuỗi giá trị gồm chu trình
các hoạt động sản xuất và dịch vụ cũng là yếu tố cần được lưu ý.
Những thay đổi đó sẽ tạo nên một chiến lược xuất khẩu gạo
mang tính kinh doanh nhiều hơn và thu hút sự tham gia nhiều
hơn của khu vực tư nhân trong hoạt động xuất khẩu. Ngòai ra,
việc bán được nhiều hơn các loại gạo đã có “thương hiệu” sẽ có
giá trị cao hơn ngay tại thị trường nội địa sẽ hướng đến các hộ
nông dân, kể cả các nông dân nghèo ở vùng sau vùng xa ngày

càng quan tâm nhiều hơn đến chất lượng và thương hiệu sản
phẩm. Phải thực sự xây dựng thương hiệu “gạo Việt Nam” trên
thị trường quốc tế. Hiện nay, gạo Việt Nam được xuất sang
nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm: Châu Á 46%;
Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác
13,5%. Ngòai ra Việt Nam còn xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ,
Pakistan… Phần lớn nhu cầu tại các khu vực thị trường này là
gạo chất lượng thấp và khả năng thanh toán hạn chế. Nhìn
chung việc xuất khẩu gạo của ta vào thị trường có chất lượng
tiêu dùng cao đang bị cạnh tranh quyết liệt, bởi ngoài chất lượng
gạo còn do chung ta chậm trong xây dựng thương hiệu.
- Vận dụng công nghệ vào việc chế biến xuất khẩu gạo.
Để nâng cao phẩm chất và giảm thất thoát trong khâu thu hoạch,
sau thu hoạch, trước hết các nhà máy chế biến lúa gạo nên lắp
đặt thêm máy sấy để chất lượng gạo được nâng lên nhờ khâu sấy
lúa. Thiết lập thêm các hệ thống kho bảo quản đúng tiêu chuẩn
để chủ động phân phối và giữ được chất lượng sản phẩm trong
thời gian dự trữ. Để doanh nghiệp thực hiện được các khâu này,
Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng, hỗ trợ tài
chính để tư nhân thực hiện. Bên cạnh đó, các ngành chức năng
cần có định hướng rõ ràng về vùng sản xuất nguyên liệu lúa tập
trung, tránh tình trạng doanh nghiệp phải thu mua lúa gạo với
nhiều chủng loại khác nhau, hạt ngắn, hạt dài, hạt thì dẻo, hạt thì
khô cứng làm cho chất lượng gạo không đồng đều, sức cạnh
15
tranh yếu. Mặt khác, doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải liên kết
chặt chẽ với nông dân sản xuất lúa dưới dạng nông dân là thành
viên của công ty. Công ty và nông dân sản xuất đều hưởng lợi
nhuận trong sản xuất và xuất khẩu gạo. Doanh nghiệp cung cấp
phương tiện, vật tư sản xuất, bảo quản lúa sau thu hoạch Nông

dân sản xuất lúa đúng kỹ thuật, yêu cầu của doanh nghiệp. Thực
hiện được khâu này, doanh nghiệp sẽ chủ động được nguồn
hàng, gạo đạt chất lượng theo yêu cầu của đối tác, còn nông dân
giảm chi phí đầu tư sản xuất, không bị thương lái ép giá khi thu
hoạch rộ Nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đánh bóng
gạo xuất khẩu hiện có đồng thời xây dựng các cơ sở mới cần
thiết theo quy hoạch, tăng cường đầu tư để nâng cấp hệ thống
kho tàng, cơ sở phơi sấy, đường sá, bến cảng nhằm phục vụ đắc
lực và hiệu quả xuất khẩu gạo. Tập trung đầu tư phát triển các
cụm chế biến xay xát gạo chất lượng cao theo công nghệ liên
hoàn từ khâu sấy khô, bảo quản đến xay xát chế biến, tạo ra sản
phẩm đạt tiêu chuẩn, có sức cạnh tranh và giá trị cao đồng thời
hạ giá thành sản phẩm để nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chương
trình khuyến công tiếp tục hỗ trợ các DN nhỏ và vừa, cơ sở sản
xuất xây dựng dự án vay vốn tín dụng đổi mới công nghệ chế
biến. .
Việt Nam đã là thành viên của WTO nên thị trường nông sản
nói chung, thị trường lúa gạo Việt Nam nói riêng sẽ mở rộng
cửa cho hàng nhập khẩu từ các nước. Hàng rào thuế quan và sự
bảo hộ của Nhà nước đối với sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ hạn
chế và tiến tới bãi bỏ. Gạo Thái Lan, Mỹ, Trung Quốc, Pa-ki-
xtan…có chất lượng cao, giá rẻ hơn sẽ tràn vào thị trường Việt
Nam với thuế nhập khẩu không đáng kể. Gạo Việt Nam phải
chịu sức ép cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà, trong khi đó
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến gạo còn yếu
kém. Chỉ khi đầu tư chiều sâu, ứng dụng rộng rãi các tiến bộ
khoa học, công nghệ chế biến xuất khẩu gạo mới giúp cho việc
sản xuất và vận chuyển gạo xuất khẩu mới được tiến hành thuận
lợi và giảm thiểu chi phí tối đa.
16

Một số bộ phận máy thuộc dây chuyền chế biến gạo xuất khẩu
- công nghệ mới nhất mà Việt Nam có được tính đến nay :
equipment1 uipment2
equipment3 equipment4
17
equipment5 equipment6
equipment7 equipment8
18
equipment9 equipment10
19

×