Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa của công ty tnhh lam sơn- sao vàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.1 KB, 92 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nền nông nghiệp nói chung và
ngành chăn nuôi nói riêng đã có được nhiều thành tựu to lớn: Sản lượng
lương thực tăng nhanh và đảm bảo độ an toàn cao, hình thành một số vùng
chuyên canh nông nghiệp, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch một cách đáng kế,
tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp ngày một tăng. Mô hình sản xuất
trang trại đạt hiệu quả kinh tế cao. Đã xuất hiện một nền nông nghiệp hàng
hoá. Các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước chỉ ra rằng: phải phấn đấu đưa
ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Những năm
qua ngành chăn nuôi, đặc biệt là ngành chăn nuôi bò sữa đã có những tiến bộ
vượt bậc nhờ áp dụng thành tựu của công nghệ sinh học như: công nghệ lai
tạo giống, công nghệ trồng, chế biến bảo quản thức ăn gia súc áp dụng kỹ
thuật chăn nuôi tiên tiến, kỹ thuật bảo quản và chế biến sản phẩm chăn nuôi
đây là một điều kiện thuận lợi để ngành chăn nuôi bò sữa phát triển. Ngoài ra,
sữa là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, rất cần thiết cho con người
đặc biệt là đối với trẻ con, người già, người bệnh và người lao động nặng
nhọc. Ở các nước phát triển mức tiêu thụ sữa rất cao (bình quân 250 lít/
người/ năm) và ngay cả các nước Đông Nam Á như Malaysia, Indonexia,
Philipin, Thái Lan cũng đạt mức tiêu thụ bình quân đầu người từ 20- 30 lít/
năm. Trong khi đó ở nước ta do kinh tế chậm phát triển, đời sống còn nhiều
khó khăn nên tình trạng thiếu dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi là khá phổ biến và
trầm trọng.
Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông do đó nhu cầu tiêu thụ sữa và các sản
phẩm của sữa là rất lớn. Trong tương lai sẽ là thành phố công nghiệp, trung
tâm thương mại lớn của cả nước mà nó là điểm hội tụ của các khách du lịch.
Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội cần quan tâm đến chương trình
chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa, hiện nay nước ta gần 80% kà nguồn sữa bột
nhập từ nước ngoài, chỉ khoảng 20% là nguồn nguyên liệu sữa trong nước.
1
Hàng năm, Nhà nước đã phải chi hàng chục triệu đô la để nhập sữa bột, dầu,
bơ cho nhà máy chế biến sữa.


Trong khi đó Thanh Hoá cũng mới xây dựng nhà máy chế biến sữa tươi
với công suất 12.000 tấn/ năm. Chính vì vậy, đã hình thành ngành chế biến
sữa của công ty. Đây là ngành chăn nuôi có quy mô lớn, do vậy cần hình
thành vùng chuyên môn hoá như giống, sản xuất thức ăn sơ chế và chế biến
sữa ra các sản phẩm tiêu thụ ngoài thị trường như sữa hộp, sữa tười tiệt trùng,
thanh trùng, sữa chua, bơ, cà phê sữa, hộp bánh kẹo sữa Chăn nuôi bò sữa là
một ngành "ích nước- lợi nhà" vừa cải thiện, ổn định đời sống nhân dân vừa
góp phần làm giảm lượng ngoại tệ mà Nhà nước ta hàng năm phải chi ra hàng
chục đô la để nhập sữa bột. Tuy vậy, những vấn đề nảy sinh trong quá trình
sản xuất hàng hoá như: cạnh tranh, chất lượng và giá thành sản phẩm sữa, vấn
đề về tổ chức khâu thu mua, chế biến tiêu thụ sản phẩm sữa, vấn đề về chính
sách giá cả như thế nào để đảm bảo hài hoà lợi Ých của người chăn nuôi bò
sữa với người tiêu thụ. Do vậy cần đưa ngành chăn nuôi bò sữa là ngành sản
xuất có hiệu quả, cần tăng cả số lượng đàn bò sữa và quy mô đần bò. Vậy cần
có "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa của
công ty TNHH Lam Sơn- Sao Vàng" là rất cần thiết.
Đối tượng nghiên cứu sự phát triển đàn bò sữa, sản lượng sữa của công
ty TNHH Lam Sơn- Sao Vàng.
Phạm vi nghiên cứu chăn nuôi bò sữa của công ty TNHH Lam Sơn -
Sao Vàng.
Chuyên đề được hoàn thành trên cơ sở vận dụng nhiều phương pháp:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp lôgic, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và tham
khảo một số tài liệu khác có liên quan.
Chuyên đề bao gồm các nội dung chính sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về phát triển chăn nuôi chăn bò sữa.
2
Chương II: Thực trạng phát triển chăn nuôi bò sữa ở công ty TNHH
Lam Sơn- Sao Vàng.
Chương III: Một số biện pháp đẩy mạnh phát triển chăn nuôi bò sữa

của công ty TNHH Lam Sơn - Sao Vàng.
3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
BÒ SỮA
I. Ý nghĩa kinh tế của ngành chăn nuôi và chăn nuôi bò sữa
1. Ý nghĩa kinh tế của ngành chăn nuôi
Chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp.
Chăn nuôi có vị trí rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, vì chăn nuôi là
ngành cung cấp những thực phẩm quý có nhiều chất dinh dưỡng như thịt,
trứng, sữa để nâng cao sức khoẻ của nhân dân. Chăn nuôi là ngành cung cấp
nhiều phân hữu cơ và sức kéo cho trồng trọt, cung cấp những nguyên liệu như
da, lông, sừng, móng, xương cho công nghiệp; cung cấp nhiều nông sản cho
xuất khẩu. Chăn nuôi là ngành kinh doanh mang lại nhiều lãi, vì có nhiều điều
kiện để tăng năng suất lao động và sử dụng hợp lý các loại đất đai. Nó còn có
tác dụng chuyển hoá những sản phẩm nông nghiệp Ýt có giá trị, những phụ
phẩm, phế phẩm thành những sản phẩm có giá trị cao như thịt, trứng, sữa.
Với những ý nghĩa trên thì ngành chăn nuôi có một số vai trò chủ yếu sau:
1.1. Ngành chăn nuôi cung cấp nhiều thực phẩm quý, có thành phần
dinh dưỡng cao cho nhu cầu của con người
Ngành chăn nuôi là ngành sản xuất ra sản phẩm có giá trị dinh dưỡng
cao (như thịt, trứng, sữa ) trong khi đó 30% năng lượng và 60% lượng đạm
của con người chủ yếu là thu được từ sản phẩm của ngành chăn nuôi, do đó
việc tiêu thụ ngày càng nhiều sản phẩm chăn nuôi cho nhu cầu đời sống của
con người là một trong những dấu hiệu quan trọng biểu hiện sự tiến bộ trong
việc cải thiện sinh hoạt, nâng cao mức sống của nhân dân, tăng cường sức
khoẻ đáp ứng mọi nhu cầu của sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ở nước ta nói chung và đặc biệt là tỉnh Thanh Hoá, cùng với xu hướng
phát triển của sản xuất, ngành chăn nuôi cũng không ngừng phát triển, làm
tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường, điều này được thể hiện trong
cơ cấu bữa ăn: thịt, cá, trứng, sữa sẽ được chiếm nhiều hơn gạo.

1.2. Chăn nuôi và trồng trọt có mối quan hệ mật thiết với nhau
4
Sự gắn bó của hai ngành này là do sự chế ước bởi quy trình công nghệ,
những vấn đề kinh tế- kỹ thuật và tổ chức sản xuất quyết định. Ngành chăn
nuôi cung cấp phân bón và sức kéo cho ngành trồng trọt, làm tăng độ phì
nhiêu của đất, đáp ứng nhu cầu thâm canh trong trồng trọt. Trước hết, là dựa
vào việc cung cấp ngày càng nhiều phân bón, trong đó chủ yếu là phân
chuồng thu được từ ngành chăn nuôi. Phân chuồng không những có khả năng
cung cấp cho cây trồng tương đối đầy đủ những yếu tố dinh dưỡng cần thiết
mà còn có tác dụng rất tốt trong việc cải tạo đất đai. Điều này cũng phù hợp
với mô hình nền nông nghiệp sinh thái bền vững trong tương lai. Sức kéo của
đại gia súc đóng góp rất tích cực trong các công việc làm đất, chăm sóc cây
trồng kịp thời vụ, vận tải hàng hoá Đặc biệt trong nền nông nghiệp cơ giới
hoá thấp, sản xuất còn tiến hành chủ yếu bằng công cụ thủ công thì sức kéo
đại gia súc là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng
với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật công nghệ thì nước ta nói chung và
Thanh Hoá nói riêng sức kéo của trâu, bò có tầm quan trọng không lớn so với
các địa phương khác.
1.3. Chăn nuôi còn là ngành cung cấp nguyên liệu cho ngành công
nghiệp nh: dệt, da, len, dạ và nhiều ngành công nghiệp khác. Do đó, phát
triển chăn nuôi không những đảm bảo cân đối trong nội bộ ngành nông
nghiệp mà còn thúc đẩy mạnh mẽ nhiều ngành công nghiệp khác. Đối với
công nghiệp chế biến, chăn nuôi giữ vai trò tồn tại của các xí nghiệp, các nhà
máy chế biến sản phẩm của ngành chăn nuôi vì nó cung cấp nguyên liệu cho
ngành chăn nuôi. Trước hết chăn nuôi được coi là ngành phụ, ngành tận dụng
của trồng trọt thì vai trò của công nghiệp chế biến còn bị lu mờ, nhưng chăn
nuôi được coi là ngành sản xuất chính trong nông nghiệp thì vai trò của công
nghiệp chế biến là vô cùng quan trọng.
1.4. Ngành chăn nuôi phát triển sẽ cung cấp nhiều sản phẩm cho xuất
khẩu phù hợp với yêu cầu của nhiều nước trên thế giới

5
Vai trò cả ngành chăn nuôi cũng được nâng lên một bước khi dạng sản
phẩm xuất khẩu thay đổi từ sản phẩm thô sang sản phẩm đã qua chế biến,
giúp cho ngành đã có khả năng thâm nhập vào những thị trường khó tính như
EU, Mỹ, Nhật Bản Việc xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi nói riêng, hàng hoá
nói chung còn tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế, ngoại giao với các nước
nhằm trao đổi các trang thiết bị khi phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
1.5. Chăn nuôi là một ngành kinh doanh có thể thu nhiều lãi, vì nó là
điều kiện để tăng năng suất cao (nhất là việc cơ giới hoá các quy trình sản
xuất) và sử dụng hợp lý các loại đất đai, tận dụng triệt để các loại phế phẩm
của ngành trồng trọt và chế biến nông sản là những sản phẩm có giá trị dinh
dưỡng thấp tổng hợp thành các loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao thông
qua chế biến cung cấp cho gia súc. Đây cũng là một trong các yếu tố để làm
cho giá thành sản phẩm chăn nuôi gia súc hạ, sẽ có khả năng phát triển nhanh
chóng và rộng rãi tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng thu nhập, tích luỹ và
cải thiện đời sống. Ngoài ra, chăn nuôi là ngành cung cấp những sản phẩm vô
hình nhưng mang lại tính nhân văn như: chọi trâu, chọi gà, chim cảnh hay
những động vật góp phần quan trọng trong bảo vệ mùa màng như chó, mèo
Với vai trò như vậy, ngành chăn nuôi nó chung, chăn nuôi bò nói riêng
có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp và trong
đời sống xã hội, phát triển chăn nuôi và phối hợp đúng đắn với ngành trồng
trọt là cơ sở để phát triển nông thôn toàn diện và bền vững trên cơ sở sử dụng
đầy đủ, hợp lý ruộng đất, sức lao động và cả tư liệu sản xuất khác. Việc phát
triển ngành chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường và
công nghiệp chế biến là rất cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. Là cơ sở khoa
học của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng
ngành chăn nuôi.
2. Ý nghĩa của chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam và Thanh Hoá
6

Chăn nuôi là một ngành trong hai ngành sản xuất chủ yế của nông
nghiệp. Sản phẩm chính của chăn nuôi không những đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của con người mà còn là nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp
chế biến và là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng cho mỗi quốc gia. Theo quan
niệm hiện đại, vai trò ngành chăn nuôi được đánh giá bởi bị thế của nó trong
việc biến đổi cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và cơ cấu nông nghiệp nói
riêng.
Chăn nuôi bò sữa là ngành sản xuất quan trọng của hầu hết các nước
nông nghiệp trên thế giới. Sữa bò là một trong những thực phẩm cao cấp có
giá trị dinh dưỡng cao và tương đối hoàn chỉnh, dễ tiêu hoá, nó có ý nghĩa
quan trọng trong việc tăng cường thể lực và cải tạo nòi giống đặc biệt là đối
với những nước kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi có tỷ lệ suy dinh
dưỡng trên 10% (năm 1997). Vì vậy, phát triển chăn nuôi bò sữa đang rất
được quan tâm thông qua chương trình chống suy dinh dưỡng trẻ em của
Chính phủ. Chăn nuôi bò sữa là ngành sản xuất hàng hoá và là ngành có giá
trị kinh tế cao, đặc biệt với những nước có tiềm năng về đồng cỏ và nguồn lao
động lớn.
Đối với Việt Nam, chăn nuôi bò sữa phát triển góp phần quan trọng vào
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động và thúc đẩy quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo xu hướng ngày càng có hiệu quả.
Xuất phát từ thực tế đó, việc phát triển chăn nuôi bò sữa đang trở thành vấn
đề cấp bách trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Quan
điểm định hướng chủ yếu là: "Nuôi bò nhằm mục đích chính là cung cấp thịt,
sữa và một phần sức kéo Ngoài hướng dùng phương thức chăn nuôi bò sữa
lai, cung cấp sữa tươi tại chỗ ở các địa bàn hiện nay, đặc biệt là Thanh Hoá,
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, cần thông qua việc lai tạo, chọn lọc, mở
rộng diện tích khai thác bò lai sind lấy sữa, nhằm tăng khả năng cung cấp sữa
ở các địa bàn trong chương trình sind hoá."
7
Thanh Hoá cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của cả

nước và cũng là một thành phố lớn của đất nước, nhu cầu về sữa đặc biệt là
sữa tươi tăng nhanh. Trong tương lai, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, sự
hình thành thói quen dùng sữa trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân với tốc
độ tăng dân số cũng như tăng lượng khách du lịch tới Thanh Hoá (có khu du
lịch bãi biển Sầm Sơn là một trong những khu du lịch lớn của cả nước ).
Trong tương lai, cùng với sự tăng trưởng về kinh tế, sự hình thành thói quen
dùng sữa trong bữa ăn hàng ngày cảu nhân dân và với tốc độ tăng dân số cũng
như lượng khách du lịch tới Thanh Hoá, nhu cầu về sữa và các sản phẩm từ
sữa sẽ phải tăng rất nhiều so với hiện tại. Chính vì vậy, việc phát triển chăn
nuôi bò sữa ở Thanh Hoá là yêu cầu cấp thiết trong những năm tới.
Bên cạnh đó, tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp ở Thanh Hoá
đang là mối quan tâm, lo ngại của các cấp, các ngành trong thành phố. Vấn đề
này đã được Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đề cập tới trong chiến lược
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam "phấn đấu mỗi năm thu hút
thêm 1,3- 1,4 triệu lao động có việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
xuống dưới 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên
75%. Thực tế, cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá trong những năm qua còn chưa
hợp lý, vì vậy phát triển chăn nuôi bò sữa còn góp phần quan trọng trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn theo
hướng ngày càng hiệu quả hơn.
Ngoài ra ở nước ta đã có các nhà máy sữa như Vinamilk, ông Thọ
Đặc biệt là Thanh Hoá có nhà máy đường Lam Sơn và đang xây dựng nhà
máy chế biến sữa tại khu công nghiệp Lễ Môn với công suất là 12.000 tấn/
năm để thu gom toàn bộ lượng sữa tươi sản xuất ra của tỉnh và các vùng lân
cận. Phát triển chăn nuôi bò sảu sẽ góp phần đáp ứng nguyên liệu tại chỗ
giảm ngoại tệ để nhập khẩu sữa bột, bơ cũng góp phần giảm chi phí sản xuất
sữa cho nhà máy, giảm giá thành sản phẩm.
8
Vậy phát triển chăn nuôi bò sữa ở Thanh Hoá là vấn đề có ý nghía thiết
thực trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về sữa tươi và các sản

phẩm từ sữa cho nhân dân và khách du lịch. Bên cạnh đó, nó còn là giải pháp
quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ đó góp
phần thay đổi cơ cấu kinh tế của tỉnh. Phát triển chăn nuôi không những góp
phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho gia
đình cà xã hội nâng cao mức sống của nhân dân mà còn là ngành sản xuất
hàng hoá tạo nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến sữa còn
non trẻ mới hình thành ở thành phố Thanh Hoá hạn chế việc sử dụng ngoại tệ
vào việc nhập sữa bột, bơ, góp phần giảm chi phí sản xuất, chế biến sữa.
II. Đặc điểm phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa
1. Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật của ngành chăn nuôi
1.1. Đối tượng tác động của ngành chăn nuôi là các cơ thể sống động
vật. Để tồn tại, các đối tượng này luôn luôn cần đến một lượng thức ăn tối
thiểu cần thiết thường xuyên. Do đó, bên cạnh việc đầu tư cơ bản cho đàn vật
nuôi phải đồng thời tính toán phần đầu tư thường xuyên về thức ăn để duy trì
và phát triển đàn vật nuôi này. Nếu cơ cấu đầu tư giữa hai phần trên không
cân đối thì tất yếu sẽ dẫn đến dư thừa lãng phí hoặc sẽ làm chậm sự phát triển,
thậm chí phá huỷ cả đàn vật nuôi. Đồng thời phải đánh giá chu kỳ sản xuất và
đầu tư cho chăn nuôi một cách hợp lý sản phẩm tạo ra, giữa chi phí đầu tư xây
dựng cơ bản và giá trị đào thải để lựa chọ thời điểm đào thải, lựa chọn
phương thức đầu tư mới hay duy trì tái tạo phục hồi.
1.2. Chăn nuôi có thể phát triển tĩnh tại tập trung mang tính chất nh
sản xuất công nghiệp hoặc di động phân tán mang tính chất nh sản xuất nông
nghiệp.
1.3. Chăn nuôi là ngành sản xuất đồng thời cho nhiều sản phẩm. Do
vậy, tuỳ theo mục đích sản xuất để quyết định là sản phẩm chính hay sản
phẩm phụ và lựa chọ phương hướng đầu tư.
9
2. Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật của ngành chăn nuôi bò sữa
2.1 Bò sữa là một loại động vật có hệ thần kinh cao cấp, được con
người thuần hoá, chăm sóc, nuôi dưỡng lai tạo theo hướng cho sữa từ nghìn

năm nay, nó chịu tác động của nhiều yếu tố sinh thái môi trường. Sự tạo sữa
không phải là quá trình tích luỹ vật chất giản đơn mà là quá trình sinh lý phức
tạp diễn ra trong tế bào tuyến sữa được tổng hợp từ các nguyên liệu trong
máu. Theo các nhà khoa học thì để sản xuất ra 1 lít sữa bình quân phải có 540
lít máu chảy qua tuyến vú. Bò sữa được hình thành từ các vùng sinh thái khác
nhau: từ vùng lạnh lẽo ở Bắc Âu đến các vùng nhiệt đới Èm ở Châu Phi, Nam
Mỹ và Châu Á. Tuy nhiên các vùng sinh thái khác nhau này đã hình thành các
giống khác nhau: các giống bò sữa cao sản chủ yếu được tạo thành ở xứ lạnh
còn các giống bò cho năng suất sữa thấp chịu được nóng, Èm và điều kiện
kham khổ hình thành ở xứ nóng. Các yếu tố chủ yếu của sinh thái môi trường
có tác động rõ rệt đến bò sữa đó là: nhiệt độ, độ Èm, nguồn nước, đồng cỏ,
thức ăn, điều kiện vệ sinh, chăm sóc Thực tế chăn nuôi bò sữa ở nước ta đã
chứng minh đặc điểm này đó là 1960 ta đã nhập 170 bò sữa lang trắng đen
Bắc Kinh (nguồn gốc Hà Lan) đem về nuôi ở Ba Vì thì do điều kiện sinh thái
không phù hợp nên sinh trưởng phát triển rất kém, khả năng cho sữa giảm
hẳn. Từ đặc điểm này đòi hỏi trong quy hoạch phát triển chăn nuôi bò sữa cần
phải nghiên cứu điều tra, khảo sát kỹ lưỡng các yếu tố sinh thái môi trường và
đối chiếu với đặc điểm của từng loại giống đến xác định cơ cấu giống hợp lý
cho vùng chăn nuôi khác nhau ở nước ta.
2.2. Bò sữa là một loại tài sản đặc biệt có giá trị cao
Trong sản xuất chăn nuôi bò sữa thì bò vắt sữa được xác định đó là một
loại tài sản cố định đặc biệt, có giá trị cao. Muốn có được một con bò cái vắt
sữa cần phải trải qua các giai đoạn nuôi dưỡng chăm sóc bê cái, tuyển chon bê
tơ, lỡ hoặc là phải có vốn lớn để mua bò cái sinh sản. Để thu hồi vốn đòi hỏi
phải qua một thời gian nhất định, trung bình từ 8- 10 năm.
10
2.3. Đặc điểm về quy luật cho sữa
Tất cả giống bò đều có một quy luật chung:
- Bò cái sau khi đẻ thì bắt đầu cho sữa và tăng dần đến tháng thứ 2 hoặc
tháng thứ 3 thì sản lượng sữa cao nhất, sau đó giảm dần đều từ tháng thứ 10

thì cạn sữa. Như vâyu, một chu kỳ vắt sữa khoảng 30 ngày (1 tháng) và thời
gian cạn sữa khoảng 60 ngày (hơn 2 tháng). Sau khi đẻ được 3- 4 tháng, bò
cái động dục trở lại, nếu cho phối giống kịp thời thì khoảng hơn 9 tháng sau
bò lại để lứa tiếp theo khoảng cách giữa 2 lứa đẻ từ 13- 14 tháng. Bò sữa có
một đặc điểm đặc biệt là vừa mang thai vừa cho sữa. Sản lượng sữa trong mét
chu kỳ vắt sữa lại phụ thuộc vào tuổi của bò sữa.
- Quy luật chung là ở chu kỳ vắt sữa thứ 2 hoặc tháng thứ 3 thì sản
lượng sữa đạt cao nhất sau đó giảm dần. Trong điều kiện sinh trưởng phát dục
và nuôi dưỡng bình thường một bò cái vắt sữa từ 8- 10 năm (6- 8 chu kỳ vắt
sữa).
2.4. Sản phẩm chính của bò sữa là sữa tươi
Sữa tươi là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao nhưng rất dễ
bị hư hỏng nếu không được bảo quản, chế biến kịp thời. Trong sữa tươi có đủ
các chất dinh dưỡng quan trọng đối với sự phát triển của cơ thể con người. Từ
sữa tươi, tuỳ theo nhu cầu tiêu dùng của các nước, các vùng khác nhau mà
người ta chế biến ra nhiều loại sản phẩm khác nhau (có khoảng 500 loại mặt
hàng thực phẩm từ sữa) phổ biến nhất: sữa bột, sữa hộp cô đặc có đường, sữa
bánh, sữa chua, bơ, fomat tươi, fomat cứng, sữa tươi tuyệt trùng thanh trùng,
cazein các chất protein trong sữa rất dễ tiêu lại có hầu hết các loại axit amin
không thay thế. Trong sữa còn đầy đủ các chất khoáng và các nguyên tố vi
lượng nh canxi, phốt pho, lưu huỳnh, sắt, cô ban Các kết quả nghiên cứu
cho thấy "trong sữa tươi có tới gần 10 chất khác nhau trong đó có đạm, mỡ,
đường, vitamin, muối khoáng, men Sữa có 20 loại axit amin, 18 loại axit
11
béo, 25 loại muối khoáng, 12 loại vitamin, 10 loại men, 4 loại đường và một
số nguyên tố vi lượng khác " Sữa tươi giàu chất dinh dưỡng như vậy nhưng
lại rất dễ bị hư hỏng vì vậy trong chăn nuôi bò sữa vấn đề đặt ra là vắt sữa và
chế biến cần phải có công nghệ phù hợp, bảo quản và vận chuyển phải được
đặc biệt chú ý. Kết quả thí nghiệm về bảo quản sữa cho thấy: Sữa tươi khi
mới vắt sữa ra thường có độ chua khoảng 16- 17

0
T (độ tencne). Nhưng nếu
không được bảo quản thì với nhiệt độ không khí 30- 35
0
C nó rất nhanh chóng
bị chua và bị hư hỏng. Độ chua của sữa sau thời gian bảo quản khác nhau, các
loại vi sinh vật (vi trùng, men, mốc) có thể xâm nhập váo sữa thông qua: dụng
cụ, thiết bị, thức ăn, tay chân quần áo của người vắt sữa và vú của bò sữa. Vì
thế mà trong quá trình kỹ thuật vắt sữa bò bắt buộc phải đảm bảo các khâu vệ
sinh cá nhân người vắt sữa, chuồng bò, vú bò trước khi vắt sữa và các dụng cụ
chứa sữa, thiết bị chế biến sữa. Việc vận chuyển sữa là hết sữa quan trọng,
nếu từ nơi chăn nuôi bò đến các cơ sở chế biến quá xa hoặc phương tiện, điều
kiện giao thông không thuận lợi thì việc chăn nuôi bò sữa sẽ không có hiệu
quả hoặc sẽ không thể phát triển được. Ví dụ điều kiện khí hậu, đất đai, đồng
cỏ thuận lợi nhưng xa nơi tiêu thụ cần có thị trường tiêu thụ sữa rộng lớn sát
với khu vực sản xuất điều kiện phương tiện giao thông cho việc thu mua vận
chuyển bảo quản sữa, cung ứng thức ăn và chuyển giao kỹ thuật.
2.5. Chăn nuôi bò sữa là ngành kinh tế sản xuất hàng hoá
Trong sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm dùng để bán gọi là sản phẩm
hàng hoá, còn việc sản xuất ra toàn bộ sản phẩm để bán ngay gọi là sản phẩm
hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là một thuộc tính phổ biến của sự phát triển sản
xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng. Sản xuất hàng hoá không
phải chỉ là một hiện tượng kết hợp tạm thời bên ngoài hặc nó không chỉ là chủ
nghĩa tư bản mà cần khẳng đinh dứt khoát nó là một yếu tố khách quan, nó trở
thành thuộc tính bên trong, lâu dài của chính bản thân sự phát triển của nền
sản xuất nông nghiệp theo định hướng XHCN. Theo quan điểm trên thì chăn
nuôi bò sữa là một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá. Bởi vì sản phẩm của nó
12
là sữa tươi và thông qua chế biến các sản phẩm của sữa được tiêu thụ rộng
khắp trên thị trường trong và ngoài nước.

Đã là một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước như hiện nay thì tất yếu thị trường và giá cả có tác
động trực tiếp quyết định đến ngành sản xuất này. Chăn nuôi bò sữa và chế
biến sữa rất cần có thị trường và giá cả ổn định. Bởi vì sản phẩm của nó
không phải là sản phẩm tự cung, tự cấp mà phải được tiêu thụ trên thị trường
với giá cả đảm bảo đủ chi phí sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Bò sữa là một
loại tài sản cố định có giá trị cần có vốn đầu tư ban đầu lớn và được thu hồi
trong cả một chu kỳ sản xuất dài từ 8- 10 năm. Các nhà máy chế biến cũng
cần phải có vốn đầu tư lớn để đầu tư xây dựng lắp đặt các thiết bị hiện đại và
việc thu hồi toàn bộ số vốn đầu tư này đòi hỏi phải có một thời gian dài. Do
đó sản phẩm của ngành chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa cần có thị trường
tiêu thụ và giá cả ổn định.
2.6. Bò sữa là loại động vật có khả năng chuyển hoá thức ăn có giá trị
dinh dưỡng thấp thành sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Yếu tố đầu vào
của bò sữa là cây cỏ, cây ngô, rơm, các loại sản phẩm phụ của ngành trồng
trọt, sau một quá trình chuyển hoá cho ra sản phẩm sữa có giá trị dinh dưỡng
cao. Chính vì vậy tăng cường khả năng tận dụng các phụ phế phẩm trên cũng
chính là tăng hiệu quả của ngành chăn nuôi bò sữa.
Tóm lại, chăn nuôi bò sữa là ngành có nhiều thuận lợi song cũng là
ngành có độ rủi ro cao. Những khó khăn trước mắt là chưa có kinh nghiệm
cũng như còn Ýt hiểu biết về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa nên chưa khai thác
được mặt thuận lợi cũng như khắc phục những bất thuận của các đặc điểm
trên. Thực tế đó đã ảnh hưởng đến việc lựa chọn con giống cũng như đầu tư
trang thiết bị cho nó. Ngoài ra, việc tiêu thụ sản phẩm cũng là một vấn đề khó
khăn đối với các hộ do thiếu những dụng cụ chuyên dùng để đựng sữa khi tiêu
thụ mà khoảng cách từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ lại khá xa, điều này cũng
đã ảnh hưởng không Ýt đến chất lượng sữa. Do đó, cần phát triển chăn nuôi
13
bò sữa theo quy mô tập trung để có thể tiêu thụ sữa dễ dàng hơn. Như vậy, để
phát triển chăn nuôi bò sữa, ngoài việc nắm vững các đặc điểm của ngành để

tìm tòi vận dụng, khống chế sao cho ngành đạt hiệu quả cao nhất thì việc làm
tốt công tác bản quản rủi ro và có chính sách hỗ trợ giúp cho người chăn nuôi
cũng là động lực quan trọng cho sự phát triển của ngành.
III. Các hình thức phát triển chăn nôi bò sữa
1. Chăn nuôi theo phương thức tự nhiên (phương thức chăn thả) là
phương thức phát triển chăn nuôi xuất hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển
xã hội loài người, cơ sở thực hiện của phương thức này là dựa vào các nguồn
thức ăn tự nhiên, người ta chủ yếu sử dụng các giống vật nuôi địa phương, địa
bản vốn dĩ đã thích nghi với môi trường sống, điều kiện thức ăn và phương
thức kiếm ăn. Phương thức này cũng chỉ tồn tại được trong điều kiện các
nguồn thức ăn tự nhiên còn phong phú, dồi dào, sẵn có, mức độ tác động khai
phá của con người còn Ýt. Phương thức chăn nuôi này thường yêu cầu mức
đầu tư thấp, chất lượng sản phẩm thường mang đặc tính tự nhiên nên cũng rất
được ưa chuộng. Tuy nhiên phương thức này còn có rất nhiều hạn chế đối với
nhu cầu tiêu dùng cao nh hiện nay, nó không đáp ứng được chất lượng cũng
nh số lượng về thịt, sữa cho con người. Do đó phương thức này dần dần
không còn phù hợp. Bò sữa là loài động vật thường xuyên phải theo dõi,
chăm sóc, vệ sinh thì mới có thể cho năng suất sữa cao cho nên phương
thức chăn thả ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế.
Việt Nam là nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển khá sớm trong
khu vực, song so với các nước Châu Âu thì ngành này vẫn còn khá mới mẻ.
Trước đây, phương thác chăn nuôi cũng chủ yếu dưới dạng chăn thả và quy
mô nhỏ, chủ yếu là giống bò vàng. Cơ sở vật chất kỹ thuật nh chuồng trại,
thức ăn, các dịch vụ hỗ trợ khác không được trang bị tốt do đó chăn nuôi
năng suất thấp. Cùng với sự tăng dân số, diện tích đất được ưu tiên cho phát
triển các loại cây trồng cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, do
vậy diện tích đất chăn thả hẹp lại và chủ yếu là đất xấu, nguồn nước Ýt, số
14
lượng và chất lượng cỏ thấp dẫn đến số lượng và chất lượng đàn bò giảm. Các
nguồn thức ăn phụ phẩm chưa được sử dụng để nuôi bò, các loại thức ăn khác

như dây lang, dây lạc chỉ sử dụng khi còn tươi, do đó nguồn thức ăn đã Ýt lại
kém chất dinh dưỡng, do người dân chưa có ý thức trồng cây thức ăn để nuôi
bò. Với phương thức chăn nuôi quảng canh, tận dụng và kỹ thuật lạc hậu làm
giảm sức sản xuất của bò. Với phương thức chăn thả thì nhân dân chưa có ý
thức nhận khoán trong việc phát triển chăn nuôi bò sữa, vì vậy công tác thú y
chưa được đảm bảo bò sữa rất dễ bị mắc bệnh, làm giảm khả năng sống của
bò. Tuy nhiên, tập quán chăn thả này dần dần thay thế bởi phương thức chăn
nuôi theo kiểu công nghiệp.
2. Chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi công nghiệp
Đây là phương thức chăn nuôi hoàn toàn đối lập với chăn nuôi theo
phương thức tự nhiên. Phương châm cơ bản của chăn nuôi công nghiệp là
tăng tối đa khả nang tiếp nhận thức ăn, giảm thiểu quá trình vận động để tiết
kiệm hao phí năng lượng nhằm rút ngăn thời gian tích luỹ năng lượng, tăng
khối lượng và năng suất sản phẩm.
Địa bàn chăn nuôi công nghiệp tĩnh tại bằng cách nhốt suc vật chăn
nuôi trong chuồng trại, với quy mô nhỏ nhất có thể được để tăng số đầu con
trên một đơn vị diện tích chuồng trại và giảm tối thiểu vận động của vật nuôi
để tiết kiệm tiêu hao năng lượng. Thức ăn cho chăn nuôi công nghiệp là thức
ăn chế biến sẵn theo phương thức công nghiệp có sử dụng các kích thích tố
sinh trưởng để vật nuôi có thể cho năng suất sản phẩm cao và ổn định. Tuy
nhiên, chất lượng sản phẩm chăn nuôi công nghiệp thường khác xa nhiều so
với các sản phẩm chăn nuôi tự nhiên kể cả về giá trị dinh dưỡng, hương vị và
tính chất vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, chăn nuôi công nghiệp vẫn là
một phương thức chăn nuôi đang được cả thế giới chấp nhận và phát triển vì
nó tạo ra một sự thay đổi vượt bậc về năng suất và sản lượng sản phẩm chăn
nuôi cho xã hội.
15
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thu nhập và đời sống của người
dân ngày càng được nâng cao, tập quán chăn thả không đáp ứng được nhu cầu
tiêu dụng, phương thức chăn nuôi theo kiểu công nghiệp ra đời, gia súc nuôi

nhốt trong chuồng trại rất phù hợp với cuộc sống đô thị hoá, bãi chăn thả bị
thu hẹp, mà gia súc lại cho năng suất chất lượng cao; riêng bò sữa như đã biết
là động vật rất mẫn cảm với thời tiết, bệnh tật đã được chăm sóc đầy đủ, do
đó đáp ứng được lượng sữa tiêu thụ trên thế giới, phương thức này càng được
áp dụng rộng rãi.
Với việc được trang bị kiến thức kỹ thuật, người dân đã quan tâm đến
cơ sở vật chất, chuồng trại, thức ăn được chú trọng, công tác giống được đẩy
mạnh, tận dụng tốt các loại phụ phẩm như rơm, lá dây lang, dây lạc, thân cây
ngô qua chế biến để có thể đáp ứng nhu cầu thức ăn cho bò lúc trái vụ.
Giống thức ăn cũng được quan tâm với việc hướng dẫn người dân trồng
các loại cỏ phù hợp với khẩu phần ăn của bò, người chăn nuôi biết tận dụng
nguồn lực đất đai để trồng cây thức ăn nuôi bò. Chuồng trại được xây dựng
đúng kỹ thuật hợp vệ sinh và công tác thú y được chú trọng. Nhà nước có
nhiều chính sáh hỗ trợ người dân về vốn, giá sữa, hướng dẫn kỹ thuật chăn
nuôi, tổ chức thu mua sữa và tiêu thụ sản phẩm tại chỗ nên tạo sự yên tâm cho
người dân khi tập trung phát triển chăn nuôi bò sữa theo kiểu công nghiệp làm
ngành sản xuất chính và thu nhập chính của họ. Hướng dẫn người dân phát
triển chăn nuôi bò sữa theo phương thức công nghiẹp là một chính sách đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
3. Phương thức chăn nuôi sinh thái
Là phương thức chăn nuôi tiên tiến nhất nó kế thừa được cả những ưu
điểm của 2 phương thức chăn nuôi tự nhiên và công nghiệp đồng thời cũng
hạn chế, khắc phục được các mặt yếu kém và tồn tại của 2 phương thức trên.
Chăn nuôi sinh thái tạo điều kiện và ngoại cảnh để vật nuôi được phát triển
trong môi trường tự nhiên trên cơ sở các nguồn thức ăn, dinh dưỡng mang
16
tính chất tự nhiên nhưng do con người chủ động hình thành nên luôn luôn
đảm bảo tính cân đối và đầy đủ chất dinh dưỡng.
Để đạt được điều đó, chăn nuôi sinh thái phải dựa trên điều kiện của sự
phát triển cao của khoa học, kỹ thuật, nhất là các thành tựu trong công nghệ

sinh học về tạo giống, tạo tập đoàn thức ăn sinh học và môi trường sinh thái.
Phương thức chăn nuôi sinh thái đang được thịnh hành phát triển ở các nước
đã phát triển và cung cấp sản phẩm cho khu vực tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm
chất lượng cao.
Phát triển chăn nuôi bò sữa phải là sự phát triển bền vững. Trong thời
gian qua, chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam nói chung gặp nhiều khó khăn phát
triển không ổn định trong khi ngành chế biến sữa phải nhập ngoại trên 90%
nguyên liệu sữa thì sữa tươi sản xuất trong nước có những lúc lại tiêu thụ rất
khó khăn. Là ngành sản xuất "vốn to rủi ro lớn" chăn nuôi bò sữa nếu không
phát triển bền vững trong cơ chế thị trường, nhất là trong kinh tế thị trường
mở cửa phát triển bền vững hiệu quả một cách tổng quát đó là "sự phát triển
đáp ứng với nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của thế hệ tương lai." Sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng cao giá
thành hạ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội không chỉ trong ngắn hạn
mà là dài hạn. Để tạo ra vùng nguyên liệu sữa tập trung ổn định cung cấp
ngày càng nhiều sữa cho công nghiệp chế biến. Đối với chế biến muốn có sản
phẩm tiêu thụ ngày càng nhiều trên thị trường thì chất lượng sản phẩm ngày
càng phải được nâng cao, mẫu mã bao bì phù hợp thị hiếu người tiêu dùng giá
cả phải chăng.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành chăn nuôi bò sữa
1. Nhóm các nhân tố tự nhiên
1.1. Khí hậu, thời tiết
Bò sữa là động vật cao cấp rất mẫn cảm với sự thay đổi của yếu tố khí
hậu, thời tiết nhất là: nhiệt độ và độ Èm. Các giống bò cao sản phần lớn được
hình thành từ các nước ôn đới như giống bò Holstein Friesian (Hà Lan) là
17
giống bò sữa tốt nhất hiện nay được gây tạo từ Hà Lan từ thế kỷ 14 đang được
phổ biến ở nhiều nước trên thế giới nhiều nhất là Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu úc,
Niuzilan, Nhật Bản Các nước có khí hậu nhiệt đới nóng Èm việc chăn nuôi
bò sữa Hà Lan thuần rất khó khăn bởi vì nó có những yêu cầu khá khắt khe về

khi hậu như nhiệt độ từ 18- 20
0
C bò phát triển tốt, Ýt mắc bệnh và khả năng
cho sữa cao. Nhiệt độ thấp nhất là 9
0
C và cao nhất là 30
0
C . ở nhiệu độ cao bò
ăn Ýt, uống nước nhiều, lượng sữa giảm. Nếu nhiệt độ thấp hơn 5
0
C hoặc cao
nhất là 37
0
C có thể coi là nhiệt độ gây hại, bò ngừng tiết sữa và có thể chết.
Èm độ thích nghi nhất là 60- 75%.
Một số bò có khả năng chịu nóng nh Red Sindhi (ấn Độ), Sahiwal,
Shortorn có thể thích nghi với nhiệt độ 20- 30
0
C. Bò có khả năng thích nghi
ứng với điều kiện nhiệt đới nóng Èm như con lai F
1
(1/2 máu Holtein Friesian
+ 1/2 máu lai sind); F
2
(3/4 HF); F
3
(5/8 HF) trong đó con lai sind được lai tạo
bằng cách cho lai giữa bò vàng Việt Nam với bò Redsindhi. Nhìn chung
những con lai này thường tỷ lệ thuật với năng suất sữa, nhưng lại tỷ lệ nghịch
với khả năng thích nghi. Ngoài ra, khí hậu thời tiết còn ảnh hưởng tới sản xuất

và cung cấp thức ăn tình hình dịch bệnh và thị trường tiêu thụ sữa. Nếu khí
hậu ôn hoà thì tập đoàn cây thức ăn sẽ phong phú, tạo nguồn thức ăn dồi dào,
bò sữa vì thế mà sẽ phát triển tốt. Mặt khác, khí hậu thuận lợi cũng sẽ hạn chế
những dịch bệnh phát triển và lây lan. Thực tế cho thấy ở những vùng sau khi
bị lũ lụt hay hạn hán thường có những ổ dịch lớn và lây lan nhanh không có
giải pháp kịp thời sẽ gây thiệt hại không nhỏ.
Khí hậu, thời tiết cũng ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm. Về mùa
lạnh lượng sữa tươi được tiêu thụ Ýt hơn nhiều so với mùa hè. Việc bảo quản
sữa mùa hè mạnh hơn so với mùa đông. Do vậy vấn đề tiêu thụ và sơ chế sản
phẩm trước khi tiêu thụ sẽ là động lực hay kìm hãm sự phát triển của ngành
chăn nuôi bò sữa cũng tuỳ thuộc vào khí hậu, thời tiết đặc biệt là với những
nước mà mạng lưới công nghiệp chưa phát triển tốt.
1.2. Đất đai, đồng cỏ và nguồn nước
18
Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp nói
chung và trong công nghiệp nói riêng. Muốn phát triển chăn nuôi bò sữa tất
yếu phải có đất đai để xây dựng chuồng trại, làm bãi chăn thả trồng cỏ và các
loại thức ăn khác. Do đó, để phát triển chăn nuôi bò sữa cần có một diện tích
đủ lớn theo quy mô chăn nuôi.
Đồng cỏ là một yếu tố quan trọng, quyết định đến quy mô đàn bò sữa
và giá thành sản phẩm sữa, thông thường trong chăn nuôi bò sữa người ta cho
bò ăn cỏ là chủ yếu vì bò là loại động vật nhai lại có khả năng biến chất xơ
thành đạm và các chất dinh dưỡng khác để nuôi cơ thể. Nhiều nghiên cứu đã
chứng minh rằng năng suất sữa phụ thuộc vào mùa cỏ trong năm. Vào mùa
hè, thời tiết, khí hậu thuận lợi cho cỏ phát triển năng suất sữa đạt cao nhất.
Vào mùa đông, cỏ tàn úa, năng suất sữa giảm đáng kể. Thực tế qua tổng kết
chăn nuôi bò sữa Hà Lan ở các nông trường nh: Sao Đỏ, Mộc Châu, Lâm
Đồng, Ba Vì đều có chung kết luận là lượng sữa thay đổi trong năm phụ
thuộc vào sự phát triển của đồng cỏ. Do đó, để phát triển chăn nuôi bò sữa
cần có kế hoạch sản xuất và chế biến thức ăn thô xanh.

Nguồn nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ của bò sữa. Nhu cầu
về nước của bò rất lớn, bình quân một con bò cái vắt sữa cần cho uống từ 6- 8
lít nước/ ngày. Nguồn nước bắt buộc phải là nguồn nước sạch, đảm bảo tiêu
chuẩn vệ sinh giống như việc cung cấp nước cho con người bao gồm: nước
máy, nước giếng đào, giếng khoan. Vì vậy mà các vùng chua phèn, mặn thiếu
nguồn nước ngọt thì không thể bố trí chăn nuôi bò sữa được. Bò sữa lại ưa
cao ráo, thoáng mát, sạch sẽ cho nên các vùng thấp hay bị ngập lụt cũng
không phù hợp với chăn nuôi bò sữa. Ngoài ra, để đảm bảo vệ sinh sữa cần có
nước để thường xuyên tắm chải cho bò, rửa các dụng cụ đựng sữa, vệ sinh
chuồng trại
2. Các nhân tố kinh tế- xã hội
2.1. Nguồn lao động
19
Lao động trong chăn nuôi bò sữa đòi hỏi phải có kỹ thuật cao nhất là
các khâu chăm sóc, vắt sữa, các khâu khác có thể tận dụng lao động phụ nh:
cắt cỏ, quét dọn vệ sinh, giao sữa Những trại chăn nuôi quy mô lớn cần thuê
mướn nhân công. Hầu hết các khâu đều là lao động thủ công: trồng cỏ, cắt cỏ,
vận chuyển cỏ về trại, băm thái cỏ, cho ăn, vệ sinh, quét dọn, vắt sữa, vận
chuyển sữa và bảo quản lạnh là những khâu công việc cuối cùng của cả dây
truyền sản xuất sữa tươi nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì riêng 3 khâu này
chi phí chiếm 27,2% so với giá bán sữa tươi tại nhà máy. Hiện nay lao động
Thanh Hoá thiếu việc làm rất nhiều, nhưng đội ngũ lao động có kỹ thuật, có
trình độ trong chăn nuôi bò sữa lại Ýt, cần nhanh chóng tổ chức các lớp tập
huấn kỹ thuật cho nhân dân tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành.
2.2. Nhân tố về sản xuất
Vốn là điều kiện tiên quyết để phát triển chăn nuôi bò sữa, có vốn mới
mua được con giống tốt, xây dựng chuồng trại có trang thiết bị hiện đại phù
hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong chăn nuôi, đầu tư thức
ăn, thuê lao động mở rộng quy mô chăn nuôi Nh vậy vốn đầu tư cho chăn
nuôi bò sữa tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn chậm (8- 10 năm). Do đó,

việc phát triển chăn nuôi bò sữa không thể làm ồ ạt hay tuỳ tiện được. Ngoài
ra những cơ sở chăn nuôi của Nhà nước cần phải phát triển các công ty, các
trang trại
Vốn để nhập một con bò giống sữa khoảng 20 triệu đồng, vốn xây dựng
chuồng trại mua sắm dụng cụ, thức ăn vốn đầu tư ban đầu phải khấu hao
dần trong nhiều năm nếu là vốn vay ngân hàng phải tính nộp lãi suất tiền vay
và chi phí sản xuất. Phát triển chăn nuôi bò sữa để hình thành các trại nuôi tập
trung quy mô lớn cần tập trung và tích tụ sản xuất mới tiện lợi cho công tác
dịch vụ, chuyển giao kỹ thuật, thu mua chế biến sữa. Đặc biệt là nếu hình
thành nhiều trại lớn sẽ là điều kiện thuận lợi hình thành công ty sữa mà các
chủ trại đều có cổ phần trong các công ty này.
2.3. Giao thông và các phương tiện vận tải
20
Giao thông là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc
tổ chức phát triển chăn nuôi bò sữa. Trước hết là khâu vận chuyển, tiêu thụ
sữa. Sữa tươi rất dẽ bị hư hỏng trong điều kiện nóng Èm, mưa gió thất thường
do đó sản phẩm làm ra đòi hỏi phải được vận chuyển nhanh; chế biến kịp
thời. Muốn đảm bảo vận chuyển nhanh (không quá 6 giê sau khi vắt sữa) thì
phải có phương tiện vận tải chuyên dùng giao thông tốt, cự ly từ nơi sản xuất
đến nơi chế biến không quá xa. Kế đến là khâu mua thức ăn tinh, thuốc thú y
và các dịch vụ kỹ thuật khác: giao thông thuận lợi thì người chăn nuôi có thể
mua thức ăn một cách dẽ dàng nhanh chóng và là một yếu tố hạ giá thành sản
phẩm. ở nước ta điều kiện giao thông còn khó khăn do đó sản phẩm làm ra
không có thị trường tiêu thụ. Vì vậy vấn đề cấp bách là phải đầu tư xây dựng
các cơ sở chế biến sữa tại các vùng sản xuát xa xôi này. Trong thời gian gần
đây Thanh Hoá hầu như đã dải đường nhựa khắp các huyện và các xã, thôn
thì đã được dải cấp phối hoặc đổ bê tông nên khá thuận lợi cho viẹc phục vụ
chăn nuôi bò sữa.
2.4. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Chăn nuôi bò sữa là một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế

thị trường tất yếu thị trường là nhân tố cực kỳ quan trọng có tác động trực tiếp
và quyết định đến sự phát triển của ngành sản xuất này do đó gồm cả thị
trường trong và ngoài nước. Ngành sản xuất chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa
ở nước ta còn rất nhỏ so với các ngành sản xuất khác trong nước và ngành
chăn nuôi bò sữa trên thế giới nhưng nó lại bị chi phối của các quy luật kinh
tế thị trường. Ba quy luật cơ bản là giá trị, cung cầu và cạnh tranh. Nhu cầu
nhiều mặt của nền kinh tế xã hội đối với các sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là
lương thực thực phẩm ngày càng phát triển lên về cả số lượng, chất lượng và
chủng loại không chỉ ở dạng tươi sống mà còn phải qua chế biến.
Sản phẩm chính của ngành chăn nuôi bò sữa là sữa tươi. Sữa tươi phải
thông qua chế biến mới có thể tung ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nh vậy
đầu ra của chăn nuôi bò sữa là đầu vào của các cơ sở chế biến. Đầu ra của cơ
21
sở chế biến mới là các loại sản phẩm tiêu dùng. Các sản phẩm này phải được
người tiêu dùng chấp nhận. Đây là vấn đề khá hóc búa đối với ngành chăn
nuôi bò sữa và chế biến sữa ở nước ta hiện nay. Muốn cho người tiêu dùng
chấp nhận các sản phẩm sữa sản xuất trong nước (sữa tươi, sữa hộp, bơ,
fomát ) thì các loại sản phẩm này phải có chất lượng tốt và giá bán phải rẻ
hơn các sản phẩm sữa nhập ngoại. Muốn có chất lượng sản phẩm sữa tốt giá
thành hạ thì trước hết giá nguyên liệu (sữa tươi) cũng phải rẻ. Vì vậy con
đường duy nhất để các sản phẩm sữa sản xuất trong nước cạnh tranh được
trên thị trường là các nhà máy chế biến phải có thiết bị và công nghệ chế biến
hiện đại đồng thời các trại nuôi phải áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của
ngành chăn nuôi bò sữa nhất là về giống và thức ăn để nâng cao năng suất
sữa, giảm chi phí/ 1 lít sữa.
Giá sữa bột trên thị trường thế giới đang có xu hướng tăng, lý do tăng
là các nước đang phát triển có nhu cầu về sản phẩm sữa ngày càng nhiều
trong khi các nước sản xuất nhiều sữa lại đang có kế hoạch điều chỉnh lượng
sữa như giảm lượng sữa bán ra, ngừng trợ cấp cho các nước đang phát triển.
Mặc dù tổng kim ngạch của các nước vẫn tăng nhanh. Trên thị trường hiện

nay có đủ các sản phẩm sữa nổi tiếng trên thế giới như: Pháp, Hà Lan,
Newzilan, Singapore, Thái Lan các sản phẩm này được nhập bằng nhiều
con đường khác nhau, đang cạnh tranh quyết liệt với các sản phẩm sữa sản
xuất trong nước. Đây là một điều đáng lo ngại đối với ngành chăn nuôi bò sữa
ở nước ta mới đang hình thành và phát triển. Bởi vì khi so sánh mặt bằng giá
thành sản phẩm trong nước với các nước xung quanh bao giờ cũng cao hơn
giá thành sản phẩm sữa từ các nước khác trong vùng (do chịu thuế bởi sản
phẩm nhập khẩu). Bởi vậy để bảo hộ hàng sản xuất trong nước (trong đó có
sữa) là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất, giảm giá thành.
Nhà nước cần có các chính sách bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước nhất là
phải có chính sách thuế thích hợp, linh hoạt trong từng thời kỳ và có biện
pháp chống buôn lậu có hiệu quả.
22
2.5. Các cơ sở chế biến sản phẩm
Sữa tươi nếu không bảo quản lạnh thì chỉ sau 6 giờ kể từ khi vắt sữa sẽ
bị chua sau 12 giò là bị hư hỏng hoàn toàn. Khi chăn nuôi bò sữa đã trở thành
ngành sản xuất hàng hoá tất yếu sẽ đòi hỏi các cơ sở chể biến sữa đáp ứng tốt.
Vấn đề này mang tính quyết định đến sự hình thành, phát triển và ổn định lâu
dài của ngành chăn nuôi bò sữa. Đương nhiên quan hệ sản xuất và chế biến
sữa là quan hệ giữa vùng sản xuất và vùng nguyên liệu thực chất là quan hệ
hai chiều. Các cơ sở chế biến hoạt động có hiệu quả hay không một phần là
do có đủ nguyên liệu hay không? giá nguyên liệu thấp hay cao? Ngược lại các
nông trang sản xuất có hiệu quả hay không chính là ổn định được thị trường
hay không và giá cả "đầu ra" thế nào? Trong điều kiện tỉnh Thanh Hoá cả sản
xuất và chế biến đều là những ngành mới thì việc xác lập quan hệ giữa hai
bên cung và cầu nguyên liệu cần có sự trợ giúp của Nhà nước về mặt giá cả
để đảm bảo hai bên cùng có lợi. Một trong những nguyên nhân làm cho đàn
bò sữa tăng chậm là do khâu tiêu thụ sữa. Lượng sữa tươi tiêu thụ trong các
của hàng không nhiều mặc dù giá cả, giá thu mua sữa của nhà máy nhưng
người dân không thoả mãn cần có sự can thiệp của Nhà nước.

2.6. Trình độ phát triển kinh tế- xã hội
Sản phẩm chăn nuôi từ trước đến nay vẫn được cơi là sản phẩm cao cấp
trong bữa ăn hàng ngày, người ta chỉ nghĩ tới việc tiêu dùng thịt, sữa Khi
nhu cầu về lương thực đã đảm bảo, thu nhập của người lao động tăng lên thì
yêu cầu sản phẩm chăn nuôi tăng lên và xu hướng là tỷ lệ lương thực trong
bữa ăn giảm xuống còn tỷ lệ thịt, sữa tăng lên. Với nhu cầu tăng như vậy,
tất yếu sản xuất phải phát triển để đáp ứng nhu cầu tăng lên đó, tức là ngành
chăn nuôi phát triển. Trình độ phát triển kinh tế xã hội không những là sự
phát triển của thị trường tiêu thụ sản phẩm mà còn phải nói đến về mặt kỹ
thuật. Trong những năm gần đây, cùng với quy luật ngày càng tăng của nhu
cầu, các nhà nghiên cứu đã đưa ra được nhiều giống mới cho năng suất cao,
23
thức ăn sử dụng cho giống này không thể là thức ăn sử dụng cho chăn nuôi
quảng canh mà phải thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao.
Nh vậy kinh tế xã hội phát triển là một điều kiện thuận lợi cho ngành
chăn nuôi phát triển nhanh chóng với ngành trồng trọt và tiến tới vượt ngành
này.
Tóm lại, căn cứ vào những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển chăn
nuôi bò sữa, ta thấy việc phát triển chăn nuôi bò sữa ở tỉnh Thanh Hoá có
nhiều thuận lợi. Đó là điều kiện tương đối ôn hoà, tập đoàn cây thức ăn phong
phú đa dạng, đội ngũ lao động đông đảo và nhiệt tình học hỏi, một số chính
sách phù hợp Tuy vậy những khó khăn về vốn đầu tư, về con giống, về giải
quyết thức ăn cũng nh tiêu thụ sữa đã cản trở không Ýt tới sự phát triển của
ngành. Vì vậy, chúng ta cần lợi dụng thế mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế để đưa nhanh số đầu con cho sữa của toàn tỉnh nhằm tăng sản lượng
sữa; chú trọng khuyến khích đầu tư cho chăn nuôi bò sữa, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc vay vốn để chăn nuôi. Đồng thời cần hướng dẫn đầu tư cho phù
hợp với quy mô của từng trại. Hiện nay đàn bò sữa của Thanh Hoá đang tập
trung chủ yếu trong các hộ gia định và các cơ sở quốc doanh. Để phát huy vai
trò kinh tế quốc doanh trong lĩnh vực này, Nhà nước cần nhanh chóng đầu tư

cho các cơ sở chăn nuôi quốc doanh giữ vũng thế chủ đạo của mình. Cần
phân cấp trách nhiệm cho chăn nuôi quốc doanh trong lĩnh vực lai tạo, nhân
giống và nuôi thích nghi bò nhập nội để cung cấp cho các nông hộ.
Mặc dù lượng sữa sản xuất ở trong nước chưa nhiều song thị trường
tiêu thụ đang là mối lo ngại của người chăn nuôi. Sự cạnh tranh cả về chất
lượng và giá cả giữa thị trường trong nước và thế giới thực sự đã làm ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển của đàn bò sữa vừa mới bắt đầu khởi sắc.
Trong khi giá sữa bột nhập vào Việt Nam năm 1997 là 2.220 USD/ tấn mà giá
sữa tươi trong nước là 3,55 triệu đồng/ tấn (sữa chuẩn) thì các cơ sở chế biến
không sử dụng sữa tươi trong nước nếu không phải là sự bắt buộc. Chính vì
vậy, ngoài sự cố gắng của người chăn nuôi để tăng chất lượng, giảm chi phí
24
cho một đơn vị sản phẩm, Nhà nước cũng có sự can thiệp tích cực trong việc
tiêu thụ sản phẩm cho họ bằng cách chính sách tài chính và các công cụ quản
lý khác, Nhà nước sẽ giúp cho người chăn nuôi đứng vững với sản phẩm của
mình trong cơ chế thị trường. Rõ ràng các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội có
ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến ngành chăn nuôi bò sữa. Song nếu
chúng ta biết khống chế và lợi dụng nó thì cũng hạn chế được những khó
khăn cho ngành. Đây chính là chức năng của người quản lý, nó thể hiện năng
lực của người lãnh đạo trong việc phát triển ngành sản xuất mới này.
V. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
ngành sản xuất mới này
Trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta sản xuất nông nghiệp giữ vai trò
hết sức quan trọng và sự phát triển của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ
tăng trưởng của thu nhập quốc dân. Vì vậy, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
là nhiệm vụ quan trọng số một trong chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta
hiện nay. Tuy nhiên sự phát triển nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động đến nó, một trong những yế tố quan
trọng đó là vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này đã được kiểm
nghiệm ở hầu hết các nước trên thế giới quản lý kinh tế trên tầm vĩ mô của

Nhà nước đối với nôngnghiệp chính là sự quản lý, định hướng điều tiết thông
qua hệ thống công cụ quản lý của mình nhằm duy trì khuyến khích các quan
hệ kinh tế nông nghiệp phát triển đúng hướng và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Đồng thời Nhà nước phải tạo ra những điều kiện và môi trường kinh tế thuận
lợi cho sự phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần. Đối với
ngành sản xuất chăn nuôi bò sữa ở nước ta hiện nay cần có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước. Trước hết là chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển chăn
nuôi bò sữa nh chính sách trợ giá, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng,
chính sách thuế.
Ví dụ miễn thuế đối với lượng sữa hộp sản xuất từ nguồn nguyên liệu
trong nước, tăng thuế đối với nguồn nguyên liệu sữa đầu tư khai thác các
25

×