Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Dạy kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 ở một số Trường Tiểu học Thuộc tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.08 KB, 71 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
cõd
TRẦN THỊ MỸ LÀNH
DẠY KIẾN THỨC SƠ GIẢN VỀ CÂU CHO HỌC SINH
LỚP 4 Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC THUỘC
TỈNH ĐỒNG THÁP
Ngành đào tạo: Sư phạm Giáo dục Tiểu học
Trình độ đào tạo: Đại học
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2
ĐỒNG THÁP, NĂM 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ……………………………………………………………. i
Lời cam đoan ………………………………………………………… ii
Lời cảm ơn ……………………………………………………………… iii
Mục lục………………………………………………………………… 1
Danh mục các cụm từ viết tắc …………………………………… 4
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………… 5
NỘI DUNG………………………………………………………………. 11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY KIẾN
THỨC SƠ GIẢN VỀ CÂU CHO HS LỚP 4
1.1 Cơ sở lý luận…………………………………………………….… 11
1.1.1 Vấn đề câu tiếng Việt …………………………………………. 11
1.1.2 Quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng Việt ……………………… 16
1.1.3 Đặc điểm tâm lý của HS lớp 4 với việc dạy kiến thức sơ giản
về câu tiếng Việt ……………………………………………………… 17
1.2 Cơ sở thực tiễn …………………………………………………… 20


1.2.1 Xác lập cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu ………………… 20
1.2.2 Hệ thống hóa nội dung dạy học kiến thức sơ giản về câu cho
HS lớp 4 ……………………………………………………………… 21
1.2.3 Thực trạng dạy học kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 ở
các trường tiểu học Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ……………………. 25
1.2.3.1 Mục đích, nội dung, địa bàn, đối tượng, phương pháp
khảo sát …………………………………………………………………… 25
1.2.3.2 Kết quả khảo sát …………………………………………… 26
3
1.3 Tiểu kết chương 1 ……………………………………………… 39
Chương 2
TỔ CHỨC DẠY HỌC KIẾN THỨC SƠ GIẢN VỀ CÂU CHO HS
LỚP 4 Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ XÃ SA ĐÉC
TỈNH ĐỒNG THÁP
2.1 Xây dựng các bài tập dạy kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4
theo quan điểm giao tiếp …………………………………………… …. 41
2.1.1 Yêu cầu của việc xây dựng hệ thống bài tập dạy kiến thức
sơ giản cho HS lớp 4 theo quan điểm giao tiếp …………………….… 41
2.1.2 Hệ thống bài tập kiến thức sơ giản cho HS lớp 4 ……… 44
2.2 Quy trình dạy kiến thức sơ giản cho HS lớp 4 theo quan điểm
giao tiếp ………………………………………………………………… 55
2.2.1 Mục tiêu quy trình ……………………………………………. 55
2.2.2 Yêu cầu của quy trình ……………………………………… 56
2.2.3 Các bước thực hiện dạy kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 58
2.3 Tiểu kết chương 2 ………………………………………………… 59
Chương 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1 Mục đích, nội dung, đối tượng, địa bàn, kế hoạch thử nghiệm… 61
3.1.1 Mục đích thử nghiệm ………………………………………… 61
3.1.2 Nội dung thử nghiệm ………………………………………… 61

3.1.3 Địa bàn và đối tượng thử nghiệm ……………………………. 61
3.1.4 Kế hoạch thử nghiệm ………………………………………… 61
3.2 Tổ chức thử nghiệm ……………………………………………… 61
3.3 Phân tích kết quả thử nghiệm và nhận xét ………………………… 62
3.3.1 Ý kiến của nhóm dự giờ ……………………………………… 62
3.3.2 Kĩ năng lĩnh hội tri thức về câu của HS ở lớp 4 ………………. 63
4
3.3.3 Kĩ năng sử dụng câu của HS qua các giờ luyện tập …………… 65
3.3.4 Đánh giá về hoạt động tích cực học tập, hứng thú và sự chú ý
của HS qua tiết dạy …………………………………………………… 65
3.4 Tiểu kết chương 3 …………………………………………………… 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………… 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 70
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Để cho việc nghiên cứu đề tài được thuận lợi và tránh cách viết dài của một số
từ ngữ thường được dùng lặp lại, đề tài đã sử dụng một số chữ viết tắt như sau:
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
NXBGD : Nhà xuất bản Giáo dục
LTVC : Luyện từ và Câu
SGK : Sách giáo khoa
TV 4a : Tiếng Việt 4, tập 1
TV 4b : Tiếng Việt 4, tập 2
TH : Tiểu học
Tr. : Trang
VBT : Vở bài tập
ĐDDH : Đồ dùng dạy học
VN : Vị ngữ

CN : Chủ ngữ
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là một trong những môn học chính có vai trò vô cùng quan trọng
trong chương trình Tiểu học (TH) với mục tiêu nhằm hình thành và phát triển ở HS các
kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). Đây là mục tiêu hàng đầu gắn với
việc rèn luyện tư duy cho HS. Môn Tiếng Việt cung cấp những kiến thức cơ bản về
tiếng Việt và những hiểu biết cơ bản về xã hội, tự nhiên và con người,… góp phần hình
thành con người Việt Nam phù hợp với sự phát triển của đất nước.
Nhắc đến Tiếng Việt ở TH, ta không thể không nhắc đến phân môn Luyện từ và
Câu (LTVC). Phân môn LTVC của chương trình hiện nay có nhiều điểm mới so với
chương trình giáo dục cũ, được xây dựng theo cấu trúc đồng tâm. Một số kiến thức sơ
giản về câu được dạy ở các khối lớp. Ngay từ lớp 1, các em được học những từ và câu
đơn giản, từ lớp 2 đến lớp 5 được học với tư cách là một phân môn độc lập.
LTVC là một phân môn không kém phần quan trọng so với các phân môn khác
như: Chính tả, Tập đọc, Tập làm văn, Kể chuyện,… muốn học tốt LTVC thì HS phải
có kiến thức về từ và câu. Từ và câu là hai đơn vị có vai trò quan trọng trong hệ thống
ngôn ngữ. Đối với GV, việc dạy kiến thức sơ giản về câu cho HSTH nói chung và cho
HS lớp 4 nói riêng, có vai trò quan trọng trong chương trình tiếng Việt ở TH với mục
đích cung cấp kiến thức sơ giản về câu, rèn kĩ năng dùng từ đặt câu, từ đó bồi dưỡng
cho các em nói, viết thành câu và biết cách sử dụng từ trong hoạt động giao tiếp hằng
ngày. Đối với HS, việc học kiến thức sơ giản về câu giúp cho các em trình bày tư
tưởng tình cảm của mình một cách chính xác và giúp các em nắm quy tắc kết hợp từ
thành một câu hoàn chỉnh tạo điều kiện cho các em học tiếp lên cấp bậc cao hơn và
giúp cho các em phát triển nhân cách của mình một cách toàn diện hơn.
7
Tuy nhiên, việc dạy học kiến thức sơ giản về câu trong phân môn LTVC ở TH
nói chung và cho HS lớp 4 nói riêng trên thực tế đang gặp một số vấn đề bất cập như
một số giáo viên (GV) chưa nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa (SGK),

chưa nắm rõ kiến thức sơ giản về câu trong chương trình dạy LTVC, sử dụng phương
pháp và hình thức dạy học không phù hợp, dẫn đến việc dạy câu trong LTVC không
đúng ý đồ mà SGK đưa ra và chưa khai thác hết những kiến thức các em vốn có. Vì
vậy, chúng tôi chọn đề tài “Dạy kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 ở một số
Trường Tiểu học Thuộc tỉnh Đồng Tháp” để nghiên cứu nhằm giúp HS hiểu rõ về
câu và sử dụng câu một cách có hiệu quả.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề về câu và câu tiếng Việt trong chương trình tiếng Việt ở TH đã được
nhiều nhà giáo dục, nhà nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm từ lâu và được thể hiện ở nhiều
phương diện khác nhau.
* Vấn đề về câu tiếng Việt đã có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm có thể kể đến
một số tác giả như: Diệp Quang Ban, Lê A, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh, Bùi Minh
Toán, Cao Xuân Hạo, Đỗ Việt Hùng,…
- Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến bài viết của tác giả Diệp Quang Ban
(1992), trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” [5]. Tác giả đã nghiên cứu về câu ở phương
diện từ loại, các thành tố nghĩa của câu. Khi đề cập đến câu, tác giả đi sâu vào nghiên
cứu cấu tạo ngữ pháp của câu. Trong đó, tài liệu có đề cập đến vấn đề về câu và việc
nghiên cứu câu trong tiếng Việt.
- Trong cuốn “Tiếng Việt thực hành" [17]. Các tác giả Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ
Việt Hùng (1997) đã trình bày về việc rèn kĩ năng đặt câu, dùng từ và kĩ năng viết
chính tả. Trong đó, rèn kĩ năng dùng từ đặt câu được chú trọng hơn qua các dạng bài
chữa lỗi về cấu tạo câu, dấu câu, sắp xếp từ thành câu, thêm dấu câu vào để thành câu
hoàn chỉnh, giải nghĩa từ hay chữa lỗi chính tả,…Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến
vấn đề dạy kiến sơ giản về câu trong giờ LTVC.
8
- Tác giả Cao Xuân Hạo (2003), trong cuốn “Câu trong tiếng Việt” [8]. Tác giả
trình bày các đơn vị ngữ pháp từ thấp đến cao: từ, cụm từ, câu. Đặc biệt, do vấn đề về
câu rất phong phú và phức tạp nên tác giả dành phần lớn vào việc nghiên các thành
phần câu cũng như việc phân loại câu theo mục đích khác nhau.
* Vấn đề về dạy câu và học câu ở TH được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu

như: Lê Phương Nga, Nguyễn Trí, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Quang Ninh, Đinh
Thị Oanh, Vũ Thị Kim Dung, Phạm Thị Thanh,…
- Tác giả Lê Phương Nga, Nguyễn Trí (2007), trong cuốn “Giáo trình phương
pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”, tập 2 [9]. Tác giả trình bày chi tiết các vấn đề về
đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học LTVC. Tuy nhiên, tác
giả chưa đề cập nội dung dạy kiến thức sơ giản về câu và luyện tập – thực hành kiến
thức sơ giản về câu cho HS.
- Tác giả Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), trong cuốn “Sách giáo viên Tiếng Việt
lớp 4”, tập 1 [14]. Cấu trúc của sách được tác giả chia hai phần. Phần 1, tác giả trình
bày mục tiêu, quan điểm biên soạn, nội dung chương trình, phương pháp dạy học các
phân môn trong SGK tiếng Việt 4. Ở phần 2, tác giả trình bày chi tiết nội dung dạy học
theo từng bài trong từng chủ điểm của các phân môn trong SGK tiếng Việt lớp 4, tập 1
như: Mục đích – yêu cầu, đồ dùng dạy học, các hoạt động dạy – học, củng cố – dặn
dò. Đây là tài liệu để GV tham khảo trong việc dạy học tiếng Việt nói chung và LTVC
nói riêng nhằm đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, giúp cho việc truyền tải kiến thức đến HS
một cách nhẹ nhàng tự nhiên không gây căng thẳng.
- Tác giả Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), trong cuốn “Sách giáo viên Tiếng Việt
lớp 4”, tập 2 [16]. Cũng được tác giả trình bày cụ thể và rõ ràng như tập 1 và tiếp tục
các chủ điểm theo chương trình học SGK đưa ra.
- Tác giả Đinh Thị Oanh, Vũ Thị Kim Dung, Phạm Thị Thanh (2006), Trong
cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học” [11], đã nêu lên những vấn đề chung
của việc dạy học, đặc điểm tâm sinh lí của HSTH, từ đó tác giả đưa ra những phương
9
pháp và hình thức dạy học các phân môn theo chương trình đổi mới nhằm phát huy
tính tích cực của HS. Điểm thuận lợi của sách, cuối mỗi phân môn yêu cầu vận dụng
phương pháp dạy học vào một bài cụ thể. Điều này cho chúng ta thấy, tác giả quan tâm
đến vấn đề dạy học nhằm phát huy tính tích cực của HS. Tuy nhiên, tác giả đề cập đến
việc dạy học kiến thức sơ giản về câu cho HS theo hướng đổi mới.
Tất cả những tác giả trên đều quan tâm vấn đề về câu tiếng Việt nói chung và
câu tiếng Việt ở TH nói riêng ở nhiều phương diện khác nhau, mỗi tác giả đều có một

thế mạnh riêng. Tuy nhiên, việc tìm hiểu và vận dụng kiến thức sơ giản về câu để áp
dụng vào việc dạy học trong chương trình TH và đặc biệt ở lớp 4 cần phải được quan
tâm. Những ý kiến về câu và câu tiếng Việt trong chương trình TH của các nhà nghiên
cứu có ý nghĩa quan trọng giúp ích cho chúng tôi nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi nhằm vào những mục đích sau:
- Tìm hiểu sâu hơn dạy học kiến thức sơ giản về câu trong chương trình tiếng Việt
ở TH, nắm vững phương pháp cũng như hình thức dạy học.
- Khảo sát thực tế dạy và học kiến thức sơ giản về câu ở một số trường TH, từ đó
rút ra những thuận lợi và khó khăn của GV và HS trong quá trình dạy và học các bài
học kiến thức sơ giản về câu trong phân môn LTVC.
- Đề xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các bài LTVC có nội dung
kiến thức sơ giản về câu ở lớp 4.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
+ SGK Tiếng việt 4 tập 1 và tập 2.
+ Việc dạy học kiến thức sơ giản về câu trong phân môn LTVC cho HS lớp 4 ở
một số trường Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
- Phạm vi nghiên cứu
10
Nội dung dạy kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 trong phân môn LTVC ở
một số trường TH, Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu, đề tài xác định các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý thuyết về câu có liên quan làm cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu đề tài.
- Tìm hiểu nội dung dạy học kiến thức sơ giản về câu trong phân môn LTVC ở
lớp 4.
- Khảo sát thực tế nội dung chương trình, phương pháp và hình thức dạy học kiến
thức sơ giản về câu nói riêng và LTVC nói chung ở một số trường TH, Thị xã Sa Đéc.

- Thiết kế một số giáo án các bài dạy kiến thức sơ giản về câu trong phân môn
LTVC và dạy thử nghiệm.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp lý thuyết
Phương pháp này được sử dụng để sưu tầm, phân tích và tổng hợp các tài liệu
làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra: là phương pháp thu thập tư liệu thực tế bằng phiếu
phỏng vấn, phiếu bài tập chung cho GV và HS, nhằm thu thập thông tin của GV và HS
về nội dung chương trình, phương pháp dạy học trong phân môn LTVC.
- Phương pháp quan sát sư phạm: là phương pháp dự giờ một số tiết dạy và học
của GV và HS trong giờ LTVC.
- Phương pháp thử nghiệm: là phương pháp thiết kế giáo án dạy và học kiến thức
sơ giản về câu trong giờ LTVC để rút ra những nhận xét và đánh giá cần thiết trong
việc nghiên cứu đề tài.
11
- Phương pháp thống kê - phân tích - tổng hợp dữ liệu: Thống kê các bài kiến
thức sơ giản về câu trong phân môn LTVC. Tổng hợp và phân tích kết quả trong quá
trình điều tra khảo sát nhằm xử lí số liệu cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu đề tài đề ra được những quy trình phù hợp nhằm dạy học kiến thức sơ giản
về câu cho HS lớp 4 hợp lý sẽ góp phần nâng cao kết quả dạy học tiếng Việt cho HS.
8. Thời gian kế hoạch nghiên cứu
- Tháng 11/2011: Chọn Giảng viên và chọn đề tài.
- Tháng 12/2011: Lập đề cương và hoàn chỉnh đề cương.
- Tháng 1/2012: Duyệt đề cương.
- Tháng 2 và 3/2012: Triển khai các hoạt động nghiên cứu.
- Tháng 4: Hoàn thiện khoá luận.
- Tháng 5/2012: Bảo vệ khoá luận.
9. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài kiệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của khóa luận gồm ba chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy kiến thức sơ giản về câu cho
học sinh lớp 4.
Chương 2: Tổ chức dạy học kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4 ở các trường
Tiểu học Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm.
12
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY KIẾN THỨC
SƠ GIẢN VỀ CÂU CHO HS LỚP 4
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Vấn đề câu tiếng Việt
1.1.1.1 Các quan điểm về câu tiếng Việt
Trong lịch sử ngôn ngữ học so với các đơn vị ngôn ngữ khác như: âm vị, hình
vị, từ, cụm từ, văn bản thì câu là đơn vị được nghiên cứu sớm nhất – nó được nghiên
cứu từ thời cổ đại. Từ trước đến nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam câu đã được
các khuynh hướng, các trường phái ngôn ngữ học nghiên cứu về câu từ nhiều phương
diện khác nhau và có rất nhiều định nghĩa về câu.
Từ thời cổ đại các nhà ngữ pháp Ấn Độ giải thích: “Câu là đơn vị cơ bản, bởi vì
chỉ có câu mới có thể diễn đạt được tư tưởng”.
Ngôn ngữ nói chung và câu nói riêng được nghiên cứu theo quan điểm các
khuynh hướng mà cũng có các định nghĩa về câu cũng khác nhau. Theo khuynh hướng
logic – ngữ pháp (ở Nga) quan điểm câu trùng với phán đoán – logic và rút ra kết luận:
“Câu là một phán đoán được biểu thị bằng từ”, ngược với khuynh hướng trên khuynh
hướng lịch sử – tâm lí lại phản đối với quan niệm trên và cho rằng: “Câu (ngữ pháp)
tuyệt nhiên không trùng và không song song với phán đoán logic”. Riêng khuynh
hướng hình thức ngữ pháp do quá thiên về hình thức ngôn ngữ đã định nghĩa: “ Câu là
một tổ hợp từ với ngữ điệu kết thúc”.

Ở Việt Nam, nếu tính theo năm xuất bản thì việc nghiên cứu câu mới được bắt
đầu vài chục năm gần đây. Đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu ngữ pháp mới được bắt đầu
và được mô phỏng theo tiếng Pháp và chỉ nêu biện pháp tạo thành mệnh đề.
Từ sau cách mạng tháng 8, việc nghiên cứu về câu hơn hẳn ở các giai đoạn
trước, ở giai đoạn này đã có nhiều định nghĩa về câu khác nhau.
13
Hoàng Trọng Phiến: “Với tư cách là đơn vị bậc cao của hệ thống, các đơn vị
ngôn ngữ, câu là ngữ tuyến được hình thành một cách trọn vẹn về ngữ pháp và về ngữ
nghĩa với một ngữ điệu theo các quy luật của ngữ pháp nhất định, là phương tiện diễn
đạt, biểu hiện tư tưởng về thực tế và về thái độ của người nói đối với hiện thực” [8;
17]. Định nghĩa mà ông đưa ra đúng với bản chất xem xét nội dung của câu, mối liên
hệ của câu với hiện thực nhưng lại bỏ qua hình thức của câu.
Tác giả Cao Xuân Hạo: “Câu là một vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn
bản (Benveniste, 1961). Nó là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tế. Nói
cách khác câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất” [8; 19].
Để có một định nghĩa hoàn chỉnh về câu cả nội dung, hình thức và cấu tạo ngữ
pháp, Diệp Quang Ban đã có định nghĩa về câu như sau: “Câu là đơn vị ngôn ngữ có
cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc mang một ý
nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói hoặc có thể kèm theo
thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng
tình cảm. Câu cũng đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ” [5; 23].
Từ định nghĩa của các tác giả trên ta thấy, trong hoạt động giao tiếp người ta
không nói với nhau bằng âm vị, hình vị, từ, cụm từ. Đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng
giao tiếp là câu. Câu ở nhiều phương diện khác nhau: hình thức, nội dung nghĩa, chức
năng, phạm vi sử dụng mà nhìn nhận về câu ở mỗi thời kì lại khác nhau. Vì vậy, mà
chúng ta có thể khái quát được rằng: “Câu là đơn vị ngôn ngữ không có sẵn, dùng để
biểu thị sự tình được tạo nên từ các đơn vị nhỏ hơn theo những quy tắc ngữ pháp nhất
định, có dấu hiệu hình thức ngữ pháp riêng, được sử dụng trong giao tiếp nhằm thực
hiện một hành động nói” [5; 32].
1.1.1.2 Phân loại câu tiếng Việt

a. Câu tiếng Việt phân loại theo cấu trúc cú pháp chủ - vị
Việc phân tích cấu trúc câu tiếng Việt theo cấu trúc cú pháp chủ – vị bắt nguồn
từ sự tiếp thu thành tựu của ngữ pháp về các ngôn ngữ Châu Âu.
14
Bộ phận câu là những thành tố tham gia cấu tạo nên câu với chức vụ cú pháp
nhất định và được phân thành hai bộ phận: bộ phận chính và bộ phận phụ.
a1. Bộ phận chính
Bộ phận chính là bộ phận ngữ pháp cơ bản biểu thị nội dung mệnh đề của câu
gọi là nồng cốt câu.
- Chủ ngữ
CN là bộ phận chính thứ nhất trong mối quan hệ với VN nêu đối tượng được nói
tới.
Đặc điểm của CN
+ Về chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa: CN là bộ phận chính nêu đối tượng nói
tới trong câu, biểu thị đối tượng nhận thức trong nội dung mệnh đề của câu.
+ Về quan hệ cú pháp: CN có quan hệ với VN tạo nên câu trúc cú pháp cơ bản
biểu thị nội dung mệnh đề.
Cấu tạo của CN
+ Danh từ, cụm danh từ.
+ Tính từ, cụm tính từ.
+ Số từ.
+ Kết hợp phụ từ “có” + danh từ
+ Kết hợp từ phủ định + danh từ.
+ Kết hợp giới từ + từ.
+ Cụm đẳng lập và cụm chủ vị.
- Vị ngữ
VN là bộ phận chính thứ hai trong câu nói về đối tượng được nêu ở chủ ngữ.
Đặc điểm của VN
+ Về chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa: VN là thành phần chính thứ hai, nói về
CN, biểu thị thuộc tính (hành động, trạng thái, quá trình, đặc điểm, tính chất,…) của

đối tượng nhận thức trong mệnh đề của câu.
15
+ Về quan hệ cú pháp: VN có quan hệ chặt chẽ với CN dùng để biểu thị nội
dung mệnh đề.
Cấu tạo của VN
+ Động từ, cụm động từ.
+ Tính từ, cụm tính từ.
+ Đại từ, số từ.
+ Cụm đẳng lập.
+ Cụm chủ vị.
+ Kết hợp hệ từ “là” + từ, cụm từ.
+ Kết cấu “là” + quan hệ từ + từ, cụm từ.
a2. Bộ phận phụ
Ngoài bộ phận chính làm nồng cốt, câu còn có bộ phận phụ.
Bộ phận phụ của câu không phụ thuộc về mặt ngữ pháp vào một thành tố nào
của bộ phận nồng cốt.
- Trạng ngữ là bộ phận phụ của câu biểu thị ý nghĩa và thời gian, không gian,
nguyên nhân, mục đích, cách thức, phương tiện, trạng thái,… của sự tình được nói đến
trong câu.
- Khởi ngữ là bộ phụ đứng trước nòng cốt, nêu và nhấn mạnh chủ đề của câu.
- Giải ngữ là bộ phận phụ bổ sung một điều chú thích cho nòng cốt hoặc bộ
phận nào đó trong câu.
- Hô ngữ là bộ phận phụ biểu thị sự gọi đáp.
- Tình thái ngữ là bộ phận phụ biểu thị trạng thái, tình cảm, cảm xúc chủ quan
hoặc hành vi ngôn ngữ của người nói.
- Liên ngữ là bộ phận có chức năng liên kết với câu phía trước.
b. Câu phân loại theo cấu trúc cú pháp
Theo giới Việt ngữ việc phân loại câu theo cấu trúc cú pháp có hai loại câu
16
b1. Câu đơn

Câu đơn là câu có nòng cốt đơn do một kết cấu CN và VN hoặc tương đương
đảm nhiệm.
Dựa vào đặc điểm cấu tạo của nòng cốt câu mà phân thành hai loại câu đơn:
Câu đơn bình thường là câu có nòng cốt một kết cấu CN và VN.
Ví dụ: Cô tiên // phất chiếc quạt màu nhiệm. (TV 4a)
CN VN
Câu đơn đặc biệt là câu có nòng cốt được cấu tạo bởi một từ hoặc một cụm từ
không phân định được CN và VN.
Ví dụ: Trong óc chàng sinh viên trẻ tuổi bỗng lóe lên một tia sáng. (TV 4b)
b2. Câu ghép
Câu ghép là câu có nòng cốt ghép, do hai hay nhiều kết câu CN và VN hoặc
tương đương không bao hàm lẫn nhau, liên kết với nhau theo một kiểu quan hệ ngữ
nghĩa và ngữ pháp nhất định.
Dựa vào tính đầy đủ hai bộ phận chính (CN và VN) của nòng cốt câu, câu ghép
được chia thành câu ghép bình thường và câu ghép đặc biệt.
Câu ghép bình thường là câu ghép có nòng cốt đầy đủ bộ phận CN và VN.
Ví dụ: Những chiếc chân vàng //giẫm trên thảm lá vàng // và // sắc nắng //
C1 V1 C2
cũng rực vàng trên lưng nó.
V2
- Câu ghép đẳng lập là câu ghép các vế câu có quan hệ bình đẳng về quan hệ cú
pháp và ngữ nghĩa.
- Câu ghép chính phụ là câu ghép mà hai vế câu có quan hệ chính phụ.
Câu ghép đặc biệt là câu ghép mà nòng cốt có ít nhất một vế không xác định
được bộ phận CN và VN.
17
Ví dụ: Chim, thu, nhụ, đé.
Lụt thì lút cả làng.
b3. Rút gọn câu
Do hoàn cảnh giao tiếp cụ thể có thể rút gọn bộ phận cấu tạo như CN và VN.

c. Câu phân loại theo mục đích nói
Gồm có câu kể, câu khiến, câu hỏi, câu cảm.
Bên cạnh phân loại câu còn có dấu câu. Dấu câu là hình thức chữ viết chủ yếu
biểu thị ngữ điệu của câu, là kí hiệu có chức năng phân cách các câu và biểu thị ý nghĩa
tình thái của câu.
Chữ Quốc ngữ có 10 dấu câu: Dấu chấm, Dấu chấm hỏi, Dấu chấm than, Dấu
phẩy, Dấu chấm phẩy, Dấu hai chấm, Dấu ba chấm, Dấu gạch ngang, Dấu ngoặc đơn
và Dấu ngoặc kép.
1.1.2 Quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng Việt
Giao tiếp là hoạt động giao tiếp giữa con người và con người trong xã hội, ở đó
diễn ra sự trao đổi thông tin, sự trao đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm với những vấn
đề cần giao tiếp. Khi sử dụng tiếng Việt (nói, viết) chính là chúng ta dùng tiếng Việt
vào một hoạt động giao tiếp nhất định. Hoạt động giao tiếp gồm hành vi giải mã (nhận
thông tin) và kí mã (phát thông tin) trong ngôn ngữ, trong mỗi hành vi đó đều thể hiện
ở hai hình thức khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc, viết). Vì thế, học môn tiếng Việt
chính là học để sử dụng tốt một phương tiện giao tiếp, một công cụ học tập, nghiên cứu
và làm việc. Vì vậy, khi dạy tiếng Việt cho HS chúng ta không những cung cấp kiến
thức sơ giản về câu, mà rèn cho HS sử dụng từ đặt câu vào trong hoat động giao tiếp
hằng ngày và muốn giao tiếp các em phải biết sử dụng ngôn ngữ. Vì vậy, SGK tiếng
Việt nói chung, trong đó có phân môn LTVC lấy quan điểm giao tiếp làm định hướng
cơ bản cho việc dạy kiến thức sơ giản về câu cho HSTH nói chung và HS lớp 4 nói
riêng trong chương trình tiếng Việt ở TH. Dựa trên quan điểm này được thể hiện cả về
nội dung và hình thức dạy học trong LTVC.
18
- Về nội dung: chương trình tiếng Việt đã thể hiện rõ quan điểm giao tiếp có chọn
lọc phù hợp với cuộc sống thực làm cho vốn từ của các em thêm phong phú hơn. Các
nhiệm vụ học tập được thực hiện thông qua hệ thống các bài tập thực hành giao tiếp về
các kiểu câu, dấu câu,… Điều này thể hiện ở sự phân bố nội dung thực hành nhiều, lý
thuyết ít. Trong số các bài thực hành, đích cuối cùng là rèn kĩ năng mang tính tình
huống sinh động, hấp dẫn, phù hợp với tình huống giao tiếp tự nhiên, kích thích HS

tham gia, bộc lộ bản thân, trang bị tri thức nền và phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt
trong giao tiếp.
- Về hình thức: các kĩ năng giao tiếp được rèn luyện thông qua hệ thống các bài
học lý thuyết và các bài tập thực hành. Trong đó, được chú trọng nhiều đến các bài tập
mang tính tình huống giao tiếp phù hợp với đặc điểm tâm lí ngôn ngữ của HS. Các bài
tập này thực chất là các bài tập tình huống giao tiếp yêu cầu HS phải thực hiện. Khi tổ
chức dạy các hoạt động giao tiếp GV phải dạy các kĩ năng thông qua hoạt động giao
tiếp cho HS, làm sao cho mỗi HS, em nào cũng được hoạt động và bằng nhiều hình
thức khác nhau, các em được nói ra, trao đổi, trình bày suy nghĩ riêng để nâng cao
năng lực diễn đạt phù hợp với nhu cầu học tập và giao tiếp.
Trong quá trình thực hiện yêu cầu của các bài tập trong giờ LTVC thì GV có thể
tổ chức cho HS hoạt động theo nhóm hoặc cá nhân,… để các em trao đổi thảo luận
trình bày ý kiến với nhau. Để tạo tính tích cực của HS, GV phải luôn thay đổi phương
pháp và hình thức dạy học để các em khắc sâu thêm kiến thức đã học và sử dụng chúng
có hiệu quả.
1.1.3 Đặc điểm tâm lý của HS lớp 4 với việc dạy kiến thức sơ giản về câu
tiếng Việt
Đặc điểm tâm lí của HSTH nói chung và HS lớp 4 nói riêng thể hiện ở một số
mặt sau:
- Tri giác: Tri giác của HSTH mang tính chất đại thể, ít đi sâu vào chi tiết không
chủ động. Do đó, các em phân biệt những đối tượng chưa chính xác, dễ mắc sai lầm, có
19
khi còn lẫn lộn. Tuy nhiên, HS lớp 4 khi tri giác, các em có sự phân tích một cách có tổ
chức và sâu sắc hơn, các em thường thâu tóm sự vật về toàn bộ, về đại thể để tri giác.
Tri giác và đánh giá về thời gian và không gian của HSTH còn hạn chế và gặp
khó khăn khi phải quan sát các sự vật có kích thước quá lớn hoặc quá nhỏ. HS lớp 4
các em có thể tri giác các sự vật có hình dáng khác nhau hoặc tri giác về thời gian.
Tri giác không tự bản thân nó phát triển. Trong quá trình học tập khi tri giác trở
thành hoạt động có mục đích, đặc biệt trở nên phức tạp và sâu sắc, trở thành hoạt động
có phân tích. Điều này rất cần thiết cho việc hình thành các khái niệm về câu cho HS.

- Chú ý: Ở lứa tuổi HSTH, chú ý có chủ định của các em còn yếu, khả năng điều
chỉnh một cách có ý thức chưa mạnh. Sự chú ý của HS đòi hỏi một động cơ gần như
thúc đẩy. HS ở các lớp đầu bậc thường chú ý khi có động cơ gần (điểm cao, được cô
giáo khen,…). Đối với HS lớp 4, chú ý được duy trì ngay cả động cơ xa (các em chú ý
vào công việc khó khăn nhưng không hứng thú vào kết quả chờ đợi trong tương lai).
Sự tập trung chú ý của HSTH thiếu bền vững là do quá trình ức chế bộ não của
các em còn yếu. Do vậy, chú ý của các em bị phân tán. Vì vậy, mà các em sẽ quên điều
cô giáo dặn cuối buổi học. Nhưng HS lớp 4 thì khác, các em có thể duy trì chú ý gần
như hết tiết học nếu như trong quá trình dạy học GV biết tổ chức các hoạt động một
cách liên tục vì sự chú ý của các em phụ thuộc vào nhịp độ học tập nhanh hoặc chậm
đều không có lợi cho sự tập trung và chú ý.
Khả năng chú ý có chủ định, bền vững, tập trung ở HSTH trong quá trình học là
rất cao. Bản thân của quá trình học tập bắt buộc các em phải thường xuyên chú ý rèn
luyện ý chí của mình. Sự chú ý có chủ định phát triển cùng với động cơ học tập cũng
được phát triển. Từ đó các em có ý thức trách nhiệm trước kết quả học tập của mình.
- Trí nhớ: Do hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất của HS ở lứa tuổi này tương
đối chiếm ưu thế nên trí nhớ trực quan – hình tượng của HS được phát triển hơn trí nhớ
từ ngữ – logic. Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh
hơn và tốt hơn những định nghĩa hay những lời giải thích dài dòng. HSTH ghi nhớ một
20
cách máy móc bằng cách lặp đi lặp lại có khi chưa hiểu hết mối liên hệ, ý nghĩa của tài
liệu mà nó được học.
Càng về sau sự phát triển trí nhớ của HSTH còn biến đổi về chất, đó là hình thành
và phát triển của ghi nhớ có chủ định được phát triển ở mức độ cao hơn trước. Hiệu
quả của việc ghi nhớ có chủ định do tính tích cực học tập của HS quy định. Tất nhiên,
điều này còn tùy thuộc vào kĩ năng nhận biết và phân biệt các nhiệm vụ ghi nhớ. Ở
HSTH việc ghi nhớ có chủ định và không chủ định vẫn tồn tại song song chuyển hóa
và bổ sung cho nhau trong suốt quá trình học tập của các em. Bên cạnh đó ngôn ngữ
của HS lớp 4 phát triển mạnh hơn, ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
phát triển trí nhớ có chủ định và giúp cho các em diễn đạt tri thức đã biết bằng lời nói

và chữ viết, mà nó còn thúc đẩy sự phát triển tư duy của HS.
- Tưởng tượng: tưởng tượng là một trong những quá trình nhận thức quan trọng.
Tưởng tượng của HS phát triển không đầy đủ sẽ gặp khó khăn trong mọi hoạt động đặc
biệt là quá trình học tập của HS. Tưởng tượng của HSTH đã phát triển và phong phú
hơn so với các em chưa đến trường. Lứa tuổi HSTH là lứa tuổi thơ mộng giúp cho
tưởng tượng phát triển, tuy vậy tưởng tượng của các em còn tản mạn, ít tổ chức, còn
đơn giản hay thay đổi, chưa bền vững. Đối với HS lớp 4, tưởng tượng của các em gần
hiện thực hơn. Sở dĩ như vậy là vì các em đã có kinh nghiệm, đã lĩnh hội tri thức khoa
học mà nhà trường đem lại và các em biết dựa vào ngôn ngữ để xây dựng hiện tượng
ngôn ngữ mang tính khái quát và trừu tượng hơn. Bên cạnh đó, tưởng tượng tái tạo
từng bước hoàn thiện gắn liền với hình tượng đã tri giác trước hoặc tạo ra những hình
tượng phù hợp với những điều mô tả, các biểu tượng của tưởng tượng dần trở nên hiện
thực hơn, phản ánh đúng nội dung của môn học. Như vậy tưởng tượng của HSTH dần
thoát khỏi những ảnh hưởng của ấn tượng trực tiếp. Mặt khác, tính hiện thực trong
tưởng tượng của HS gắn liền với sự phát triển của tư duy ngôn ngữ. Vì vậy, GV cần
hình thành biểu tượng thông qua sự mô tả bằng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ chính
xác, giàu nhạc điệu và tình cảm của GV là yêu cầu bắt buộc. Trong dạy học, GV sử
21
dụng đồ dùng dạy học và tài liệu dạy học sinh động để làm tăng trí tưởng tượng cũng
như phát triển trí nhớ và tư duy của HS.
- Tư duy (hay nhận thức cảm tính): Tư duy của HSTH là tư duy cụ thể, mang tính
hình thức bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể.
Nhờ ảnh hưởng của việc học tập các em dần dần chuyển từ hoạt động nhận thức các
mặt bên trong của hiện tượng đến nhận thức những thuộc tính và dấu hiệu bản chất của
hiện tượng vào tư duy, trên cơ sở đó HS lĩnh hội khái niệm khoa học.
Hoạt động phân tích – tổng hợp còn sơ đẳng, chủ yếu hoạt động phân tích – trực
quan – hành động khi tri giác trực tiếp đối tượng. Tuy nhiên HS lớp 4 có thể phân tích
đối tượng mà không cần tới những hành động thực tiễn với đối tượng đó. Hơn nữa các
em có thể phân biệt các dấu hiệu, những khía cạnh khác nhau của đối tượng dưới dạng
ngôn ngữ. Khi học tiếng Việt, HS biết phân biệt âm và chữ cái, phân biệt những chữ

riêng biệt, tổng hợp từ thành câu. Các em có thể nhận biết dấu hiệu bên trong bản chất
những dấu hiệu bên ngoài của sự vật, hiện tượng, các em có thể tiếp cận những khái
niệm đơn giản và nhận thấy được mối quan hệ giữa các khái niệm đó và sự kết hợp các
thao tác tư duy là cơ sở của việc hình thành các khái niệm, giúp cho HS chiếm lĩnh nội
dung kiến trong quá trình học tập.
Tóm lại, đặc điểm tư duy của HSTH không có ý nghĩa tuyệt đối mà có nghĩa
tương đối. Trong quá trình học tập, tư duy của HS thay đổi rất nhiều như phân tích hay
tính toán, từ đó thao tác về không gian và thời gian dần được hình thành và phát triển
tạo điều kiện cho các em học tập tốt hơn.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Xác lập cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương trình tiếng Việt ở TH, phân môn LTVC là sự sáp nhập hai phân môn từ
ngữ và ngữ pháp, xuất phát từ mối quan hệ giữa từ và câu trong giao tiếp và coi trọng
tính chất thực hành của môn học.
22
LTVC cung cấp những kiến thức sơ giản về từ và câu. Đặc biệt, ở TH dạy kiến
thức sơ giản về câu cho HS có ý nghĩa quan trọng. Câu chi phối việc sử dụng các đơn
vị ngôn ngữ để tạo thành lời nói, làm cho ngôn ngữ thực hiện được chức năng là công
cụ giao tiếp trong đời sống hằng ngày và có vai trò quan trọng trong việc tổ chức các
hoạt động tạo lập, lĩnh hội ngôn bản và rèn bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết). Câu cũng
là một yếu tố quan trọng để phát triển năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức của HS. Vì
vậy, ngay từ những ngày đến trường HS đã bắt đầu làm quen với câu và câu được dạy
trong tất cả các phân môn tiếng Việt, ở đâu có tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó có
dạy kiến thức sơ giản về câu.
Ở TH, dạy kiến thức sơ giản về câu nhằm cung cấp cho HS một số kiến thức sơ
giản về câu cần thiết, vừa sức với các em, trang bị các em một hệ thống khái niệm, sự
hiểu biết về cấu tạo và công dụng của các kiểu câu, nắm vững quy tắc và sử dụng các
kiểu câu trong hoạt động giao tiếp.
Tuy nhiên, việc nắm vững kiến thức lý thuyết về sơ giản câu và luyện tập – thực
hành của các em vẫn còn nhiều bất cập. Nếu như trong quá trình dạy các kiến thức sơ

giản về câu ở TH, GV cung cấp một cách đầy đủ những kiến thức và cho các em luyện
tập – thực hành thường xuyên, các em sẽ nắm vững kiến thức đã học và viết được
những câu đúng và hay rất dễ dàng. Tuy nhiên, hiện nay HSTH cũng vẫn còn viết câu
sai. Mặt khác, khi dạy kiến thức sơ giản về câu GV thực sự chưa quan tâm nên việc
truyền đạt kiến thức về câu của GV đến HS còn hạn chế làm cho HS không hứng thú
khi học kiến thức sơ giản về câu. Những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn đã nêu về việc
dạy kiến thức sơ giản về câu của HSTH làm tiền đề để tôi nghiên cứu các chương sau.
1.2.2 Hệ thống hóa nội dung dạy học kiến thức sơ giản về câu cho HS lớp 4
Nội dung chương trình dạy kiến thức sơ giản về câu lớp 4 nằm trong phân môn
LTVC được dạy trong 26 tiết. Việc HS học kiến thức sơ giản về câu, cung cấp cho HS
một số hiểu biết sơ giản về cấu tạo câu. Bên cạnh đó, ôn luyện kiến thức về công dụng
và luyện tập sử dụng một số dấu câu.
23
Bảng 1.1 Thống kê nội dung chương trình dạy kiến thức
sơ giản về câu ở lớp 4
Tuần Chủ điểm Tên bài Trang
2
8
13
14
14
15
16
17
17
19
20
21
22
23

24
25
26
27
29
Thương người như thể
thương thân
Trên đôi cánh ước mơ
Có chí thì nên
Tiếng sáo diều
Tiếng sáo diều
Tiếng sáo diều
Tiếng sáo diều
Tiếng sáo diều
Tiếng sáo diều
Người ta là hoa đất
Người ta là hoa đất
Người ta là hoa đất
Vẻ đẹp muôn màu.
Vẻ đẹp muôn màu
Vẻ đẹp muôn màu
Những người quả cảm
Những người quả cảm
Những người quả cảm
Khám phá thế giới
- Dấu hai chấm.
- Dấu ngoặc kép.
- Câu hỏi và dấu chấm hỏi.
- Luyện tập về câu hỏi.
- Dùng câu hỏi vào mục đích khác.

- Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi.
- Câu kể.
- Câu kể Ai làm gì?
- Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?
- Chủ ngữ trong câu kể Ai làm gì?
- Luyện tập về câu kể Ai làm gì?
- Câu kể Ai thế nào?
- Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?
- Chủ ngữ trong câu kể Ai thế
nào?
- Dấu gạch ngang
- Câu kể Ai là gì?
- Vị ngữ trong câu kể Ai là gì?
- Chủ ngữ trong câu kể Ai là gì?
- Luyện tập về câu kể Ai là gì?
- Câu khiến.
- Cách đặt câu khiến.
- Giữ phép lịch sự khi trình bày
22 (tập 1)
82
131
137
142
151
161
166
171
6 (tập 2)
16
23

29
36
45
57
61
68
78
87
92
110
24
30
31
32
33
34
Khám phá thế giới
Khám phá thế giới
Tình yêu cuộc sống
Tình yêu cuộc sống
Tình yêu cuộc sống
yêu cầu, đề nghị.
- Câu cảm.
- Thêm trạng ngữ cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho
câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho
câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân
cho câu.

- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho
câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện
cho câu.
120
126
129
134
140
150
160

Từ bảng thống kê trên ta thấy số tiết dạy kiến thức sơ giản về câu trong phân
môn LTVC tăng lên 2 tiết /1tuần và được dạy thành một nội dung riêng trong một tiết.
Cụ thể là nội dung dạy kiến thức sơ giản về câu cung cấp cho HS một số hiểu biết sơ
giản về cấu tạo, công dụng và cách sử dụng các kiểu câu.
+ Câu hỏi (tuần 13, 14 và 15 – 4 tiết) với các kiểu câu: câu hỏi và dấu chấm
hỏi, luyện tập về câu hỏi, dùng câu hỏi với mục đích khác nhau.
Câu hỏi dùng để hỏi về những điều chưa biết và khi hỏi cần giữ phép lịch sự.
Các câu hỏi dùng để hỏi người khác có khi tự hỏi mình, với các từ (ai, gì,…).
+ Câu kể (tuần 16, 17, 19, 20, 21, 22, 24, 25 và 26 – 12 tiết) dùng để kể, tả giới
thiệu về sự vật, sự việc. Cuối câu kể thường có dấu chấm.
Câu kể Ai làm gì? có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là CN trả lời cho câu hỏi:
Ai (con gì), bộ phận thứ hai là VN trả lời cho câu hỏi: Làm gì? Vị ngữ có thể là động từ
nêu lên hoạt động của người hoặc vật.
25
Câu kể Ai thế nào? có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là CN trả lời cho câu hỏi:
Ai (cái gì, con gì), bộ phận thứ hai là VN trả lời cho câu hỏi: Thế nào? CN do danh từ
hoặc đại từ tạo thành. VN do tính từ (cụm tính từ), động từ (cụm động từ) tạo thành.
Câu kể Ai là gì? có hai bộ phận: Bộ phận thứ nhất là CN trả lời cho câu hỏi: Ai

(con gì), bộ phận thứ hai là VN trả lời cho câu hỏi: Là ai, là con gì? CN chỉ người hoặc
vật được giới thiệu, nhận định. VN nối với chủ ngữ bằng từ “là” và do danh từ hoặc
cụm danh từ tạo thành.
+ Câu khiến (tuần 27 và 29 – 3 tiết) với các kiểu câu: câu khiến, cách đặt câu
khiến, giữ phép lịch sự khi trình bày yêu cầu, đề nghị. Cuối câu khiến có dấu chấm
than. Khi đặt câu khiến ta có thể thêm các từ: hãy, đừng, chớ,… vào trước động từ;
thêm các từ: lên, đi, thôi,…vào cuối câu; thêm các từ: đề nghị, xin,…vào đầu câu.
+ Câu cảm (tuần 30 – 1 tiết) dùng để bộc lộ cảm xúc, trong câu cảm có các từ:
ôi chao, chà,… cuối câu có dấu chấm than (!).
Bên cạnh việc học các kiến thức sơ giản về câu, HS cũng được học về các thành
phần chính của câu: CN và VN trong câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? Và các
thành phần phụ trạng ngữ của câu (tuần 31, 32, 33 và 34 – 6 tiết) gồm các trạng ngữ:
thêm trạng ngữ cho câu, thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu, thêm trạng ngữ chỉ thời
gian cho câu, thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu, thêm trạng ngữ chỉ mục đích
cho câu, thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Hơn nữa, các kiến thức về dấu câu cũng được đưa vào chương trình nhằm cung
cấp kiến thức, công dụng và luyện tập sử dụng các dấu câu.
+ Dấu hai chấm (tuần 2 – 1 tiết) dùng để thông báo bộ phận đứng sau là lời nói
hoặc lời giải thích và được sử dụng cùng với dấu ngoặc kép và dấu gạch ngang.
+ Dấu ngoặc kép (tuần 8 – 1 tiết) dùng để dẫn lời nói trực tiếp của nhân vật hay
đánh dấu những từ dùng để làm nổi bậc lên.
+ Dấu chấm hỏi (HS được học cùng với câu hỏi ở tuần 13).
+ Dấu gạch ngang (tuần 23 – 1 tiết) dùng để dẫn lời nói của nhân vật đối thoại.

×