Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

mô tả thực trạng sâu răng của học sinh lớp 1 của một số trường tiểu học thuộc huyện gia lộc - hải dương năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.34 MB, 104 trang )

BỘ Y TẾ
BỆNH VIỆN RĂNG HÀM MẶT TRUNG ƯƠNG HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN NGỌC
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
TRÁM BÍT HỐ RÃNH DỰ PHÒNG SÂU RĂNG BẰNG
G.I.C FUJI VII CHO HỌC SINH TẠI TRƯỜNG TIỂU
HỌC HUYỆN GIA LỘC - HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Nha khoa
Mã số: CK 62.72.28.01
LUẬN VĂN BÁC SỸ CHUYÊN KHOA CẤP II
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN ĐỨC THẮNG
HÀ NỘI - 2014
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Bệnh viện Răng Hàm Mặt
Trung ương Hà Nội và các Thầy, Cô trong Trung tâm đào tạo cùng toàn thể
các Thầy, Cô của bệnh viện RHM TW Hà Nội đã tận tình giảng dạy và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ts Nguyễn Đức Thắng - Trưởng Khoa Nha
chu - Bệnh viện RHM TW Hà Nội người đã tận tình truyền đạt những kiến
thức, kinh nghiệm chuyên môn trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS - Ts Trịnh Đình Hải - Giám đốc Bệnh
viện RHM TW Hà Nội, Chủ tịch Hội RHM Việt Nam đã tận tình giảng dạy
và tạo điều điều kiện cho tôi trong quá trình học tập tại bệnh viện.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới:
PGS – TS. Mai Đình Hưng và các Thầy, Cô trong héi ®ång đã đóng ý
kiến giúp tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn:


- Các Bác sỹ và nhân viên của khoa Răng trẻ em - Bệnh viện RHM TW
Hà Nội đã tạo điều điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học và hoàn thành
luận văn.
- Ban Giám hiệu, các Thầy, Cô và toàn thể học sinh các trường Tiểu
học Thị Trấn Gia Lộc, xã Yết Kiêu, Xã Gia Xuyên, xã Phương Hưng đã hết
lòng giúp đõ và tham gia nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn toàn bộ cán bộ nhân viên viên của Bệnh viện đa khoa
huyện Gia Lộc đã động viên và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, cổ vũ tôi rất nhiều
trong quá trình học tập.
Hµ Néi, tháng 01 năm 2014
Nguyễn Văn Ngọc
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
Nguyễn Văn Ngọc
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
A.R.T : Atraumatic Restorative Treatment Technique
(Kỹ thuật trám răng không sang chấn)
CS : Chỉ số
CSRHMTEHĐ : Chăm sóc răng hàm mặt trẻ em học đường
HS : Học sinh
SMT(MR) : Sâu mất trám (mặt răng)
NĐFTU : Nồng độ Flour tối ưu
NHĐ : Nha học đường
R : Răng
R6, 7 : Răng 6 và răng 7

RHM : Răng hàm mặt
3
SMTR/smtr : Chỉ số sâu mất trám Răng
TCYTTG : Tổ chức Y tế Thế giới
TS : Tổng số
VSRM : Vệ sinh răng miệng
TBHR : Trám bít hố rãnh
G.I.C : Glass ionomer cement
CAO : Carie Absent Obturation
CMF : Carie Missing Filling
CMF(T): : Carie Missing Filling Tooth
4
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sâu răng là một trong những bệnh răng miệng phổ biến nhất với tỷ lệ
người mắc rất cao, có nơi trên 90% dân số có sâu răng. Ở Việt Nam theo kết
quả điều tra trên phạm vi toàn quốc của Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải,
Lâm Ngọc Ấn năm 2001 về tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở trẻ lứa tuổi 9 - 11 tuổi
là 54,6% [1].
Trong đó tỷ lệ sâu răng số 6 của lứa tuổi 6 - 10 theo điều tra của Vũ
Mạnh Tuấn và Trần Văn Trường tại Trường Tiểu học Đông Ngạc A - Từ
Liêm - Hà Nội là 56,8% (khám bằng mắt thường) và 78,1% (khám bằng
Laser) [2], theo Phan Thị Kim Tuyết tại Bệnh viện đa khoa khu vực huyện
Cai Lậy - Tiền Giang tỷ lệ sâu răng số 6 lứa tuổi 7 - 15 là 47,2% và 0,97%
mất răng 6 do sâu răng và không có răng nào được trám [3].
Để điều trị bệnh sâu răng và khắc phục hậu quả của nó cần chi phí rất
cao, theo Tổ chức Y tế Thế giới “Chi phí chữa răng rất lớn, vượt quá khả
năng của mọi Chính phủ kể cả những nước phát triển”. Do vậy, dự phòng sâu
răng là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm giảm tỷ lệ sâu răng và gián tiếp làm
giảm chi phí cho vấn đề chăm sóc sức khỏe răng miệng cộng đồng.
Tình hình sâu răng trên các mặt răng khác nhau trong những năm gần

đây có thay đổi về tỷ lệ. Mặc dù mặt nhai chỉ chiếm 12,5 % diện tích các mặt
răng nhưng đây lại là nơi nhạy cảm với sâu răng nhất. Sâu răng thường bắt
nguồn từ hố rãnh trên mặt nhai, tỷ lệ sâu răng luôn chiếm trên 50% tổng số
xoang sâu theo mặt răng, ở cả răng sữa và răng vĩnh viễn trên trẻ em trong độ
tuổi đi học.
Trẻ em ở lứa tuổi 6 - 12 đã mọc răng 6 và răng 7, đây là những răng chủ
chốt và quan trọng của bộ răng vĩnh viễn, theo giải phẫu răng 6 và răng 7 có
5
nhiều hố rãnh, thực tế cho thấy hơn 50% các trường các trường hợp sâu răng
xuất phát từ hố rãnh.
Do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, việc bảo vệ mặt nhai các răng
hàm vĩnh viễn ở giai đoạn sớm, trong những thời gian đầu khi răng vừa mới
mọc có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực trong việc giảm tỷ lệ sâu răng
vĩnh viễn ở lứa tuổi học đường.
Che phủ bề mặt răng hàm lớn vĩnh viễn đang mọc bằng Fuji VII là một
kỹ thuật để dự phòng sâu răng sớm. Kỹ thuật này có nhiều tính ưu việt: kỹ
thuật đơn giản dễ phổ cập, dụng cụ cầm tay gọn nhẹ, không cần dùng máy
khoan, tránh tâm lý sợ hãi cho học sinh, chi phí thấp. Vật liệu là Fuji VII, một
dạng của GIC có ưu điểm bám dính hóa học tốt với mô răng ngay cả khi
không kiểm soát tốt nước bọt, độ chảy cao, giải phóng fluor vào mô răng góp
phần làm tăng sức chống đỡ của răng với các yếu tố gây sâu răng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và cũng như góp phần vào việc nghiên cứu
đánh giá kết quả phòng ngừa sâu răng bằng trám bít hố rãnh với GIC chúng tôi
thực hiện để tài:
“Đánh giá hiệu quả trám bít hố rãnh dự phòng sâu răng bằng Glass
Ionmer Cement Fuji VII cho học sinh Tiểu học - huyện Gia Lộc - Hải
Dương”. Do vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm thực hiện các mục
tiêu cụ thể sau:
1. Mô tả thực trạng sâu răng của học sinh Lớp 1 của một số Trường Tiểu
học thuộc huyện Gia Lộc - Hải Dương năm 2013.

2. Đánh giá hiệu quả dự phòng sâu răng bằng phương pháp trám bít hố,
rãnh dùng G.I.C Fuji VII.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sâu răng ở trẻ em trên thế giới và Việt Nam.
1.1.1. Tình hình sâu răng trẻ em trên thế giới.
- Ở các nước phát triển:
Trong những năm từ 1940 đến 1960, tình hình sâu răng ở những nước
này rất nghiêm trọng. Tại các nước này chỉ số SMTR (chỉ số răng sâu, mất,
trám) ở mức rất cao và trong khoảng từ 7,4 – 12,0 có nghĩa là trung bình mỗi
trẻ em có từ 7,4 – 12,0 răng sâu. Đến những năm từ 1979 - 1982 chỉ số này đã
giảm xuống. Nghiên cứu tại Mỹ năm 1946 cho thấy chỉ số SMTR là 7,6
nhưng đến năm 1980 thì chỉ số này chỉ còn là 2,0. Tương tự như vậy tại Phần
Lan, năm 1975 là 7,5 và năm 1981 là 4,0 [4], [5], [6].
Từ năm 1983 đến gần đây, theo các báo cáo nghiên cứu về tình hình
sâu răng tại các nước công nghiệp hóa và ở nhiều nước Châu Âu khác đều
cho thấy chỉ số SMTR và tỷ lệ sâu răng có nhiều biến động nhưng nhìn chung
là tiếp tục giảm xuống nhờ có sự phối hợp của các chương trình dự phòng sâu
răng như: chương trình Fluor hóa nước uống, Fluor dùng tại chỗ, chương
trình nha học đường [6].
- Ở các nước đang phát triển và trong khu vực:
Trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến năm 1982 tại các nước đang
phát triển tỷ lệ sâu răng ngày càng tăng cao. Ở những nước trong khu vực
theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1994, 1997 hầu hết trên
90% dân số bị sâu răng và chỉ số SMTR tuổi 12 ở nhiều nước còn cao hơn.
Bên cạnh đó, ở một số nước như Malaysia và Singapo tình trạng sâu răng trẻ
em có xu hướng giảm xuống do đã làm tốt công tác dự phòng sâu răng.
Từ năm 1983 đến nay có nhiều tác giả công bố tình trạng sâu răng ở trẻ
em. Tại nhiều nước đang phát triển thì tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMTR ở các

7
nước có khác nhau nhưng nhìn chung có xu hướng gia tăng. Hầu hết các tác
giả đều cho rằng tỷ lệ sâu răng tăng ở các nước này là do mức sống ngày càng
được cải thiện, lượng đường tăng trong các chế độ ăn [7], [8], [9], [10].
Về tỷ lệ sâu rãnh răng và nhu cầu điều trị đã có nhiều nghiên cứu đề
cập. Theo báo cáo, ở Malaysia tỷ lệ sâu rãnh răng là 37,4%, ở Nam Phi là
52,3% và ở Braxin tỷ lệ sâu rãnh răng ở trẻ 5 tuổi là 57,8% trong khi đó ở trẻ
12 tuổi là 61,1%. Điều này cho thấy mức độ cần thiết trong dự phòng sâu rãnh
răng ở trẻ em.
1.1.2. Tình hình sâu răng trẻ em ở Việt Nam:
Trong những năm của thập niên 70 đã có nhiều công trình điều tra về
tình hình sâu răng ở nhiều địa phương khác nhau nhưng đa số các công trình
chỉ là thống kê tỷ lệ sâu răng đơn thuần ở học sinh:
Các nghiên cứu của bộ môn RHM trường Đại Học Y Hà Nội năm 1978
cho biết 39% học sinh 6 tuổi sâu răng vĩnh viễn [11].
Hoàng Tử Hùng (1980-1981) điều tra một số tỉnh ở Miền Nam đã nêu
lên tỷ lệ sâu răng là 70,49% trong đó Thuận Hải có tỷ lệ là 72,14% [12].
Từ các điều tra cơ bản sức khỏe răng miệng tại Việt Nam năm 1983,
1991 và các điều tra tại thành phố Hồ Chí Minh các năm 1981, 1984, 1989,
1995 [13] cho thấy:
- Tỷ lệ bệnh sâu răng tăng dần theo tuổi.
- Tỷ lệ sâu răng cao trước năm 1975 và giảm dần trong những năm gần đây.
- Chỉ số SMTR cũng có xu hướng như vậy.
8
Bảng 1.1. Tình trạng sâu răng ở Việt Nam theo điều tra sức khỏe răng
miệng toàn quốc lần thứ 2 năm 2002 [1].
Tuổi Tỷ lệ sâu (%) DMFT/dmft
5 - 6 84,9 5,54
6 - 8 85,0 5,4
9 - 11 56,0 1,96

12 56,6 1,87
Tại Hải Dương, là một trong những tỉnh được phủ kín chương trình
NHĐ từ năm 1999 song những năm gần đây (nhất là từ 2005 đến nay) do có
biến động về tổ chức bộ máy y tế cơ sở do vậy việc chăm sóc răng miệng cho
học sinh chưa được chu đáo, do vậy sự gia tăng sâu răng tại tỉnh cũng nằm
trong giới hạn gia tăng sâu răng chung của trẻ em Việt Nam trong lần điều tra
răng miệng toàn quốc năm 2002 của Trần Văn Trường, Lâm Ngọc Ấn và
Trịnh Đình Hải [1].
1.2. Cơ sở khoa học của dự phòng sâu răng.
1.2.1. Hình dạng giải phẫu của hố rãnh mặt nhai răng vĩnh viễn [14], [15], [16].
* Giải phẫu mặt nhai răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới:
Răng 6 dưới được xem là răng neo chặn của bộ răng dưới và mang đặc
điểm cơ bản đặc trưng cho các răng hàm lớn dưới.
9
Hình 1.1: Các mặt của răng số 6 hàm dưới
Răng hàm lớn dưới (Răng cối lớn hàm dưới).
- Răng hàm lớn dưới thường có 2 chân: một gần, một xa
- Thường có bốn múi lớn và một múi thứ năm nhỏ hơn.
- Thân răng có chiều gần xa lớn hơn chiều ngoài trong.
- Là những răng có 2 múi lớn phía trong có kích thước gần tương đương nhau.
- Các múi gần ngoài và xa ngoài cũng có kích thước gần tương đương nhau.
Răng 6 trên và dưới là các răng vĩnh viễn đầu tiên mọc lên trong miệng
khoảng 6 tuổi, ngay phía xa răng hàm sữa thứ hai, đánh dấu sự khởi đầu của
giai đoạn bộ răng hỗn hợp, với sự có mặt đồng thời của cả răng sữa lẫn răng
vĩnh viễn trên cung răng. Răng 6 dưới được xem là răng neo chặn của bộ răng
dưới và mang đặc điểm cơ bản đặc trưng cho các răng hàm lớn dưới [14].
10
* Kích thước và tuổi mọc.
Bảng 1.2. Kích thước và tuổi mọc răng hàm lớn dưới [14].
Kích thước (mm) Răng 6 (răng lớn dưới)

Cao thân răng 7.5
Gần xa thân răng 11.0
Ngoài trong thân răng 10.5
Cao toàn bộ 21.5
Gần xa cổ răng 9
Ngoài trong cổ răng 9
Tuổi mọc 6
* Nhìn mặt nhai:
Thân răng có hình ngũ giác. Đường viền mặt ngoài nằm trên hai cạnh
và dài hơn đường viền phía trong. Đường viền phía gần lớn hơn phía xa [14]
Đường viền phía ngoài được chia thành ba phần lồi bởi hai chỗ lõm
hình chữ V, tương ứng với vị trí của hai rãnh (gần ngoài và xa ngoài). Đường
viền ngoài lồi nhất ở vị trí của múi xa ngoài, kích thước ngoài trong tối đa ở
ngay phía xa của rãnh gần ngoài (nghĩa là phần xa lớn hơn phần gần). Đường
viền phía ngoài và phái gần hợp thành một góc khá rõ: góc gần ngoài. Góc xa
ngoài trông tròn hơn. Hai đường viền gần và xa tương đối thẳng, hội tụ về
phía trong. Đường viền trong khá thẳng, gián đoạn bởi rãnh trong.
Có thể thấy hai phần ba mặt ngoài. Các gờ ngoài lố, chạy từ đỉnh múi
về phía cổ.
Chỉ có thể trông thấy phần ba nhai của mặt trong, nó lồi nhiều theo
chiều nhai lợi, nhưng tương đối thẳng trong mặt phẳng ngang.
11
Mặt nhai có năm múi: hai múi trong có hình tháp nhọn hơn các múi
ngoài lớn hơn các múi ngoài. Kích thước các múi theo thứ tự giảm dần là: gần
trong, xa trong, gần ngoài, xa ngoài và xa. Năm gờ tam giác chạy từ các đỉnh
múi về phía trung tâm của bản nhai.
Các gờ bên gần, xa nhìn chung hội tụ về phía trong. Gờ bên gần có
chiều ngoài trong lớn hơn và nhô hơn. Gờ bên xa ngắn hơn và ít lồi hơn. Ở
điểm giữa, các gờ bên bị gián đoạn bởi các rãnh tỏa ra từ mặt nhai, tạo thành
rãnh thoát.

Mặt nhai có 3 hõm:
- Hõm giữa: rộng, sâu ở vùng trung tâm mặt nhai.
- Hõm tam giác gần: cạn, hình tam giác ở kế gờ bên gần.
- Hõm tam giác xa: lõm nhẹ ở phía gần của gờ bên xa.
Năm múi của mặt nhai tạo thành một mẫu hố rãnh đặc biệt. Rãnh giữa
chạy theo chiều gần xa, băng qua mặt nhai ở vùng trung tâm, kết thúc ở hố
gần và hố xa. Ở khoảng giữa mặt nhai, rãnh giữa gặp rãnh trong và rãnh gần
ngoài: rãnh trong ngăn cách hai múi trong (và còn tiếp tục trên mặt trong);
rãnh gần ngoài ngăn các hai múi ngoài và kéo dài trên mặt ngoài. Giao điểm
của rãnh trên là hố giữa. Rãnh xa ngoài ngăn cách múi xa ngoài với múi xa và
cắt rãnh trung tâm tại một điểm ở phía xa của hố giữa.
Ngoài các rãnh chính nói trên, mặt nhai còn có nhiều rãnh phụ tỏa ra từ
hai hố (gần và xa). Thường có hai rãnh tỏa ra từ hố gần, một đi về phía góc
gần ngoài, một băng qua gờ bên gần.
12


Hình 1.2: Các rãnh mặt nhai răng 6 hàm trên
Hình 1.3: Các rãnh mặt nhai răng 6 hàm dưới
13
Giải phẫu và mô học của hố rãnh mặt nhai[14].
Hình dạng các rãnh mặt nhai thay đổi trên mỗi người, trên mỗi răng
khác nhau. Để đơn giản có thể chia hố rãnh làm 2 dạng chính:
- Dạng nông, rộng: rãnh thường có dạng hình chữ V.
- Dạng sâu, hẹp: thường các rãnh có dạng hình chữ I, chữ V, hình giọt
nước, hình chùy hay hình chữ U
Trên mỗi răng thường có nhiều loại hình dạng rãnh khác nhau, thường
rãnh chữ V chiếm nhiều nhất (40%), rãnh I (20%), rãnh dạng chùy (15%),
dạng chữ U (15%), và dạng giọt nước (10%).
Hình 1.4: Rãnh chữ I Hình 1.5: Rãnh chữ V

Sự hình thành của các rãnh trong quá trình hình thành chân răng là do
hoạt động chế tiết của nguyên bào men ở đáy rãnh dừng lại, trong khi các
nguyên bào men ở thành rãnh vẫn tiếp tục quá trình hình thành men. Độ nông
sâu của rãnh phụ thuộc vào khoảng cách của các trung tâm phát triển và độ
dày của lớp men do sự chồm lên nhau của các nguyên bào men trên bề mặt
men ở đáy rãnh.
Trong cấu trúc mô học của men răng, trụ men là đơn vị cấu trúc có thể
quan sát được dưới kính hiển vi quang học và kính hiển vi điện tử. Mỗi trụ
14
men gồm các tinh thể được bao bọc bởi bao trụ. Trụ men chạy liên tục từ
đường nối men ngà đến mặt ngoài của răng. Trên các răng chưa mọc hay sắp
mọc, các trụ men thường không kết thúc trên bề mặt men răng mà ở khoảng
cách từ 5-100µm dưới bề mặt. Lớp ngoài cùng là lớp men không trụ. Lớp
men này xuất hiện trong pha tạo men cuối cùng, ngay khi các nguyên bào
men tiêu biến, các nhú Tomes và cực xa trở nên tù. Chúng bao gồm hầu như
là các tiểu tinh thể được nén chặt, với toàn bộ trục dài chạy theo hướng vuông
góc với bề mặt men răng. Theo nghiên cứu của nhiều tác giả dưới kính hiển vi
điện tử quét thì lớp men không trụ này thấy ở tất cả các răng sữa và 70% răng
vĩnh viễn. Một dãy men không trụ có độ dày từ 20-30 µm dài từ 100-300µm
được tìm thấy trong men ở rãnh và cổ răng. Theo các tác giả thì lớp men
không trụ là yếu tố bất lợi cho việc lưu giữ cơ học của vật liệu dán composite
lên bề mặt răng do không tạo được vi ngàm lưu của nhựa đi vào lớp men.
Ở lối vào các rãnh có một nút chặn hữu cơ gồm biểu mô men còn sót,
vi khuẩn tạo mảng bám và mảnh vụn thức ăn. Đặc tính này tạo nên tính nhạy
cảm đối với sâu răng, các hố rãnh sẽ là ổ cho mảng bám tích tụ. Sâu hố rãnh
sẽ phát triển nhanh và có liên quan với độ sâu của hố rãnh. Đáy hố rãnh càng
sát đường nối men ngà sâu răng càng tiến triển nhanh [17].
Hình thể rãnh khi cắt đứng ngang được mô tả như cái chai mà đường
kính cổ chai nhỏ hơn đầu thám trâm, do vậy khi lớp men còn lành lặn thì
thám trâm không thể vào đến đáy rãnh. Đặc điểm này góp phần làm cho tỷ lệ

thành công phát hiện sâu hố rãnh sớm bằng thám trâm chỉ khoảng 25%.
15

Hình 1.6: Nút chặn hữu cơ
1.2.2. Sinh lý bệnh quá trình sâu răng.
Sâu răng là một bệnh nhiễm khuẩn của tổ chức canxi hóa được đặc
trưng bởi sự hủy khoáng của thành phần vô cơ và sự phá hủy thành phần hữu
cơ của mô cứng. Tổn thương là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng lý
hóa liên quan đến sự di chuyển của các ion giữa bề mặt răng và môi trường
miệng và là quá trình sinh học giữa các vi khuẩn mảng bám với cơ chế bảo vệ
của vật chủ.
* Sự hủy khoáng
Là hiện tượng muối khoáng được vận chuyển từ răng ra môi trường
miệng, nếu hiện tượng này xảy ra trong thời gian dài sẽ gây tổn thương tổ
chức cứng của răng. Trên lâm sàng và thực nghiệm đã chứng minh rằng ở giai
đoạn này nếu các chất tựa hữu cơ chưa bị phá hủy thì thương tổn có khả năng
phục hồi, muối khoáng từ dịch miệng và cơ thể lắng đọng trở lại răng. Khi các
chất tựa hữu cơ bị phá hủy thì sâu răng không thể hồi phục được, tổn thương
cần được hàn lại.
16
* Sự tái khoáng
Là hiện tượng muối khoáng được vận chuyển ngược lại vào răng, quá
trình này có thể được làm tăng bởi các ion Fluor ở vùng phản ứng.
Nước bọt là nguồn cung cấp chất khoáng cho sự tái khoáng. Nếu sự tái
khoáng mạnh sẽ tạo nên lớp tổ chức cứng rắn dày vài µm có khả năng đề
kháng các yếu tố sâu răng.
Sâu răng xảy ra khi sự hủy khoáng chiếm ưu thế hơn sự tái khoáng.
Bản chất của quá trình hủy khoáng và tái khoáng của men, ngà, cement là như
nhau. Tuy nhiên do cấu trúc, thành phần muối khoáng và chất tựa hữu cơ của
chúng khác nhau nên tiến triển tổn thương sâu răng có sự khác nhau.

Hình 1.7: Hiện tượng hủy khoáng và tái khoáng
* Vai trò của Fluor
Fluor được phát hiện và sử dụng trong nha khoa dự phòng từ rất sớm.
Việc phát hiện ra vai trò của Fluor được coi là bước đột phá trong chương
trình dự phòng sâu răng. Fluor giúp kiểm soát sâu răng sớm theo nhiều cách.
Trong quá trình phát triển răng, Fluor kết hợp với tinh thể
hydroxyapatite, chất chủ yếu cấu tạo nên tổ chức cứng của răng, tạo thành
hợp chất Fluorapatite cứng hơn nhiều lần và cũng ít bị hòa tan trong môi
trường acid.
17
Fluor ở men răng và mảng bám kích thích quá trình sửa chữa các tổn
thương sâu mới hình thành. Quá trình này gọi là sự tái khoáng hóa men răng.
Fluor có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây sâu răng do ức
chế quá trình chuyển hóa của chúng thông qua đó làm giảm sinh acid và làm
giảm sự phát triển của mảng bám.
Do vậy Fluor có vai trò kiện toàn tổ chức cứng của răng, ức chế quá
trình sâu răng, ngăn cản sự hình thành các tổn thương mới và có vai trò ổn
định các tổn thương mới hình thành. Sự tiếp xúc với Fluor hàng ngày với
nồng độ thấp sẽ ức chế quá trình hủy khoáng, làm tăng quá trình tái khoáng
hóa men răng.
1.2.3. Bệnh căn sâu răng
Từ nhiều thập kỷ nay, đã có nhiều giả thuyết về bệnh căn bệnh sâu răng
được đưa ra trong đó giả thuyết sinh acid của Miller đề xuất năm 1889 được
nhiều người chấp nhận hơn cả. Vi khuẩn trong hốc miệng mà thủ phạm chính
là Streptococus Mutans lên men các chất bột, đường còn dính lại trên răng
sinh ra acid phá hủy tổ chức cứng của răng hình thành lỗ sâu.
Sự phối hợp của các yếu tố gây sâu răng được thể hiện qua sơ đồ Keyes sau đây:
Hình 1.8: Sơ đồ Keyes
18
CHẾ ĐỘ ĂN

SÂU RĂNG
VI KHUẨN MIỆNG
BỀ MẶT RĂNG
Trong sơ đồ trên đề cập chủ yếu đến chất đường, vi khuẩn Streptococus
và bề mặt răng. Do đó, việc dự phòng sâu răng quan tâm nhiều đến chế độ ăn
hạn chế đường và vệ sinh răng miệng. Tuy nhiên vấn đề thời gian cũng cần
được nhấn mạnh, sự phối hợp của ba yếu tố này phải xảy ra trong thời gian
nhất định mới có thể gây tổn thương sâu răng.
Năm 1975, White giải thích bệnh học sâu răng bằng việc thay vòng
tròn chất đường trong sơ đồ Keyes bằng vòng tròn chất nền và đề cao vai trò
bảo vệ của nước bọt, dòng chảy pH nước bọt quanh răng và vai trò của Fluor.
Theo sơ đồ White, quá trình sâu răng được giải thích qua sự mất cân bằng
giữa các yếu tố bảo vệ và yếu tố mất ổn định.

Hình 1.9: Sơ đồ White (1975)
Năm 1995, Hội Nha Khoa Hoa Kỳ đưa ra một sơ đồ mới trong đó nhấn
mạnh 3 yếu tố là vi khuẩn (tác nhân gây sâu răng), răng (vật chủ) và môi
trường (thức ăn có glucid có khả năng lên men).
Răng Vi khuẩn
Chất nền
Sâu
răng
19
Trên cơ sở những hiểu biết đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra
nhiều biện pháp dự phòng sâu răng mang lại hiệu quả cao.
Trước đây, người ta cho rằng sâu răng bắt nguồn từ đáy hố rãnh, nơi
sâu nhất trước khi lan rộng ra thành bên và sườn múi. Nhưng các nghiên cứu
gần đây cho thấy các thành bên của hố rãnh mới là nơi bắt đầu tiến trình sâu
răng. Đầu tiên tổn thương sâu răng xuất hiện ở miệng rãnh thường dưới dạng
tổn thương kép, độc lập nhau ở hai bên sườn nghiêng. Sau đó các tổn thương

này sẽ lan rộng theo chiều sâu của rãnh, to dần và hợp lại thành một tổn
thương khi chúng gặp nhau ở đáy rãnh. Bề dày men ở đáy rãnh giảm đáng kể
so với những nơi khác làm cho sâu răng dễ lấn sâu vào ngà do vậy trên lâm
sàng tổn thương sâu vào đến ngà nhưng vẫn thấy men răng mặt nhai còn
nguyên vẹn [17], [18]. Mặt khác do ngà mềm hơn men nên khi tổn thương đã
lan tới ngà thường tiến triển nhanh hơn. Do vậy sâu răng ở giai đoạn đầu
thường khó phát hiện bằng thám trâm [17].
Theo một số tác giả, sự hình thành sâu răng trên bề mặt các rãnh phụ
thuộc chủ yếu vào độ hẹp của rãnh, ngoài ra các nút chặn hữu cơ trong rãnh
giữ vai trò làm vùng đệm chống lại các sản phẩm acid của mảng bám, do đó
sự tấn công của acid sẽ giảm đi ở đáy rãnh trong suốt giai đoạn khởi đầu của
sâu răng.
Các nghiên cứu cho thấy có sự giảm đột ngột đáng kể số lượng vi
khuẩn trong các tổn thương sâu răng ở hố rãnh được bít kín hoàn toàn. Tiến
trình sâu răng cũng bị ngừng lại do vi khuẩn bị cách ly với nguồn dinh dưỡng
bên ngoài. Tuy nhiên khi đặt chất trám bít, ở giai đoạn xoi mòn men bằng
acid thì 75% vi khuẩn đã bị loại trừ. Một số báo cáo cho thấy, khi đặt chất
trám bít hố rãnh lên hố rãnh nguyên vẹn nhưng đã có tổn thương ngà trên
phim X-quang thì sau 2 tuần chỉ còn 4,5% vi khuẩn sống sót và dưới 3% vi
khuẩn có khả năng gây sâu răng [19], [18]. Sau khi đặt chất trám bít hố rãnh,
tổn thương ở ngà sẽ dừng lại và cho thấy sự lành thương lên tới 89%. Người
20
ta thấy ngay cả khi tổn thương đã vào tới 640µm ở lớp ngà, tổn thương cũng
dừng lại [19].
Dù biện pháp dự phòng sâu răng bằng Fluor tại chỗ và toàn thân rất
hiệu quả với mặt láng thì ngược lại ở hố rãnh Fluor rất ít tác dụng. Điều này
có thể liên quan đến bề dày lớp men của các mặt khác (tối thiểu là 1mm) so
với mặt hố rãnh (rất mỏng, thậm chí nối hẳn với lớp ngà).
1.3. Các biện pháp dự phòng sâu răng.
1.3.1. Giáo dục vệ sinh răng miệng [8], [6], [22].

- Giáo dục vệ sinh răng miệng là biện pháp phòng chống sâu răng mang
lại hiệu quả cao. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có các chính sách hoạt động
giáo dục vệ sinh răng miệng cho trẻ em. Trong khu vực có Singapo là nước có
chính sách giáo dục vệ sinh răng miệng cho trẻ em rất tốt, thì tỷ lệ dmft giảm
từ 3,0 năm 1960 xuống còn 0,4 năm 1999 [23]. Tại Trung Quốc từ năm 1950
trở lại đây, do các chính sách và hoạt động giáo dục vệ sinh răng miệng cho
trẻ em tốt, nên tình trạng sâu răng đã được cải thiện rất nhiều. Một số kỹ thuật
vệ sinh răng miệng phải đáp ứng được các yêu cầu:
+ Phải làm sạch tất cả các mặt răng, đặc biệt vùng rãnh lợi và kẽ răng.
+ Sử dụng bàn chải không được để tổn thương các phần mềm và
tổ chức cứng của răng. Do vậy phải chải răng theo hướng thẳng đứng và kéo
ngang có thể làm co lợi và mòn răng.
+ Kỹ thuật đơn giản đễ học, dễ hướng dẫn cho cộng đồng.
+ Phương pháp chải răng được thực hiện sao cho tất cả các phần
của răng đều được chải và không có vùng nào bị bỏ qua.
+ Hai phương pháp hay được sử dụng là kỹ thuật cuốn (the roll
technique) được dùng khi lợi nhạy cảm và kỹ thuật Bass (the Bass technique)
được dùng khi lợi lành mạnh.
+ Tùy từng trường hợp mà có thể sử dụng một biện pháp hoặc
phối hợp một số biện pháp như dùng chỉ tơ nha khoa (Dental floss), tăm gỗ,
21
bàn chải kẽ răng hoặc dùng bàn chải tự động để làm sạch kẽ răng. Phương
pháp phun tưới là biện pháp bổ sung cho chải răng.
1.3.2. Sử dụng Fluor [6], [15], [21], [24].
Theo khuyến cáo của TCYTTG và Liên đoàn Nha Khoa Quốc tế, việc
sử dụng Fluor hóa nước uống là một biện pháp dự phòng sâu răng có hiệu quả
và ít tốn kém [25].
* Fluor hóa nước công cộng:
- Fluor hóa nguồn cung cấp nước sinh hoạt với độ tập trung Fluor từ 0,7
đến 1,2gF/lít nước mà độ tập trung tối ưu tùy thuộc vào khí hậu.

- Sau 50 năm sử dụng Fluor hóa nước uống, TCYTTG đánh giá đây là
một biện pháp hiệu quả an toàn.
* Muối Fluor:
- Hàm lượng Fluor được TCYTTG khuyến cáo được đưa vào muối ăn
với độ tập trung là 250mgF/1 kg muối ăn. Hiệu quả dự phòng sâu răng như
Fluor hóa nước uống cáp công cộng [25].
- Biện pháp này phù hợp với các nước đang phát triển.
* Viên Fluor:
- Đối với các các cộng đồng thiếu Fluor trong thức ăn, thì cho trẻ em sử
dụng hàng ngày một lượng Fluor thích hợp từ lúc mới sinh cho đến khi mọc
răng hàm lớn thứ 2.
- Dùng viên Fluor có thể dạng viên nén hay viên nang được kê đơn,
dùng theo đường uống cho các cá thể có nguy cơ sâu răng cao [25].
* Fluor hóa nước cáp ở trường học:
- Những nơi không có nguồn nước cấp ở công cộng, thì có thể chọn
biện pháp này, song chi phí rất cao.
- Fluor hóa nguồn nước sinh hoạt ở trường học với độ tập trung Fluor
cao hơn mức độ tập trung Fluor tối ưu trong nước công cộng 4,5 lần.
22
* Nước súc miệng Fluor pha loãng:
- Là biện pháp dễ thực hiện và hiệu quả cao trong dự phòng sâu răng,
có thể giảm sâu răng từ 35 đến 50%.
- Súc miệng với dung dịch Fluor pha loãng: súc miệng hàng ngày bằng
dung dịch Fluor 0,05% và súc miệng tuần 1 lần bằng dung dịch Fluor 0,2%.
* Kem đánh răng có Fluor:
Theo Trần Văn Trường và một số tác giả nghiên cứu trên invitro (Trịnh
Đình Hải) cho biết kem Fluor có khả năng làm tăng thành phần Fluor của men
răng dẫn đến tác dụng phòng ngừa sâu răng [26].
Tuy nhiên hiệu quả phụ thuộc vào các loại kem Fluor khác nhau, dao
động từ 20-30% [27].

1.3.3. Trám bít hố rãnh mặt nhai [20], 17], [2], [28].
Dựa trên cơ sở sâu răng thường xuất phát từ rãnh răng nên ngay từ
những năm đầu thế kỷ 20 một số thầy thuốc nha khoa trên thế giới đã sử dụng
một số vật liệu như ciment và amalgam dể trám bít hố rãnh dự phòng sâu răng
[29], [30].
Trám bít hố rãnh là sử dụng vật liệu trám bít hố rãnh hàn phủ lên trên
mặt hố rãnh của các răng vĩnh viễn ngăn cản sự tiếp xúc trực tiếp của mặt
nhai với môi trường miệng.
Do có trên 50% sâu răng xuất hiện ở mặt nhai và Fluor ít có tác dụng
dự phòng sâu răng ở hố rãnh nên trám bít hố rãnh được đưa ra như một giải
pháp hữu hiệu để dự phòng sâu răng.
Chất trám bít hố rãnh có tác dụng ngăn ngừa sâu răng chủ yếu trong
thời gian tồn tại trên răng. Thời gian lưu giữ chất trám bít hố rãnh phụ thuộc
vào kỹ thuật trám bít và có thể lưu giữ được nhiều năm.
Ngày nay người ta kết hợp Fluor vào trong các vật liệu trám bít để tăng
khả năng kiểm soát sâu răng.
23
Với sự phát triển của khoa học công nghệ những năm gần đây đã có rất
nhiều các vật liệu để trám bít răng có hiệu quả, sau đây xin được nêu một số
vật liệu được các thầy thuốc trên thế giới và Việt Nam thường sử dụng [31]
[32], [33], [34], [26], [35], [36].
- Nhựa Compsite:
- Chất trám bít có Fluor:
- Chất có nguồn gốc Glassionomer:
- Chất trám bít nhựa – Glassionomer:
1.3.4. Chế độ ăn hợp lý [8], [20], [37].
Thành phần hóa học, lý học của thức ăn cũng ảnh hưởng đến bệnh sâu
răng như thức ăn xơ… làm sạch răng, thức ăn mềm, có đường lại tạo mảng
bám răng do đó cần lưu ý tính chất hóa, lý trong thực phẩm. Thay đổi đường
trong các loại thực phẩm bằng các chất làm ngọt nhân tạo. Một số chất làm

ngọt nhân tạo như Xylitol có tác dụng ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây
bệnh sâu răng, giảm sự hình thành mảng bám răng, giảm sinh acide, ổn định
PH, cải thiện tình trạng tái khoáng hóa men răng. Xylitol cũng có tác dụng
giảm lây nhiễm Steptococus mutans từ mẹ sang con, giảm tỷ lệ sâu răng 40 -
90% ở tất cả các lứa tuổi, giảm hôi miệng, cung cấp can xi và các cation cho
quá trình tái khoáng men răng. Mặt khác Xylitol làm giảm đau cho bệnh nhân
hôi miệng, gỉam dần số nhiễm nấm trên bệnh nhân đái tháo đường, phòng
chống loãng xương và bảo vệ Protein nước bọt. Ngoài Xylitol còn có một số
chất làm chậm kên men như Sorbotol, Manitol và Maltitol.
Để dự phòng sâu răng trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam cần phải có
những quy định cụ thể việc kiểm soát đường trong ăn uống như: sản xuất,
nhập khẩu, quảng cáo, tiếp thị thực phẩm.v.v
Kiểm soát thức ăn và đồ uống có đường bằng cách:
- Giảm số lần ăn thực phẩm có đường trong ngày.
24
- Giảm mức độ tiêu thụ đường ở tầm quốc gia như dùng các chất tạo
ngọt thay thế đường trong sản xuất bánh kẹo, nước ngọt.
- Kiểm soát các thực phẩm có đường trong trường học.
Đồng thời phải tăng cường giáo dục vệ sinh răng miệng sau khi ăn,
uống các loại thực phẩm có đường. Phòng bệnh sâu răng không phải chỉ ăn
uống hạn chế đường mà ngay sau khi ăn uống thức ăn có đường cần phải súc
miệng và chải răng kỹ với kem có Fluor.
1.4. Dự phòng sâu răng bằng trám bít hố rãnh
1.4.1. Sâu răng vùng hố rãnh
Trước đây, người ta cho rằng sâu răng bắt nguồn từ đáy hố rãnh, nơi
sâu nhất trước khi lan rộng ra thành bên và sườn múi. Nhưng các nghiên cứu
gần đây cho thấy các thành bên của hố rãnh mới là nơi bắt đầu tiến trình sâu
răng. Đầu tiên tổn thương sâu răng xuất hiện ở miệng rãnh thường dưới dạng
tổn thương kép, độc lập nhau ở hai bên sườn nghiêng. Sau đó các tổn thương
này sẽ lan rộng theo chiều sâu của rãnh, to dần và hợp lại thành một tổn

thương khi chúng gặp nhau ở đáy rãnh. Bề dày men ở đáy rãnh giảm đáng kể
so với những nơi khác làm cho sâu răng dễ lấn sâu vào ngà do vậy trên lâm
sàng tổn thương sâu vào đến ngà nhưng vẫn thấy men răng mặt nhai còn
nguyên vẹn [18]. Mặt khác do ngà mềm hơn men nên khi tổn thương đã lan
tới ngà thường tiến triển nhanh hơn. Do vậy sâu răng ở giai đoạn đầu thường
khó phát hiện bằng thám trâm [39].
Theo một số tác giả, sự hình thành sâu răng trên bề mặt các rãnh phụ
thuộc chủ yếu vào độ hẹp của rãnh, ngoài ra các nút chặn hữu cơ trong rãnh
giữ vai trò làm vùng đệm chống lại các sản phẩm acid của mảng bám, do đó
sự tấn công của acid sẽ giảm đi ở đáy rãnh trong suốt giai đoạn khởi đầu của
sâu răng.
Các nghiên cứu cho thấy có sự giảm đột ngột đáng kể số lượng vi khuẩn
trong các tổn thương sâu răng ở hố rãnh được bít kín hoàn toàn. Tiến trình sâu
25

×