Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Ô NHIỄM DO RÁC THẢI TẠI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.48 KB, 41 trang )

[Type text]
Phần 1
Giới thiệu chung
Môi trường sống hiện nay trên trái đất đang bị ô nhiễm một cách nghiêm
trọng. Từ các hoạt động sống của con người, hoạt động sản xuất công
nghiệp, giao thông… chủ yếu là ở các đô thị phát triển đã sinh ra các chất
gây ô nhiễm môi trường và tàn phá các hệ sinh thái tự nhiên, trong đó
lượng rác thải tăng lên quá nhanh và ngày càng mang tính chất độc hại là
một trong những nguyên nhân chính gây nên những hậu quả đó.
Các thành phố trên thế giới đang đối mặt với một sự tăng trưởng dân số
nhanh chóng, tăng trưởng GDP và kết quả là tăng số lượng các thứ khác,
trong đó có số lượng chất thải. Do lối sống khác nhau và mô hình tiêu
dùng, chất lượng và thành phần chất thải đã được đa dạng hơn và thay
đổi. Công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế đã sản xuất số lượng chất
thải nhiều hơn, bao gồm cả chất thải nguy hại và độc hại. Theo số liệu
toàn cầu đối với chất thải đô thị có nhiều thành phần khác nhau. Chất
thải rắn đô thị (MSW) nói chung chiếm khoảng 14-20 phần trăm của tất
cả các chất thải phát sinh trên toàn thế giới, với các loại chất thải khác
bao gồm xây dựng và chất thải phá hủy (30%), sản xuất (20%), khai thác
mỏ và khai thác đá (23%), và các nguồn khác . (Urban Environmental
Management, 2003)
Page 1 of 41
[Type text]
Việt Nam là một nước đang phát triển, các ngành công nghiệp, dịch vụ và
các hoạt động kinh tế đang trong thời kì phát triển nhanh chóng. Một
trong những đô thị phát triển bậc nhất của Việt Nam là thành phố Hồ Chí
Minh, chiếm 0,6% diện tích và 6,6 % dân số so với cả nước, nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế của cả nước, có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (HCM CityWeb).Thành phố Hồ Chí Minh
là hạt nhân trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) và trung
tâm đối với vùng Nam Bộ. Với mức đóng góp GDP là 66,1% trong vùng


kinh tế trọng điểm phía nam và đạt mức 30% trong tổng GDP của cả khu
vực Nam Bộ (Vietmark, 2009). Đồng nghĩa với việc phát triển về kinh tế
thì thành phố Hồ Chí Minh cũng gặp phải những vấn đề ô nhiễm môi
trường, và một trong những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm là số
lượng rác thải tăng lên quá nhanh mà chưa có những biện pháp xử lý triệt
để. Tuy thành phố có một nền công nghiệp phát triển nhưng công nghệ lại
lạc hậu so với thế giới, hiệu suất sản xuất không cao mà còn sinh ra lượng
chất thải nhiều hơn. Thực tế cho thấy, các chất thải công nghiệp hầu hết
là không được xử lý nếu có chỉ là một số lượng nhỏ, không kể các chất
thải độc hại chỉ được xử lý một cách đơn nhất là lưu trữ an toàn chứ chưa
được xử lý hoàn toàn.
Đối với các đô thị thì dân số quá đông là một đặc trưng và ở thành phố
Hồ Chí Minh cũng không là ngoại lệ, dân số tập trung tại các đây quá lớn,
Page 2 of 41
[Type text]
các hoạt động sống hàng ngày đã sinh ra lượng rác thải sinh hoạt vượt
khả năng thu gom và công suất các công trình xử lý của thành phố. Thêm
vào đó là việc quản lý rác thải chưa được thực hiện triệt để và quá lỏng
lẻo của chính quyền. Hiện tượng rác thải không được thu gom hết; không
thu gom thường xuyên; ô nhiễm tại nơi tập kết rác, bãi chôn lấp; rơi vãi
rác trên đường vận chuyển gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức
khỏe và cuộc sống của người dân… là hiện trạng đang diễn ra tại thành
phố Hồ Chí Minh. Việc rác chất đống do không được thu gôm trên các
con đường và tại các khu dân cư gây mùi hôi thối, thu hút ruồi, muỗi,
gián…không chỉ gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân xung
quanh mà còn làm mất đi vẻ mĩ quan của đô thị. Ngoài ra, rác và nước rỉ
rác bị rơi vãi trên đường vận chuyển do phương tiện vận chuyển quá lạc
hậu cũng gây mất đi vẻ mĩ quan của đô thị.
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như các nước đang phát triển có trình độ
khoa học kĩ thuật còn thấp nên việc xử lý rác thải chủ yếu là bằng phương

pháp chôn lấp. Cho đến thời điểm này, ở TP HCM chỉ còn 2 bãi rác hoạt
động: Phước Hiệp (huyện Củ Chi) và Đa Phước (huyện Bình Chánh); còn
2 bãi rác Đông Thạnh (huyện Hóc Môn) và Gò Cát (quận Bình Tân) đã
đóng cửa, không tiếp nhận rác nữa; do đó toàn bộ hơn 6.800 tấn rác thải
sinh hoạt thải ra mỗi ngày được đưa về 2 bãi rác Phước Hiệp và Đa
Phước xử lý. Tuy nhiên, với việc rác thải tăng nhanh như hiện nay đã gây
Page 3 of 41
[Type text]
ra tình trạng quá tải ở các bãi chôn lấp gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng và ảnh hưởng đến cuộc sống của những người dân xung quanh. Rác
thải được chôn lấp ngoài trời nhưng không được che lấp cẩn thận và
không có các công trình thu gom khí từ quá trình phân hủy rác thải, đã
làm thất thoát một lượng khí khổng lồ ra ngoài môi trường. Mà thành
phần chính của hỗn hợp khí này là khí CH
4
, một loại khí góp phần gây
nên hiện tượng hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, vì đây là một vấn đề chưa
nêu bật nên được những tác động trực tiếp của rác thải đến cuộc sống
hàng ngày của con người mà còn mang tính chất ảnh hưởng lâu dài, nên
vấn đề này nằm ngoài biên giới hệ thống của chúng ta.
Trong bài viết này thêm vào một số những nghiên cứu gần đây về những
tác động đến môi trường của quá trình ô nhiễm do rác thải gây ra ở các đô
thị ở các nước đang phát triển, cung cấp các phân tích hệ thống về các tác
động của việc gia tăng và ô nhiễm rác thải ở các đô thị lớn của các nước
đang phát triển. Các mục tiêu cụ thể của bài viết là phân tích các nguyên
nhân gây ô nhiễm mùi, sự tích lũy ô nhiễm, lây lan dịch bệnh từ rác thải
và ảnh hưởng của việc quản lý rác thải kém đến vẻ đẹp mĩ quan của một
đô thị. Để thực hiện mục đích này chúng ta tập trung chú ý vào khu vực
thành phố Hồ Chí Minh, nơi hội tụ đầy đủ các điều kiện điển hình về tự
nhiên và xã hội của một đô thị ở một quốc gia đang phát triển.

Page 4 of 41
[Type text]
Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 2 phần. Đầu tiên, chúng tôi thực hiện
phân tích hệ thống về hoạt động quản lý rác thải ở thành phố Hồ Chí Minh.
Đây là một khu vực đô thị phát triển của Việt Nam và là nơi có lượng rác
thải thải ra hàng ngày lên đến 6.800 tấn/ngày, thuộc vào hàng cao nhất nước
(báo Người Lao Động, 2007). Thứ hai, chúng tôi mở rộng phân tích hệ
thống bằng việc xác định các yếu tố để làm giảm các tác động môi trường do
rác thải gây ra. Chúng tôi tập trung vào các yếu tố mà đều áp dụng được cho
những khu vực khác nhau ở Việt Nam hoặc ở những nơi mà có tiềm năng áp
dụng cho các kinh nghiệm đó ở các quốc gia khác với hoạt động qunar lý rác
thải và có khả năng tương thích với pháp luật nhà nước đó.
Page 5 of 41
[Type text]
Phần 2
Phương pháp phân tích
2.1Khu vực thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh nằm nam ở phía nam Việt Nam với toạ độ địa lý
khoảng 10
0
10' – 10
0
38 vĩ độ bắc và 106
0
22' – 106
0
54
'
kinh độ đông
(hochiminhcity). Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng

động nhất, đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với dân số
là 7.123.340 người (2009), hàng ngày thành phố Hồ Chí Minh thải ra
6.800 tấn rác thải, lượng rác thải này đã vượt quá khả năng xử lý của các
bãi chôn lấp ở thành phố. Ngoài ra, lượng rác thải quá lớn nhưng việc
quản lý rác thải ở còn yếu kém, phương tiện vận chuyển thô sơ và không
đủ số lượng đã xảy ra tình trạng làm ảnh hưởng đến vẻ mỹ quan đô thị
của thành phố. Rác thải ở các khu dân cư không được thu gom, nằm chất
đống trên các vỉa hè, bốc mùi hôi thối, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của
người dân sống xung quanh. Vấn đề là lượng rác thải ngày càng gia tăng
nhưng quá trình thu gom, vận chuyển rác chưa được quản lý và vận hành
tốt nên rác thải luôn bị tồn đọng, không thu gom hết và bị rơi vãi trên
đường vận chuyển. Quá trình rác bị rơi vãi đã làm ô nhiễm đường phố,
phân tán các vi sinh vật gây bệnh có trong rác vào môi trường xung
quanh.
2.2 Hệ thống quản lý rác thải
Page 6 of 41
[Type text]
Các tiêu điểm phân tích trong quá trình quản lý rác thải đô thị đặc biệt
chú ý đến các hoạt động lưu trữ, thu gom, vận chuyển và xử lý. Hoạt
động lưu trữ rác tại nhà bao gồm việc tích lũy rác lâu ngày. Hoạt động thu
gom bao gồm việc tho gom rác thải tại các khu dân cư, tại nơi công cộng
và đưa rác về trạm trung chuyển. Hoạt động trung chuyển gồm việc tập
kết rác tập trung và lưu trữ rác tại nơi tập kết. Và cuối cùng là quá trình
vận chuyển rác về nơi xử lý, tại nơi xử lý rác thải sẽ được xử lý bằng
phương pháp đốt, chôn lấp và tái chế. Một số qui trình trong việc quản lý
rác thải đô thị này ẩn chứa các tác động đến môi trường, trong đó chúng
ta tập trung vào các quá trình lưu trữ, thu gom, vận chuyển. Qui trình
nghiên cứu ở đây được biểu diễn trong hình 2.
Bảng: Số lượng lao động thu gom chất thải rắn đô thị tại các quận/huyện
của thành phố Hồ Chí Minh (năm 2006)

STT Quận/Huyện
Lao động thu công (người)
Công lập Dân lập
1 Quận 1 270 73
2 Quận 2 30 50
3 Quận 3 131 370
4 Quận 4 68 130
5 Quận 5 140 200
Page 7 of 41
[Type text]
6 Quận 6 158 185
7 Quận 7 86 120
8 Quận 8 150 125
9 Quận 9 33 160
10 Quận 10 136 140
11 Quận 11 100 250
12 Quận 12 32 110
13 Quận Phú Nhuận 96 288
14 Quận Bình Thạnh 236 220
15 Quận Tân Bình 325 464
16 Quận Tân Phú 96 130
17 Quận Thủ Đức 32 115
18 Quận Bình Tân 120 95
19 Quận Gò Vấp 74 165
20 Huyện Hóc Môn 23 40
21 Huyện Nhà Bè 30 85
22 Huyện Bình Chánh 96 215
23 Huyện Củ Chi 60 50
24 Huyện Cần Giờ 19 -
Tổng cộng 2.541 3.780

Hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đang tồn tại song song 2 hệ
thống tổ chức thu gom rác sinh hoạt: hệ thống thu gom công lập và hệ
thống thu gom dân lập.
- Hệ thống công lập gồm 22 Công ty Dịch vụ công ích của các Quận. Hệ
thống này đảm nhận toàn bộ việc quét dọn vệ sinh đường phố, thu gom
Page 8 of 41
[Type text]
rác chợ, rác cơ quan và các công trình công cộng, đồng thời thực hiện
dịch vụ thu gom rác sinh hoạt cho khoảng 30% số hộ dân trên địa bàn,
sau đó đưa về trạm trung chuyển hoặc đưa thẳng tới bãi rác. Một số đơn
vị ký hợp đồng với Công ty Môi trường Đô thị để vận chuyển rác trên địa
bàn.
- Hệ thống thu gom dân lập bao gồm các cá nhân thu gom rác, các nghiệp
đoàn thu gom và các Hợp tác xã vệ sinh môi trường. Lực lượng thu gom
dân lập chủ yếu thu gom rác hộ dân (thông qua hình thức thỏa thuận hợp
đồng dưới sự quản lý của UBND Phường), trên 70% hộ dân trên địa bàn
và các công ty gia đình. Rác dân lập chịu trách nhiệm quét dọn rác trong
các ngỏ hẻm, sau đó tập kết rác đến các điểm hẹn dọc đường hoặc bô rác
trung chuyển và chuyển giao rác cho các đơn vị vận chuyển rác.
(ThS.Trần Nhật Nguyên)
Sau đó, rác được chuyển dến các trạm trung chuyển rác tập trung, được
lưu trữ ở đó. Sau khi rác được thu gom về trạm xong trong một ngày sẽ
được tiếp tục vận chuyển về nơi xử lý là các bãi chôn lấp Phước Hiệp
(huyện Củ Chi) và Đa Phước (huyện Bình Chánh).
2.3 Hệ thống thu gom và quản lý rác tại thành phố
2.3.1 Các giai đoạn thu gom và quản lý rác
Các tiêu điểm phân tích trong qui trình thu gom quản lý rác ở đô thị là
việc đặc biệt chú ý đến các giai đoạn lưu trữ rác tại nhà, việc thu gom và
Page 9 of 41
[Type text]

các quá trình vận chuyển đến nơi xử lý. Hiện tại, các hộ gia đình lưu trữ
rác tại nhà bằng cách sử dụng các thùng chứa chất thải rắn bằng nhựa,
kim loại hoặc tre nứa, tập trung vào các loại như thùng nhựa có nắp đậy,
xô, thùng sơn không có nắp đậy, sọt, cần xé bằng tre nứa. Loại thùng
chứa thường không đồng nhất tại từng khu dân cư. Dung tích thay đổi từ
15 – 25 lít đối với các hộ gia đình không kinh doanh buôn bán. Đối với
các hộ có kinh doanh buôn bán (thực phẩm, sản xuất tiểu thủ công
nghiệp) thì dung tích thùng lớn hơn. Các thiết bị lưu chứa này thường
được đặt phổ biến ở trong nhà hoặc đưa ra trước cửa đem ra để trước nhà
vào buổi sáng chờ xe thu gom, do đó làm mất mỹ quan khu phố, cũng
như góp phần nhân rộng môi trường lan truyền dịch bệnh (Nguyên, Hệ
thống lưu trữ chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh).
Quy trình thu gom của lực lượng thu gom công lập
- Quy trình thu gom thủ công: Công nhân xuất phát từ địa điểm tập trung
thùng, công nhân đẩy thùng 660L đi thu gom hết các hộ ở một bên tuyến
đường sau đó quay về bên còn lại của tuyến đường để thu gom tiếp. Nếu
tuyến thu gom có một người thì người công nhân có thể đẩy từ 1 tới 2
thùng 660L, tuyến có 2 người có thể đẩy từ 2-3 thùng 660L đến khoảng
giữa tuyến đường, đẩy từng thùng đi thu gom rác hộ dân dọc theo 2 bên
đường đến khi đầy, sau đó đẩy các thùng đến điểm hẹn.
Page 10 of 41
[Type text]
- Quy trình thu gom cơ giới: Một xe lam chạy chậm dọc theo lề đường
của các tuyến được quy định trước, một công nhân đi nhặt các túi rác bỏ
vào trong xe. Xe đầy, chạy về trạm trung chuyển đổ rồi tiếp tục đi thu
gom cho tới hết tuyến quy định.
- Đối với các khu vực phát sinh chất thải lớn: Công ty cho xe tới thu gom
một hoặc vài cơ sở vào ngày thoả thuận trước rồi vận chuyển về trạm
trung chuyển để xe lớn vận chuyển đi bãi chôn lấp.
Quy trình thu gom của lực lượng dân lập

Lực lượng rác dân lập sử dụng phương tiện cá nhân đến thu gom rác tại
các nguồn thải (chủ yếu là hộ dân) theo giờ đã thỏa thuận với chủ nguồn
thải hay theo giờ họ quyết định. Sau khi thu gom tại nguồn thải họ phân
loại một số chất thải rắn có thể tái chế đem bán phế liệu. Sau đó, một số
rác dân lập đẩy xe (thùng) đến điểm hẹn đổ vào xe cơ giới theo giờ quy
định của đơn vị vận chuyển, một số khác đến đổ rác trực tiếp tại bô rác
gần nhất.
Tại các điểm hẹn, chất thải rắn từ xe đẩy tay sẽ được đưa lên các xe ép
nhỏ (2-4 tấn) và đưa về trạm trung chuyển. Tại trạm trung chuyển, một số
công nhân thu gom sẽ thu nhặt lại một lần nữa chất thải rắn có thể tái chế,
sau đó xe tải và xe ép lớn (từ 7-10 tấn) tiếp nhận chất thải rắn và vận
chuyển ra bãi chôn lấp. (ThS.Trần Nhật Nguyên Công tác thu gom chất
thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh)
Page 11 of 41
[Type text]
Việc thu gom được tiến hành thủ công hay cơ giới tuỳ vào khả năng kinh
tế và mức độ phát triển mỹ thuật. Thu gom thủ công là chuyển bằng tay
các bao rác, thùng rác đổ lên xe tải hoặc xe tay. Thu gom cơ giới áp dụng
được khi các loại thùng chứa phải được tiêu chuẩn hoá.
Tần số thu gom phụ thuộc vào điều kiện khí hậu và thành phần rác. Đối
với địa phương có đặc điểm nhiệt độ cao, rác có thành phần hữu cơ lớn
thì mức độ phân huỷ rác do vi sinh sẽ nhanh hơn, gây mùi khó chịu tại
điểm chứa rác và do vậy việc gom rác phải được làm thường xuyên hơn.
Rác có thể được chuyển trực tiếp từ nơi chứa tạm thời đến điểm xử lý nếu
điều kiện về giao thông cho phép (khoảng cách đến bãi rác gần).
Khi nơi xử lý cách xa khu đô thị thì có thể thành lập các điểm trung
chuyển gom rác trong thời gian ngắn nhất về đây, sau đó dùng các
phương tiện có công suất lớn chuyển rác đến nơi xử lý. Những phương
pháp xử lý chính là tái chế, đốt, chôn lấp, làm phân rác. Tuỳ điều kiện cụ
thể và thành phần rác mà người ta lựa chọn phương pháp phù hợp từ các

phương pháp cơ bản trên. (Bộ tài nguyên môi trường)
Page 12 of 41
[Type text]
Page 13 of 41
[Type text]
Sơ đồ tổng quan hệ thống quản lý rác thải tại thành phố Hồ Chí
MinhSub – System Activity Pollutant
Effect
Page 14 of 41
Ý thức
con người
Vận
chuyển
Trạm trung
chuyển
Thu gom
Lưu trữ
tại nhà
Thu gom tại
khu dân cư
Rác để
lâu ngày
Xả rác
Thu gom tại
nơi công cộng
Lưu trữ
rác
Chuyển rác
đến nơi xử lý
Tập kết

rác
Rác bừa
bãi
Mùi hôi
( H
2
S, NH
3
)
Đốt
Ruồi,
muỗi
Rác Rơi
vải
Phân tán
mầm bệnh
Khói
(CO
2
,CO,NO
x
)
VSV gây
bệnh
Tái chế
Xử lý
Chôn lấp
Nước rỉ rác
( COD, BOD
cao)

Chất tẩy,
phụ gia
Bụi
Mất mỹ quan
đô thị
Ô nhiễm
nguồn nước
Hiệu ứng
nhà kính
Ảnh hưởng
đến sức
khỏe người
tiêu dùng
Ô nhiễm
mùi
Lây lan
dịch bệnh
[Type text]
2.3.2 Định nghĩa hệ thống và các chỉ tiêu
Từ những mô tả trước của qui trình quản lý rác thải, chúng ta phân biệt
năm hệ thống phụ quan trọng của qui trình quản lý rác thải đô thị: (1) lưu
trữ tại nhà, (2) thu gom, (3) chuyển rác đến trạm trung chuyển và (4) vận
chuyển rác đến nơi xử lý. Sự phân tích và đánh giá các hệ thống phụ khác
như ý thức con người, xử lý rác thải không được bao gồm trong nghiên
cứu này.
Page 15 of 41
[Type text]
Năm hệ thống phụ xem xét bao gồm 4 hoạt động, các phát thải gây ra bởi
việc thu gom và vận chuyển rác không được quản lý tốt. Những điều này
bao gồm việc thu gom không hết, ô nhiễm mùi, khả năng phát sinh dịch

bệnh tại các bãi tập trung rác và rác xả bừa bãi trong khu vực đô thị. Trong
nghiên cứu này, chúng tôi nêu bật riêng cái gì được xem xét chung trong các
vấn đề môi trường chính của qui trình quản lý rác thải trong đô thị, bao gồm
việc rác thải không được thu gom hết gây mất vẻ mỹ quan đô thị, các chất
phân hủy trong rác gây ô nhiễm và phát tán bệnh tật.
Các tác động môi trường có liên quan được đánh giá bởi sự khẩn cấp về môi
trường hoặc các chỉ tiêu đánh giá mức độ ô nhiễm. Đối với ô nhiễm mùi do
rác thải gây ra thì các chỉ tiêu sau đây được sử dụng: nồng độ khí H
2
S, NH
3
.
Đối với vấn đề gây dịch bệnh do các vi sinh vật gây bệnh sinh ra khi rác thải
phân hủy thì chỉ tiêu là các bệnh tật có thể gây ra cho con người, mức độ
nguy hiểm và khả năng lây lan của chúng.
Page 16 of 41
[Type text]
Phần 3
Tác động của rác thải đến môi trường
3.1 Ô nhiễm mùi
Hiện nay, mỗi ngày thành phố Hồ Chí Minh thải ra khoảng 6.000 tấn rác
các loại, trong đó có trên 4.000 tấn là rác hữu cơ dễ bị phân hủy và bốc
mùi gây ô nhiễm môi trường Do vậy việc thu gom, bảo quản và vận
chuyển rác hữu cơ phải nhanh chóng trước khi gây ô nhiễm môi trường
và lây lan dịch bệnh. Tuy nhiên hiện nay toàn Thành phố mới có 4 trạm
ép rác kín đảm bảo theo quy định, còn lại trên 400 điểm thu gom rác hở
không đảm bảo quy định vệ sinh môi trường (Hoàng Anh, 2008
Hiện nay, ở quận, huyện nào cũng có nhiều điểm thu gom, trung chuyển
rác đang trở thành bãi rác lộ thiên rất lớn gây ô nhiễm môi trường trên
một diện tích rộng lớn như điểm thu gom rác dưới chân cầu Chánh Hưng

(quận 8), bãi rác trên đường Kha Vạn Cân (quận Thủ Đức) Bên cạnh
đó việc thu gom, vận chuyển rác từ hộ dân đến các trạm trung chuyển của
các tổ dân lập ở các quận huyện còn nhiều bất cập như giờ giấc không
hợp lý, phương tiện thu gom chuyên chở chưa đúng quy định, thiếu thùng
đựng rác có nắp đậy kín làm cho rác ở các điểm trung chuyển phải lưu
lại khá lâu nên bị phân hủy, bốc mùi gây ô nhiễm môi trường xung
quanh. (Hoàng Anh, 2008)
Page 17 of 41
[Type text]
Mùi từ rác thải phát sinh do rác thừa có nguồn gốc hữu cơ dễ phân huỷ
như: vây cá, vỏ bí, lá rau bị sâu, Khi các chất này phân huỷ hị khí sinh ra
CH
4
, H
2
S…gây mùi hôi. Và mùi sinh ra khi tồn trữ chất thải rắn trong
thời gian dài giữa các khâu thu gom, trung chuyển và thải ra bãi rác nhất
là ở những vùng khí hậu nóng do quá trình phân huỷ kỵ khí các chất hữu
cơ dễ bị phân huỷ có trong chất thải rắn sinh hoạt (T.S Mỹ Diệu)
Do các chất hữu cơ chứa đựng trong các túi nilon nên một phần chúng
phân huỷ trong điều kiện hiếu khí lẫn kị khí.
Phương trình sinh hoá trong điều kiện kị khí (Lê Thị Kim Oanh, 2006)
Chất hữu cơ  Tế Bào Mới + CH
4
+ H
2
S + CO
2
+ H
2

S + H
2
O
Mùi khó chụi ấy có thể phát trong giai đoạn: lưu trữ tại nhà, thu gom và
vận chuyển
Giai đoạn lưu trữ tại nhà có thời gian đối đa là 24h (vì ngừơi thu gom chỉ
thu gom một lần trong ngày) trong giai đoạn này các chất hữu cơ dần dần
phân huỷ nên lượng khí CH
4
, H
2
S sinh ra đương đối ít.
Sau đó là đến giai đoạn thu ngừơi thu gom đến từng hộ dân để lấy rác để
vận chuyển đến nơi chung chuyển. Các loại phương tiện tại TPHCM rất
đa dạng, chủ yếu là các loại xe thô sơ, điển hình như các loại xe đẩy tay,
xe ba gác đạp, ba gác máy, xe lam. Ngoài ra còn có các loại xe khác như
xe tải, xe công nông cải tiến, xe máy cày cải tiến,… Chính các phương
Page 18 of 41
[Type text]
tiện thu gom thô sơ này đã không bảo đảm yêu cầu vệ sinh môi trường,
gây bốc mùi, để rơi vải rác dọc đường vận chuyển.(Trần Nhật Nguyên)
Từ nhiều năm nay, việc thu gom rác ở thành phố Hồ Chí Minh luôn là
một vấn đề gây rất nhiều khó khăn cho các nhà quản lí. Chỉ ở một điểm
hẹn trước chợ Tân Bình, vào khoảng 17h mà đã có hàng trăm xe ba gác
rác lần lượt kéo đến, rác đổ vung vãi trên diện tích 50 m
2
kéo dài nhiều
giờ liền, bốc mùi hôi thối,. Đây không phải là điểm duy nhất mà có đến
hàng trăm trường hợp tương tự tên khắp địa bàn thành phố (Việt Báo,
2001)

Tiếp đến giai đoạn trung chuyển, là khâu cần thiết trong việc bảo đảm vệ
sinh đô thị khi vận chuyển, xử lý rác vì xe thu gom rác nhỏ (xe lam, xe ba
gác, xe đẩy tay ) không thể đưa rác từ hộ gia đình đến nơi xử lý, còn các
xe tải lại không thể gom rác trực tiếp từ hộ gia đình. Tại trạm trung
chuyển, rác được làm giảm thể tích bằng phương pháp ép, nén hoặc các
công nghệ khác trước khi vận chuyển đến công trường xử lý (Kỹ sư Hà
Minh Châu, 2008)
Các xe đẩy tay thu gom rác đưa đến điểm hẹn, đối với những khu vực
không có trạm trung chuyển thì được chuyển từ xe đẩy tay lên thẳng xe
ép rác rồi đưa đến trạm trung chuyển ở các Quận khác hoặc đưa thẳng
đến bãi chôn lấp. Tùy theo sự bố trí và điều kiện kỹ thuật của trạm trung
chuyển hoặc các bô rác mà các hoạt động vận chuyển rác được tiến hành
Page 19 of 41
[Type text]
theo phương thức đổ trực tiếp hoặc sang xe ép nhỏ đổ xuống trạm trung
chuyển, tại trạm trung chuyển xe xúc thực hiện công đoạn xúc rác lên xe
tải ben, xe ép lớn để chuyển đến bãi rác.( Trần Nhật Nguyên)
Hiện cả thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 17 trạm trung chuyển rác, trong
khi nhu cầu cần từ 72-96 trạm (Kỹ sư Hà Minh Châu, 2008). Thiếu trạm
trung chuyển để giải quyết lượng rác thải hằng ngày, TP tiếp tục tồn tại
các bô rác hở, các điểm hẹn tập kết rác trên đường phố hoặc tại các khu
đất trống. Hiện, TP tồn tại khoảng 26- 30 bô rác hở và hơn 400 điểm lấy
rác (Kỹ sư Hà Minh Châu, 2008).
Theo số liệu thống kê từ Công ty Môi trường đô thị, hiện trên toàn địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh còn khoảng 400 điểm hẹn lấy rác. Trong đó,
chỉ có 4 trạm ép rác kín, còn lại là các điểm hẹn ép rác nổi(Ngọc Lữ,
2008) các bô/trạm trung chuyển rác của thành phố chỉ một số có kiến trúc
kín, có mái che, ít gây ô nhiễm, còn đa số những bô/trạm xây dựng cũ,
lưu chứa tạm thời không có máy che (Trần Nhật Nguyên) điều này gây ô
nhiễm mùi nghiêm trọng tại các khu vực ép rác không đúng kĩ thuật.

Giai đoạn vận chuyển là giai đoạn vận chuyển rác tới nơi xử lý
Theo số liệu báo cáo của Phòng Quản lý Chất thải rắn, vào năm 2005
thành phố Hồ Chí Minh có 283 xe vận chuyển rác các loại như xe tải ben,
xe ép, xe hooklift. Năng lực thu gom vận chuyển 6.059 tấn rác/ngày từ
các nơi phát sinh rác (điểm hẹn, chợ, cơ sở sản xuất, trạm ép rác kín, nơi
Page 20 of 41
[Type text]
có nguồn rác lớn) vận chuyển rác trực tiếp lên bãi xử lý với cự ly vận
chuyển trung bình là 32,66 km (Trần Nhật Nguyên)
Các xe chở rác này đều được giữ kín cho nên đã hạn chế được mùi hôi
thối.
3.2 Mỹ quan đô thị
Hiện nay việc thu gom và xử lý chất thải rắn đô thị và công nghiệp vẫn
đang còn ở tình trạng chưa đáp ứng yêu cầu, đây là nguyên nhân quan
trọng gây ô nhiễm môi trường nước, không khí, đất, vệ sinh đô thị và ảnh
hưởng xấu đến cảnh quan đô thị và sức khoẻ cộng đồng. Phương tiện thu
gom rác ở TP Hồ Chí Minh hiện nay vẫn chưa thống nhất, mỗi địa bàn sử
dụng phương tiện thu gom khác nhau, có khi một địa bàn sử dụng cùng
lúc nhiều loại phương tiện tùy vào mức độ tiện dụng và tổ chức thu gom
sử dụng. Các loại phương tiện rất đa dạng, chủ yếu là các loại xe thô sơ,
điển hình như các loại xe đẩy tay, xe ba gác đạp, ba gác máy, xe lam.
Ngoài ra còn có các loại xe khác như xe tải, xe công nông cải tiến, xe
máy cày cải tiến,… Chính các phương tiện thu gom thô sơ này đã không
bảo đảm yêu cầu vệ sinh môi trường, gây bốc mùi, để rơi vải rác dọc
đường vận chuyển ( ThS. Trần Nhật Nguyên, 2008)
Hơn nữa ý thức của người dân chưa tốt, hằng ngày, không ít người dân
phố lầu thản nhiên ném bịch vỏ trái cây hay túi rác bẩn xuống đường;
việc tổ chức họp phổ biến, vận động đóng tiền thu gom rác ở một số khu
Page 21 of 41
[Type text]

dân cư nhiều lần vấp phải phản ứng tiêu cực của một số hộ dân với nhiều
lý do khó chấp nhận được. Phí vệ sinh hàng tháng tùy khu vực tính bình
quân cho một hộ gia đình rất nhỏ nhưng vẫn có nhiều hộ trì hoãn, viện
nhiều lý do để khỏi phải đóng; có nhiều hộ lại chọn cách vứt rác ở nơi
công cộng như trụ điện, vỉa hè hay vứt xuống kênh, rạch để tránh phí
này. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nguồn
nước kênh rạch, ô nhiễm môi trường công cộng đáng báo động hiện nay ở
thành phố và làm mất đi vẻ mỹ quan đô thị. (Nguyễn Kim,2009)
3.3 Vấn đề dịch bệnh
Hiện nay vấn đề phát sinh dịch bệnh do rác thải tại trạm trung chuyển
cũng là một vấn đề cần được quan tâm rất nhiều.
Rác thải của các thành phố, khu công nghiệp là vấn đề lớn cần giải quyết
tại các khu công nghiệp cũng như khu đô thị. Kết quả nghiên cứu của
Viện YHLĐ và VSMT tại khu dân cư cạnh các bãi rác cho thấy: nồng độ
hơi khí H2S 0,02-0,036 mg/m3, NH3 0,033-0,25mg/m3 vượt tiêu chuẩn
vệ sinh cho phép 2,5-4,3 lần. Các chỉ tiêu về vi sinh vật như tống số vi
khuẩn hiếu khí, tổng số cầu khuẩn tan máu và tổng số nấm vượt quá giới
hạn cho phép từ vài lần đến hàng nghìn lần. Tất cả các mẫu xét nghiệm
Page 22 of 41
[Type text]
nước thải từ bãi rác đều có vi khuẩn Coliform cao gấp 7-114 lần tiêu
chuẩn cho phép. Về lí hoá học, nước thải từ bãi rác có màu nâu đục đến
đen nhạt, mùi thối, chỉ số DO đều thấp hơn giới hạn cho phép, các chỉ số
DBO5 và COD cao hơn tiêu chuẩn cho phép 1-3 lần. Đất ở khu dân cư
lân cận xếp loại nhiễm bẩn. Chất lượng nước ăn uống của người dân có
pH hơi axit chiếm 45%, độ oxy hoá có 13% và 71% không đạt tiêu chuẩn
cho phép, mẫu Coliform tổng số không đạt tiêu chuẩn cho phép là 97,5%.
Kết quả khám lâm sàng cho thấy, các triệu chứng bệnh hô hấp, tai mũi
họng, răng hàm mặt, mắt, da liễu, xương khớp ở nhóm nghiên cứu cao
hơn (có ý nghĩa thống kê) so với nhóm đối chứng (Hạnh, báo động! Ô

nhiễm môi trường sống)
Vấn đề phát sinh và phân tán mầm bệnh tại trạm trung chuyển là do các
nguyên nhân chính sau: (1) thu gom, tập kết rác tại trạm, (2) lưu trữ rác
tại trạm, (3) quá trình chuyển rác đến nơi tập trung vận chuyển đến nơi xử
lý rác.
Việc thu gom, tập kết rác tại trạm trung chuyển tiềm ẩn nguy cơ phát sinh
dịch bệnh. Rác thải sinh hoạt hằng ngày chứa nhiều chất hữu cơ, vô cơ và
có nhiều chất độc hại khác nhau nhưng không được phân loại tại nguồn,
chỉ được thu gom bởi các xe thu gom thô sơ tại nhà do đa số các xí
nghiệp tư nhân tự mở dịch vụ. Quá trình thu gom này làm cho các loại rác
thải lẫn lộn với nhau,rất khó xử lý triệt để. Và trong rác thải sinh hoạt
Page 23 of 41
[Type text]
hằng ngày cũng đã có sẵn các mầm mống vi sinh vật gây bệnh. Chính quá
trình thu gom, tập kết đến trạm trung chuyển sẽ phân tán mầm bệnh.
Thời gian lưu trữ rác tại trạm trung chuyển lâu làm cho các chất hữu cơ
có khả năng phân hủy sẽ phân hủy gây nên mùi khó chịu, nhất là trong
những ngày nắng nóng. Một số trạm trung chuyển không có đủ các loại
hóa chất khử trùng cho rác trong thời gian lưu trữ tạo điều kiện cho vi
sinh vật gây bệnh phát triển, chủ yếu là các bệnh dễ lây nhiễm qua đường
hô hấp và do các sinh vật phát tán như ruồi, muỗi, chuột, gián,…nước rĩ
rác từ rác lưu trữ cũng là môi trường thuận lợi để vi sinh vật phát triển, và
làm mất mỹ quan.
Trong quá trình vận chuyển rác từ trạm trung chuyển đến nơi tập trung sẽ
phân tán mầm bệnh qua đường không khí, nước rĩ rác rơi chảy xuống
đường và cả rác bị rơi vãi do phương tiện vận chuyển không đảm bảo
hoặc lượng rác vận chuyển quá nhiều.
Các bệnh thông thường do rác thải gây ra thường là tiêu chảy, vàng da,
sốt xuất huyết, dịch hạch,…
Ngoài ra thì hiện tại hệ thống ép rác tại một số trạm trung chuyển thường

bị hỏng, thiếu hệ thống hút và xử lý mùi hôi nên càng ảnh hưởng đến
người dân xung quanh. Phương thức chuyển rác từ thùng rác lên xe cuốn
ép thực hiện tại các đường phố vừa không đảm bảo vệ sinh môi trường,
Page 24 of 41
[Type text]
vừa gây mất mỹ quan, đồng thời không khai thác được hiệu quả hoạt
động của các trạm trung chuyển…
Và thêm một vấn đề nữa là do các trạm trung chuyển nằm gần các khu
dân cư, càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tán mầm bệnh từ rác.
Dạo quanh các địa phương khác, tình trạng các trạm trung chuyển rác,
những "điểm hẹn" ép rác gây ô nhiễm môi trường, nguy cơ lây lan dịch
bệnh từ các thùng rác không được che kín cũng đang rất phổ biến.( Sài
Gòn Giải Phóng, 2009)
Thậm chí, người ta ngang nhiên biến trạm chờ xe buýt thành một trạm ép
rác, với hàng chục xe thu gom nối đuôi nhau từ sáng đến tối, vừa gây ô
nhiễm cho người dân, vừa gây cản trở giao thông cả đoạn đường, vốn đã
rất hẹp do phân luồng. (Ngọc Lữ, 2008)
Còn tại quận Thủ Đức, các trạm trung chuyển rác không những đang lấn
sâu vào các khu dân cư, chợ (như bãi rác "nổi tiếng" về ô nhiễm môi
trường trên đường Kha Vạn Cân, khu phố 7 phường Hiệp Bình Chánh)
mà còn tấn công vào cả bệnh viện đa khoa, khu nhà lưu trú của công nhân
(như trạm trung chuyển nằm trên đường Lê Văn Chí, khu phố 1 phường
Linh Trung). (Công ty môi trường đô thị thành phố Hồ Chí Minh, 2010)
Mỗi ngày tình trạng ô nhiễm môi trường từ các trạm trung chuyển rác
càng trầm trọng thêm, khi mà giờ giấc hoạt động của các trạm trung
chuyển gần như đang thả nổi, thay vì chỉ hoạt động vào những thời gian
Page 25 of 41

×