Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Một số đặc điểm dịch tễ và công tác phòng chống sốt rét tại tỉnh Điện Biên từ năm 2005-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.99 KB, 92 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt rét là một bệnh do ký sinh trùng Plasmodium gây nên và do muỗi
Anopheles truyền từ người bệnh sang người lành. Bệnh sốt rét tác hại trực tiếp
đến thể chất, tính mạng con người và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh
tế, xã hội của cộng đồng, của Quốc gia, thậm chí cả một khu vực trên Thế giới
[1],[21], [22].
Theo báo cáo của WHO (1991): Sau 36 năm tiến hành tiêu diệt sốt rét
và phòng chống sốt rét (1954-1991), trên toàn thế giới vẫn còn trên 2 tỉ người
sống trong vùng sốt rét (gần 50% dân số thế giới) ở 100 nước, tử vong do sốt
rét hàng năm từ 1- 2 triệu người và số mắc sốt rét mới hàng năm là 110 triệu
người [2].
Trong thập kỷ qua, chương trình tiêu diệt sốt rét và phòng chống sốt rét
tuy có mang lại một số kết quả. Song hơn 10 năm trở lại đây chương trình gặp
một số khó khăn nên sốt rét vẫn được coi là một trong những bệnh xã hội gây
tác hại hàng đầu cho nhân loại [37].
Tại Việt Nam vào những năm đầu thập kỷ 90, hàng năm cả nước có
trên một triệu người mắc sốt rét, hàng nghìn người chết và hàng trăm vụ dịch
sốt rét xẩy ra. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo trực tiếp
của Bé Y tế, Chương trình Phòng chống sốt rét cùng với mạng lưới chuyên
khoa các tuyến từ Trung ương đến thôn bản và cộng đồng đã tích cực thực
hiện các biện pháp phòng chống sốt rét, tình hình sốt rét đã được cải thiện rõ
rệt [22].
Việt Nam nằm ở vùng nhiệt đới có nhiều điều kiện thuận lợi để bệnh sốt rét
phát triển, có tới 2/3 diện tích cả nước với khoảng 50% dân số sống trong vùng sốt
rét lưu hành[38].
Chương trình Phòng chống sốt rét Quốc gia trong những năm qua đã
thu được thành tựu đáng kể. Từ năm 1991 đến năm 2004, số ca sốt rét dương
1
tính đã giảm từ 187.904 xuống 24.909. Số ca chết giảm từ 4.646 xuống còn 24
ca. Tuy nhiên, trong năm 2004 ở 61 tỉnh thành của cả nước vẫn có những ca
sốt rét dương tính. Trong đó có 23 tỉnh tình hình sốt rét vẫn còn rất nghiêm


trọng với 43 triệu dân nằm trong vùng có nguy cơ mắc sốt rét. Các điều tra
cho thấy, người dân sống ở vùng sâu vùng xa ít tiếp cận với các dịch vụ y tế
và ít sử dụng màn, chịu gánh nặng sốt rét lớn nhất. Bệnh sốt rét có ảnh hưởng
đáng kể đến nghèo đãi và phát triển xã hội ở những vùng này. [9],[17].[23].
Điện Biên là một tỉnh miền núi, vùng cao, biên giới, có đầy đủ các điều
kiện về địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội và những khó khăn về dịch vụ y tế Vì
vậy tình hình sốt rét luôn phức tạp và trầm trọng với đỉnh cao là những năm
1980-1990 [2].
Bằng nhiều sự cố gắng trong tất cả các lĩnh vực, đến nay tình hình sốt rét
tại Điện Biên đã tạm thời ổn định. Tuy vậy, Chương trình phòng chống sốt rét
triển khai tại tỉnh Điện Biên chưa xây dựng và duy trì được các yếu tố bền vững
để tiến tới đẩy lùi bệnh sốt rét. Các yếu tố dịch tễ bệnh sốt rét còn nhiều nguy cơ
tiềm ẩn và có xu hướng diễn biến phức tạp. Vì vậy, việc mô tả một số đặc điểm
dịch tễ bệnh sốt rét và đánh giá công tác phòng chống sốt rét tại tỉnh Điện Biên
giai đoạn từ năm 2005 - 2008 là hết sức cần thiết. Với những lý do trên chúng tôi
tiến hành đề tài nghiên cứu “Một số đặc điểm dịch tễ và công tác phòng chống
sốt rét tại tỉnh Điện Biên từ năm 2005-2008” với mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ bệnh sốt rét tại tỉnh Điện Biên từ năm
2005 - 2008.
2. Đánh giá kiến thức, thực hành phòng chống sốt rét của Trưởng trạm
y tế xã và nhân viên y tế thôn, bản, lãnh đạo chính quyền các cấp.
3. Mô tả thực trạng công tác quản lý, phòng chống sốt rét tại tỉnh Điện
Biên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. NGUYÊN NHÂN SINH BỆNH SỐT RÉT [26],[28],[31]
- Khoảng 400 năm trước công nguyên, Hipocrate (Hy lạp) đã mô tả chi
tiết các triệu chứng lâm sàng bệnh sốt rét.
- 1880: Laveran (Pháp) lần đầu tiên phát hiện ký sinh trùng sốt rét trong

máu bệnh nhân ở Algieria.
- 1886 Golbi (Italy) phát hiện 2 loại KSTSR ở người là P.vivax và
P.malariae.
- 1889 – 1890: Celli và Marchiafava (Italy) phát hiện ra một loài ký
sinh trùng sốt rét ở người là Plasmodium.
- 1922: Stepphens, phát hiện một loại ký sinh trùng sốt rét: P.ovale.
- 1897: Ronald Ross (Anh) lần đầu tiên phát hiện ký sinh trùng sốt rét
phát triển ở cơ thể muỗi (An.Stephensi) tại Ên Đé.
- 1898: Ronald Ross thí nghiệm ký sinh trùng sốt rét ở người và chim,
xác định muỗi Anopheles là trung gian truyền bệnh sốt rét cho người.
- 1898. Grassi, Bignami, Bastianelli (Ý) thí nghiệm toàn bộ chu kỳ phát
triển của ký sinh trùng sốt rét ở muỗi và người, họ đã khẳng định nghiên cứu
của Ronald Ross.
Từ kết quả trên, người ta đã tìm ra nguyên nhân của bệnh sốt rét là do
ký sinh trùng sốt rét (mầm bệnh phát triển trong máu bệnh nhân). Và được
muỗi Anopheles (trung gian truyền bệnh) đốt truyền từ người bệnh sang người
lành (cơ thể cảm thụ). Như vậy nguyên nhân gây bệnh sốt rét do 3 yếu tố:
- Ký sinh trùng sốt rét (Plasmodium): Mầm bệnh
3
- Muỗi sốt rét Anopheles: Trung gian truyền bệnh
- Con người: Cơ thể cảm thô
Thiếu 1 trong 3 yếu tố trên thì không thể có quá trình sinh bệnh SR.
Tuy nhiên những đặc điểm riêng biệt của mỗi yếu tố đều có liên quan đến quá
trình sinh bệnh SR.
1.1.1. Mầm bệnh [24],[31].
- Nguyên nhân gây bệnh sốt rét là do KSTSR có gần 100 loại nhưng
đến nay người ta mới biết có 4 loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium
falciparum. P.vivax, P.ovale và P.malariae.
Người mang KSTSR có thể biểu hiện các triệu chứng lâm sàng điển
hình như rét run, sốt nóng, ra mồ hôi và khát nước. Cũng có thể biểu hiện các

triệu chứng không điển hình như: sốt cao, nhức đầu, ớn lạnh, đau toàn thân, và
còng cã thể không biểu hiện triệu chứng gì cả, đó là trường hợp người mang
ký sinh trùng lạnh. Tuỳ theo loại ký sinh trùng sốt rét mang trong người mà
bệnh nhân sốt mỗi ngày một cơn (P.falciparum). Hai ngày Một cơn (P.vivax).
Ba ngày một cơn (P.malariae). Cơn sốt thường xuất hiện đúng giê, có tính
chu kỳ rõ rệt ăn khớp với quá trình phát triển của KSTSR. Trong máu người
mang KSTSR ta thường gặp hai thể. Thể vô tính (tư dưỡng phân liệt) và thể
hữu tính (giao bào hay giao tử). Ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người bệnh
rất nhỏ và chỉ thấy được bằng kính hiển vi. Chu kỳ sống của KSTSR phải
hoàn thành qua hai vật chủ:
- Giai đoạn sinh sản hữu tính ở cơ thể muỗi (vật chủ chính)
- Giai đoạn sinh sản vô tính ở cơ thể người (vật chủ phụ) và gây ra
những hiện tượng bệnh lý.
4
Đời sống của KSTSR trong cơ thể người có hạn định, tuỳ theo loại ký
sinh trùng sốt rét mà chúng tồn tại trong cơ thể người từ 6 tháng đến 3 năm.
Một số trường hợp có thể tồn tại lâu hơn, trên 10 năm như (P.malariae).
Một người nào đó muốn biết mình có mắc bệnh sốt rét hay không? cách
chẩn đoán chính xác nhất là dựa vào kết quả xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt
rét trong máu bằng kính hiển vi.
1.1.2. Trung gian truyền bệnh [24],[31].
Muỗi Anopheles là vật chủ trung gian truyền bệnh sốt rét. Trên thế giới
có khoảng 420 loài Anopheles khác nhau. Trong đó có khoảng 70 loài được
xác định là vector truyền bệnh sốt rét. Do các đặc điểm về địa lý khí hậu và
sinh thái của muỗi mà ở mỗi vùng mỗi nước có các loại truyền bệnh sốt rét
chính khác nhau. Những yếu tố để xác định một loại muỗi là vector truyền
bệnh sốt rét bao gồm: Nhiễm thoa trùng ở tuyến nước bọt; Ưa đốt người; Tần
số đốt ngắn; Mật đé cao ở mùa sốt rét. Dưới đây là các loại vector truyền bệnh
sốt rét ở Việt Nam:
- Loại truyền bệnh chính:

+ An. minimus: Muỗi sống ở bìa rừng, trong rừng, rừng savan, bọ gậy
sống ở ven suối quang, nước chẩy chậm.
+ An.dirus : Muỗi ở rừng rậm, bìa rừng, rừng thưa, bọ gậy sống ở vũng
nước đọng, dưới bóng râm trong rừng.
- Loại truyền bệnh phụ:
+ An.aconitus , An.maculaus , An.jeyporiensis (vùng nói)
+ An.sundaicus , An.subpictus (ven biển nước lợ)
1.1.3. Cơ thể cảm thụ [24],[31].
Nói chung tất cả mọi người đều có thể mắc bệnh SR nếu bị muỗi
Anopheles nhiễm KSTSR (thể thoa trùng ở tuyến nước bọt) đốt.
5
Về lứa tuổi: Vùng sốt rét lưu hành, tỉ lệ nhiễm bệnh ở trẻ em bao giờ
cũng cao, vì người lớn đã mắc sốt rét nên có miễn dịch (miễn dịch không bền
vững), do đó làm giảm tỉ lệ nhiễm bệnh.
Về giới tính: Không liên quan đến yếu tố cảm thụ sốt rét nên tỉ lệ mắc
sốt rét tương đương giữa nam và nữ.
Một số ngành nghề có liên quan đến rừng núi (làm việc trong rừng, ngủ
lại trong rừng), thường có tỉ lệ mắc sốt rét cao. Dân cư từ vùng thành thị, đồng
bằng vào vùng SR lưu hành dễ nhiễm bệnh SR và khi mắc bệnh SR, bệnh
thường nặng vì chưa có miễn dịch sốt rét.
1.1.4. Định nghĩa ca bệnh
Để chẩn đoán bệnh sốt rét người ta dựa vào định nghĩa ca bệnh bao gồm:
- Bệnh nhân sốt rét: Có KSTSR thể vô tính trong máu, xét nghiệm bằng
phương pháp giêm sa dương tính, hoặc dùng que thử chẩn đoán nhanh dương
tính (nếu không có kính hiển vi). Bao gồm bệnh nhân sốt rét thường, bệnh
nhân sốt rét ác tính và người mang ký sinh trùng lạnh (hiện tại không có sốt
và không có sốt trong vòng 7 ngày gần đây).
- Bệnh nhân nghi sốt rét (sốt rét lâm sàng) trường hợp không được xét
nghiệm máu, hoặc xét nghiệm máu âm tính, hoặc chưa có kết quả xét
nghiệm). Nhưng có 4 đặc điểm sau.

- Hiện đang sốt (> 37,5
0
C) hoặc có sốt trong vòng 3 ngày gần đây.
- Không giải thích được nguyên nhân gây sốt khác.
- Đang ở hoặc có qua lại vùng sốt rét trong vòng 9 tháng gần đây.
- Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày.
6
1.2. DỊCH TỄ HỌC BỆNH SỐT RÉT
1.2.1. Các yếu tố của quá trình dịch
Dịch tễ học bệnh sốt rét là một phức hợp các yếu tố liên quan mắt xích
với nhau:
Nguồn bệnh: Là người mang ký sinh trùng sốt rét, có thể là bệnh nhân
hoặc người mang ký sinh trùng không có triệu chứng (ký sinh trùng lạnh).
Trung gian truyền bệnh (vector): Muỗi Anopheles đốt người có ký sinh
trùng thể giao bào, muỗi phải sống đủ lâu để giao bào phát triển thành thoa
trùng và phải đốt được một hoặc nhiều người.
Cơ thể cảm thụ: Người lành, chưa có miễn dịch SR hoặc đã có miễn dịch
nhưng đã giảm thấp.
Nhiệt độ: Thời gian Một chu kỳ phát triển của Plasmodium trong cơ thể
người phụ thuộc vào nhiệt độ ngoài trời: > 14,5
o
C đối với P.vivax, P.malariae,
P.ovale; > 16
o
C đối với P.falciparum. Nhiệt độ có liên quan đến tuổi thọ của
muỗi, nhiệt độ ngoài trời từ 20 đến 30
o
C, muỗi cái có thể sống trên dưới 4
tuần kể cả khi có nhiễm ký sinh trùng sốt rét. Muỗi càng sống lâu càng thuận
lợi cho chu kỳ phát triển ký sinh trùng trong cơ thể muỗi. Điều này có liên

quan đến sự phát triển của muỗi theo mùa, hay mùa truyền bệnh. Những nước
ôn đới, muỗi không phát triển vào những tháng lạnh, những nước nhiệt đới,
cận nhiệt đới, muỗi phát triển quanh năm với đỉnh cao vào đầu và cuối mùa
mưa. Rất hiếm tìm thấy muỗi Anophenles ở độ cao từ 2.000 - 2.500m.
Thời gian mỗi chu kỳ tiêu sinh tuỳ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ thuận
lợi từ 20 đến 30
o
C [18],[44],[45].
Độ Èm: Ảnh hưởng đến tuổi thọ của Anophenles. Anophenles sống lâu
khi có độ Èm tương đối cao (ít nhất > 60%) [41],[42].
7
Lượng mưa và mùa mưa: Ảnh hưởng đến sự phát triển của quần thể
muỗi. Khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho cả P.falciparum, P.malariae và P.ovale.
Vùng cận nhiệt đới thuận lợi cho P.falciparum và P.vivax. Vùng ôn đới,
P.vivax nhiều hơn P.falciparum, và P.malariae hầu như không có.
Sinh cảnh: Ảnh hưởng chủ yếu đến vector truyền bệnh sốt rét, tạo nên
những hình thái sốt rét khác nhau: Sốt rét rừng núi, sốt rét ven biển, sốt rét cao
nguyên, sốt rét đô thị [41],[45].
Sinh học: Động vật rừng, động vật nuôi, thuỷ sản, tuỳ nơi, tuỳ lúc động
vật có tác dụng là mồi thu hút muỗi đốt, do vậy làm giảm tiếp xúc người -
muỗi. Nhiều loài thuỷ sản ăn bọ gậy và có thể làm phương tiện sinh học để
chống muỗi.
Các hoạt động của con người có tác động lớn đến tất cả các khâu lan
truyền bệnh. Các hoạt động đó có thể làm tăng nguy cơ sốt rét. Giao lưu dân
cư các vùng như di dân tự do, xây dựng, đường giao thông, nhà máy thủy
điện, thói quen ngủ đêm tại nương rẫy không nằm màn đều có khả năng làm
lan truyền bệnh sốt rét [41],[42].
Tuy nhiên có những hoạt động làm giảm sốt rét như khai thông mương
máng, lấp hồ ao, phát quang bụi rậm, tăng đàn gia sóc, đô thị hóa, nâng cao
mức sống của dân vv Ngoài ra, nhận thức và thu nhập kinh tế của người dân

có tác động lớn đến công tác phòng chống sốt rét [36].
1.2.2. Giám sát dịch tễ bệnh sốt rét [19], [24],[29],[32].
Giám sát dịch tễ bệnh sốt rét cần theo dõi liên tục tất cả các yếu tố, biến
cố và sự tiến triển của bệnh có liên quan đến hiệu quả các biện pháp phòng
chống, từ đó xem có đạt được mục tiêu của chương trình không. Cụ thể giám
sát dịch tễ bệnh SR là:
8
- Một hệ thống công việc cố định, thường xuyên nhằm cung cấp các
thông tin về bệnh sốt rét và các hoạt động phòng chống.
- Cơ sở để giải quyết vấn đề, lập kế hoạch và tổ chức các biện pháp kỹ
thuật cho chương trình PCSR.
- Dự báo và phát hiện sớm nguy cơ dịch và dịch sốt rét để có biện pháp
can thiệp sớm và hiệu quả.
Mục đích của giám sát dịch tễ bệnh sốt rét bao gồm:
- Xác định số ca mắc và hiện mắc là bao nhiêu ?
- Xác định mức độ nghiêm trọng của ca bệnh và tử vong?
- Xác định tác động của các ca mắc, chết do SR? (ảnh hưởng đến lao
động, sản xuất xã hội, chi phí dịch vụ y tế v v ).
- Xác định các yếu tố trực tiếp, gián tiếp, ảnh hưởng đến việc làm tăng
số ca bệnh và lý giải nguyên nhân.
- Đề xuất biện pháp can thiệp nào để thay đổi trạng thái?
1.3. PHÂN VÙNG DỊCH TỄ SỐT RÉT VÀ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
Hiện nay có nhiều cách phân vùng dịch sốt rét đã được áp dụng trong
phòng chống SR:
- Một sự tăng vọt chỉ số mắc mới trong một quần thể dân cư, mà trước
đó bệnh chưa được phát hiện ở quần thể này (L.J. Bruce Chawatt, 1986).
- Số ca mắc mới vượt quá bình thường tại một thời điểm, một địa dư
nhất định (L.Molineaux, 1988)
- Sự tăng nhanh đột ngột ca bệnh bất thường và có lan truyền bệnh tại
chỗ (C. Delacollette,1996)

Xác định được các vùng dịch tễ sốt rét theo mức độ lưu hành khác nhau
và dân số nguy cơ của từng vùng. Xây dựng chiến lược, biện pháp can thiệp
phù hợp làm cơ sở lập kế hoạch phòng chống sốt rét (phòng chống vector,
9
điều trị và quản lý bệnh nhân sốt rét theo từng vùng) là một công việc hết sức
quan trọng [27],[32],[34], [35],[38].
* Vùng không có sốt rét lưu hành
+ Đặc điểm :
- Địa lý: Đồng bằng, đồng bằng ven biển, thị trấn, thị xã, thành phè, núi
cao>1000m (miền Bắc) > 1500m (miền Nam).
- Sinh cảnh: Ruộng trồng lúa, trồng màu, rừng phi lao, không có khe
suối, núi cao có rừng và thác.
- Không có muỗi An.minimus, An.dirus, An.sundaicus
- Không có KSTSR nội địa (không có lan truyền bệnhSR) )
+ Biện pháp can thiệp:
- Phát hiện, chẩn đoán, điều trị, quản lý bệnh nhân SR, đặc biệt người
mang KSTSR từ nơi khác về.
- Quản lý dân di biến động đi và về từ vùng sốt rét lưu hành, cấp thuốc
sốt rét và tẩm màn cho người đi vào vùng sốt rét.
- Truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
• Vùng nguy cơ sốt rét quay trở lại
+ Đặc điểm :
Là các vùng SR lưu hành cũ, không còn ký sinh trùng nội địa trong
vòng 5 năm trở lại đây.
+ Biện pháp can thiệp:
- Giám sát dịch tễ SR thường xuyên.
- Có biện pháp phòng chống vector thích hợp khi có KSTSR nội địa.
- Phát hiện, chẩn đoán, điều trị, quản lý bệnh nhân SR.
- Quản lý dân di biến động đi và về từ vùng sốt rét lưu hành, cấp thuốc
SR và tẩm màn cho người đi vào vùng SR.

10
- Truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
• Vùng sốt rét lưu hành nhẹ
+ Đặc điểm :
- Địa lý: Đồi thấp nước chẩy, cao nguyên 800-1000 m (miền Bắc), núi
nhô ra biển (miền Nam), ven biển.
- Sinh cảnh: Ruộng lúa, đồng màu, vườn cây công nghiệp, cây ăn quả,
trảng cỏ, cây, bụi, suối to, mương, lạch nước.
- Bắt đầu có muỗi An.minimus, hoặc An.dirus, An.sundaicus
- Có ký sinh trùng sốt rét nội địa
- Chỉ số bệnh nhân sốt rét 1-5 người/1000 dân/năm
+ Biện pháp can thiệp:
- Phát hiện chẩn đoán điều trị, quản lý bệnh nhân SR, người mang
KSTSR.
- Vận động nhân dân nằm màn chỉ tẩm màn ở các nơi giáp với các vùng
SR lưu hành vừa và nặng.
- Giám sát dịch tễ SR thường xuyên.
- Củng cố màng lưới y tế cơ sở, quản lý y, dược tư nhân.
- Quản lý di biến động dân di cư đi và về từ các vùng không có hoặc có
SR lưu hành.
- Truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
• Vùng sốt rét lưu hành vừa
+ Đặc điểm :
- Địa lý: Nói đồi, nước chảy có nhiều khe suối. Ven biển nước lợ (miền
Nam)
- Sinh cảnh: Rừng thưa xen kẽ savan, cây bụi quanh rừng rậm, rừng cây
công nghiệp.
11
- Muỗi An.minimus, có điều kiện phát triển sinh sản tốt. Từ Thanh Hoá
trở vào có An.dirus. Từ Bình Thuận trở vào có An.sundaicus .

- Có ký sinh trùng sốt rét nội địa
- Chỉ số bệnh nhân sốt rét 5-10 người/1000 dân /năm
- Tỉ lệ P.falciparum < 70%
+ Biện pháp can thiệp:
- Phát hiện chẩn đoán điều trị, quản lý bệnh nhân SR, người mang
KSTSR.
- Vận động nhân dân nằm màn, tẩm màn hoá chất diệt muỗi ở nhà và
khi đi rừng. Phun tồn lưu nơi dân không nằm màn hay tỉ lệ nằm màn < 80%.
- Truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
- Giám sát dịch tễ SR thường xuyên.
- Củng cố màng lưới y tế cơ sở, điểm kính hiển vi, quản lý y, dược tư nhân.
- Phối hợp đa ngành quân dân y.
• Vùng sốt rét lưu hành nặng
+ Đặc điểm:
- Địa lý núi rừng nước chảy, rừng bằng nam bé .
- Sinh cảnh: Rừng rậm, bìa rừng, rừng tái sinh, rừng cây công nghiệp
(cao su, cà phê ). Nhiều khe suối vũng nước đọng.
- Muỗi An.minimus có điều kiện sinh sản phát triển tốt.Trú cả trong và
ngoài nhà. Từ Thanh Hoá trở vào có An.dirus có điều kiện phát triển mạnh.
- Có KSTSR nội địa.
- Chỉ số bệnh nhân sốt rét >10 người/1000 dân /năm
- Tỉ lệ P.falciparum > 70%
+ Biện pháp can thiệp:
12
- Phát hiện chẩn đoán điều trị, quản lý bệnh nhân SR, người mang
KSTSR (ưu tiên thuốc hiệu lực cao)
- Vận động nhân dân nằm màn tẩm hoá chất ở nhà và cả khi ngủ trong rừng.
- Ưu tiên phun vùng có điểm nóng (nguy cơ xẩy ra dịch). Giám sát dịch
tễ SR thường xuyên, truyền thông giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng. Củng cố
y tế cơ sở, và các điểm kính hiển vi, quản lý y dược tư nhân. Sớm phát hiện và

có biện pháp bảo vệ dân vùng không có SR lưu hành đến. Cấp thuốc SR cho
những đối tượng đi rừng ngủ rẫy. Phối hợp đa ngành quân dân y.
1.4. TÌNH HÌNH BỆNH SỐT RÉT TRÊN THẾ GIỚI
Theo báo cáo sốt rét toàn cầu của tổ chức y tế Thế giới(WHO). (World
malaria repots. WHO/RBM/2005). "Sốt rét là bệnh phổ biến nghiêm trọng trên
Thế giới, hàng năm có khoảng hơn 3.200 triệu người (40% dân số) có nguy cơ
nhiễm sốt rét. Ước tính hàng năm có 350 - 500 triệu người mắc và hơn 1 triệu
người chết do sốt rét, trong đó đa số là trẻ em dưới 5 tuổi chủ yếu ở châu Phi
và Nam Sahara Việt Nam là một trong những nước có mức độ KSTSR
kháng thuốc cao. Tình trạng KSTSR đa kháng thuốc đã được báo cáo từ
những năm đầu của thập kỷ 80. Artemisinin và dẫn chất của Artemisinin (nh
artesunat ) được sử dụng rộng rãi để điều trị SR ở tuyến đầu (first- line
treatment) sau đó là các thuốc SR phối hợp (ACT), nhờ vậy đã làm giảm tỉ lệ
chết do SR [77].
1.4.1.Chương trình tiêu diệt SR trên Thế giới 1955 – 1968 [1],[15],[44].
Nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những năm 1950 con người đã
hiểu biết cơ bản về bệnh sốt rét. Năm 1955, cuộc họp lần thứ XIV của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề ra chương trình PCSR trên toàn Thế giới có
thời hạn 10 – 12 năm với 4 giai đoạn:
13
+ Giai đoạn chuẩn bị (2 năm): Chuẩn bị cán bộ ,vật tư làm thí điểm (điều
tra cơ bản, phân vùng dịch tễ sốt rét, nghiên cứu muỗi truyền bệnh ).
+ Giai đoạn tấn công (4 năm): Tiến hành các biện pháp diệt muỗi truyền
bệnh bằng cách phun hóa chất (DDT) triệt để trong cả nước, kết hợp với điều
trị toàn dân trong vùng sốt rét lưu hành nhằm đạt tỉ lệ KSTSR hàng năm chỉ
còn 1/1 vạn dân, tỉ lệ KSTSR ở trẻ em < 2 tuổi bằng 0.
+ Giai đoạn củng cố (3 năm): Ngõng phun hóa chất (DDT) và điều trị
rộng rãi, thực hiện giám sát dịch tễ, quản lý thanh toán các ổ bệnh còn lại.
Trong 3 năm liền nếu không phát hiện được BNSR nào mắc tại địa phương thì
kết thúc giai đoạn củng cố.

+ Giai đoạn bảo vệ (nhiều năm): Là giai đoạn cuối cùng của Chương trình
tiêu diệt sốt rét. Trong giai đoạn này chỉ cần phun hóa chất diệt muỗi truyền
bệnh ở vùng biên giới với các nước chưa tiêu diệt sốt rét. Triệt để quản lý
nguồn bệnh sốt rét từ ngoài xâm nhập vào.
Trong 10 năm đầu (1956-1965) Chương trình này tiến hành thuận lợi,
vì vậy bệnh sốt rét đã được tiêu diệt ở các nước Châu Âu, một phần Châu Á
của Liên Xô (cò), một số nước Cận Đông, Bắc Mỹ, Châu Úc, một số nước của
Châu Á (Nhật Bản, Triều Tiên, Singapore).
Từ 1966 trở đi chương trình tiến chậm, có nơi sốt rét quay trở lại
(Srilanka, Nam Mỹ, Đông Nam Á). Vì vậy tại cuộc họp lần thứ 17 của Hội
đồng chuyên viên sốt rét – WHO đã tìm ra 12 khó khăn trong việc tiến hành
chương trình tiêu diệt sốt rét, trong đó có 3 khó khăn về kỹ thuật.
- Muỗi sốt rét kháng hóa chất diệt (53 loại kháng DDT)
- Muỗi sốt rét trú ẩn ngoài nhà (tránh DDT)
- KSTSR kháng thuốc (P.falciparum kháng nhóm 4-aminoquinolein) và 9
khó khăn về tổ chức kinh tế xã hội .
14
1.4.2. Chương trình phòng chống sốt rét trên Thế giới [15].
Tại kỳ họp 22, WHO đã xét lại tình hình và đưa ra chiến lược mới. Một
chương trình phòng chống sốt rét không có hạn định về thời gian và mục tiêu
lâu dài là tiến tới tiêu diệt sốt rét, trên phạm vi toàn Thế giới. Tùy theo từng
bước đề ra chương trình phòng chống hay thanh toán sốt rét cho phù hợp.
- Từ 1969- 1979, mỗi nước có chiến lược khác nhau, nhưng thực tế khách
quan đã chứng minh là những nước ở vùng nhiệt đới (Đông Nam Á, Châu Phi,
Nam Mỹ) việc tiêu diệt bệnh sốt rét trong thời gian có hạn định là không thể
thực hiện được.
- Từ 1979, WHO đã chuyển sang chiến lược mới xác định 4 loại hình mục tiêu.
- Loại hình mục tiêu 1: Giảm và đề phòng tử vong do sốt rét.
- Loại hình mục tiêu 2: Giảm và đề phòng tử vong do sốt rét. Giảm mắc ở
những tập thể bị đe dọa (trẻ em, phụ nữ có thai, khách du lịch )

- Loại hình mục tiêu 3: Giảm và đề phòng tử vong do SR. Giảm mắc ở
những tập thể bị đe dọa (trẻ em, phô nữ có thai, khách du lịch ), thêm giảm
mắc SR ở từng thời điểm.
- Loại hình mục tiêu 4: Có chương trình phòng chống SR trong cả nước
với mục tiêu cuối cùng là thanh toán từng bước bệnh sốt rét.
Từ năm 1979 trở đi, tình hình SR trên Thế giới thay đổi rất ít, 12 khó khăn
trên vẫn còn là trở ngại lớn đối với chương trình phòng chống sốt rét.
Từ 1985,WHO đưa ra chương trình phòng chống SR vào nội dung chăm
sóc sức khỏe ban đầu.
Trước tình hình SR trên Thế giới có xu hướng tăng lên, tại Hội nghị Bé
trưởng y tế các nước có SR họp tại Amsterdam tháng 10/1992 đã khẳng định
lại chiến lược phòng chống SR trên toàn cầu trước kia với mục tiêu. Giảm
chết, giảm mắc và giảm thiệt hại do sốt rét.
15
1.4.3. Chiến dịch “đÈy lùi bệnh sốt rét” từ 1998 đến nay.
Mặc dù WHO phát động chiến lược PCSR từ 1979 nhưng kết quả
chậm. Năm 1998, Tổng giám đốc của WHO, TS.GH. Brundtland phát động
chiến dịch “Đẩy lùi sốt rét”, đây không phải là một chiến lược kỹ thuật mới,
mà là giảm gánh nặng do sốt rét.
+ Các nguyên tắc chính đẩy lùi SR là.
- Nhất trí với các chiến lược kỹ thuật đã được chứng minh.
- Nỗ lực làm giảm gánh nặng do SR đi đôi với cải cách hệ thống y tế, tăng
phân bổ kinh phí khu vực y tế Nhà nước, hợp tác giữa Nhà nước và y tế tư nhân.
+ Mục tiêu đẩy lùi sốt rét là: Giảm được ít nhất 50% gánh nặng của sốt rét
(bệnh nhân sốt rét, tử vong do sốt rét, dịch sốt rét) trên Thế giới vào năm 2010.
- WHO đóng vai trò điều phối và giúp đỡ kỹ thuật
- Nâng cao sù cam kết của các Chính phủ trong phòng chống sốt rét.
- Các chiến lược chuyên môn PSSR cơ bản không thay đổi.
Các ưu tiên bao gồm:
- Có màn và hóa chất tẩm, phòng chống vector cho đối tượng nguy cơ.

- Phát hiện bệnh SR sớm, điều trị kịp thời, an toàn và hiệu quả.
- Điều trị dự phòng cho phụ nữ có thai ở vùng SR lưu hành nặng.
- Dự báo và phòng chống tốt với dịch sốt rét.
- Tăng cường giám sát sốt rét biên giới.
1.5. TÌNH HÌNH SỐT RÉT Ở VIỆT NAM
1.5.1. Các giai đoạn chính [25],[45].
+ Giai đoạn 1958 - 1975: Do đất nước bị chia cắt, chương trình tiêu diệt
sốt rét được tiến hành riêng biệt ở 2 miền Nam – Bắc.
- Miền Bắc 1958-1960 giai đoạn chuẩn bị, 1964 giai đoạn tấn công,1965-1975
giai đoạn cuối tấn công. KÕt quả đạt được 5 KSTSR/vạn dân vào năm 1975.
16
- Miền nam:1958-1959 giai đoạn chuẩn bị, 1960-1964 giai đoạn tấn công,
1965-1975 bỏ dở tấn công vì chiến tranh ác liệt. KÕt quả sốt rét tăng cao dịch
nổ ra ở nhiều nơi vào năm 1975.
+ Giai đoạn 1976 - 1990: Chương trình tiêu diệt SR chuyển sang thanh
toán SR trong phạm vi cả nước theo loại hình mục tiêu 4 của WHO. Trong
hơn 30 năm (1958 - 1990) tiến hành chống sốt rét, Việt Nam đã đạt nhiều
thành tích, song do thiếu điều kiện để duy trì thành quả, sốt rét quay trở lại
trong phạm vi cả nước mà đỉnh cao là năm 1991 với hơn 1 triệu người mắc,
4646 người chết, gây chấn động dư luận xã hội. từ năm 1992, Chính phủ đã
quan tâm thật sự đến Chương trình phòng chống sốt rét .
+ Giai đoạn 1991 - 2000: Mục tiêu tổng quát của Chương trình quốc gia
PCSR giai đoạn 1991-1995 là khống chÕ tốc độ tăng SR (chết, mắc, dịch
sốt rét)
Mục tiêu giai đoạn 1996 - 2000 là giảm tỉ lệ chết 60%, giảm tỉ lệ mắc
50% so với năm 1995, không để dịch lớn xẩy ra, từng bước phát triển các yếu
tố bền vững và không để sốt rét quay trở lại.
+ Giai đoạn 2001– 2005:
Mục tiêu chung: tiếp tục đẩy lùi bệnh SR, tập trung vào vùng SR lưu
hành nặng vào các nhóm dân nguy cơ cao, dân di biến động vào các vùng SR

lưu hành. Phát triển các yếu tố bền vững và không để SR quay trở lại.
Mục tiêu cụ thể năm 2001-2005: Giảm chết SR 5% so với năm 2000.
Giảm mắc SR 5% so với năm 2000. Không để dịch sốt rét lớn xẩy ra.
+ Kế hoạch phòng chống sốt rét Quốc gia giai đoạn 2006-2015.
- Tiếp tục đẩy lùi SR và phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR
- Phấn đấu đến năm 2015 bệnh SR không còn là một vấn đề sức khoẻ quan
trọng trong cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở Việt nam.
17
Mục tiêu cụ thể:
- Giảm tỉ lệ mắc SR xuống dưới 1,0/1.000 dân năm 2010 và 0,05/1.000 dân
vào năm 2015.
- Giảm tỉ lệ chết SR xuống dưới 0,02/100.000 dân năm 2010 và duy trì tỉ lệ
chết dưới 0,02/100.000 dân đến năm 2015.
- Không có dịch sốt rét lớn xẩy ra.
1.5.2. Những thành quả đạt được[25],[45].
Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét (PCSR) của Việt Nam trong
những năm qua đã thu được một số kết quả tốt trong việc làm giảm tỉ lệ chết
và mắc sốt rét. Từ năm 1991 đến năm 2002, số ca KSTSR dương tính giảm từ
187.994 xuống còn 47.958. Số chết do SR giảm từ 4.646 xuống còn 60 ca.
Tuy nhiên, sốt rét vẫn còn là vấn đề lớn còn ảnh hưởng đến sức khoẻ của
người dân sống trong rừng và bìa rừng cũng như ở một số vùng ven biển, và
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Năm 2002, có 61 tỉnh thành
của Việt Nam có người mắc KSTSR, trong đó có 21 tỉnh SR vẫn còn là một
vấn đề quan trọng. Trong số hơn 80 triệu người Việt Nam có khoảng 35 triệu
người sống trong vùng SR lưu hành có nguy cơ bị mắc sốt rét.
Năm 2001, có 257.793 ca sốt rét lâm sàng (5,82/1.000 dân), 91 ca chết
(0,12/100.000 dân). Năm 2002, số ca sốt rét giảm: 185.529 ca SR lâm sàng
(4,19/1.000 dân) và 60 ca chết (0,06/100.000 dân). Tuy nhiên vẫn có nguy cơ
xảy dịch trong những năm qua.
Những chỉ số này đối với toàn quốc là thấp, tuy nhiên SR ở Việt Nam

tập trung chủ yếu ở miền núi và dân tộc ít người, những cộng đồng sống ở
vùng sâu vùng xa, gần rừng, và ở những nơi có dân di cư.
Theo báo cáo của Chương trình phòng chống sốtt rét Quốc gia, sốt rét lưu
hành nặng ở 23 trong số 64 tỉnh thành ở Việt Nam. Năm 2000, các tỉnh trọng
18
điểm này chiếm 70% tổng số ca SRLS (180.767) và chiÕm 91 tổng số ca chết
do SR (86/91). Tỉ lệ mắc SR là 2,81/1.000 dân so với 0,14/1.000 dân ở 41 tỉnh
còn lại. Tương tù như vậy năm 2002, tỉ lệ lưu hành sốt rét vẫn còn rất cao ở
một số nhóm dân ở các tỉnh trọng điểm. Điều tra cắt ngang do Viện Sốt rét -
Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương tiến hành năm 2001 cho thấy: Tỉ lệ
nhiễm P.falciparum là 10% ở một số vùng của Quảng trị, 32% ở một số vùng
của Gia Lai và 67% ở một số vùng của tỉnh Điện Biên, người dân ít tiếp cận
được các dịch vụ y tế do khó khăn về giao thông, dân trí thấp và có tỉ lệ sử
dụng màn thấp.
Ký sinh trùng SR P.falciparum kháng thuốc hiện đang lan rộng ở Việt
Nam, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Tỉ lệ kháng Cloroquine in
vivo từ 30 - 85%, trong khi kháng sulphadoxine - pyrimethamine từ 30 - 80%
bệnh nhân theo từng vùng. Kháng Mefloquine và Artesunnate không nghiêm
trọng lắm, nhưng cũng phát hiện được khoảng 1-18%.[78].
Những khó khăn và tồn tại đối với chương trình PCSR [25], [45].
- Dân sống trong vùng sốt rét rất lớn (35 triệu người) chiếm gần 50% dân
số toàn quốc, trong khi đó đé bao phủ còn hạn chế (mới chỉ phòng chống
muỗi đốt cho 12 triệu người), và chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét
chưa đảm bảo như mong muốn.
- Hoạt động của màng lưới y tế cơ sở còn yếu, đặc biệt là y tế thôn bản, do
chất lượng thấp, ở nhiều tỉnh trọng điểm SR, y tế thôn bản còn quá mỏng, phổ
biến ở khu vực miền núi và Tây Nguyên.
- Mạng lưới y tế chuyên khoa SR ở các cấp tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng
còn một số hạn chế về kiến thức chuyên khoa sâu và kỹ thuật phòng chống SR.
19

- Công tác giáo dục truyền thông phòng chống sốt rét tuy có nhiều tiến bộ
nhưng chưa đi vào chiều sâu và thực hiện thường xuyên cho đồng bào dân tộc,
vùng sâu vùng xa.
- Di biến động dân lớn, dân có thói quen ngủ lại trong rừng, nương rẫy.
- Kinh tế, tập quán, nhận thức, hành vi PCSR của nhân dân còn thấp.
- Nguồn lực PCSR không ổn định, các dự án hợp tác quốc tế đã kết thúc từ
năm 2002.
- Những nhu cầu thiết yếu như phương tiện đi lại (ô tô, xe máy, xe đạp ), trang
thiết bị y tế cho giám sát dịch tễ, giám sát côn trùng, phòng chống dịch còn thiếu
nhiều. Chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác phòng chống SR chưa tương
xứng với thực tế. Chính quyền, y tế địa phương một số nơi còn chủ quan.
Việt Nam là nước đang phát triển có tổng số hơn 80 triệu người (Theo
niên giám thống kê - Tổng cục thống kê năm 2002). Tốc độ tăng trưởng kinh
tế trung bình hàng năm từ 8-9% trong những năm 1990 và trên 7% những
năm gần đây. Do đó thu nhập của người dân tăng dần tỉ lệ người nghèo đói
giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và còn 14,5% năm 2001.
Tính riêng 23 tỉnh có 612 xã đặc biệt khó khăn chiếm 37% tổng số xã đặc biệt
khó khăn trên toàn quốc.
Hiện nay Việt Nam là nước xếp thứ 101 trên 162 nước trên thế giới về
chỉ số phát triển con người (Human Development Index (HDI) UNDP/2001).
Tổng thu nhập quốc dân trên đầu người năm 2001 dưới 400 đô la Mỹ. Chiến
lược xoá đói giảm nghèo mới của Việt Nam (5/2002) ưu tiên tăng cường tiếp
cận các dịch vụ y tế, nâng cao chất lượng phục vụ và giảm chi phí cho các hộ
gia đình nghèo và những vùng nghèo nhất, ổn định và nâng cao mức sống cho
đồng bào dân tộc thiểu số cũng như là một trong những ưu tiên đã được xác
định rõ ràng. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện để đạt được các mục đích
20
phát triển Thiên niên kỷ, Chính phủ Việt Nam nhận thấy sự cần thiết phải
phòng chống các bệnh lây nhiễm, trong đó có bệnh sốt rét, ưu tiên cho vùng
sâu vùng xa, vùng biên giới và dân tộc ít người.

Từ năm 1990, Chương trình PCSR đổi thành chương trình Quốc gia
PCSR. Năm 1996, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Chương trình
mục tiêu Quốc gia ưu tiên để tăng cường các chính sách hỗ trợ và đầu tư là:
Chương trình mục tiêu phòng chống một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy
hiểm – Trong đó có Dự án Quốc gia PCSR. Giai đoạn 2001 – 2005, Chương
trình mục tiêu quốc gia ưu tiên mang tên “Chương trình mục tiêu quốc gia
phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm, HIV/AIDS”, Dự án
Quốc gia PCSR là một trong 10 dự án thành phần (Quyết định của thủ tướng
Chính phủ số 190/QĐ-TTg ngày 13/12/2001 về việc phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm,
HIV/AIDS giai đoạn 2001-2005). Năm 2001, Bé trưởng Bé Y tÕ đã có quyết
định số 4238/QĐ/BYT ngày 15/10/2001 thành lập Ban điều hành Dự án Quốc
gia phòng chống bệnh sốt rét và quy định chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm
việc của Ban giai đoạn 2001-2005.
Mục tiêu và các chỉ tiêu chính của kế hoạch PCSR giai đoạn 2001-2005
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 35/2001/QĐTg ngày
19/3/2001). Bé trưởng Bé Y tÕ đã ký duyệt thể hiện trong công văn số
826/YT- KH ngày 26/10/2000 về chiến lược chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân
dân giai đoạn 2001- 2005 và định hướng chiến lược y tế dự phòng giai đoạn
2001- 2010 của Bộ Y tÕ Việt Nam: Đến năm 2005 giảm tỉ lệ chết do sốt rét
xuống còn 0,15/100.000 dân, giảm tỉ lệ mắc SR dưới 3,5/1.000 dân.
21
Chính phủ Việt Nam có chủ trương tù cung cấp đủ cho công tác PCSR
vào cuối thập kỷ. Đặc biệt chú trọng việc năng cao năng lực cho Chương trình
Quốc gia PCSR ở tất cả các tuyến.
Tổng ngân sách Nhà nước chi cho ngành Y tế năm 2001 là 249,2 triệu
USD chiếm 3,25% tổng chi của ngân sách Nhà nước. Trong đó kinh phí chi
cho Chương trình Quốc gia phòng chống sốt rét 5 năm gần đây đã giảm từ
100 tỉ đồng năm 2000 xuống còn 70 tỉ đồng năm 2004
1.6. TÌNH HÌNH SỐT RÉT TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN.

Điện Biên là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Tây Bắc của Tổ
quốc, diện tích tự nhiên là 9.544,107km
2
. Phía Bắc giáp với tỉnh Lai Châu.
Phía Tây Bắc giáp với tỉnh Vân Nam của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Hoa. Đường biên giới Việt – Trung dài 38,5km. Phía Tây giáp với nước Cộng
Hoà Dân Chñ Nhân Dân Lào. Đường biên giới Việt – Lào dài 360km. Phía
Đông và Đông Nam giáp với tỉnh Sơn La. Dân số toàn tỉnh năm 2008 trên
472. 000 người, có 21 dân téc anh em cùng chung sống. Tỉnh Điện Biên có 9
đơn vị hành chính gồm 7 huyện, 1 thị xã và 1 thành phố, với 112 xã, phường,
thị trấn. Trong đó có 68 xã đặc biệt khó khăn (chiếm 60,71% tổng số xã,
phường, thị trấn). Tỉ lệ hộ đói nghèo năm 2007 là 33,91 % và tỉ lệ phát triển
dân số số tù nhiên trung bình 2,01%/năm. Tình hình kinh tế xã hội kém phát
triển, thu nhập bình quân tính theo đầu người năm 2007 là 263
USD/người/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 10,86%. Trong giai
đoạn từ năm 2005 - 2012, trên địa bàn tỉnh triển khai dự án tái định cư lòng hồ
thủy điện Sơn La. Nên có sự biến động tương đối lớn về dân cư. Công tác giáo
dục và y tế luôn được quan tâm và đầu tư. Tuy nhiên là một tỉnh miền núi,
biên giới có nền kinh tế kém phát triển nên đời sống của nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu,
22
giao thông đi lại khó khăn. Tỉnh Điện Biên có 2 cửa khẩu Quốc tế 1 với
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và 1 cửa khẩu với nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa.
Tình hình dịch tễ SR tại Điện Biên trong nhiều năm qua rất phức tạp vì
là một tỉnh vùng cao biên giới, sù giao lưu của nhân dân vùng biên giới chưa
quản lý hết được, trong đó tình hình sốt rét của nhân dân biên giới nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào còn rất nặng nề và phức tạp. Vì vậy công tác giám
sát, phát hiện sớm điều trị sớm còn gặp nhiều khó khăn, dịch sốt rét vẫn có thể
xẩy ra bất cứ lúc nào. Tình hình sốt rét năm 2004 tại tỉnh Điện Biên cho thấy:

Mắc sốt rét /1000 dân (9,43%o), tỉ lệ ký sinh trùng/lam (0,17%) không có tử
vong do sốt rét và dịch sốt rét không xẩy ra[9].
1.7. SỰ CẦN THIẾT TIẾP TỤC ĐẦU TƯ CHO CHƯƠNG TRÌNH
PCSR[38].
Tình hình SR của Việt Nam trong thập kỷ qua (1992-2002) đã thu được
kết quả tốt đẹp, giảm số người mắc, người chết và số vụ dịch SR vì đã tăng
cường đầu tư và thực hiện tốt các chiến lược phòng chống SR.
Mặc dù được sù quan tâm chỉ đạo của Nhà nước, chính quyền các cấp
từ Trung ương đến địa phương cho việc phòng chống sốt rét, tuy nhiên, bệnh
SR ở Việt Nam vẫn còn là một nguy cơ lớn, khả năng SR quay trở lại vẫn còn
cao. Dịch SR vẫn có nguy cơ xẩy ra ở nhiều nơi tại Việt Nam vì những
nguyên nhân sau:
+Trên 35 triệu dân đang sống trong vùng SR lưu hành, trong đó có 15
triệu người sống trong vùng SR lưu hành nặng. Chính những vùng SR lưu
hành nặng này đang được đưa dân lên xây dựng vùng kinh tế mới, có những
23
công trình phát triển các khu công nghiệp, cây công nghiệp như chè, cà phê,
cao su, thuỷ điện, làm đường…
+ Chưa có cơ sở đảm bảo duy trì thành quả PCSR một cách bền vững vì
việc giám sát dịch tễ và quản lý bệnh tại chỗ ở tuyến cơ sở còn yếu, hiện tại
vẫn dựa vào tuyến trên hỗ trợ. Lực lượng tại chỗ (y tế xã, thôn bản) ở vùng
sâu vùng xa chưa đủ năng lực quản lý, giám sát nguồn bệnh và điều trị kịp
thời. Kiến thức và hành vi PCSR của cộng đồng các dân tộc ít người còn thấp
nên huy động nguồn lực phục vụ mục tiêu PCSR vẫn chủ yếu dựa vào Nhà
nước. Về lâu dài, PCSR phải gắn liền với phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu vùng xa,
nâng cao dân trí phòng chống sốt rét. Chưa có đủ nguồn lực và các nhu cầu
cần thiết khác để thực hiện các biện pháp PCSR với độ bao phủ lớn (bảo vệ 35
triệu dân sống trong vùng SR lưu hành).
+ Năng lực hoạt động của hệ thống chuyên khoa SR mặc dù đã được

tăng cường, nhưng vẫn chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu mới về nâng cao chất
lượng hoạt động chương trình.
+ Chưa đủ điều kiện để giải quyết các vấn đề chuyên sâu như vai trò
của các loài muỗi truyền bệnh, KSTSR kháng thuốc, vấn đề sinh thái môi
trường, chủng tộc… tác động đến bệnh SR và biện pháp phòng chống. Sự
phức tạp của vấn đề di biến động dân cư, sốt rét biên giới, vấn đề kinh tế xã
hội
+ Tình trạng chung của hệ thống bệnh viện đang xuống cấp, thiếu các
phương tiện phục vụ chẩn đoán và xử lý hồi sức cấp cứu cho BNSR ác tính
1.8. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PCSR Ở VIỆT NAM HIỆN NAY [25].
- Định hướng của Chương trình Quốc gia Phòng chống Sốt rét (CTQG
PCSR) hiện nay là tập trung ưu tiên cho dân nghèo hoặc nhóm dân di biến
24
động. SR ở Việt Nam gắn liền chặt chẽ với nghèo đói. Những nhóm dân tộc ít
người sống trong rừng và bìa rừng thường chịu gánh nặng nghèo đói và bệnh
tật. Bởi vậy, những nỗ lực phòng chống sốt rét tập trung cho các nhóm đối
tượng này cần được cung cấp những nhu cầu cần thiết.
Theo đánh giá của tổ chức Y tế thế giới: Chính phủ Việt Nam có chủ
trương tù cung cấp nguồn lực cho công tác PCSR vào cuối thập kỷ. Đặc biệt
chú trọng việc nâng cao năng lực cho Chương trình PCSR ở tất cả các tuyến.
Tiếp tục quan tâm và đầu tư cho công tác PCSR ở Việt Nam nhằm đảm bảo
tất cả những người nghèo sống trong vùng SR lưu hành đều có màn tránh
muỗi và được tiếp cận tốt các dịch vụ y tế. Nâng cao chất lượng chẩn đoán và
điều trị bệnh và giảm chi phí cho các hộ nghèo, ổn định và nâng cao mức sống
cho đồng bào dân tộc ít người cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu đã
được xác định.
Hệ thống chuyên khoa PCSR chịu trách nhiệm về công tác PCSR trên
phạm vi toàn quốc. Tuyến Trung ương có Ban chủ nhiệm Dự án Quốc gia
PCSR, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương chỉ đạo kỹ thuật
trên phạm vi toàn quốc và trực tiếp phụ trách các tỉnh phía Bắc. Viện Sốt rét –

Ký sinh trùng – Côn trùng Quy Nhơn phụ trách các tỉnh miền Trung và Viện
Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng thành phố Hồ Chí Minh phụ trách các tỉnh
Nam Bé – Lâm Đồng. Tuyến tỉnh các Trung tâm PCSR tỉnh (hoặc Trung tâm
y tế dự phòng).
Tuyến huyện có Đội y tế dù phòng huyện phân công cán bộ chuyên
trách công tác PCSR, có các điểm kính hiển vi liên xã. Tuyến xã có cán bộ y
tế xã theo dõi công tác PCSR và có điểm kính hiển vi xã. Thôn bản có nhân
viên y tế thôn, bản. Hầu hết các thôn, bản đều có y tế thôn, bản nhưng còn
thiếu ở vùng sâu vùng xa, vùng biên giới [10].
25

×