Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ GIÁM SÁT CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.26 KB, 64 trang )

CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ GIÁM SÁT (MONITORING)
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1. CHIẾN LƯỢC GIÁM SÁT MÔI TRƯỜNG
1.1. MỤC TIÊU GIÁM SÁT
Việc thu thập thông tin về sự tồn tại và nồng độ các chất trong môi trường phát sinh ra
từ nguồn thiên nhiên hay nhân tạo phải được thực hiện bằng đo lường các chất đó.
Nhưng các phép đo lường đơn (đo lường một lần) hoặc cách quãng thời gian một chất
nào đó thì chưa đủ giá trị để có thể đưa ra các phân bố không gian và thời gian. Hơn
thế nữa, sự giám sát (monitoring) các thông số môi trường cũng tương tự như các phép
đo trong một số ngành là sự đo đạc hay quan trắc nhắc lại các phép đo thực hiện với
mật độ mẫu đủ dày, về cả không gian và thời gian để từ đó có thể thực hiện được đánh
giá có hiệu quả các biến đổi và xu thế. Giám sát môi trường là phức hợp các biện pháp
khoa học công nghệ và tổ chức nhằm bảo đảm thu nhận được các thông tin mức độ
hiện trạng hay xu thế biến đổi các chất ô nhiễm phát thải vào môi trường hay nhiễm
vào các cơ thể sống của hệ sinh thái trên mặt đất. Hay nói một cách khác giám sát
được lập kế hoạch để kiểm soát môi trường một cách có hệ thống trạng thái và xu thế
phát triển của các quá trình tự nhiên trong đó có bàn tay của con người. Do vậy, thuật
ngữ giám sát chất lượng môi trường, ở đây cần được hiểu là quan trắc, đo lường, ghi
nhận một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ chất lượng môi trường và các yếu tố
có liên quan đến chúng.
Theo UNEP, giám sát môi trường có thể được tiến hành để nhằm một số mục tiêu sau
đây:
(1) Để đánh giá các hậu quả ô nhiễm đến sức khỏe và môi trường sống của con người,
như vậy sẽ xác định được mối quan hệ nguyên nhân và hậu quả của nồng độ chất ô
nhiễm, ví dụ như giữa sức khỏe và biến đổi khí hậu.
(2) Để đảm bảo an toàn việc sử dụng tài nguyên (không khí, nước, đất, sinh thái …)
vào các mục đích kinh tế.
(3) Để thu được các số liệu hệ thống dưới dạng điều tra cơ bản (hay còn gọi là đo đạc
thường xuyên) chất lượng môi trường và cung cấp ngân hàng dữ liệu cho sử dụng tài
nguyên trong tương lai.


(4) Để nghiên cứu và đánh giá các chất ô nhiễm và hệ tiếp nhận chúng (xu thế tiềm
năng ô nhiễm).
(5) Để đánh giá các biện pháp kiểm soát luật pháp về phát thải.
(6) Để tiến hành các biện pháp khẩn cấp tại những vùng có ô nhiễm đặc biệt.
Một vấn đề khác nhưng rất cơ bản của giám sát chất lượng môi trường là thiết kế
chương trình giám sát theo một hay nhiều mục tiêu đã nêu ở trên. Mỗi mục tiêu tự bản
thân đã đòi hỏi rất nhiều các yếu tố cần và đủ để có một chương trình giám sát. Ví dụ,
số lượng của lưới điểm lấy mẫu, độ dài của giám sát, tần suất lấy mẫu, kỹ thuật lấy
mẫu và phân tích mẫu và đồng thời nó cũng là các số liệu đầu ra của chương trình
giám sát. Sự quyết định giám sát cái gì, khi nào, ở đâu, và như thế nào được vạch ra
chỉ khi mục tiêu giám sát đã được xác định. Do vậy, điều quan trọng nhất của thiết kế
một chương trình giám sát là phải thiết lập được mục tiêu giám sát. Đây là bước cần
thiết để qui định loại thông tin mà chương trình giám sát (hệ thống chỉ tiêu chất ô
nhiễm quan trắc) phải cung cấp và quyết định thể loại giám sát (thể loại quan trắc).
Trong hình 1.1, 1.2, 1.3 là các sơ đồ khối các xem xét được đưa ra để quyết định thiết
kế một chương trình giám sát.
Hình 1.1. Sơ đồ giới thiệu các bước thiết kế chương trình giám sát môi trường
Mục tiêu
Thông số giám sát
Phương pháp lấy mẫu
Lựa chọn thiết bị
Kỹ thuật phân tích
Phương pháp hiệu chuẩn
Phương pháp ghi số liệu
Công bố kết quả
Phương pháp trình bày
kết quả
Độ dài giám sátVị trí và số lượng điểm đo
Hình 1.2. Sơ đồ giới thiệu đường đi của thông tin cho một hệ thống giám sát
môi trường

Từ các sơ đồ, ta thấy rằng các thành phần của một chương trình giám sát mà sản phẩm
cuối cùng của nó là một báo cáo đầy đủ về chiến lược giám sát phải được các nhà
hoạch định chiến lược phê duyệt. Báo cáo này cần phải bao gồm các cơ sở và luận cứ
xác đáng, ví dụ như cơ sở thiết lập hệ thống giám sát và phân tích, thông số đo, tần
suất đo, hệ thống đánh giá bao gồm các tiêu chuẩn đánh giá, công cụ đánh giá, công cụ
trình bày số liệu v.v. Ngoài ra, một số vấn đề quan trọng khác như tổ chức thực hiện
chương trình giám sát liên quan đến nhân sự, trách nhiệm và vấn đề tài chính v.v.
Tóm lại, một thiết kế chương trình giám sát phải bao gồm các tiêu đề sau:
(1) Chiến lược giám sát.
(2) Mạng lưới giám sát bao gồm cả hệ thống điểm đo, thông số đo và phân tích, việc
sử dụng các tiêu chuẩn v.v.
Chất lượng môi
trường
Phân tích trong phòng
thí nghiệm
Xử lý số liệu
Phân tích số liệu
Lập báo cáo
Sử dụng thông tin
Hiểu biết chính xác về
chất lượng môi trường
Thu thập mẫu
(3) Hình thức trình bày và thể hiện kết quả.
(4) Hệ thống tổ chức về nhân lực và vật lực của từng công đoạn trong toàn bộ hệ
thống.
(5) Kế hoạch chi phí – hiệu quả.
(6) Phân tích rủi ro (nếu có).

Hình 1.3. Sơ đồ giới thiệu các hoạt động của vòng giám sát và đánh giá
chất lượng môi trường

1.2. THỂ LOẠI GIÁM SÁT
Các nguồn gốc phát thải ô nhiễm có thể do hoạt động con người hoặc có thể do các
hoạt động thiên nhiên làm tổn hại đến môi trường cũng như đến chất lượng cuộc sống
của con người. Sự phân loại thể loại giám sát môi trường cũng vì thế được chia ra làm
hai loại khác nhau, đó là:
• Giám sát nguồn thải.
• Giám sát chất lượng môi trường.
Quản lý môi trường
Yêu cầu về thông tin
Chiến lược giám sát
Thu thập mẫu
Phân tích trong phòng
thí nghiệm
Sử dụng thông tin
Thiết kế mạng lưới
Xử lý số liệu
Báo cáo
Phân tích số liệu
Mục tiêu chính của chương trình giám sát chất lượng môi trường không bao gồm kiểm
soát các nguồn thải do đó trong cuốn sách này chương trình giám sát nguồn thải chỉ
liệt kê một số thông tin chính để tham khảo.
1.2.1. Giám sát nguồn thải
Mục tiêu
• Để xác định lượng thải hoặc tốc độ thải của các chất ô nhiễm vào môi trường từ
những nguồn thải cụ thể nhằm phục vụ cho một hay nhiều mục đích đã nêu ở các
sơ đồ nói trên.
• Để đánh giá hiệu quả xử lý của trạm xử lý chất thải.
• Để đánh giá sự tuân thủ pháp luật hoặc tiêu chuẩn thải vào môi trường v.v.
Để phục vụ mục đích này người ta có thể giám sát bằng hệ thống giám sát cố định
hoặc di động cho cả ba loại chất thải: rắn, lỏng và khí. Một số thể loại giám sát này

được vắn tắt như sau:
- Giám sát cố định nguồn thải điểm (ví dụ như ống khói nhà máy).
- Giám sát lưu động nguồn thải khí, lỏng trên một diện rộng.
- Giám sát cố định nguồn thải lỏng.
1.2.2. Giám sát chất lượng môi trường
Môi trường nước và môi trường không khí đều thuộc loại môi trường chất lưu (chất
chảy), do vậy sự lan truyền các chất trong hai môi trường này có những nét giống
nhau, quá trình vận chuyển vật chất dưới hai môi trường này đều xảy ra do quá trình
khuyếch tán và vận tải. Điều khác nhau chỉ ở chỗ cường độ của các quá trình trên
không như nhau. Thông thường quá trình lan truyền trong môi trường không khí rất
mạnh mẽ còn trong môi trường nước xảy ra chậm hơn nhiều. Do vậy, các chất ô nhiễm
trong nước chỉ tồn tại trong khu vực gần nguồn thải chỉ trừ các chất bền vững và tồn
tại lơ lửng trong nước lâu dài như bụi phóng xạ của các nguyên tố có chu kỳ bán phân
hủy lớn.
Mục tiêu giám sát chất lượng môi trường bao gồm sáu mục tiêu như đã trình bày ở
phần mục tiêu chiến lược giám sát môi trường. Nhưng mục đích các xem xét khi thiết
kế mạng lưới giám sát bao giờ cũng phải đảm bảo các kết quả đo lường đưa ra chính
xác. Có nghĩa là các mẫu phải là đại diện cho các điều kiện chủ đạo của môi trường về
thời gian và không gian. Như vậy, không chỉ không gian chọn đo đạc mà còn cả vị trí
lấy mẫu tại không gian đã lựa chọn cũng có tầm quan trọng. Để phục vụ mục tiêu đã
lựa chọn của cả hệ thống giám sát, sự lựa chọn một mạng lưới vị trí đo đặc thù, việc
xác định thể loại giám sát, sự xác định không gian địa lý nơi sẽ đặt vị trí điểm đo và
cuối cùng là vị trí sẽ lấy mẫu hoặc đo đạc đòi hỏi phải được kiểm tra qua bốn bước:
(1) Xác định mục đích phục vụ hệ thống lưới trạm giám sát.
(2) Xác định thể loại giám sát tốt nhất để đáp ứng mục tiêu.
(3) Xác định vị trí tổng thể để đặt vị trí điểm đo.
(4) Xác định lưới giám sát cụ thể.
Như vậy, chọn số lượng vị trí điểm đo đạc trong một hệ thống trạm đo đạc phụ thuộc
rất nhiều vào các thông số đo đạc và vào mục tiêu đo đạc. Ví dụ, để đo đạc được chất
lượng không khí (cho thông số SO

2
và khói) tại Liên hiệp Anh, người ta đã phải dùng
một hệ thống bao gồm 1.200 trạm, mặc dù cho đến nay con số này đã được giảm đi
nhiều. Khi hệ thống trạm bao gồm quá ít số lượng trạm thì các vận chuyển chất thải
thông qua các điều kiện thủy văn và khí tượng xảy ra ở giữa các trạm sẽ không được
thể hiện ở dãy số liệu của hệ thống trạm và như vậy hệ thống trạm đó sẽ không phục
vụ được mục tiêu đặt ra là hệ thống giám sát chất lượng môi trường.
1.2.2.1. Giám sát chất lượng không khí
Các vấn đề ô nhiễm không khí biến động rất lớn từ vùng này sang vùng khác và từ
chất thải khí này sang chất khác. Sự khác nhau về địa hình, khí hậu, đặc thù nguồn
thải, bản chất nguồn thải, các qui chế hành chính và luật pháp khiến cho chương trình
giám sát cũng sẽ thay đổi về mục đích, nội dung, độ dài và do đó sẽ thay đổi về cả thể
lọai trạm giám sát. Một số chuyên gia cho rằng vẫn có thể phân loại về các hệ thống
giám sát chất lượng không khí như sau:
(1) Hệ thống trạm giám sát cho một nguồn hay một nhóm nguồn phát thải. Loại này có
thể coi như giám sát phát thải địa phương.
(2) Hệ thống trạm có thể được thiết lập bao gồm số lượng trạm rất lớn trên một diện
tích rất lớn bao gồm cả vùng có ô nhiễm cao nhất đến vùng có ô nhiễm ít nhất (như ở
nông thôn) nhằm có một bức tranh toàn diện và dữ liệu rất cơ bản về thông số ô nhiễm
cần quan tâm ví dụ như dự án đã nêu trên ở Anh.
(3) Các hệ thống trạm cơ bản để theo dõi mức nền ô nhiễm thường được thiết lập ở các
vị trí tiêu biểu cho đặc trưng điều kiện tự nhiên và ít có sự gia nhập trực tiếp các nguồn
thải.
A. Hệ thống trạm giám sát địa phương
Loại hệ thống này thường đặt ra nhiệm vụ cụ thể theo dõi hoặc kiểm tra mức độ ô
nhiễm do một hay nhiều nguồn thải khí. Mức độ ô nhiễm tại mặt đất được giám sát và
sau đó được tính toán và dự báo bằng các mô hình dự báo. Trong trường hợp này
thông thường các vị trí đo đạc được phác thảo bằng các mô hình tính toán nồng độ ô
nhiễm.
B. Hệ thống trạm giám sát phạm vi lãnh thổ rộng

Các chất ô nhiễm sau khi được phát ra từ nguồn sẽ được lan truyền hoặc khuyếch tán
đến các vị trí xa hơn nhiều so với nguồn phát ra chúng. Để nhận biết mức độ lan bao
xa các chất ô nhiễm, mức độ biến đổi về nồng độ giữa phát thải và nơi tiếp nhận,
người ta cần phải thiết lập một hệ thống trạm giám sát trên phạm vi diện tích rất rộng
để theo dõi. Như đã nêu, tại nước Anh, một hệ thống có tên là Khảo sát Quốc gia về ô
nhiễm không khí (National Survey of Air Pollution – NSAP) đã được triển khai với
1.200 trạm năm 1961, giám sát hàng ngày cho cả đô thị và nông thôn. Năm 1981 hệ
thống này được phê duyệt lại với 150 trạm cho mục tiêu giám sát dài hạn (long-term)
và 400 trạm cho mục đích ngắn hạn tập trung ở các thành phố. Các trạm thành phố
hiện vẫn đang hoạt động ngoài mục đích phục vụ Quốc gia còn cho cả khu vực khối
Cộng đồng chung châu Âu.
C. Hệ thống trạm giám sát phạm vi vùng và Quốc tế
Các trạm này được thiết lập với mục đích theo dõi dài hạn các biến đổi ô nhiễm nền
trong phạm vi Quốc tế. Loại trạm này được đặt ở vùng xa xôi hoặc vùng không có ảnh
hưởng trực tiếp của nguồn thải. Đại diện cho hạng trạm này là của Hệ thóng trạm giám
sát ô nhiễm nền không khí (Background Air Pollution Monitoring Network –
BAPMoN) và của Hệ thống trạm giám sát môi trường không khí toàn cầu (Global
Environmental Monitoring System/ Air – GEMS/AIR).
1.2.2.2. Giám sát chất lượng nước
Các chất ô nhiễm trong môi trường nước luôn luôn biến đổi cả về chất lẫn về lượng.
Trong môi trường không khí chúng biến đổi chủ yếu là do hai quá trình cơ học như
ngưng tụ, lắng đọng và quá trình hóa học dưới tác động của các yếu tố vật lý và hóa
học như nhiệt độ, độ ẩm và bức xạ Mặt trời. Trong môi trường nước, quá trình biến
đổi của các chất phức tạp hơn nhiều. Ngoài các quá trình biến đổi dưới tác dụng của
các nhân tố vật lý và hóa học còn có biến đổi do các sinh vật gây ra mà sự biến đổi này
của các chất ô nhiễm lại phụ thuộc vào các yếu tố khác ví dụ như nhiệt độ nước.
Người ta thấy rằng, quá trình phân hủy dầu và các sản phẩm dầu do sinh vật sẽ tăng
cường độ lên khoảng hai lần khi nhiệt độ nước tăng lên 10
o
C. Quá trình biến đổi các

chất trong môi trường nước có thể xảy ra theo hai chiều ngược nhau tùy theo các điều
kiện cụ thể.
Ô nhiễm nước bắt nguồn từ các chất ô nhiễm khí, ô nhiễm đất và trực tiếp từ các
nguồn thải lỏng (đô thị, công, nông nghiệp). Các hậu quả của ô nhiễm nước sẽ dẫn
đến:
• Kích thích sự phát triển của thủy thực vật dẫn đến phú dưỡng mà hậu quả của nó là
dẫn đến sự phân hủy oxy sẽ mang lại sự thay đổi về sinh thái nước.
• Các hậu quả trực tiếp hay gián tiếp về độc chất đến thủy sinh vật.
• Làm biến mất giá trị thực tiễn của nước.
Giám sát chất lượng nước thiên nhiên có thể phục vụ cho mục đích sau:
• Thu thập các thông tin chung về chất lượng nước sông, hồ, cửa sông và biển.
• Để đánh giá ảnh hưởng sự tham gia làm biến đổi chất lượng nước từ các nguồn thải
khi chúng gia nhập.
• Để kiểm tra chất lượng nước tại nơi mà chúng được khai thác sử dụng là nguồn
nước cấp.
• Để đánh giá như một chỉ thị ô nhiễm tích lũy (sử dụng trầm tích và sinh học).
Có hai lý do gây sự phân bố không đồng nhất chất lượng nước, đó là:
a) Nếu hệ thống nước được cấu tạo từ hai hoặc nhiều hơn loại nước làm cho chúng
không xáo trộn được hoàn toàn, ví dụ như phân tầng nhiệt tại các hồ hay tại vị trí
thấp hơn nguồn xả nước thải ra sông.
b) Nếu như chất ô nhiễm phân bố không đồng đều trong một hệ thống nước không
đồng nhất (đa hệ), ví dụ như dầu mỡ có xu thế luôn nổi trong khi chất rắn lơ lửng
luôn có xu thế chìm. Những phản ứng hóa học hay sinh học cũng có thể xảy ra
không đồng nhất tại những phần khác nhau ngay trong một hệ thống nước làm thay
đổi hoặc biến đổi nồng độ chất ô nhiễm. Khi mức độ xáo trộn là chưa biết, một
khảo sát ngắn có thể cần phải tiến hành trước khi ra quyết định vị trí trạm lấy mẫu.
Các số đo cần trong khảo sát này là: pH, độ dẫn điện, nhiệt độ, DO và một số chất
ô nhiễm khác đặc thù của cửa thải.
Tầm quan trọng của vị trí trạm lấy mẫu là rất lớn. Nếu vị trí trạm lấy mẫu ở hạ lưu
sông có nguồn thải đi qua, dãy số liệu lấy mẫu và đo lường cần phải thể hiện đủ cho

chiều dài, chiều ngang và độ sâu của nơi lấy mẫu. Nếu chất lượng nước trung bình
được thiết lập cho mục tiêu dài hạn, trạm lấy mẫu nên lấy mẫu ở những nơi cuối nguồn
(hạ lưu) để các khuyếch tán theo chiều dài và các xáo trộn đã diễn ra tương đối hoàn
toàn. Lấy mẫu vùng cửa sông có vai trò đưa ra những biến thiên không gian và thời
gian cho toàn bộ dòng sông trước khi đổ ra biển. Vị trí trạm lấy mẫu cửa sông phụ
thuộc vào độ lớn và tầm quan trọng của cửa sông cũng như vào các thông số quan tâm.
Xác định nồng độ hay giám sát các kim loại vết trong chất lượng nước thiên nhiên là
khâu cơ bản để tính toán trữ lượng hoặc chu trình của chúng.
1.3. QUI PHẠM ĐẶT VỊ TRÍ ĐIỂM ĐO (HAY TRẠM) GIÁM SÁT CHẤT
LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1.3.1. Đặt vấn đề
Sự lựa chọn số lượng trạm (vị trí điểm đo) trong một chương trình giám sát phụ thuộc
chủ yếu vào mục tiêu của chiến lược giám sát và các thông số dự kiến đo lường. Sự
lựa chọn các mục tiêu phụ thuộc vào mục đích chức năng và nhiệm vụ mà cơ quan
quản lý trực tiếp yêu cầu và đòi hỏi mà bốn bước như đã liệt kê ở trên là các bước căn
bản để thiết kế một hệ thống giám sát.
Một trong những mục tiêu chính của hệ thống trạm giám sát chất lượng môi trường là
theo dõi xu thế dài hạn (theo mùa hoặc theo năm) chất lượng các thành phần chủ yếu
của môi trường (nước và không khí). Do đó, để đánh giá được xu thế biến đổi dài hạn
này, việc so sánh số liệu từ trạm này sang trạm khác là rất quan trọng. Phục vụ tiêu chí
số liệu hay kết quả đo lường này, kỹ thuật đo lường và vị trí điểm đo đều mang tính
quan trọng như nhau. Mặc dù rất khó khăn trong việc tìm được đúng vị trí cần giám sát
đáp ứng được mọi yêu cầu đảm bảo về kinh tế và kỹ thuật, nhưng việc đưa ra một qui
phạm hay còn gọi như là các tiêu chí để đặt vị trí trạm là cần thiết.
1.3.2. Nguyên tắc chung để thiết lập một hệ thống giám sát chất lượng môi trường
Giám sát chất lượng môi trường bao giờ cũng kéo theo nhiều chi phí về thời gian, tiền
của và nhân lực. Nhưng do tầm quan trọng của nó (vì đã xảy ra nhiều thảm họa môi
trường) nên việc giám sát cần phải được lập kế hoạch rất cẩn thận, trong đó có hai vấn
đề rất đáng quan tâm là thiết lập mục tiêu giám sát và kế hoạch sử dụng số liệu giám
sát.

Để có thể thiết lập một hệ thống giám sát, người ta cần phải giải đáp những vấn đề lớn
sau đây:
(1) Mục tiêu giám sát và kế hoạch sử dụng số liệu giám sát.
(2) Số lượng và vị trí mạng lưới đo đạc và lấy mẫu. Thể loại chất ô nhiễm cần phải đo
đạc và lấy mẫu. Xử lý số liệu đã đo đạc và phân tích (kết quả giám sát) bằng giá trị
nào (cực đại, trung bình hay cả hai) của từng vị trí đo đạc và lấy mẫu. Tần suất, độ
dài chu kỳ lấy mẫu.
(3) Các vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng.
Giám sát chất lượng môi trường không khí và nước là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của kế hoạch bảo vệ và quản lý tài nguyên. Các thông tin về biến đổi và dao động
của nồng độ các chất gây ô nhiễm theo không gian và thời gian là những thông tin đầu
vào của một kế hoạch kiếm soát và quản lý môi trường. Các yêu cầu theo thời gian bao
gồm: sự so sánh các nồng độ này theo phân bố thẳng đứng và nằm ngang. Theo các
công trình đã báo cáo từ nước ngoài, khi tiến hành một kế hoạch giám sát chất lượng
môi trường, nhất thiết phải sử dụng một mạng lưới điểm lấy mẫu nằm trong và ngoài
khu vực quan tâm, thiết kế một mạng lưới như vậy phụ thuộc vào nhiều yếu tố và ít
nhất là bốn yếu tố:
• Điều kiện tự nhiên (địa hình, khí tượng, thủy văn…).
• Điều kiện nguồn thải.
• Điều kiện các hệ chịu tác động các chất ô nhiễm (người, động vật, công trình …).
• Điều kiện chi phí (điều kiện này tuy không phụ thuộc vào ba điều kiện trên).
Nhìn chung, mạng lưới trạm thường khác nhau. Một ví dụ cho nguyên tắc đặt trạm
giám sát chất lượng không khí: các điểm lựa chọn căn bản dựa trên quỹ đạo gió và
nguồn thải trong thời kỳ nghiên cứu, có thể là một mạng trạm kiểu đối xứng như trên
các vòng tròn đồng tâm hoặc cũng có thể các điểm đặt trên các đầu mút hoặc tâm một
mạng lưới ô vuông. Thông thường trong các nghiên cứu đều có phối hợp một mạng
lưới cố định được bổ sung bằng những trạm di động để có thể lấy được nhiều mẫu hơn
trong thời kỳ có quan tâm đặc biệt. Để thu được những mẫu theo chiều thẳng đứng
trong không khí người ta sử dụng các tháp đo, máy bay, bóng bay v.v. Các trạm đặt
trên mặt đất phải được chuẩn hóa về mọi mặt (vị trí, địa hình, phương pháp lấy mẫu và

phân tích, trang thiết bị) sao cho các mẫu lấy được phải mang tính đặc trưng, đủ độ tin
cậy để có khả năng so sánh.
Ngoài ra một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến kinh tế kỹ thuật cần xem xét và
cân nhắc khi hoạch định vị trí mạng lưới trạm giám sát:
(1) Khả năng kinh phí đầu tư.
(2) Yêu cầu về nhân lực, thiết bị và đánh giá số liệu.
(3) Khả năng về sự thành thạo của nhân viên.
(4) Lưu trữ số liệu.
1.3.3. Một số phân loại hệ thống giám sát chất lượng môi trường
Hệ thống giám sát chất lượng môi trường bao gổm vị trí giám sát, đo đạc, lấy mẫu
(mạng lưới trạm giám sát), các phương tiện kỹ thuật (nhà xưởng, máy móc thiết bị đo
đạc, phân tích và các phòng thí nghiệm) và nhân lực để vận hành, giám sát đo đạc, xử
lý, phân tích, thông tin và phục vụ báo cáo chất lượng môi trường. Nó là công cụ cơ
bản để kiểm soát chất lượng và ô nhiễm môi trường và là cơ sở để quản lý và phát
triển hệ thống giám sát môi trường.
Dựa vào qui mô không gian người ta phân các hệ thống trạm giám sát môi trường
thành các hệ thống sau:
• Qui mô địa phương: có các hệ thống giám sát môi trường của một tỉnh, một thành
phố, thậm chí của một nhà máy hoặc khu công nghiệp (Local Environmental
Monitoring System).
• Qui mô quốc gia: hệ thống giám sát môi trường Quốc gia (National Environmental
Monitoring System).
• Qui mô khu vực (vùng): hệ thống giám sát môi trường cho một vùng có diện tích
rộng lớn ví dụ như mạng lưới lắng axit vùng Đông Á.
• Qui mô toàn cầu: có hệ thống giám sát môi trường toàn cầu (Global Environmental
Monitoring System - GEMS).
Phổ biến nhất trên thế giới hiện nay là tổ chức hệ thống giám sát theo thành phần của
môi trường. Hệ thống GEMS thực hiện giám sát theo thành phần của môi trường bao
gồm:
• Hệ thống giám sát chất lượng nước mặt.

• Hệ thống giám sát chất lượng nước ngầm.
• Hệ thống giám sát chất lượng đất.
• Hệ thống giám sát chất lượng không khí.
• Hệ thống giám sát môi trường biển.
Ngoài ra, dựa vào tính chất, qui mô của trang thiết bị người ta còn phân loại các trạm
giám sát môi trường thành các trạm liên tục hay gián đoạn, trạm cố định hay lưu động.
1.4. PHƯƠNG PHÁP, THIẾT BỊ VÀ KỸ THUẬT LẤY MẪU
Lấy mẫu môi trường là điểm xuất phát của việc thực hiện chương trình giám sát chất
lượng môi trường. Sai sót trong lấy mẫu sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống thông tin
(kết quả) giám sát chất lượng môi trường sau này. Thiết bị lấy mẫu phải được thiết kế
phù hợp và cụ thể. Sau khi xác định được phương pháp lấy mẫu phù hợp bước tiếp
theo là lựa chọn thiết bị lấy mẫu hoặc đo lường. Sự tiếp xúc giữa người lấy mẫu và
mẫu phải được giảm đến nhỏ nhất.
Trong tài liệu này các phương pháp lấy mẫu tập trung vào môi trường không khí và
nước, bao gồm cả nước biển. Các phương pháp đưa ra mang tính liệt kê để tham khảo
và có tác dụng lựa chọn sau này cho thiết kế chương trình giám sát chất lượng môi
trường.
1.4.1. Lấy mẫu không khí
Hệ thống lấy mẫu không khí bao gồm bốn bộ phận: bộ phận lấy không khí vào, bộ
phận thu mẫu hoặc đầu dò (cảm biến – sensor), bộ phận đo tốc độ dòng và thiết bị hút
khí. Các bộ phận này được thiết kế bằng vật liệu sao cho không làm ảnh hưởng hóa
học hay lý học đến mẫu không khí.
• Bộ phận lấy không khí vào: bản chất của bộ phận này được thiết kế theo mục tiêu
của kỹ thuật lấy mẫu. Chúng có thể được thiết kế để hút không khí theo chiều thẳng
đứng hoặc thụ động để tự rơi vào.
• Bộ phận thu mẫu: bộ phận này được phân loại riêng rẽ cho chất hạt và chất khí.
Chất hạt
- Lọc.
- Sục ướt hoặc sục khô.
- Lắng đọng.

- Ly tâm hoặc cyclon.
Chất khí
- Hấp phụ.
- Hấp thụ.
- Ngưng tụ.
- Tức thời.
1.4.2. Lấy mẫu nước
Đối với môi trường nước, không có hệ thống lấy mẫu đặc thù do mức độ quan tâm về
chất lượng môi trường nước rất khác nhau. Một qui định rất chung cho việc lấy mẫu
nước là sao cho thể tích mẫu phải đủ nhỏ để vận chuyển được và phải đủ lớn để mẫu
có thể đại diện cho khu vực lấy mẫu. Thông thường thể tích mẫu dao động từ 500 –
1.000 ml là vừa. Trên một mặt cắt người ta có thể lấy mẫu theo chiều rộng và chiều
sâu. Đối với mẫu lấy theo chiều sâu việc lấy mẫu phức tạp hơn. Có hai loại thiết bị để
lấy mẫu, một loại thiết bị để lấy mẫu chất lượng nước và loại thứ hai sử dụng để lấy
mẫu cho các chất vết như kim loại nặng. Các bộ phận của thiết bị được thiết kế sao cho
mẫu lấy được không bị ảnh hưởng của các tầng nước khác nhau và không bị ảnh
hưởng của chính thiết bị lấy mẫu. Các thiết bị lấy mẫu tầng sâu luôn phải kèm theo
thiết bị đo áp lực nước. Ngoài các thiết bị lấy mẫu đơn lẻ này ra còn có thiết bị lấy
mẫu tự động theo trình tự đã được đặt trước (lấy mẫu tự động).
1.5. ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ THIẾT KẾ CHƯƠNG TRÌNH GIÁM SÁT
CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
Sau khi đã thiết lập mục tiêu và thể loại giám sát chất lượng môi trường, trong thiết kế
chương trình giám sát luôn phải xem xét các khía cạnh khác đặc biệt quan trọng mà nó
được xem như các điều kiện quyết định để lựa chọn vị trí cũng như các thông số đo
đạc. Đó là các điều kiện tự nhiên về địa hình, khí hậu, chế độ dòng chảy cũng như các
điều kiện kinh tế hay nói một cách khác là các nguồn thải gia nhập là thay đổi chất
lượng môi trường.
Một số vấn đề sau cần phải xem xét kỹ khi triển khai thiết kế hệ thổng trạm, bao gồm:
(1) Thu thập và xử lý số liệu khí tượng, thủy hải văn có sẵn từ các trạm.
(2) Thu thập và xử lý các số liệu thải.

(3) Thu thập và phân tích điều kiện về cơ sở vật chất cho giám sát môi trường hiện có.
(4) Dự kiến chất lượng môi trường sẽ giám sát thông qua các nồng độ chất ô nhiễm.
(5) Điều kiện phù hợp về độ chính xác và độ nhạy của trang thiết bị sẽ trang bị.
(6) Các qui định pháp luật và các hướng dẫn kỹ thuật cũng như các chuẩn chất lượng
môi trường.
(7) Các vấn đề liên quan đến khả năng kinh phí (đầu tư, nhân lực).
Nồng độ các chất ô nhiễm có mặt trong môi trường không khí và nước phụ thuộc vào
sự khuyếch tán của chúng từ các nguồn phát thải và các chuyển hóa của chúng trong
môi trường. Nói một cách khác, nồng độ các chất ô nhiễm còn phụ thuộc vào khả năng
tự làm sạch của môi trường, ví dụ như trong môi trường không khí sự tự làm sạch
thông qua các quá trình như lắng khô, lắng ướt và các chuyển hóa hóa học trong đó
chuyển hóa hóa học giữ vai trò chủ đạo trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm. Sự tạo
thành hạt hoặc giữ nguyên trạng thái khí, tiếp đó quá trình loại bỏ từng phần hay hoàn
toàn phụ thuộc vào bản chất hóa học và điều kiện khí tượng hay thời tiết cũng như bề
mặt tại nơi xảy ra các quá trình này. Cũng tương tự cho môi trường nước, các đặc
điểm về dòng chảy, về địa hình (độ dốc) và đặc biệt là về bản chất và vị trí nơi xả thải
và dòng nước hay hồ chứa v.v là những điều kiện rất quan trọng quyết định đến chất
lượng lý, hóa hay sinh học của chất lượng nước.
Thu thập các số liệu khí tượng, thủy văn, hải văn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng
trong giám sát chất lượng môi trường không khí và nước (bao gồm cả nước biển). Các
giám sát có hệ thống các thông số này giúp cho ta phân tích các biến đổi, các xu thế
cũng như các đột biến của chất lượng môi trường. Ngoài ra, trong dự báo xu thế chất
lượng môi trường, các biến số khí tượng thủy văn là một trong những yếu tố quyết
định.
Để thiết lập một hệ thống giám sát chất lượng không khí và nước, việc tính toán ước
lượng nồng độ các chất ô nhiễm tại nơi dự kiến đặt điểm đo là quan trọng. Thông
thường người ta tiến hành theo hai cách. Một trong hai cách đó là tính toán lượng thải
gia nhập vào môi trường. Để có được các kết quả tính toán tin cậy, các số liệu phát
thải từ các nguồn chủ yếu cần được thu thập. Đối với mỗi môi trường các nguồn thải
đặc thù cần phân loại, ví dụ đối với môi trường không khí các loại hoạt động kinh tế có

liên quan đến tiêu thụ nguyên nhiên liệu hóa thạch, tương tự cho thải nước các đặc thù
công nghiệp lại là công nghiệp thực phẩm, dệt, háo chất v.v. Dựa vào các nguồn thải
gia nhập này, người ta có thể dự kiến các vị trí giám sát và các thông số đo lường. Hai
là đo lường thử nghiệm các thông số dự kiến để có một khái niệm tổng hợp giữa
nguồn thải và ô nhiễm nền môi trường từ đó vị trí giám sát và thông số đo lường cũng
như chế độ đo và kỹ thuật đo được diễn giải một cách hợp lý.
1.6. THU THẬP XỬ LÝ VÀ BIỂU DIỄN KẾT QUẢ
1.6.1. Yêu cầu khoa học của số liệu giám sát môi trường
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác giám sát chất lượng mà nước ta đôi khi
còn gọi là công tác điều tra cơ bản môi trường không khí và nước là thu thập các thông
tin chất lượng về môi trường không khí, nước và các thông tin khác có liên quan để
phục vụ cho các mục đích sau đây:
• Đánh giá hiện trạng môi trường trong toàn lãnh thổ đang diễn ra giám sát, đặc biệt
là các khu vực quan trọng về kinh tế và xã hội.
• Xác định xu thế biến đổi chất lượng môi trường nhằm tìm ra các phương án hạn
chế các diễn biến bất lợi.
• Dự báo và cảnh báo xu thế giảm sút hoặc cải thiện chất lượng môi trường không
khí và nước.
• Cung cấp các số liệu về chất lượng môi trường không khí và nước cho các nhà
lãnh đạo và quản lý để lập kế hoạch và chính sách phát triển bền vững v.v.
Chất lượng của số liệu về môi trường được đánh giá bằng khả năng tiếp cận với các
mục tiêu nói trên, số liệu chất lượng môi trường phải bảo đảm các thuộc tính cơ bản
dưới đây.
1.6.2. Độ chính xác của số liệu
Độ chính xác của số liệu được đánh giá bằng khả năng tương đồng giữa số liệu và
hiện thực. Sự sai khác nhau này càng ít càng tốt. Để đạt được độ chính xác cao, trong
công tác mạng lưới cần phải giải quyết một loạt các vấn đề khác nhau như trang thiết
bị, giám sát, thu thập, bảo quản mẫu, quy trình, quy phạm, trình độ và khả năng thành
thạo của người giám sát và phương pháp phân tích.
1.6.3. Tính đồng nhất của số liệu

Để nghiên cứu cấu trúc các yếu tố môi trường trong không gian và sự diễn biến theo
thời gian, các số liệu thu thập ở các địa điểm khác nhau vào các thời kỳ khác nhau
phải có khả năng so sánh được với nhau. Nói cách khác, các số liệu đó được đo cùng
một đơn vị chuẩn. Khả năng so sánh được của số liệu còn gọi là tính đồng nhất của số
liệu. Để đảm bảo tính đồng nhất, trong công tác mạng lưới cần quan tâm đến các vấn
đề sau đây:
• Để xác định một yếu tố không được sử dụng quá nhiều chủng loại máy móc khác
nhau, khi thay đổi máy móc, thiết bị, bắt buộc phải so sánh giữa kết quả xác định
theo máy móc mới và máy móc cũ từ đó tìm ra số liệu chính tương quan giữa
chúng. Hiện nay chúng ta chưa có nguồn cung cấp máy móc về môi trường ổn
định, nên phải nhập từ nhiều nguồn khác nhau, do vậy rất khó khăn trong việc so
sánh giữa chúng, đó là chưa nói đến những sai lệch do khí hậu nóng ẩm tạo ra.
• Việc giám sát, thu thập, bảo quản mẫu phải tuân theo một qui trình chặt chẽ, thống
nhất, trong trường hợp vì một lý do nào đó buộc phải thay đổi thì nhất thiết phải có
sự so sánh giữa các kết quả đo theo qui trình cũ và qui trình mới.
• Các yếu tố của môi trường không khí không những biến đổi theo thời gian và còn
thay đổi từ nơi này đến nơi khác. Do vậy vị trí giám sát lấy mẫu có liên quan chặt
chẽ đến kết quả. Một dãy số liệu liên tục về thời gian chỉ có thể so sánh được với
nhau khi vị trí trạm không thay đổi. Điều này buộc phải giữ cố định vị trí trạm.
Trong trường hợp vì điều kiện khách quan như vị trí hiện tại trong thời gian sắp tới
không đủ tiêu chuẩn đặt trạm như do có các thay đổi về điều kiện tự nhiên, về
nguồn thải v.v. buộc phải thay đổi vị trí, thì phải đồng thời giám sát song song ở vị
trí trạm cũ và trạm mới trong một thời gian để so sánh kết quả giữa chúng trước
khi chuyển hẳn sang vị trí mới.
1.6.4. Tính đại diện theo không gian của số liệu
Nhiệm vụ của công tác mạng lưới giám sát môi trường là thu thập các số liệu môi
trường cho phép đánh giá được chất lượng môi trường tại mọi điểm trong khu vực
quản lý. Do không đủ khả năng để xác lập một hệ thống các điểm đo dày đặc trên toàn
khu vực, chỉ có khả năng đo ở một số điểm nhất định mà chúng ta gọi là các trạm
giám sát môi trường (gọi tắt là trạm). Vì vậy mỗi trạm phải đặc trưng cho một khu

vực nhất định. Muốn vậy trong toàn bộ khu vực mà trạm làm đại diện, các yếu tố môi
trường giữa điểm này với điểm kia khác nhau không nhiều.
Vấn đề là tìm ra một mạng lưới với số trạm là ít nhất mà đảm bảo được khả năng quản
lý chất lượng môi trường trong toàn phạm vi được giao. Đây là một vấn đề thuộc lĩnh
vực “bài toán tối ưu”. Về nguyên lý chung, thì mật độ trạm phụ thuộc vào tính phức
tạp của sự phân bố các yếu tố môi trường theo không gian. Để xác định giá trị (các
yếu tố môi trường) tại một điểm nào đó không có số liệu đo đạc thì phải tiến hành nội
suy từ các số liệu đo đạc ở các trạm lân cận. Sai số của phép nội suy phụ thuộc vào
khoảng các giữa các trạm và tính phức tạp trong cấu trúc không gian của yếu tố đang
nghiên cứu. Sai số càng nhiều khi khoảng cách giữa các trạm càng lớn và yếu tố đó
biến thiên theo không gian càng lớn.
Để bảo đảm thu được giá trị, với sai số nằm trong giới hạn cho phép, thì ở những nơi
có cấu trúc phức tạp khoảng cách giữa các trạm buộc phải rút ngắn, ngược lại các nơi
có cấu trúc đơn giản khoảng cách giữa các trạm cho phép được nâng lên. Ví dụ, các
yếu tố môi trường không khí quanh ống khói nhà máy, của môi trường nước quanh
các cửa kênh thải rất phức tạp, trong trường hợp này cần phải tổ chức nhiều điểm đo.
Nếu yếu tố môi trường theo một hướng nào đó biến đổi không nhiều (ví dụ, các chất
thải của ôtô dọc theo hướng của đường) thì khoảng cách giữa các điểm đo theo hướng
đó cho phép lớn, ngược lại theo hướng có sự biến đổi nhiều (ví dụ, theo hướng vuông
góc với tuyến đường) khoảng cách phải được rút ngắn. Như vậy về phương diện hợp
lý, tối ưu, khoảng cách giữa các trạm không nhất thiết phải như nhau. Tính phức tạp
trong cấu trúc không gian của các yếu tô môi trường lại phụ thuộc rất nhiều các thông
số khác như đặc điểm nguồn thải, điều kiện địa hình, đặc điểm khí tượng thủy văn,
hình thức lan truyền và biến đổi của các chất thải.
1.6.5. Khả năng theo dõi liên tục về thời gian
Bất kỳ một hiện tượng tự nhiên nào cũng tồn tại trong một qui mô không gian và một
khoảng thời gian nhất định. Dãy số liệu phải có khả năng theo dõi sự diễn biến theo
thời gian. Điều đó có nghĩa là từ dãy số liệu đã có cho phép xác định các yếu tố môi
trường vào bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ, kể cả những thời điểm không có số
liệu.

Trong thực tế chúng ta chưa có khả năng giám sát liên tục, mà chỉ có thể quan trắc
vào một số thời điểm nhất định mà người ta gọi là “ốp” quan trắc. Theo phương pháp
thông thường, để xác định giá trị vào một thời điểm nào đó không trùng ốp quan trăds
buộc phải nội suy từ các số liệu thu được ở các ốp gần đó. Cũng như trong phép nội
suy không gian, sai số trong phép nội suy của dãy số liệu thời gian phụ thuộc vào độ
dài thời gian giữa hai ốp quan trắc và tính phức tạp trong quá trình biến đổi của nó.
Với một sai số cho phép định trước, các yếu tố biến đổi nhanh và phức tạp buộc phải
rút ngắn khoảng cách giữa các ốp quan trắc. Đây là cơ sở để lựa chọn các ốp quan trắc
trong công tác mạng lưới giám sát môi trường.
Trong thực tế, các đo lường chất lượng môi trường đặc biệt là môi trường không khí,
các phép đo thời gian thực (real-time) đã được triển khai tương đổi phổ biến. Vì vậy,
việc phân định các ốp quan trắc cần phải quan tâm khi phân hạng các trạm cụ thể.
1.6.6. Tính hoàn chỉnh của số liệu
Tính hoàn chỉnh của số liệu có nghĩa là số liệu phải bao gồm một lượng đủ lớn các
thông tin. Vấn đề đặt ra là phải chọn các thông tin nào và số lượng thông tin là bao
nhiêu. Để trả lời câu hỏi này chúng ta phải chú ý đến các điểm sau đây:
• Môi trường tác động lên một đối tượng nào đó không chỉ do một yếu tố mà do
nhiều yếu tố tác động đồng thời. Mỗi một yếu tố chỉ tác động đến một chừng mực
nhất định, vì đồng thời có nhiều yếu tố cùng tác động, do đó kết quả sẽ hoàn toàn
khác. Ví dụ các công trình kiến trúc bị phá hủy bởi bụi, các chất khí như CO
2
,
NO
x
, SO
2
, độ ẩm. Nếu chỉ đánh giá qua tác động qua từng nhân tố riêng rẽ không
thể đánh giá đúng mức độ phá hủy công trình do môi trường. Trong trường hợp
này người ta dùng chỉ tiêu tổng hợp P:


=
=
1
0
i
i
i
C
C
P
trong đó:
i
C
- hàm lượng của yếu tố i;
i
C
0
- nồng độ giới hạn cho phép của yếu tố i.
1>P
, là đã ô nhiễm (nguy hại cho công trình).
1<P
, là chưa ô nhiễm.
• Một trong những mục đích của công tác giám sát môi trường là sử dụng hệ thống
số liệu đã có để dự báo xu thế biến đổi của môi trường trong tương lai. Trong khi
đó sự biến đổi của môi trường chính nó lại phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên về khí
tượng thủy văn, địa chất, thổ nhưỡng, hệ sinh thái.
• Tất cả các điều trên đã chứng tỏ rằng chất lượng của số liệu cần phải được xét về
tính hoàn chỉnh đồng bộ của chúng. Nghĩa là trong công tác giám sát môi trường,
đồng thời với việc thu thập các số liệu về chất lượng môi trường còn thu thập số
liệu các yếu tố tự nhiên khác có liên quan.

1.6.7. Tính đặc trưng của số liệu
Tính đặc trưng của số liệu thể hiện ở hai mặt sau đây.
1.6.7.1. Đặc trưng không gian
Một số liệu thu thập được ở một điểm nào đó không có nghĩa là số liệu đó chỉ có giá
trị khi nghiên cứu tại chính điểm đó mà còn có giá trị khi nghiên cứu tại một điểm
khác nữa trong khu vực mà trạm được chọn là đại biểu. Để làm được điều đó, vị trí
đặt trạm phải mang tính chất chung nhất cho cả khu vực, loại bỏ được ảnh hưởng của
các dị biệt địa phương. Ví dụ, trạm môi trường ở vùng đồi núi trọc, nhất thiết không
được chọn điểm đặt trạm mà xung quanh cây cối tốt tươi. Nếu điều này không được
thỏa mãn thì số liệu không còn giá trị. Trong trường hợp các trạm nền, nơi nồng độ
của các chất bẩn thường rất nhỏ, ảnh hưởng của các nguồn thải tại chỗ trong nhiều
trường hợp sẽ lấn át hẳn môi trường nền mà chúng ta đang quan tâm. Do đó cần phải
quan tâm đến tất cả những vấn này khi đặt trạm.
1.6.7.2. Đặc trưng cho đối tượng
Mỗi một nguồn thải đưa vào môi trường không khí và nước có một số chất đặc trưng
cho loại nguồn thải đó. Muốn xác định vai trò của nguồn thải đối với môi trường cần
phải chọn một cách chính xác các yếu tố được đo.
Thiết kế mạng lưới giám sát môi trường đạt đến mức độ tiêu chuẩn trong điều kiện
nước ta hiện nay là một điều khó khăn vì thiếu số liệu, thiếu các hiểu biết cần thiết về
đặc điểm môi trường hiện nay của nước ta.
1.6.8. Biểu diễn kết quả số liệu
Biểu diễn kết quả là quá trình phân tích số liệu để chuyển số liệu thô thành số liệu có
thể sử dụng hoặc trao đổi được. Những kết quả phân tích số liệu này cần phải tuân
theo một qui trình đã được thiết lập vì dựa trên cơ sở này các kết quả từ các trạm khác
nhau mới có thể so sánh được. Thiết lập qui trình phân tích số liệu này người ta
thường sử dụng các phương pháp thống kê. Biểu diễn các kết quả đã được phân tích
này có thể sử dụng các phương pháp khác nhau như sơ đồ, đồ thị, bảng, biểu v.v. Các
giá trị như trung bình và các giá trị cực cho ngày, tháng, năm thường được sử dụng.
Sau mỗi lần phân tích số liệu, các giá trị giới hạn của số liệu cũng được thiết lập để
thống nhất chung trong toàn mạng lưới.

1.7. QUI TRÌNH VÀ CHÍNH SÁCH VẬN HÀNH
1.7.1. Phương thức vận hành
Do điều kiện tự nhiên và xã hội của từng trạm rất khác nhau, do đó phải thiết lập một
qui trình vận hành thống nhất cho toàn bộ hệ thống trạm. Các qui chế vận hành thiết
lập trong hệ thống phụ thuộc vào mức chất lượng môi trường dự định giám sát, ví dụ
như kiểu vận hành cho giám sát xu thế ô nhiễm thành phố khác với kiểu vận hành cho
giám sát chất lượng môi trường nông thôn. Do vậy, các kiểu vận hành được thiết lập
sao cho phù hợp với mục tiêu của chương trình giám sát. Mức ô nhiễm nền môi
trường lại thay đổi hay phụ thuộc vào rất nhiều vào các thông số khí tượng hay thủy
hải văn, nguồn thải và nhiều yếu tố khác, do đó mức độ ô nhiễm cần quan tâm (nếu ở
đây đề cập đến mức độ ô nhiễm nền) có khi không phát hiện được trong một chu kỳ
thời gian theo tần suất đo đạc đã qui định (ví dụ trong trường hợp giám sát chất lượng
nước). Để giải quyết tồn tại này chỉ có một cách phân tích số liệu rất cẩn thận và phân
bố các giá trị đo được kết hợp với một phân tích đúng về các điều kiện lan truyền như
khí tượng, thủy hải văn và các quan trắc khác mới có thể xác định được một cách
trung thực hiện trạng chất lượng môi trường đã diễn ra tại nơi đo đạc. Ở đây không đề
cập đến hệ thống trang thiết bị và nhân lực trong phương thức vận hành vì coi những
vấn đề này sẽ được giải quyết đúng đắn một khi đã xác định được đúng chiến lược và
trong đó bao hàm cả mục tiêu giám sát.
1.7.2. Hệ thống đo đạc khí tượng, thủy hải văn
Hệ thống trạm giám sát chất lượng môi trường thiên nhiên luôn đi kèm với các đo
lường thông số khí tượng, thủy hải văn. Trong trường hợp hệ thống là trạm môi
trường nền thì đo đạc các thông số khí tượng và thủy hải văn là chương trình đầy đủ.
Khi các trạm đã được thiết lập theo một hệ thống thống nhất thì không còn bất cứ vấn
đề nào liên quan đến độ nhạy của phương pháp đo lường, đến sự thành thạo phân tích
viên hay giám sát viên, đến thiết bị sử dụng đo lường bất cứ một thông số nào trong
hệ thống có hiện đại hay không mà chỉ còn có vấn đề diễn giải số liệu chất lượng môi
trường đòi hỏi sự phù hợp và thỏa đáng của các quan trắc khí tượng thủy hải văn. Sự
tương ứng số liệu khí tượng thủy văn này không chỉ theo chế độ đo như tần suất mà
còn cả độ chính xác của phép đo.

1.8. CHƯƠNG TRÌNH ĐẢM BẢO VÀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG TRONG
GIÁM SÁT MÔI TRƯỜNG
1.8.1. Giới thiệu về đảm bảo chất lượng (Quality Assurance – QA) và kiểm soát
chất lượng (Quality Control – QC)
1.8.1.1. Chất lượng
A. Định nghĩa 1: Chất lượng là đáp ứng với các yêu cầu
Cuộc sống phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm và nhu cầu dịch vụ. Lịch sử về tiến
hóa và phát triển loài người là một ví dụ sinh động cho vấn đề này.
Các đặc tính của chất lượng sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
- Cấu trúc.
- Cảm giác.
- Độ bền.
- Thẩm mỹ.
Như vậy chất lượng phải đáp ứng các yêu cầu, nếu không đáp ứng được yêu cầu trong
bất cứ bộ phận nào của một dây chuyền sản xuất ra chất lượng sản phẩm thì sẽ dẫn
đến những sai sót. Hay nói một cách khác chất lượng là một quá trình mà chúng ta sử
dụng để đáp ứng với một qui trình chuẩn. Nếu đảm bảo được yêu cầu thì lợi ích thực
sự là tăng sức mạnh cạnh tranh và tăng năng suất.
B. Định nghĩa 2: Chất lượng đồng nghĩa với độ tin cậy
Độ tin cậy là khả năng của một sản phẩm hay dịch vụ có thể tiếp tục đáp ứng với các
yêu cầu của khách hàng. Nếu đặt vấn đề chất lượng là được xem xét như một mối
giao diện giữa hai tổ chức (hoặc hai cá nhân) sẽ dẫn đến là một là khách hàng một bên
là cung ứng và ngược lại, thì bên cung ứng phải đáp ứng nhu cầu của một khách hàng.
Như vậy để có thể đạt được chất lương sản phẩm và dịch vụ cho một công đoạn, cần
phải xem xét hai vấn đề liên quan đến chất lượng:
- Chất lượng thiết kế.
- Chất lượng trong việc tuân thủ thiết kế.
B1. Chất lượng thiết kế
Muốn có một sản phẩm phải có thiết kế. Chất lượng thiết kế được thể hiện ở chỗ sản
phẩm hoặc dịch vụ được thiết kế như thế nào để đạt được mục tiêu. Đặc trưng nhất

của chất lượng thiết kế là qui cách. Trong một công ty, một tổ chức, một đơn vị nhỏ
nhất qui cách là ở các giao diện bên cung ứng và khách hàng. Từ đó suy diễn ra các
qui cách để hoạt động.
B2. Chất lượng tuân thủ thiết kế
Đó là mức độ đạt tới chất lượng thiết kế của một sản phẩm hay một dịch vụ. Cái mà
khách hàng thực sự nhận phải phù hợp với thiết kế và những chi phí hoạt động có liên
quan chặt chẽ với mức độ tuân thủ. Ghi chép và phân tích các thông tin và dữ liệu có
vai trò quan trọng đối với tuân thủ thiết kế của chất lượng. Ở đây các phương pháp
thống kê góp phần rất quan trọng và phải được sử dụng có hiệu quả.
Tóm lại ta thấy rằng:
- Muốn có chất lượng trong mọi công việc ta phải xác định rõ được khách hàng của
từng cá nhân trong mọi tổ chức (hay nói một cách khác phải có được kết quả của từng
cá nhân).
- Chất lượng không tự nhiên sinh ra mà phải được quản lý.
- Chất lượng phải được hiểu trong toàn bộ tổ chức (vấn đề này liên quan đến quá trình
toàn bộ).
1.8.1.2. Quản lý chất lượng
Có một câu hỏi thường đặt ra cho tất cả chúng ta khi làm việc: liệu chúng ta đã làm
công việc một cách đúng đắn chưa?
Câu hỏi này chưa đủ vì để trả lời cho câu hỏi này liên quan đến rất nhiều yếu tố để đưa
đến hoàn thành công việc. Cách đặt câu hỏi này nhưng dưới dạng sau đây sẽ làm sáng
tỏ cho kết quả công việc mà chúng ta cần phải làm sẽ là:
Câu hỏi thứ nhất
Liệu chúng ta có đủ khả năng để làm công việc một cách đúng đắn chưa?
Chúng ta chỉ có thể trả lời là có chỉ khi chúng ta làm việc bằng sử dụng những biện
pháp, vật liệu, thiết bị, khả năng tay nghề, và sự chỉ dẫn thích hợp và một “qui trình”
thỏa đáng.
A. Qui trình
Một qui trình là biến một tập hợp đầu vào – có thể bao gồm các hành động, phương
pháp và công đoạn thành những đầu ra mong muốn dưới hình thức các sản phẩm,

thông tin, dịch vụ - hay nói một cách khác là những kết quả. Có nhiều qui trình trong
mọi lĩnh vực hoặc chức năng của một tổ chức. Mỗi qui trình trong mọi lĩnh vực đều có
thể được phân tích bằng việc xem xét các đầu vào và đầu ra. Điều này sẽ quyết định
các hoạt động cần thiết để nâng cao chất lượng.
Mô hình khái quát của qui trình:

Như vậy mỗi một nhiệm vụ trong toàn bộ tổ chức cần được coi như là một qui trình
mà mỗi đầu ra được trao cho một người hoặc một địa chỉ nào đó.
B. Biện pháp quản lý qui trình
Câu hỏi thứ hai
Liệu chúng ta có thể tiếp tục làm công việc một cách đúng đắn hay không?
Muốn sản xuất một đầu ra đáp ứng được yêu cầu, phải xác định, theo dõi và kiểm soát
các đầu vào của qui trình mà đầu vào của ta có thể là đầu ra của người khác, bộ phận
Vật liệu
Thủ tục
Các phương pháp
Thông tin (qui cách)
Con người
Kỹ năng
Kiến thức
Đào tạo
Thiết bị
Qui trình
- Sản phẩm
- Dịch vụ
- Thông tin
- Giấy tờ
khác hoặc đầu ra của ta lại là đầu vào của người khác, bộ phận khác. Để trả lời cho câu
hỏi này nảy sinh ra vấn đề là cần phải theo dõi qui trình và có những biện pháp quản lý
qui trình đó. Nếu có thể trả lời cho hai câu hỏi nêu trên là có thì chắc chắn là chúng ta

đã làm công việc một cách đúng đắn rồi. Như vậy, phân tích câu hỏi tổng quát đầu tiên
chúng ta có hai câu hỏi cụ thể cần phải trả lời đó là khả năng thực thi và khả năng quản
lý công việc. Hay nói một cách khác trả lời được hai câu hỏi trên là chúng ta đã đảm
bảo chất lượng – tức là đảm bảo rằng sản phẩm của chúng ta thể hiện đầu ra của một
hệ thống có hiệu quả nhằm đảm bảo khả năng và quản lý.
Như vậy, Quản lý chất lượng (QC) là những hoạt động về kỹ thuật được sử dụng
nhằm đạt được và duy trì chất lượng của một sản phẩm, một qui trình hay một dịch vụ.
Nó bao gồm theo dõi và loại trừ các nguyên nhân xảy ra những trục trặc về chất lượng
để các yêu cầu của khách hàng có thể liên tục được đáp ứng.
Rộng hơn, Đảm bảo chất lượng (QA) là ngăn ngừa những trục trặc về chất lượng
bằng các hoạt động có kế hoạch và có hệ thống. Những hoạt động bao gồm việc thiết
lập một hệ thống quản lý chất lượng tốt và đánh giá tình hình thích hợp, tính thẩm tra
về hoạt động và kiểm điểm rà soát lại bản thân hệ thống đó.
1.8.2. QA/QC trong giám sát môi trường
1.8.2.1. Đặt vấn đề
Trong xã hội hiện đại ngày nay, ngoài ba nguồn lực tự nhiên như: nguồn vốn, lao động
và nguyên liệu sản xuất người ta còn thêm một nguồn lực nữa, một nguồn lực thứ tư
đó là nguồn lực thông tin. Bốn nguồn lực này được xem là nền tảng của nền kinh tế
động. Thông tin tự bản thân nó có những đặc thù riêng khi xem xét như một nguồn
lực:
• Sự chính xác: thông tin phải là chính xác nếu không sẽ có ít giá trị sử dụng.
• Có tính cập nhật theo thời gian: thông tin được thu nhận kịp thời để đưa ra những
quyết định đúng, nếu không thông tin sẽ mất giá trị sử dụng.
• Giá thành: thông tin ít khi cho không. Thông tin phải thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng, nếu không không có giá trị.
• Có thể được chuyển giao dễ dàng và không tốn kém.
Giám sát môi trường bao gồm lấy mẫu, phân tích mẫu, xử lý số liệu và cuối cùng là
cung cấp thông tin đến khách hàng. Như vậy nó cũng là một lĩnh vực cung cấp dịch vụ
trong mọi công đoạn của xã hội vì nó cung cấp các thông tin liên quan đến khía cạnh
xác định, nhận biết và thành phần hóa, lý, sinh học v.v của các thành phần môi trường.

Do vậy thông tin phát ra từ hệ thống giám sát là các kết quả phân tích được xem như
một thứ hàng hóa. Các kết quả giám sát này cũng phải đảm bảo các tính chất cơ bản đã
nêu trên của nguồn lực thông tin. Nó cũng phải đảm bảo tính chất chính xác, hợp thời,
có thể đáng giá nhưng phải thỏa mãn yêu cầu của người sử dụng, có thể bán (hoặc cho
không), có thể chuyển giao nhanh và không tốn kém.
Hơn thế, các kết quả giám sát sau khi được xử lý khi được xem như thông tin cần phải
có những đặc thù riêng, ở đây nói đến sự chính xác của một kết quả giám sát đi theo
nó là sự an toàn (hay đảm bảo) của chất lượng số liệu khi công bố. Điều này rất quan
trọng bởi vì:
• Số liệu giám sát là chuẩn mực cho chi phí tiền. Quyết định của các chính sách về
môi trường hoặc các sử dụng số liệu về sau trong nghiên cứu phần lớn đều phải dựa
vào kết quả giám sát này.
• Số liệu giám sát chính xác có tầm quan trọng cho sức khỏe và an toàn của cộng
đồng.
• Số liệu giám sát chính xác có tầm quan trọng trong đánh giá, giám sát, theo dõi và
bảo vệ môi trường.
• Số liệu giám sát là chuẩn mực cho tranh chấp mà trong xã hội hiện đại ngày nay
việc tranh chấp luôn xảy ra.
• Số liệu giám sát thường tốn kém do trang thiết bị ngày một hiện đại do đó kéo theo
giá cả của vật chất trong đó có giá cả của số liệu giám sát.
1.8.2.2. Địa chỉ cúa số liệu giám sát
Cơ quan sở hữu mạng lưới giám sát cần phải biết những ai quan tâm đến số liệu của
mình, nếu không giá trị của số liệu giám sát sẽ được coi như không có giá trị sủ dụng.
Sau đây liệt kê những địa chỉ của những pháp nhân có liên quan đến số liệu giám sát:
• Là những người sử dụng số liệu giám sát (khách hàng) hay là những người trả chi
phí cho số liệu giám sát.
• Là những người đứng bên ngoài hệ thống giám sát, nhưng là những người đánh giá
hệ thống giám sát, ví dụ, các cơ quan hữu trách của Nhà nước, các pháp nhân có
thẩm quyền theo dõi, thẩm định hệ thống giám sát theo các qui định của Nhà nước.
• Là các lãnh đạo cấp trên trực tiếp và gián tiếp của số liệu giám sát (ví dụ, cơ quan

cấp trên trực tiếp trong tổ chức, cơ quan của hệ thống giám sát) là những người liên

×