Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

luận văn của Nhã Thuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.16 KB, 14 trang )

cuộc nổi dậy của rác thải[1]
Nhã Thuyên♦ ♦ 23.10.2012
1/
Tôi còn nhớ rõ cảm giác của mình, một nỗi buồn lạ lẫm thời sinh viên, khi lần đầu tiếp
xúc với những bài thơ “dơ bẩn” của các thành viên Mở Miệng một người bạn của tôi in ra
từ mạng internet mang tới, thời điểm các diễn đàn văn chương mạng đang là một nguồn
hấp dẫn mới, tôi nghĩ: phải chăng không có cách nổi loạn nào khác ngoài sự phá phách
thơ ca? Sau đó, từ việc đọc và quan sát việc làm của họ, tôi thu nhận thêm những ý nghĩ
mới và tôi tự cười chính cảm xúc nghiêm trọng ban đầu của mình. Cho đến giờ, với tôi,
Mở Miệng là những người bạn: tôi được nhận những tập thơ họ mới xuất bản, chia sẻ
những tin tức về họ, tôi đã đọc các ấn phẩm thơ của Mở Miệng từ tập thơ photo đầu tiên
tới tập mới nhất, ngoài một đôi tập không thể tìm được nữa sau các đợt thẩm tra của
công an văn hóa. Tôi quan tâm tới sự thay đổi của các thành viên: từ 6 thành viên ban
đầu, vốn là một nhóm bạn văn chương trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Sài
Gòn khóa 1997-2001 gồm Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán, Hoàng Long, Trần
Văn Hiến (in chung tập Vòng tròn sáu mặt năm 2002), rồi Hoàng Long và Trần Văn
Hiến rời khỏi nhóm ngày sau đó vì những khác biệt trong quan niệm văn chương, bốn tác
giả còn lại cho ra đời tập Mở Miệng (tháng 6.2002), rồi một thời gian sau, Nguyễn Quán
rời nhóm, đi tu, Khúc Duy sau tập thơ riêng Hầm bà lần (2004) cũng “mất tích” khỏi
văn đàn. Trong vòng hơn mười năm qua, Mở Miệng, với hai thành viên còn lại là Lý Đợi
và Bùi Chát, bên cạnh việc ra các tác phẩm thơ riêng đã kiên trì theo đuổi các hoạt động
tự xuất bản với việc sáng lập Nhà xuất bản Giấy Vụn, một điểm nổi bật của phong trào
xuất bản samizdat chống kiểm duyệt và đấu tranh cho tự do xuất bản, tự do ngôn luận ở
Việt Nam đương đại. Nhiều năm trở lại đây, thậm chí sự nổi tiếng về hoạt động xuất bản
của họ dường như đã lấn át vị trí thơ ca trong sự nghiệp cá nhân của các nhà thơ, hình
ảnh về Mở Miệng chỉ còn nổi bật như một nhóm thơ bất đồng chính kiến với đặc sản thơ
tục, thơ rác, thơ phản kháng, nhất là sau sự kiện Bùi Chát được vinh danh bằng giải
thưởng xuất bản và thường xuyên chịu sự theo dõi, bắt bớ, thẩm vấn của cơ quan an
ninh.[2] Với tôi, sự kiên trì với hoạt động tự xuất bản này luôn đáng kính trọng, và đó
thực sự là một biểu hiện của cuộc sống mang thi tính, không vừa với những trật tự. Tuy
nhiên, bởi sự thiên vị của tôi với các vấn đề thơ ca (chứ không phải sự lảng tránh những


vấn đề khác), tôi không có tham vọng nhận diện đầy đủ, khách quan, tỉ mỉ về nhóm thơ
nổi tiếng này, dù có thể là không công bằng nếu tôi nhìn các vấn đề thơ ca tách biệt khỏi
các thực hành xuất bản và thậm chí, tách khỏi cuộc sống ngoài lề của họ. Mở Miệng, tôi
muốn coi là một nút thắt để mở ra những câu hỏi khác của thi ca. Vậy, với tôi, Mở Miệng
là ai ở vị trí các nhà thơ? Các thực hành thơ của Mở Miệng, nổi bật là cuộc tấn công vào
chất liệu với các tên gọi thơ Rác, thơ Dơ, thơ Nghĩa Địa, từng châm ngòi cho những tranh
luận nhiều chiều, chủ yếu trên các diễn đàn văn hóa nghệ thuật liên mạng đặt tại hải
ngoại, có tiềm năng cách tân và cách mạng như thế nào? Chúng đóng góp gì vào sự thay
đổi nhận thức về thơ ca và với sự phát triển của thơ Việt đương đại? Thông qua việc
phân tích tuyên ngôn và các thực hành thơ của Mở Miệng, tôi hi vọng những câu hỏi này
sẽ được sáng tỏ ít nhiều. Bản sắc của các nhà thơ Mở Miệng sẽ được nhận diện từ chính
ngôn ngữ thơ ca của họ, đặt trong một văn cảnh rộng hơn các văn bản thơ, bao gồm cả
bối cảnh xã hội, văn hóa, chính trị và cả các diễn ngôn phê bình về thơ, hơn là từ những
hành vi xã hội có tính chất tham dự vào bối cảnh. Ở góc nhìn nào đó, thơ ca định vị mối
quan hệ của nó với thời đại bằng kinh nghiệm riêng biệt của ngôn ngữ, và sự tra vấn
thân phận của ngôn ngữ trong thời đại, ngược lại, sẽ định vị bản sắc cá nhân của nhà
thơ.
Sự chú ý tới các tra vấn về ngôn ngữ đặt ra từ các thực hành thơ của Mở Miệng, thú thật
là một sự dè chừng của tôi trước tiềm năng xây dựng một thứ huyền thoại về các hiện
tượng thơ bất đồng chính kiến ở Việt Nam, thường bị quy giảm thành thơ phản kháng
chính trị, điều (được cho là) hấp dẫn dư luận bên ngoài và được chú ý khai thác nhiều
hơn, trong khi những tra vấn về các vấn đề mĩ học của thơ ca có thể bị giảm thiểu hoặc
có vị trí yếu hơn. Chính bởi thế, tôi cho rằng đã xảy ra điều đáng tiếc với thơ ca Việt
Nam: các tranh luận về thơ đương đại, nỗ lực của các nhà thơ, các nhà phê bình trong
nhiều năm trước đã trở thành những dấu tích trong “cái ao” văn chương Việt Nam đương
đại. Dường như sẽ là một thiệt thòi cho các nền thơ ca được biết tới chỉ với những biến
động của bối cảnh chính trị, bởi khi chính trị đã vượt ra khỏi những vấn đề địa phương
thì sự bình đẳng của thơ ca một quốc gia trong nỗ lực chia sẻ với vận động của văn
chương và thời đại ở phạm vi toàn cầu sẽ không thể có được nếu nó chỉ được chú ý như
một thứ hương vị ngoại lai.


2/
Trước khi đi vào phần chính của tiểu luận, tôi muốn phác lại đôi nét thông tin về các bài
viết, các tranh luận xoay quanh tuyên ngôn và các sáng tác thơ của Mở Miệng nhiều năm
trước để lý giải tại sao họ lại từng là điểm nóng trên thi đàn. Đây là một phác họa hấp
dẫn của biên tập viên Đinh Tuấn Anh về chân dung nhóm thơ đã từng gây náo loạn văn
đàn những năm đầu tiên của thiên niên kỉ này, trong chuyên đề Thơ trẻ Sài Gòn năm
2004 của báo điện tử văn chương Tiếng Việt chính thống trong nước Evan[3]:
“Có một nhóm sáng tác trẻ tự xuất bản những tác phẩm của họ dưới dạng photocopy, và
coi đó như văn bản chính thức. Họ rảo bước qua những đường phố Sài Gòn, những quán
café, quán thịt chó, ngày và đêm, ánh đèn, xe cộ, bụi và tiếng ồn. Họ làm thơ. Rồi cả
truyện, tiểu thuyết, tiểu luận, trình diễn, sắp đặt, nghệ thuật ý niệm (conceptual art),
nghệ thuật thị giác (visual art)… và họ tuyên ngôn. Tự xếp mình, đúng hơn là tự xem
mình nằm trong các trào lưu tiền phong, chẳng hạn như hậu hiện đại, họ đẩy thơ vào
“ngõ cụt”, chiếu bí người đọc bằng ý thức đổi mới ngôn ngữ. Họ sẵn sàng thách thức
những người làm thơ khác về tính chuyên nghiệp, tính học thuật trong thơ; nhất là, như
họ nói thẳng thắn, với lớp nhà thơ bảo thủ, không chịu rời bỏ những sở trường của mình.
Và tất nhiên, họ chấp nhận bị thách thức.”
Nhiều người sẽ còn nhắc nhỏm rằng một phần chính vì chuyên đề này mà Đinh Tuấn
Anh, và cùng với anh là Trần Tiễn Cao Đăng “được” thôi nhiệm kì làm việc tại Evan vào
năm 2005, và toàn bộ dữ liệu của Evan về thơ giai đoạn 2004-2005 bị gỡ sạch. Năm
2005, Đinh Tuấn Anh, trong vai trò là trợ lý cho giám đốc Viện Goethe Hà Nội tiếp tục đề
xuất chương trình đọc thơ của Mở Miệng tại Viện Goethe Hà Nội (được ấn định vào lúc
18h30 thứ 6 ngày 17/6/2005) và chương trình bị hủy theo thư yêu cầu của Bộ văn hóa.
Mở Miệng trở thành một điểm công kích của truyền thông dòng chính với những bài báo
mà các nhà thơ Mở Miệng xem là “không đáng trả lời”[4]. Cho đến nay các báo chí trong
nước vẫn từ chối các bài viết về Mở Miệng, hay thậm chí việc điểm danh cũng không dễ
được chấp nhận. Việc xuất bản sách chính thức cũng vậy, trong cuốn sáchThơ đến từ
đâu (nhà xuất bản Lao Động, 2009) của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, đang sống tại
Canada, gồm loạt bài phỏng vấn các nhà thơ trong nước và hải ngoại đăng tải nhiều kì

trên Talawas trước đó, phần phỏng vấn Lý Đợi bị gạt bỏ, và tên Bùi Chát thậm chí bị viết
tắt, không nói tới những biên tập cắt xén khác đã khơi mào cho những tranh luận đến
giờ vẫn chưa có hồi kết trên các diễn đàn mạng trong/ngoài Việt Nam. Những sự kiện
như vậy cho thấy, chính truyền thông chính thống dán nhãn thân phận “ngoài lề” cho họ,
và sau đó, Mở Miệng đã bị đối xử như một taboo, thậm chí với cả giới hàn lâm trong các
viện và các trường đại học.
Những cổ vũ nhiệt thành bằng việc dịch, giới thiệu sang tiếng Anh của Đinh Linh, sự xuất
hiện với tư cách cá nhân trong các tập thơ Việt xuất bản ở hải ngoại như 26 nhà thơ
Việt Nam đương đại (Tân Thư xuất bản, Hoa Kỳ, 2001), Tuyển tập Tân Hình
Thức (CLB Tân Hình Thức, 2006, Khế Iêm chủ trương), các bài báo giới thiệu Mở Miệng
chủ yếu như một nhóm thơ phản kháng[5] cho thấy sự tham dự năng động của các tác
giả này cũng như sự hấp dẫn của hiện tượng Mở Miệng ở bên ngoài Việt Nam. Ở trong
nước, Inrasara, một nhà thơ, nhà phê bình trong Hội nhà văn có tham vọng nhận diện
thơ Việt đương đại ở tất cả các khu vực, không kể chính thống/phi chính thống đã từng
cố gắng lập lại biên bản về không gian sôi động của thơ ca giai đoạn đó với bài
viết Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn, xuất bản trên Tiền Vệ (2005) và được đưa vào
cuốn Song thoại với cái mới (2008), “không bị biên tập một chữ” theo lời tác giả –
dường như là bài viết duy nhất được xuất bản chính thống cho đến nay. Xin được trích
dẫn một đoạn:
“Đeo vào bộ mặt cực đoan đến quá khích, nhóm Mở Miệng cùng với sản phẩm của thơ
của họ như “làn gió thối thổi vào không khí thơ” phẳng lặng hôm nay. Bản thân nó là
một khủng hoảng. Nó đột ngột xuất hiện và gây sốc, cố tình lôi kéo sự chú ý của chúng
ta về khủng hoảng chung của thơ Việt, một khủng hoảng cần được nhìn nhận như một
tín hiệu tốt lành.”[6]
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu (một bút danh khác là An Vân) đã tiếp cận Mở Miệng,
những kẻ “viết văn với cây búa của Nietzsche”, như một nguồn nguyên liệu tươi mới cho
việc khám phá bản chất khiêu khích của văn chương, đề xuất nhiều vấn đề có tính lý
thuyết và cách thức tiếp cận thơ ca đương đại.[7] Sự chào đón nồng nhiệt của nhà phê
bình Đoàn Cầm Thi[8], thái độ ủng hộ rõ rệt của các nhà thơ và bạn bè Nam – Bắc,
trong/ngoài nước như Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh, Đỗ Kh., Đặng Thân, Nguyễn Đăng

Thường, Trần Wũ Khang, Như Huy[9], Liêu Thái v.v. đã góp phần kích thích văn đàn và
đồng thời, tạo nên một thứ “huyền thoại” về Mở Miệng, những nhà thơ du thủ du thực ở
Sài Gòn, những từ ngữ công dân hẻm 47, La Hán Phòng, xuất bản photo, thơ dơ, thơ
rác, thơ phản kháng, cuộc cách mạng thơ, làn gió thối của thơ ca… trở nên nổi tiếng.
Phản ứng ngược lại, tiêu biểu là các bài viết của Phan Nhiên Hạo[10], một cảnh giác với
không khí ngợi ca đang có nguy cơ lấn át văn đàn đã tiếp tục “hâm nóng chảo thơ” (từ
dùng của Lý Đợi). Có thể nói, sự cực đoan của Mở Miệng trong phát ngôn và sáng tác đã
là một cú hích cho những trao đổi, đặt vào thời điểm cộng đồng văn chương trong –
ngoài Việt Nam đang có nhu cầu đổi mới mạnh mẽ. Vượt ra ngoài ý nghĩa văn chương,
những trao đổi này tiết lộ một khí hậu đời sống và nghệ thuật rộng hơn ở Việt Nam
đương đại. Một mặt, trong quan hệ với truyền thông chính thống, sự xuất hiện và hoạt
động của Mở Miệng cho thấy sự ngột ngạt của kiểm duyệt văn hóa, sự gay gắt mỗi lúc
một tăng của mối xung đột chính thống và phi chính thống. Mặt khác, qua các bài viết
của những người “cùng hội cùng thuyền đâu xa”, cùng xuất hiện trên các diễn đàn phi
chính thống, dù ở hải ngoại hay trong nước, Mở Miệng có thể coi là một điểm nút để nhìn
lại thơ Việt, trong đó nổi bật lên các vấn đề: sự cách tân, thơ và chính trị, tiềm năng
phản kháng của thơ, thanh và tục trong thơ, hậu hiện đại… Tính chất tự do và rộng mở
của không gian mạng thu hút nhiều ý kiến đa chiều, dù là các tranh luận nghiêm túc hay
sự tán dương quá khích, tạo thành một vùng thông tin giàu có mà những nhà văn học sử
và những nhà nghiên cứu văn hóa có thể coi như một nguồn dữ liệu quan trọng.

3/
Mặc dù chúng ta biết rằng mỗi nhà thơ quan trọng đều mang tiềm năng giải trung tâm
các quan niệm thơ, các sáng tác của họ không bao giờ chỉ đơn thuần là sự góp thêm vào
những bài thơ mà luôn mang nỗ lực đưa ra những ý niệm về hành vi làm thơ, nỗ lực phá
hủy và đề nghị, nhưng không phải lúc nào nó cũng trở thành một tuyên ngôn hay một
yếu tố có tính gây hấn – và thật nghịch lý, từ “cách mạng” xuất phát từ một lĩnh vực
dường như không dính đến thơ ca lại thường được dành để chỉ các hành vi thơ. Bài
viết Thơ và chúng tôi không làm thơ của Lý Đợi, Talawas 16.04.2004 & 17.04.2010,
thường được coi như tuyên ngôn của nhóm Mở Miệng, bắt đầu bằng một phản ứng trước

việc các nhà phê bình ở Việt Nam dường như không nhìn ra được chuyển động thật sự
của thơ trẻ Việt, cụ thể là không nhìn ra sự khác biệt của thơ trẻ ở Sài Gòn. Phản ứng về
sự nghiêng lệch quyền lực định danh và định vị đi cùng nhu cầu và nỗ lực phơi mở cái
vắng mặt, cái còn ẩn giấu, cái chưa được nhận diện trong thơ Việt, nhu cầu cất lên tiếng
nói tự bên trong của một hiện hữu đang bị trấn áp. Sau khi đưa ra bài thơ với thủ pháp
giễu nhại của Bùi Chát, họ nhắc tới Dada như một nguồn cảm hứng:
“Chúng tôi (những cây viết trẻ ở Sài Gòn) gọi kiểu này là thủ pháp pastiche – phỏng
nhại, cài-đặt-lắp ráp. Giống như thủ pháp collage - cắt dán mà Dada đã làm với tranh
cắt-xé-dán và tranh giấy tổng hợp. Hay cũng có thể gọi là sự cưỡng chế. Bài thơ của
Thanh Tùng đã bị Bùi Chát cưỡng chế. (Như cái cách của chủ nghĩa Hậu hiện đại cưỡng
dâm cái cách của chủ nghĩa Hiện đại). Vậy thì sự sáng tạo ở đâu? Sự sáng tạo ở ngay cái
ngưỡng hành động của cái cưỡng chế và cái bị cưỡng chế.”
“Thơ nhiều khi chỉ là chuyện gây hấn, một chút hài hước, một cú sốc nhận thức, thậm
chí là một trò đùa vui nơi bàn nhậu, chẳng kém phần nhảm nhí. […] Chúng tôi không
làm cái gì quá cao cấp, quá dung tục hay lập dị, bởi chúng tôi vẫn nghĩ rằng bên dòng
thẩm mỹ chính thống đại trà, đã/đang tồn tại một thứ thơ khác – thơ của chúng tôi/thẩm
mỹ của chúng tôi, thẩm mỹ của những người mải mê làm thơ, chứ không phải của những
nhà phê bình hay đạo đức, luân lý hay xã hội học.”
Không bàn đến mức độ thẩm thấu các lý thuyết phương Tây như thế nào, ở đây, tôi
muốn nhấn mạnh đến thái độ tuyên chiến quyết liệt với ý thức thẩm mĩ cũ, như phẩm
chất của những người tự nhận lãnh sứ mệnh tiên phong, biểu hiện rõ nhất bằng sự gây
hấn về quan niệm thơ, điểm cốt lõi làm nên giá trị bản tuyên ngôn của Mở Miệng, một
tuyên ngôn dường như mang tính ứng khẩu hơn là được chuẩn bị kĩ lưỡng: “Chúng tôi
không làm thơ”. Phát ngôn này có thể được nhìn trong ý nghĩa rộng: một cuộc đối
thoại/đối đầu của hiện tại với quá khứ, của cái mới mẻ, tiền phong với sự già cỗi, bảo
thủ. Chúng ta biết rằng những lối thơ – phản thơ xuất hiện trong những thời điểm khủng
hoảng không phải hiếm hoi, để chống lại những hình dung về thơ của cộng đồng đọc phổ
biến đã được cố định hóa ở những đặc điểm nào đó (như vần điệu, nhạc tính, ngôn từ thi
hóa).
Đề xuất của Mở Miệng về việc thực hành thơ mang tính ý niệm hay cái gọi là nghệ thuật

ý niệm không nên được xem là một sản phẩm bắt chước cái ngoại nhập thời thượng hay
một sự đột biến không có mối dây dưa với “truyền thống”, mà nhiều hơn là một nhu cầu
từ bên trong. Trong tuyên ngôn này, khi dùng cụm từ “thực hành thơ”, ý hướng phản thơ
để tồn tại như một Cái Khác của Mở Miệng biểu hiện ở cả hai phương diện: phản thơ ở
chất liệu,“không ngại bất cứ đề tài nào, ngay cả những thứ mà thẩm mỹ thơ Việt còn xa
lạ hoặc xem là dung tục” và phản thơ bằng hành vi “không làm thơ”, đề xuất một ứng xử
khác của chủ thể với chất liệu của họ, với thơ, xác quyết thuộc về “mạch ngầm”, “thơ
chúng tôi không đi qua cửa biên tập của nhà xuất bản.” Phản thơ, đồng thời cũng là một
thái độ phản kháng kép: không phản kháng trong mối quan hệ với truyền thống mà họ
coi là ý thức thẩm mỹ cũ, các nhà thơ Mở Miệng phản kháng cả xu hướng làm thơ
vớichữ hay với nghĩa nhằm tra vấn những chiều kích mới trong các đơn vị cấu thành
ngôn ngữ, đề xuất việc làm thơ như một hành vi. Toàn bộ con người nhà thơ, bằng các
thao tác, bằng môi cảnh… vẫn làm ra bài thơ, nhưng bài thơ ấy không tồn tại độc lập mà
là một mắt xích trong chuỗi tương tác vô tận.
K ngoi l nhn ra tỡnh th ngoi l ca mỡnh, nhn ra cỏi khỏc ca mỡnh, ng thi
nhn ra s tn ti ca mỡnh khụng c tha nhn hay ang b ố nộn. Khụng mun
mỡnh thuc v búng ti, h t cõu hi v cỏch mng v k lónh nhn cỏch mng th, h
t cõu hi v chớnh t khụng chớnh thng c dỏn nhón cho h, nh dỏn nhón mt
loi thc phm l cn cnh giỏc. ng thi vi tuyờn ngụn, s xỏc quyt v Cỏi Khỏcny
s c thc thi bng nhng quan nim th m M Ming trit thc hnh: th Rỏc,
th D, th Ngha a, nhng thc hnh c gi cm hng t cỏc tro lu ngh thut
rỏc v d trờn th gii. Nú khụng phi cỏi t bin, m l s thc tnh. Phỏt ngụn khng
nh s hin din ca M Ming cho ngi c phn t v tỡnh trng ụng cng ca quan
nim th ca, ý thc v s thiu ht ca th Vit khi t vo mt khụng gian rng ln
thi ton cu húa. Trong s to ngha li quan nim v th v lm th, ch khụng
chớnh l khong chi t do ca ngụn t ln ý thc. Chớnh vỡ th, cng nh vic thờm cỏc
tin t post vo cỏc ch ngha, cuc gii trung tõm quan nim th, nhu cu nh ngha
li luụn khụng cú hi kt. Nhng gỡ ang t nn tng cho cỏc thit ch, c sỏng to ln
phờ bỡnh, s quy chiu cỏi ny l th cỏi kia khụng phi l th vo mt hỡnh nh th siờu
hỡnh, tru tng no ú chớnh l nhng gỡ cn phỏ d, m ra nhng kh nng khỏc

ca vic c v vit, to cho i sng th ng i v chớnh nhng cỏ nhõn tham d
kh nng khụng an n. Mi mt k lm th trong cm thc hu hin i, nhng k sng
vi cm giỏc v ni b tc, s di trỏ ca sỏng to, u phi thc tnh v hnh vi lm th
mang tớnh cht cỏ nhõn ú: lm th, ngha l to ra nhng kh th, hay nhng ý nim
v th. S truy nguyờn mt quan nim th v lm th v th l bt kh v vụ ngha, ch
th lm th luụn phi rt bt nhng quan nim luụn trt i, mt cuc rt bt, theo
ngha no ú, ó xúa i ranh gii ca Chi v Thc, ca Lm v Khụng Lm, ca nghiờm
tỳc v nhm nhớ, v dng nh l cuc rt bt khụng trỏnh khi.

4/
tụi ngch th
jó chng ngch cỏt
con lớt ngch nhng th khỏc
Th Rỏc, th D, l nhng khỏi nim c xut bi Bựi Chỏt bt u vi tp Xaựo
choọn chong ngaứy(2003), mt tp th quan trng cho thy s chuyn i v ý thc
lt quan nim c ca Bựi Chỏt vi slogan th jỏc t ji. í hng ny tip tc c
anh phỏt trin vi thut ng th Ngha a, c trỡnh by rừ rng trong phn
Ha/Mự/M thay cho li gii thiu tp th Xin li, chu hng ni (2007). Tụi xin trớch li
ton b:
Ha/mự/m
Sau gn hai nm ngng hn cỏc hot ng liờn quan n vn chng, xut bn vỡ lớ do
sc khe. u thỏng 8, tụi bt tay vo thc hin Cú jỡ dựng jỡ cú ny dựng ny: d ỏn
v xut bn th va hố, mt 1 tp th chung 47 tỏc gi & nhiu tỏc phm cỏ nhõn khỏc.
Vỡ nhu cu ca d ỏn, tụi lc li bn tho c & tỡm thy: Xin li, chu hng ni.
Xin li, chu hng ni vn d l tp 1 ca Xỏc p tr li, tp th ngha a 333 bi
c hon tt 2004, tụi cng thc s khụng hiu vỡ sao n gi vn cha c (tụi) xut
bn. Tp th ngha a ny li l phn rt quan trng trong Made in Vietnam, mt tỏc
phm ý nim (conceptual art) ó gõy tranh cói.
Cụng vic ca tụi ch n gin l tỏch mt b phn ca mt phn trong mt d ỏn ó
hon tt, to thnh 1 b phn ca 1 phn trong 1 d ỏn khỏc ang thc hin, khi

tham gia Cú jỡ dựng jỡ cú ny dựng ny phn 2 vi t cỏch tỏc gi. Thao tỏc ny cng
ht nh thao tỏc ly 1 bi th ó hon chnh ca ngi khỏc lm thnh bi th (cú th
s) khụng hon chnh ca mỡnh.
Mục đích để tập thơ được trở về đúng vị trí & vai trò cả nó: hàng nghĩa địa.
Tại sao tôi phải làm như vậy ư? Dĩ nhiên có rất nhiều giải pháp cho một câu hỏi đại loại
như thế, và điều quan trọng trước tiên vẫn là: không tổ chức hoặc cá nhơn nào bắt buộc
hay dụ dỗ/mua chuộc tôi cả. Chỉ vì muốn thực hiện triệt để cái chủ trương của tôi nhiều
năm qua: Không cố gắng tạo ra bất cứ điều gì mới mẻ, nếu được: nên sử dụng lại những
cái đã/sẵn có.
(Thế chẳng phải đỡ tốn công sao?)
Cuối cùng tập thơ là một bộ phận không thể tách rời của thơ rác & nghệ thuật rác, vấn
đề tiêu điểm gây chia rẽ dư luận nhất của Mở Miệng nhiều năm qua. Việc thực hành thơ
nghĩa địa – thơ rác một cách ý thức và triệt để, theo thiển ý của tôi đã đưa các nghệ sĩ
Mở Miệng & những người cùng ý hướng trở thành những tác giả (có lẽ) mang màu sắc
truyền thống nhất trong lịch sử văn hóa/chương Việt Nam.
Lịch sử một nền văn hóa/chương rác.”
Nhìn ở cấp độ ý niệm về thơ, dễ dàng đồng thuận rằng Bùi Chát và các nhà thơ Mở
Miệng đã tiếp nhận nghệ thuật phương Tây, với Dada, Pop Art đồng thời dùng các
phương cách được tiếp nhận này như một thái độ, một dạng phản ứng với quá khứ với
một thái độ hủy diệt và lật đổ trong sự nhạo báng: quá khứ văn chương trở thành một
bãi rác vô tận mà họ được quyền nhặt nhạnh để sử dụng lại. Việc dùng ngôn từ vốn được
cho là tục tĩu cũng chia sẻ ý hướng làm việc với các chất liệu dơ bẩn, quá khích, gây sốc
trong nghệ thuật đương đại.
Phần nhiều những bài thơ ở Xaùo choän chong ngaøy như các tiếu lâm dân gian, kể
chuyện về những vật nhỏ nhoi, cái tưởng như vô nghĩa, cái chỉ tồn tại trong đời sống
thông tục, một thế giới ngầm, chuyện cái chổi, những người đàn bà đang là chuột dưới
cống, quần lót, cái bát, chuyện mấy cái lông, rắm rít, sự giao cấu, và tất nhiên, nhiều
chuyện vốn bị cho là tục tĩu khác (và những kiểu chơi chữ như vậy thật khó dịch sang
một ngôn ngữ khác). Sau đó, Bùi Chát dành hẳn một tập theo “ý niệm” chửi bới lộn Cái
lồn bỏ đi và những bài thơ chửi rủa [bới, lộn], khai thác cường độ mãnh liệt của

ngôn ngữ bình dân, tiếu lâm. Chủ nghĩa đa phương ngôn ngữ (plurilingualism) ở Bùi Chát
được thực hiện triệt để với sự biến thái về ngôn ngữ theo kiểu dùng phương ngữ Bắc Bộ,
nhưng không phải ngôn ngữ của đô thị và ngôn ngữ chính thức hóa với quy tắc chính tả
được chấp nhận mà là ngôn ngữ của vùng nông thôn (mà Thái Bình – quê gốc của Bùi
Chát là một vùng điển hình của thứ ngôn ngữ “sai lạc” với ngôn ngữ quy chuẩn), ngôn
ngữ thế tục của những kẻ dưới đáy, vốn chỉ còn trong truyện tiếu lâm dân gian, một thứ
taboo với ngôn ngữ văn chương đương thời, khác với kiểu “phu chữ” nơi phòng văn để
tìm độ bóng chữ, những chữ lạ, từ độc của những nhà thơ dòng chữ[11] phía Bắc như
Lê Đạt, Dương Tường. Khi đưa những cái tục vào trong thơ của mình, Bùi Chát không
thách thức, không văng tục để thách thức, mà viết và sử dụng từ ngữ như những vật liệu
bình đẳng, nơi thơ ca không phải chỉ là thế giới của thứ ngôn ngữ cao sang, tinh tuyển,
nơi con người − những kẻ tưởng mình có quyền năng sử dụng ngôn ngữ, nếu đối xử với
chúng như công cụ vô tri có thể bị ngôn ngữ làm phản, lật mặt bất thần. Sự lệch chuẩn
− cái mà các nhà thơ thường cố công đi tìm − nằm ở tự bản thân đời sống mà nhà thơ
phát hiện ra và biến nó thành một quy tắc thơ, từ đó khai mở những khía cạnh mới của
hành vi làm thơ trong tương tác với ngôn ngữ và hiện thực đời sống thông tục.
vô địch
một con cặc tầm thường, nó giữ. theo cách cha ông dạy
bảo vệ, nâng niu – không gì sai sót
nó gồng mình chịu trận dù muốn một phát
huy xứng đáng cho cặc tính mình
thề trinh tiết đến cùng, tuy gái gú theo
bởi phẩm hạnh. mỗi ngày nó soi gương, quấn vải
quanh háng [thật] nhiều lần nhằm sở hữu… tương lai được chuẩn bị
từng cái lồn bỏ đi như những dòng sông nhỏ
nó đâu biết [bọn] cha ông ngỏm từ khi nó lọt lòng
nửa đời không ai đụng, nó không chạm ai
vẫn còn… nguyên si & đen đúa
để yên ủi mỗi khi về già. nó lén lút chuyển
con cặc ra sau rồi đâm vào đít

[thut thit]
phụ chú: tựa bài thơ có thể đọc là vô địt… theo cách phát âm của một số vùng Bắc Bộ.
Trong xu hướng triệt tiêu cảm xúc, khai thác bề mặt, sử dụng và khai thác cái tục tĩu,
mức độ thành công của các tác giả Mở Miệng không như nhau. Khúc Duy, khi văng tục
hầm bà lần với tập Hầm bà lần (2003), một tập thơ chủ trương “tiếp tục tĩu”, đã chỉ bày
ra một cơn trút xả vô nghĩa, chán chường. Bùi Chát nói tục như người kể chuyện dân
gian, như Ba Giai, Tú Xuất, Thủ Thiệm, như một cách thức khuyến mại thơ cho những lỗ
tai đã ngấy cái thanh, Lý Đợi khai thác nhiều nguồn chất liệu thông tục cho thơ từ báo
chí, một cách diễn giải lại các văn bản báo chí, và các văn bản xã hội khác, đưa thơ tiến
gần đến các khẩu hiệu và sự nhại lại các khẩu hiệu. Họ đã tạo thành một cái chợ đồ Tàu
đồ Ta, đồ chính hãng, đồ nhập lậu thập cẩm. Sự đóng góp trước hết của Mở Miệng trong
việc thực hành thơ dơ là sức mạnh của quá trình giải điển phạm quan niệm thẩm mĩ về
một thứ ngôn ngữ thơ “văn chương, “cao quý” đã trở thành một lực cản của sáng tạo ở
Việt Nam, đưa ra một ứng xử mới với ngôn ngữ và chất liệu thơ. Sự đóng góp của họ
không nằm ở việc dùng những từ “tục tĩu” mà ở tinh thần carnival hay chất thơ quảng
trường, đưa thơ gần với hành vi một sinh hoạt văn hóa – tập tục dân gian. Lập luận rằng
việc dùng một cách công khai và vô tội [vạ] các từ chỉ bộ phận sinh dục, hành vi tính
giao bằng từ ngữ nguyên thủy của nó như lồn, cặc, đụ, địt… là nỗ lực trả lại sự bình đẳng
của từ ngữ ít nhất đã có một sức hấp dẫn mạnh mẽ ở tính chất lật đổ của nó.
Thực tế, ở Việt Nam, việc sử dụng ngôn từ tục tĩu nhằm thác hiệu ứng có tính chất chính
trị của ngôn ngữ dường như còn là một thái độ thơ. Dòng văn tục − thường bị loại trừ, bị
chèn ép nhưng luôn tồn tại một mạch chảy trong đời sống văn chương các dân tộc − có
thể truy nguyên từ các hình thức hề chèo dân gian, truyện tiếu lâm… Trong suốt ba mươi
năm chiến tranh ở Việt Nam, dòng chủ lưu là văn thơ cách mạng đã bị “ý thức hệ” thành
một hệ thống ngôn ngữ công thức, xa rời đời sống. Để đòi lại quyền lên tiếng của thơ ca,
nhiều nhà thơ đương đại sử dụng cái tục để chống lại sự cấm đoán việc dùng nó, đồng
thời cũng là một cách tấn công vào những taboo khác, để bày tỏ nỗi căm uất và bức bối
về chính trị, hay nhu cầu giải phóng những áp chế về tình dục. Nhà thơ Nguyễn Quốc
Chánh coi cái tục là “những biến chứng của ám ảnh chính trị trên thân xác”, là cách “nhổ
vào ngôn ngữ tuyên huấn giả trá” bởi ông cho rằng: “Ở đâu con người còn bị tước đoạt

quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ chính kiến, thì ở đó phương tiện nào trở nên hữu
dụng nhất để làm văn chương phản kháng đều có lý để được chọn lựa, bởi đây là một
vùng phi lý thuyết.”[12] Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc trong một tiểu luận đã phát
ngôn rằng: “Sống trong một xã hội như xã hội Việt Nam, chỉ có thánh may ra mới không
biết chửi tục.”[13]
Ý thức gây hấn bằng chất liệu và từ ngữ “dơ bẩn” của Mở Miệng chỉ là một trong những
biểu hiện đa dạng của những phản tư về ngôn ngữ trong thơ đương đại, nhưng nó gây
ồn ào, một phần bởi những thực hành này dường như vượt ra ngoài những đường biên
của ngôn ngữ khi động đến chuẩn thẩm mĩ của con người, nó không chỉ gây sốc thị giác,
mà còn gây sốc nhận thức, nó sử dụng những thứ là của chung xã hội, nhưng cũng vấp
phải những cấm kỵ của xã hội. Bất cứ khi nào chạm đến những cấm kị thì câu hỏi về sự
t do ca ngh thut li c t ra. Cú gii hn no cho s t do ny khụng? iu ny
nm trong bn thõn nhn thc ca mi ngi, cỏi nhn thc luụn b gii hn trong nhng
taboo c thờu dt, khụng phi l cỏi ngoi ta, m nm sn trong ta. Khi th d ũi
vt quỏ ngng thm m quen thuc ca con ngi, chỳng ó gõy nờn mt ni nghi
ngi v thỏi buụng x hon ton ca ngụn ng, s thiu quy tc ca chớnh bn thõn
nh th, ngay c lp c gi tin v. Trong vic s dng cỏi tc nh mt phng tin,
mt thao tỏc x lý vn bn, khớa cnh no ú, cỏc nh th M Ming ó n lc gii
quyt vn c núi, v s lp li, s rm rp ca ngụn ng tc n ni bt kớn nhng
li i khỏc, vic cỏi khụng th soỏn ngụi, i vng min khin s sỏng to thnh mt
lc cn mi. Gng mt v c th d bn ca th ca s a th n õu? Nhỡn rng ra,
s tranh lun v Thanh Tc s cũn kộo di bt tn trong lch s vn chng. í thc v
vn minh hỡnh thnh nờn cm k. V khi cm k thnh sc mnh cng ỏp thỡ s gii bú
nú l mt nhu cu ca sỏng to. Nhng cỏi tc khụng phi l chn c ng duy nht ca
th ca, v trong lý tng v s ng x bỡnh ng vi cht liu v cỏc t ng, th ca luụn
t hiu rng nú phi tỡm c mt nng lng sng, v nng lng ny, nh nhng
ngun sng dõn gian, s gi gỡn s sng ca nú.
Song hnh vi th D, th Rỏc cng l mt c sn ca M Ming vi th phỏp giu
nhi. Thao tỏc ny gõy tranh lun khi cỏc tỏc gi khụng ch nhi chớnh mỡnh, (nh Bựi
Chỏt thc hin ch li, nhi li cỏc bi th ca mỡnh tp Xaựo choọn chong ngaứy,

bng cỏch lm mộo mú cõu ch, o ngc quy tc chớnh t, dựng phng ng Bc b
v cỏc vựng min khỏc, nhm hy hoi cm xỳc, ch th th b soi vo mt tm gng
li, phỡnh i, mộo mú) m ng dng ch bin th t nhng nguyờn vt liu cú sn l
cỏc bi th ni ting v c ph bin rng rói, cng nh vic Duchamp ly bc tranh
Mona Lisa hay cỏch Andy Warhol s dng hỡnh nh ca Monroe. Mt vớ d trong tp Xin
li, chu hng ni, Bựi Chỏt dựng bi th Chn la ca Vn Cao thnh bi th din gii
v bi th ny Chn la ca Vn Cao:
Chn la ca Vn Cao
Gia s sng v s cht
ễng chn s sng
bo v s sng
ễng chn s cht
Th l ht [the end]
Nguyờn liu: Chn ca Vn Cao
Bi th ca Vn Cao, thng c c nh mt bi kch ca la chn, mt khỏt vng
hng thng, mt th m hc s sng, ó ny ra cỏi hi ngay trong s nghiờm trang
ca nú. Thờm vo my ch th l ht (the end) nh mt bỡnh lun ca ngi xem khi
kt thỳc mt v kch va hi hc va bi thm, Bựi Chỏt ch nho lý tng hng
thng mang nng tớnh cht ý thc h, ang tr thnh mt th t ng nghiờm trng
m th ca cú l cn o sõu chụn cht. Bng cỏch ú, tip tc li k chuyn tiu lõm dõn
gian, hoc hc cỏc thao tỏc ca th tuyờn truyn, th b tng, th Bỳt Tre, th khu
hiu, Bựi Chỏt lụi tut nhng lý tng cao vi, nhng suy t sõu xa xung cỏc vn
thc hu, trong th ngụn ng khụng siờu hỡnh, khụng trit lý m mang nim vui, ting
ci, s gii ta, cựng lỳc, em li s phn tnh, nhng git mỡnh thỳ v, tt nhiờn, ngi
c nú phi chia s mt khụng gian vn húa Vit Nam. õy, s chi t do vi ngụn ng
v nguyờn liu bng cỏc thao tỏc thờm t, ct cõu, ghộp, rõu ụng n cm cm b kia to
nờn nhng bi th ni ting mi ca Bựi Chỏt, khụng phi xúa b bi c, m l
cựng tn ti song song, v ngụn ng th do ú, cú th gia tng ý ngha. ú l lớ do khin
cho, mc dự thao tỏc ht sc n gin v cú th nhanh chúng ỏp dng vi cỏc bi th
khỏc, thm chớ cỏc nh th v cỏc khụng nh th khỏc cú th lm ra vụ vn, tha thói,

nhảm nhí chỉ cần với trình độ đọc hiểu căn bản về ngôn ngữ, nhưng, như hành vi thêm
râu của Duchamp, nó là một dấu mốc của việc tái định nghĩa cái đã có, nhất là những cái
đã và đang có nguy cơ biến thành chân lý, thành thiết chế, như thiết chế của niềm tin
tuổi trẻ về lý tưởng, sự lựa chọn, về thơ ca, về quá khứ, về Hồ Chí Minh,…
Thao tác nhại của Lý Đợi lại được tiến hành chủ yếu trên nguồn nguyên liệu rác là các
bài thơ bài thơ Đông Âu có nội dung chính trị và bình luận xã hội mạnh mẽ qua các bản
dịch của các nhà thơ, dịch giả Việt Nam như Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu…, các bản tin
thời sự báo chí, các văn bản xã hội, Kinh Thánh để bày tỏ sự tương tác thơ một cách trực
diện, nhằm giễu nhại các đối tượng chính trị. Những thông tin thời sự được lưu giữ trong
văn bản thơ đã chứng tỏ chúng không phải là những thứ tiêu dùng và tiêu tùng, mà
chúng tiết lộ các đặc điểm của thể chế, của hệ thống chính trị, của văn hóa, của sự phát
triển hay tàn lụi của bối cảnh xã hội, văn hóa ở Việt Nam. Ví dụ, bài thơ Hiện thực xã hội
chủ nghĩa của Lý Đợi có nguồn từ bài Hiện thực xã hội chủ nghĩa của Ryszard Krynicki do
Hoàng Ngọc Biên dịch, đăng trên Tiền Vệ:
Hồn ma là chim bồ câu hòa bình
Xác người là đĩa mồi nhậu
Với chai rượu trắng nhỏ, vỏ chai màu đỏ
Lá cờ màu trắng – cắm ngay giữa mỏ
Đun qua xỏ lại
Ngồi xuống đứng lên
Bên thằng bán kem
buổi chiều êm đềm
dọc tường vôi vàng
trong hẻm 47
vài tên nghe lén
mặt như đầu rắn
những không thể cắn
thế mới cay đắng
v.v
Bài Mới khai quật được bản sắc văn hóa Việt Nam là ví dụ của một thứ dân gian đương

đại, lấy nguồn từ talaCu ngày 7.12.2005, kể chuyện một ông nông dân ở Thanh Hóa đã
tìm thấy bản sắc văn hóa Việt Nam trong khi đang đào ao nuôi cá. Ông Cù kể: “Chúng
tôi đào sâu năm mét thì gặp phải vật lạ. Khi tôi và anh em lôi được nó lên thì tôi nghi
ngay đây là bản sắc văn hóa Việt Nam vì tôi thấy nó rất là kì dị….”
Tuy nhiên, khi tác giả kết luận:
“Bản sắc văn hóa Việt Nam
Nó giống như một cái xác chết thối
Giống như một cái gối cũ
Như một vết thương bưng mủ
Được lôi lên từ vũng bùn
Đầy mùi xú ế…”
thì bài thơ bộc lộ sự dễ dàng và ít tiếng cười.
Bởi vì không có nhiều sự phân biệt về nội dung hay thi liệu của văn bản gốc và văn bản
thơ của các nhà thơ, và hành vi truy nguyên gốc các bài thơ cũng là bất khả và vô nghĩa,
như việc tìm lại những mẩu báo ngày, tôi nghĩ khi chuyển sang một ngôn ngữ khác, khi
bị bứng khỏi môi cảnh là đời sống ở Việt Nam, những bài thơ của Lý Đợi có thể sẽ mất đi
tiếng cười và ý nghĩa giễu nhại. Những bài thơ của Lý Đợi, được đọc lên bằng giọng trực
tiếp của tác giả, theo âm Điện Bàn, Quảng Nam quê hương của anh mà tôi từng được
nghe, trong căn phòng tại Sài Gòn dường như tự nhiên, sống động và gây cảm xúc hơn
nhiều.
Về phẩm chất của giễu nhại như một thủ pháp và một ý hướng chính trị, nhiều ý kiến
cho rằng Mở Miệng không đem lại cái gì mới khi thao tác tái sử dụng nguyên liệu cũ cho
mục đích mới, coi kiệt tác nghệ thuật quá khứ như một thứ nguyên liệu của Duchamp và
xu hướng nghệ thuật ready-made đã trở thành một thứcliché trong sáng tạo. Nhưng thơ
nghĩa địa đã chết chưa? Liệu Dada đã chết? Tôi cho rằng, các trào lưu nghệ thuật sau khi
kết thúc ở một bối cảnh này có thể tái sinh ở một bối cảnh khác, dung hợp những yếu tố
mới. Tính tương tác với bối cảnh và khả năng liên văn bản của thơ dường như phải được
hiểu rộng hơn, trong đó tính văn bản bao trùm cả các hiện tượng chính trị, văn hóa, xã
hội. Cách hiểu rộng về khái niệm văn bản và tính văn bản sẽ giải thích được những câu
hỏi về việc ý nghĩa hay giá trị các văn bản thơ của Mở Miệng, hay phần “sáng tạo” so với

các văn bản trước đó như thế nào. Khi bản thân văn bản đã bao hàm tính liên văn bản,
thì giá trị của nó không được xác định như một công trình hoàn tất về ngôn ngữ − trong
đó, từ ngữ mang sứ mệnh về giá trị − mà nó như một phản ứng văn hóa triển hạn bất
tận trong những ngữ cảnh cụ thể, trong không gian, trong các động thái đọc khác nhau.
Tất nhiên, hiểm họa bắt chước luôn tiềm tàng trong mọi nỗ lự sáng tạo của thời hậu hiện
đại. Nhất là trong không gian internet, sự bắt chước thủ pháp, bắt chước cái mới dễ dàng
và cũng dễ đánh lận con đen hơn, thời gian sống của một – thủ – pháp – mới trở nên
ngắn ngủi đến đáng sợ. Giữa cái cách tân và cái na ná cách tân chỉ còn là một lằn ranh
mơ hồ.
Ý tưởng về thơ rác của Mở Miệng có thể được chia sẻ bởi nhiều người khác. Nhà thơ
Nguyễn Đăng Thường, trước đó, đã [tự] đăng kí bản quyền việc chế tạo ra thể không-thơ
tiếng Việt, trong đó, anh dùng phủ định từ như một thao tác để chế biến các bài thơ đã
tồn tại thành các bài thơ mới. Phan Bá Thọ cho in Đống rác vô tận. Nguyễn Quốc
Chánh, chính trong một trả lời phỏng vấn Lý Đợi, đã nói:
“Thơ tôi chắc chắn thuộc truyền thống rác. Vì Việt Nam là một cái sọt của cả đông và
tây. Hơn một ngàn năm chống chọi, chung chạ với các đế quốc Tàu, Tây, Nhật, Mỹ, Nga
nên Việt Nam có cái số phận văn hoá bi đát kỳ lạ, nghĩa là vừa đĩ thõa vừa chính chuyên
y chang cuộc đời cô Kiều… Những cuộc cãi vã giữa cũ và mới, giữa truyền thống và cách
tân chẳng qua chỉ là những cuộc nội (chiến, mông, thất, trợ, bài) giữa hai cọng rác đông
và tây. Trong cái môi trường văn hoá giả cầy như vầy, giải pháp của tôi là: xài và vứt
thật nhanh những cọng rác vừa lượm, cả đông (tà) lẫn tây (độc).”[14]
Trong các thực hành nghệ thuật đương đại ở Việt Nam, nhiều nghệ sĩ cũng dùng chất liệu
Rác và Dơ để tra vấn về cái gọi là thẩm mĩ. Một triển lãm nghệ thuật gây tranh luận gần
đây với tên gọi Xà bần, trong dự ánKhoan cắt bê tông, tập hợp một số họa sĩ, nghệ sĩ
quanh xưởng vẽ của Ngô Lực với ý hướng về một không gian tương tác “không giám
tuyển, không tuyên ngôn”, trưng bày những thứ rác rưởi đối trọng với xu hướng thực
hành nghệ thuật “từ bên trên”, với không gian đậm chất trí thức xa lạ của các trung tâm
văn hóa, các gallery sang trọng, một nỗ lực giải trung tâm trong hành vi và không gian
nghệ thuật cũng cùng ý hướng này. Hiệu ứng thẩm mĩ của họ: không đem đến cảm giác
về cái đẹp, cái thẩm mĩ, và cũng có nghĩa, họ muốn giải trung tâm khái niệm “thẩm mĩ”

đang ngự trị và thành định kiến với người xem Việt Nam. Điều này, ít nhất là dấu hiệu
của một sự vận động không chịu chấp nhận những áp chế từ bên trên, dù là sự áp chế
của quyền lực tri thức. Nhưng câu hỏi về ý nghĩa [thẩm mĩ] và cái đẹp về mặt thị giác,
cũng như cá tính của nghệ sĩ, sự ám ảnh của chủ đề, mối quan hệ của tính chính trị và
nghệ thuật của thơ rác, nghệ thuật rác vẫn được đặt ra và điều này liên quan nhiều hơn
tới tài năng và độ kĩ lưỡng trong thao tác nghề nghiệp của các nghệ sĩ.
Với thực hành thơ Rác, thơ Dơ, Mở Miệng đã tạo ra một cuộc công phá vào chất liệu thơ,
đồng thời giải trung tâm thứ ngôn từ “thi hóa” trong các thứ văn chương “đèm đẹp”,
những ẩn dụ, cách tu từ, cũng như những nỗ lực canh tân văn học bằng cách làm mới
ngôn từ. Cuộc cách mạng về mặt ngôn từ của Mở Miệng không nên được nhìn như sự
thiết lập điển phạm mới, nó cần thiết không chỉ để làm giàu ngôn ngữ văn chương tiếng
Việt mà còn để làm sụp đổ sự thống trị của những cái đèm đẹp giả tạo của thơ ca.

5/
Tiến trình phân tích của tôi về các thực hành thơ của Mở Miệng, từ tuyên ngôn đến thực
hành thơ Rác, thơ Dơ, thơ Nghĩa Địa được tôi hiểu như một nỗ lực xây dựng lại hình ảnh
về Mở Miệng như một nhóm thơ và vấn đề trung tâm cần tra vấn ở hiện tượng thơ này
chính là chiến lược tồn tại của nó trong thực hành thơ, chứ không phải như một nhóm
hoạt động văn hóa xã hội bất đồng chính kiến ở Việt Nam mà nhà cầm quyền đã dán
nhãn hiệu “những kẻ phản động”. Vậy đâu là đóng góp quan trọng nhất, mang thi tính
hơn cả từ các thực hành thơ này? Có thể bình luận như thế nào về tính cách tân và cách
mạng của các thực hành thơ của Mở Miệng?
Có một mảng tác phẩm khác của Mở Miệng thường gây chú ý là những tác phẩm mang
nội dung bình luận xã hội – chính trị trực diện, một dạng taboo vào loại nguy hiểm trong
xã hội Việt Nam. Bày tỏ phản ứng cá nhân trước thời sự xã hội đang biến động, không kì
vọng vào sự bất tử của thơ ca, cũng không nỗ lực xây dựng tên tuổi cá nhân trong ngôn
từ với những chủ đề “vĩnh viễn”, mảng thơ ca này của Mở Miệng đã tự định vị nó trong
dòng thơ bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Hàng loạt các bài thơ của Bùi Chát, Lý Đợi,
Khúc Duy xoay quanh sự kiện đọc thơ bị hủy ở Viện Goethe năm 2005, xoay quanh
những sự việc bị công an tra khảo, thậm chí xoay quanh những bức thư trao đổi giữa các

nhà thơ, bàn luận về chế độ… Lý Đợi bộc lộ mạnh mẽ phẩm chất của một nhà báo xã hội
và văn hóa với vệt “thơ tiêu dùng” mang nội dung bình luận xã hội, các vấn đề thời sự.
Với tập Bài thơ một vần, xoay quanh “một vần” là từ khóa cộng sản, Bùi Chát bộc lộ
tham vọng lật đổ các slogan xã hội, các ảo tưởng được đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức
hệ. Chẳng hạn một đoạn thơ được làm bởi hàng loạt các câu đề nghị, trong đó chứa
những nghịch lý của xã hội và thân phận con người:
- Các ông cho chúng tôi được biết sự thật nhé!
- Các ông cho chúng tôi được ngủ với vợ/chồng chúng tôi nhé!
- Các ông cho chúng tôi được thở nhé!
- Các ông cho chúng tôi được bình đẳng trước pháp luật nhé!
- Các ông cho chúng tôi được suy nghĩ khác với các ông nhé!
-Các ông cho chúng tôi được chống tham nhũng nhé!
-Các ông cho chúng tôi được tự do ngôn luận nhé!
-Các ông cho chúng tôi lập hội vỉa hè nhé!
- Các ông cho chúng tôi được viết bài thơ này nhé!

(Thói)
Theo một góc nhìn cá nhân, tôi cho rằng các bài thơ với “nội dung chính trị trực diện”
kiểu này dường như không còn chia sẻ con đường tìm tòi mà Mở Miệng đã thực hành với
thơ Rác, thơ Dơ, và nhiều khi chúng trở thành một dạng thức phản – tuyên truyền mang
tính chất tuyên truyền, bởi mang đặc điểm kích động, tập họp có tính chất thời điểm của
truyền thông, xoay quanh các sự kiện chính trị nóng hổi. Những sự diễn giải về ám chỉ
chính trị có thể gây hiểu lầm, hoặc bị lợi dụng, và do đó, gây nguy hiểm − những phản
ứng của an ninh văn hóa đối với Mở Miệng là sự suy diễn và trấn áp về nội dung chính
trị, cũng như sự đề phòng độc tài của nhà nước về những “hành vi chính trị đội lốt văn
chương”. Chịu hệ quả ngao ngán từ việc bội thực thứ văn chương [phục vụ] chính trị
trong quá khứ, cụm từ “thơ chính trị” ở Việt Nam cho đến hôm nay vẫn thường lệ thuộc
vào một từ “chính trị” được cắt nghĩa rất hẹp hòi, thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ. Khi
văn chương như một bình luận xã hội đã bị nghi ngờ trên phạm vi toàn thế giới vào thời
điểm bùng phát của thuyết hậu cấu trúc, trong đó, mọi diễn giải chỉ còn là cuộc chơi của

ngôn ngữ, khi văn chương Việt Nam vẫn phải nỗ lực thoát ra khỏi từ trường ý thức hệ,
phủ quyết việc phục vụ một ý thức hệ của nhà nước để tham dự vào sự sáng tạo tính cá
nhân tiền phong thì sự nở rộ các bài thơ mang nội dung chính trị trực tiếp của Mở Miệng
sau này dường như làm giảm thiểu, không phải chỉ là phẩm chất mĩ học, mà còn là, hay
chính là “tính chính trị” đầy sức mạnh của thơ ca mà họ đã tạo ra giai đoạn đầu.
Từ góc nhìn của mình, tôi cho rằng thành công trước hết của Mở Miệng là sự tấn công dữ
dội, triệt để vào chất liệu, một cuộc tấn công đặt ra những câu hỏi quan trọng về thân
phận của ngôn ngữ − cũng là thân phận của chính con người − trong mối quan hệ khó
tách rời với môi cảnh văn hóa, chính trị của thơ. Cũng chính ở cuộc tấn công này, sự hiện
diện của Mở Miệng trở thành một dạng văn bản rộng hơn các văn bản ngôn từ, vừa là hệ
quả vừa phản ánh văn cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam, một không gian xã hội nóng
bỏng và căng thẳng cao độ với chính sách truyền thông và văn hóa hà khắc, đang ngầm
ẩn những bức bối, môi cảnh cho những phá phách, hỗn loạn, hư vô. Thái độ dám hủy thi
tính của mình để đổi lấy một hành vi mới, tạo ra một ý niệm mới về việc làm thơ với tôi
là một biểu hiện “thơ ca” hơn hết của hiện tượng thơ này. Để trở thành những người cách
mạng, thậm chí, các nhà thơ phải hi sinh cả những tiềm năng bứt phá của nội tâm cá
nhân cho một ý hướng tiên phong và có thể kích thích các thực hành tập thể. Có thể nói,
chính sự giải phóng về ngôn ngữ và chất liệu khi va chạm quyết liệt với một trật tự đã cố
định của quan niệm thơ và ngôn ngữ thơ, chứ không phải những phát ngôn hay những
bình luận xã hội làm nên bản chất chính trị độc đáo, sự phản kháng có tính mĩ học (hay
mĩ học có tính chất phản kháng) của Mở Miệng và bản chất chính trị này lại đồng thời
làm nên, hay là điều kiện cho tính tiền phong của các thực hành này.
Trong nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại, Mở Miệng, dù tôi không
muốn nhìn họ như một sự đại diện cho một thế hệ nào, bởi sẽ phải tính đến những thế
hệ khác nhau, có thể coi là tiếng nói mạnh mẽ đòi phá vỡ những thành trì kiên cố của sự
chuyên chế, khi niềm tin vào chế độ, sự tự do, sự trông đợi vào các ý thức hệ chính
thống đang có đang tan rã. Trong nỗ lực nhập lưu với thế giới, cái đập ngăn khủng khiếp
không chỉ là cuộc kiếm tìm của ngôn ngữ thơ ca, mà còn là đập ngăn về ý thức hệ, tư
tưởng. Cái “bức tường Berlin”, hữu hình là chế độ kiểm duyệt, vô hình là ý thức làm thơ –
và cùng với nó – ý thức đọc thơ lừng lững ngự trị, kiên cố, những thiết chế bảo toàn

chân lý trong ngôn ngữ mang nặng tính chất ý thức hệ. Mở Miệng khiến chúng ta, không
phải lâm vào cái hỗn loạn vô chính phủ, mà nhận thức về tình trạng hỗn loạn của không
gian sống bọc quanh ta, nơi mọi cái đang vùng vẫy đòi xáo tung, bị nhạo báng, bị thách
thức, đòi làm xô lệch những ý niệm và giá trị đã ổn định, hoặc tưởng là ổn định để mở ra
những khả thể của không gian chơi trong văn học. Sự từ chối trong nghệ thuật nói chung
bao giờ cũng là một phẩm tính của sáng tạo, nhất là khi quá khứ trở nên bất tín, không
phân minh và bề bộn, khi hiện tại cũng bề bộn và nóng bỏng. Dù ảo tưởng về sự đột
phá, thay máu hoàn toàn là một ảo tưởng lớn và dù giấc mơ lập thuyết thường bất thành
và vỡ vụn ở Việt Nam, dù những giấc mơ đổi thay được cổ vũ có thể biến thành một
quyền lực mới nhưng chắc chắn đó luôn là những giấc mơ quan trọng.
Nghệ thuật có thể trở thành một tác nhân của vận động xã hội hay không? Sự biến động
chóng mặt của bối cảnh kinh tế, chính trị xã hội thúc đẩy nghệ thuật và người nghệ sĩ
vào vai trò của kẻ tham dự. Trong các trào lưu tiền phong và hậu hiện đại, vấn đề của
nghệ thuật được đẩy xa hơn những khoái cảm mĩ học “thuần túy” của nghệ thuật tự thân
và trở thành một nhân tố tác động, gây hiệu ứng với cuộc sống của con người, như
Arthur Rimbaud đã kêu gọi “thay đổi cuộc đời”. Trong bối cảnh Việt Nam, một ý thức văn
hóa mới dường như không thể tách rời với ý thức về bản chất chính trị của văn hóa. Có
lẽ vì tính chất vô ích của loại hình nghề nghiệp này, những câu hỏi về vị trí trách nhiệm
của người viết với xã hội và bối cảnh vẫn cứ được đặt ra, nhiều nghịch lý hài hước khó
trốn thoát. Tuy nhiên, ý thức về bản chất chính trị của văn hóa dường như không thể
đồng nhất với “ý thức chính trị” với nghĩa sự nhận thức đúng/sai về các ý thức hệ, về hệ
thống chính sách của một quốc gia. Khi chỉ bận tâm vào sự đúng sai mang tính ý thức
hệ, khi không gắn với những trải nghiệm và thực hành cá nhân, ý thức này có thể bị biến
thái thành một thứ hàng giả mạo, một dạng hàng nhái nhằm thu hút khách nước ngoài.
Hơn nữa, sức mạnh lật đổ của thơ ca dường không bao giờ là cái dễ thấy, dễ miêu tả
bằng vài ba khẩu hiệu, và ngay cả khi nhà thơ tự đem mình ra như tang chứng của đời
sống, của sự áp chế, họ không sở hữu quyền lực thực sự. Dường như nhà thơ/nghệ sĩ
Việt Nam đang mắc kẹt giữa tình thế lựa chọn, hoặc là thoát khỏi bối cảnh, trở thành
một công dân toàn cầu, hoặc vị nghệ thuật vị cá nhânhoặc là gắn chặt với bối cảnh thì
phải vừa chính trị, mà lại vừa cách tân? Chỗ mắc mớ dường như cũng chính là điểm giải

thoát: một cách cắt nghĩa về “chính trị” không khuôn hẹp vào các nội dung chính trị cụ
thể. Không bàn luận xa hơn về khả năng dung hòa hay sự xung đột của công dụng xã
hội và ý nghĩa mĩ học của thơ ca, tôi cho rằng sức mạnh lật đổ của thơ ca, của nghệ
thuật không thể chỉ quy giảm thành tiếng nói của những kẻ chống đối, và thơ chính trị
chỉ tồn tại, không phải như một văn bản tuyên truyền, khi nó đến từ nhu cầu lên tiếng
của cá nhân. Điều kiện ngoài lề, dù là lựa chọn có ý thức hay tình cờ, có thể nuôi dưỡng
một thứ ngữ pháp giải phóng của thơ ca, nhưng nó chỉ thực sự mạnh mẽ với năng lượng
của những kẻ lặn ngụp trong cuộc sống của ngôn ngữ để tạo nên bản sắc. Và bản thân
sự bất tuân dường như không cần tới những phát ngôn biện hộ hay diễn giải.

[1] Tác giả cảm ơn nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu, nhà thơ – dịch giả Lê Đình Nhất-
Lang, dịch giả Trần Thiện Huy và Phùng Hà Thanh đã có những trao đổi, góp ý quý báu
cho bài viết này.
[2] Ngày 25 tháng 4 năm 2011, trong bối cảnh Hội Chợ Sách Quốc Tế lần thứ 37, Bùi
Chát, với tư cách nhà sáng lập nhà xuất bản Giấy Vụn, đã nhận giải thưởng Tự Do Xuất
Bản, trao tặng bởi Hiệp Hội Nhà Xuất Bản Quốc Tế (IPA), một hội đoàn ra đời năm 1896
với sứ mệnh bảo vệ nhân quyền và tác quyền, tranh đấu chống kiểm duyệt, khuyến
khích mọi sinh hoạt đọc sách và tôn vinh tinh thần tự do xuất bản.
[3] Địa chỉ www.evan.com, trực thuộc một cơ quan báo chí quốc gia là báo điện tử
Vnexpress tại Việt Nam.
[4] Các bài báo Nhóm Mở Miệng với thứ rác rưởi được gọi là thơ của Trúc Linh trên trang
3, báo Công An Thành Phố ngày 22.12.2005 và bài Có một nhánh kênh đen trong dòng
văn học Việt Nam của Hồng Cương, Báo Công An Nhân Dân TPHCM 18/03/2006. Xem bài
viết của Lý Đợi – Bốn lý do để xem bài viết của Trúc Linh là không đáng trả lời – Talawas
26.12.2005. Lưu trữ tại: />[5] Có thể kể tới bài báo trên BBC Việt Nam: Vietnam’s rude poetry delights
intelligentsia của Nga Phạm (2004), bài của Jean-Claude Pomonti Thư từ thành phố Hồ
Chí Minh: Thơ không biên giới trên Focus Asie Du Sud-est (số 2, tháng 2 năm 2006)
(Bản dịch của Phan Bình), Mở Miệng & Hip Hop của Khánh Hòa tại tạp chí Nhà, tạp chí
theo tay khách hàng của Hãng hàng không EVA AIR số tháng 1-2, năm 2005, San Jose,
USA vàOpen Mouth [Mo Mieng]:Begins a new history in Vietnamese Literature của Đỗ Lê

Anh Đào cũng trên Tạp chí Nhà nói trên, số 5&6-2005.
[6] Inrasara – Song thoại với cái mới, nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2008. Trang 87.
[7] Xin xem các bài viết: Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại, ghi nhận qua
một số hiện tượng, Talawas 12.5.2005 – bài viết tham dự hội thảo Văn học sau 1975,
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy tại khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà
Nội; Góp phần nhận diện thơ trẻ những năm đầu thế kỉ (08.2005);Nhà thơ – bạn đọc
trong đời sống văn học hôm nay (11.2005); Văn trẻ 2005 – Đôi điều suy nghĩ ; một tiểu
luận mang tính đối thoại với các cuộc tranh luận về Mở Miệng trên talawas thời điểm
đó Góp thêm lời bàn về một dòng thơ mới (bút danh An Vân) (Talawas 05.04.2006); Viết
thơ là gì – Tiếp cận một số thực hành thơ ca hiện nay từ hành động viết (Tham luận tại
hội thảo Thơ Việt Nam đương đại, Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn TP Hồ Chí Minh,
2008).
[8] Xem các bài viết Về khoan cắt bê tông (Talawas 11.11.2005), Lại khoan cắt bê
tông (Talawas 23.12.2005); “Ta, một công dân ô nhục bậc nhất, một thánh nhân nát
rượu…” — Thơ và Lề trong xã hội Việt Nam đương đại, bản dịch Việt trên Tiền Vệ từ
nguyên tác Pháp văn «Moi, citoyen ignominieux, génie alcoolique…» — Poésie et
marginalité dans le Vietnam contemporain, đăng trên La Revue des Ressources, ngày 28
tháng 5 năm 2007. Đoàn Cầm Thi cũng có bài nói chuyện: Văn học đương đại Việt Nam:
sự xuất hiện một phong trào thơ mới tại Thành phố Hồ Chí Minh tại EHESS (Học viện cao
học Khoa học xã hội), 54 bd Raspail, Paris, ngày 8 tháng 2 năm 2006, trong khuôn khổ
Séminaire “D’une histoire des Etats-nations à une histoire des identités plurielles au
Vietnam, Laos et Cambodge contemporains” bản tiếng Việt: Một nền thơ mới Việt Nam:
Sự xuất hiện một dòng thơ mới tại Sài Gòn, Tiền Vệ 15.2.2006, và sau đó là bài
viết, Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Tiền Vệ, 22.2.2006.
[9]Xem bài viết của Như Huy: Tản mạn đôi chút về bài thơ Vô Địch của Bùi
Chát (Talawas 21.1.2004), Vàinhận định về nhóm Mở Miệng, Talawas 2005, bài viết nhân
chương trình đọc thơ của nhóm Mở Miệng tại viện Goethe – Hà Nội [được ấn định vào lúc
18h30 thứ 6 ngày 17/6/2005] sau bị hủy. Như Huy có tham gia một số tập nhóm, cũng
là một trong những người chia sẻ các thực hành thơ và nghệ thuật của các thành viên
Mở Miệng trong giai đoạn đầu.

[10] Xem các bài viết của Phan Nhiên Hạo: Thơ trẻ không nhất thiết phải là “làn gió
thối” Talawas 29.12.2003, Nhà văn thế hệ sau chiến tranh và ông vua cởi truồng,Talawas
24.02.2004; Mới – Cũ trong thơ và Hậu hiện đại, Talawas 21.05.2004, Ba (khẩu)
phần, Talawas 03.06.2004; Trao đổi với Đoàn Cầm Thi về… rác, Talawas 21.2.2006 v.v.
[11] Chữ dùng của nhà thơ Hoàng Hưng cho một xu hướng cách tân thơ chống lại xu
hướng dòng nghĩa vốn áp chế trong thơ Việt truyền thống. Xin xem bài viết Ngoảnh lại
15 năm, Talawas 12.06.2004. Lưu trữ tại: />res=2170&rb=0101:….
[12] nguyễn quốc chánh –
nguyễn quốc chánh, trịnh cung, phan nhiên hạo, chân phương,
nguyễn viện, trần vũ :văn chương hôm nay nhìn từ ngoài lề
- bàn tròn văn
chương trên trang litviet.com, trang web của nhà thơ phan nhiên hạo.
[13] Nguyễn Hưng Quốc – Và những thứ con khác – Tienve.org
[14] Lý Đợi phỏng vấn Nguyễn Quốc Chánh – Thơ là (thờ ơ) khoét cho cái nhục (nhã,
dục, vương) bốc mùi – Talawas 26.7.2004

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×