Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Chuyên đề : Điều trị điếc đột ngột bằng phương pháp kết hợp đồng thời oxy cao áp với thuốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 52 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HCM
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TT. NHIỆT ĐỚI VIỆT - NGA
CHI NHÁNH PHÍA NAM



CHUYÊN ĐỀ


ĐIỀU TRỊ ĐIẾC ĐỘT NGỘT BẰNG PHƯƠNG PHÁP
KẾT HỢP ĐỒNG THỜI OXY CAO ÁP VỚI THUỐC






ĐỒNG CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG
ThS.BS. NGUYỄN PHƯƠNG NAM





THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
THÁNG 11/2012
MỤC LỤC

Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1


1. TÓM TẮT GIẢI PHẪU CƠ QUAN THÍNH GIÁC 2
1.1. Tai ngoài 3
1.2. Tai giữa 3
1.3. Tai trong 7
2. SINH LÝ NGHE 14
2.1. Sinh lý truyền âm 14
2.2. Sinh lý tiếp nhận âm 16
3. ĐIẾC ĐỘT NGỘT 18
3.1. Đại cương 18
3.2. Tần suất 19
3.3. Nguyên nhân 19
3.4. Cơ chế bệnh sinh 21
3.5. Triệu chứng 24
3.6. Phân loại 28
3.7. Tiên lượng 29
4. LIỆU PHÁP OXY CAO ÁP 30
4.1. Đại cương 30
4.2. Cơ sở sinh lý của OXCA 31
4.3. Cơ chế tác dụng của OXCA 32
4.4. Tác dụng của OXCA 34
4.5. Chỉ định và chống chỉ định điều trị OXCA 34
4.6. Tính hợp lý của OXCA trong điều trị ĐĐN 36
5. ĐIỀU TRỊ ĐIẾC ĐỘT NGỘT 37
5.1. Điều trị triệu chứng 37
5.2. Điều trị nguyên nhân 37
5.3. Một số liệu pháp điều trị hỗ trợ 39
5.4. Điều trị điếc đột ngột bằng kết hợp đồng thời Oxy cao áp với thuốc 39
KẾT LUẬN 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43









DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT
THUẬT NGỮ TIẾNG VIỆT
ATA (Atmosphere Absolute)
Áp suất tuyệt đối
ĐĐN
Điếc đột ngột
Hb
Hemoglobin
OXCA
Oxy cao áp
WHO
Tổ chức y tế thế giới


1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghe là một trong năm giác quan của con người, giúp con người thu
nhận các thông tin từ môi trường để có thể sống, thích ứng và hòa nhập được
với xã hội. Vùng nghe được của tai người ở trong dải từ 16 – 20.000 Hz
(Herzt) và mỗi tần số có ngưỡng nghe tối thiểu và tối đa. Tiếng nói của con

người nằm trong vùng nhạy cảm nhất của trường nghe, khoảng tần số từ
250 – 4.000 Hz, tối đa ở vùng tần số 1.000 – 2.000 Hz. Về cường độ, tiếng
nói thông thường nằm trong khoảng 30 - 70 dB (nói nhỏ: 30 - 35 dB, nói vừa:
55 dB, nói to: 70 dB).
Có nhiều nguyên nhân và bệnh lý làm hư hại bộ máy thính giác, ảnh
hưởng đến hoạt động chức năng nghe, gây giảm sút chức năng nghe ở các
mức độ và tính chất khác nhau, từ nghe kém nhẹ đến điếc hoàn toàn, với các
thể loại nghe kém dẫn truyền, tiếp nhận và hỗn hợp. Một trong những hậu quả
do tổn thương tai trong và thần kinh giác quan gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chức năng nghe là điếc đột ngột (ĐĐN).
ĐĐN là bệnh lý thường gặp tại các bệnh viện chuyên khoa Tai Mũi
Họng và các Khoa Tai Mũi Họng của các bệnh viện trong cả nước. Tần suất
ĐĐN ước tính khoảng 1/5.000 người mỗi năm, những năm gần đây tỉ lệ này
có xu hướng tăng. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhiều nhất là lứa tuổi trung
niên. Điếc có thể vĩnh viễn, tạm thời hoặc trở lại bình thường. Khoảng 80%
trường hợp bị ĐĐN là không rõ nguyên nhân, 20% còn lại người ta đưa ra giả
thuyết do các nguyên nhân mạch máu, virut, vỡ màng trong ốc tai, bệnh tự
miễn…vv. Vì vậy, việc điều trị còn gặp nhiều khó khăn và nếu không được
điều trị kịp thời, đúng phương pháp có thể sẽ để lại di chứng điếc vĩnh viễn là
gánh nặng lớn cho bản thân người bệnh và xã hội.
2
Một số công trình nghiên cứu ở ngoài nước đã sử dụng nhiều phương
pháp khác nhau để điều trị ĐĐN, chẳng hạn như sử dụng: Thuốc giãn mạch,
corticoit, histamine, kháng đông, châm cứu…vv. Đặc biệt, một số tác giả đã
sử dụng Oxy cao áp (OXCA) để điều trị cho các bệnh nhân ĐĐN có kết hợp
với dùng thuốc ngay từ đầu hoặc sau khi đã điều trị bằng thuốc thất bại, kết
quả nhìn chung nhóm có sử dụng OXCA cho thấy có tỉ lệ cải thiện thính lực
và cải thiện các triệu chứng ù tai, chóng mặt cao hơn so với nhóm điều trị
bằng thuốc đơn thuần.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả (Chu Lan Anh, Võ Tá Kiêm, Bùi Thị Ngọc

Thúy…vv) cũng đã tiến hành nghiên cứu về ĐĐN và các phương pháp điều
trị. Trong khuôn khổ chuyên đề này, chúng tôi cung cấp một số thông tin về
ĐĐN và điều trị ĐĐN bằng phương pháp kết hợp đồng thời OXCA với thuốc,
với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả điều trị và giúp cải thiện sức
nghe tốt hơn cho các bệnh nhân ĐĐN.

1. TÓM TẮT GIẢI PHẪU CƠ QUAN THÍNH GIÁC
Bộ máy thính giác bao gồm tai, dây thần kinh thính giác (dây thần kinh
số VIII), đường dẫn truyền thính giác, các nhân và trung tâm thính giác ở não.
Đó là một hệ thống, cơ quan đã được biệt hóa để nghe, nhận biết âm thanh.
Về giải phẫu tai được chia 3 phần: Tai ngoài, tai giữa và tai trong.
3



Hình 1: Giải phẫu tai
Nhằm tạo cơ sở về thính học, ở đây chúng tôi chỉ trình bày sơ lược giải
phẫu tai có chức năng nghe.
1.1. Tai ngoài
Tai ngoài gồm hai phần là vành tai và ống tai ngoài.
Vành tai: Có hình như cái loa bằng sụn, khung sụn có những chỗ lồi,
chỗ lõm để thu nhận âm thanh từ bất cứ hướng nào.
Ống tai ngoài: Đi từ lỗ tai ngoài đến tận cùng là màng nhĩ. Phần ngoài
là ống tai sụn, phần trong là ống tai xương. Ống tai ngoài có nhiệm vụ dẫn
truyền âm thanh từ ngoài vào đến màng nhĩ.
1.2. Tai giữa
Khoang tai giữa bao gồm một hệ thống thông khí rộng rãi được thông
khí bởi vòi tai. Các phần của tai giữa bao gồm ba phần: Vòi tai, hòm tai giữa
và khối thông bào xương chũm.
Loa tai

Xương thái
dương
Xương
búa
Xương
đe
Xương
bàn đạp
Tai giữa
Các ống bán
khuyên
Ốc tai
Tai trong
Thần kinh tiền đình
Thần kinh ốc tai
Cửa sổ tròn
Vòi nhĩ
Mũi hầu
Màng nhĩ
Xương trâm
Động mạch
cảnh trong
4



Hình 2: Tai giữa

Vòi tai hay vòi Eustachi:
Vòi tai là một ống nhỏ dài khoảng 35 – 40mm gồm một phần sụn (2/3)

và một phần xương (1/3), nối thông từ thành trước hòm tai giữa đến thành bên
của họng mũi. Vòi tai giúp cho việc thông khí từ họng mũi vào tai và ngược
lại, do đó làm cân bằng áp lực bên trong và ngoài hòm tai giữa, đảm bảo cho
màng nhĩ rung động bình thường. Khi có tăng áp lực ở hòm tai giữa thì
thường được bù trừ theo con đường thụ động của vòi tai đi tới họng mũi. Còn
khi có giảm áp lực thì lại cần có sự thông khí chủ động từ họng mũi dọc theo
vòi tai đi vào khoang tai giữa.
Vòi tai mở và đóng đáp ứng với cử động của các cơ kế cận và sự khác
biệt về áp lực không khí giữa họng mũi và khoang tai giữa sẽ được cân bằng
ngay lập tức. Cơ chế đóng vòi là sự nẩy, bật đàn hồi của sụn vòi tai và tác
động của van ở lỗ họng của vòi. Vòi tai được mở bởi cơ căng vòm miệng và
cơ nâng vòm miệng. Cơ chế này một phần chịu sự điều khiển của các cơ tự ý
Xương búa
Xương đe
Ngăn trên hòm nhĩ
Vòi nhĩ
Cơ búa
Màng nhĩ
Xương bàn đạp
Cơ bàn đạp

5
nhưng các cử động phản xạ về ngáp và nuốt và trương lực cơ thì lại dưới sự
điều khiển tự động.
Hòm tai giữa:
Là phần trung tâm quan trọng của tai giữa. Hòm tai giữa là một hốc
rỗng hình hộp có sáu thành:
Thành trên: Còn gọi là trần nhĩ, là lớp xương mỏng ngăn cách tai giữa
với hố não, liên quan kế cận với các màng não và não.
Thành dưới: Thấp hơn bờ dưới của ống tai ngoài 3 – 4mm tạo một hố

lõm gọi là hạ nhĩ, thành này có liên quan với vịnh cảnh, thần kinh Jacobson,
nhánh của thần kinh IX.
Thành ngoài: Ngăn cách tai ngoài và tai giữa. Thành ngoài chính là
màng tai (màng nhĩ). Màng nhĩ là một màng mỏng có đường kính ngang 9 –
10mm và đường kính dọc 8 – 9mm, hơi nghiêng và có dạng nón với chóp nón
ở rốn màng tai. Về mô học màng nhĩ có 3 lớp là lớp ngoài, lớp giũa và lớp
trong. Lớp ngoài là biểu mô liên tiếp với biểu bì da ống tai ngoài. Lớp trong
là niêm mạc liên tiếp với niêm mạc hòm nhĩ. Lớp giữa gồm các sợi liên kết
hình vòng tròn và hình nan hoa xe, cấu trúc các sợi nhằm đảm bảo cho độ
căng, bền vững và rung động tốt của màng nhĩ, cán xương búa nằm ở lớp này.
Thành trong: Ngăn cách tai giữa và tai trong, cũng là thành ngoài của
vỏ mê đạo tai. Ở gần trung tâm của thành này có phần lồi ra ngoài gọi là ụ
nhô. Ở phía trên sau ụ nhô có cửa sổ bầu dục để đế xương bàn đạp lắp vào, ở
trước dưới ụ nhô có cửa sổ tròn để màng nhĩ phụ bịt lại.
Thành trước: Rất hẹp ở thượng nhĩ và nở rộng ở phần dưới nơi có lỗ
vòi Eustachi, qua lỗ này mà có sự lưu thông không khí giữa hòm tai giữa và
họng mũi. Ngay trên lỗ vòi là lỗ ống cơ búa, thành này có liên quan với động
mạch cảnh trong.
6
Thành sau: Phần trên là sào đạo. Phần dưới là tường dây VII, ngăn
cách hòm nhĩ với sào bào, gờ của ống Fallope chia mặt này làm hai phần,
phần sát với mặt trong là xoang nhĩ, phần bên ngoài là xoang thần kinh mặt.
Trong hòm tai giữa có các bộ phận quan trọng như chuỗi xương con,
dây chằng, gân và cơ của chúng. Các xương con gồm xương búa, xương đe và
xương bàn đạp. Cán búa nằm giữa lớp niêm mạc và biểu bì, dính vào lớp sợi
để đảm bảo tiếp nhận được toàn bộ rung động của màng nhĩ, còn đầu xương
búa khớp với thân xương đe, tạo khớp búa đe.
Xương đe có hai ngành, ngành trên tì vào thành sào đạo ngành dưới
khớp với xương bàn đạp qua khớp đe đạp. Xương bàn đạp gồm một đầu, hai
gọng và một đế. Đầu xương bàn đạp khớp với xương đe, còn đế xương bàn

đạp khớp với cửa sổ bầu dục, qua cửa sổ bầu dục xương bàn đạp tiếp xúc với
vịn tiền đình. Tất cả các xương con đều được treo hoặc dính vào thành của
hòm nhĩ bằng mạc treo dây chằng.
Có hai cơ liên quan đến hoạt động của chuỗi xương con là cơ búa và cơ
bàn đạp. Cơ búa đi từ thành trước hòm nhĩ, trong ống cơ búa đến bám vào đầu
trên cán búa, tác dụng làm tăng áp lực tai trong và căng màng nhĩ. Cơ bàn đạp
đi từ thành sau trước đoạn ba của ống Fallope đến bám vào chỏm xương bàn
đạp, tác dụng làm giảm áp lực tai trong, đồng thời làm chùng màng nhĩ.
Khối thông bào xương chũm:
Gồm khối tế bào chứa không khí nằm ở phía sau hòm tai giữa, trong đó
tế bào chũm lớn nhất nằm ở trung tâm gọi là hang chũm hay sào bào. Bao
quanh hang chũm là các đám tế bào chũm phía trước, phía sau, phía trên và
dưới. Hang chũm thông với hòm tai giữa qua ống thông hang, tiếp cận và liên
quan tới màng não, đại não, tiểu não, xoang tĩnh mạch bên và dây thần kinh
mặt (số VII).
7
Nói chung tai giữa giúp dẫn truyền âm thanh từ màng nhĩ vào cửa sổ
bầu dục của tai trong nhờ vào chuỗi ba xương con, ngoài con đường này âm
thanh còn đến tai trong qua đường không khí ở vòi tai và qua xương sọ nhưng
không quan trọng lắm. Tai giữa có cơ búa và cơ bàn đạp giúp tăng sức nghe
và bảo vệ tai trong khi cần thiết.
1.3. Tai trong
Tai trong hay còn gọi là mê đạo tai nằm ở trong xương đá. Tai trong
gồm có hai bộ phận chính là tiền đình và ốc tai.
Bộ phận tiền đình:
Bộ phận này gồm có hai phần là các ống bán khuyên và phần tiền đình.
Cũng như bộ phận ốc tai, bộ phận tiền đình gồm có tiền đình xương và tiền
đình màng.
Các ống bán khuyên: Gồm ống bán khuyên ngang, ống bán khuyên
trước và ống bán khuyên sau. Các ống bán khuyên xương chứa các ống bán

khuyên màng cùng tên. Các ống bán khuyên sau cùng đổ vào tiền đình.
Phần tiền đình: Chứa soan nang, cầu nang. Thành ngoài có cửa sổ tiền
đình (còn gọi là cửa sổ bầu dục) được đậy bởi đế xương bàn đạp. Thành trong
có lỗ thông với cống tiền đình. Soan nang nối với cầu nang bằng ống soan
cầu. Cầu nang nối với ống ốc tai bằng ống nối. Trong soan nang và cầu nang
có vết soan nang và vết cầu nang là nơi tận cùng của các nhánh thần kinh tiền
đình. Từ soan nang có ống nội dịch đi trong cống tiền đình, ống nội dịch tận
cùng bằng túi nội dịch nằm dưới màng cứng ở mặt sau xương đá.
8

Hình 3: Cơ quan tiền đình ốc tai

Bộ phận ốc tai:
Về hình thể ốc tai gần giống hình ốc sên được hình thành do một bản
xương xoắn hai vòng rưỡi quanh trục hình nón gọi là trụ ốc, có một đỉnh với
chiều cao khoảng 3 – 5 mm và một đáy có đường kính 9 mm. Đỉnh của ốc tai
chính là phần đẩy lồi thành trong hòm tai giữa ra ngoài gọi là ụ nhô. Có ốc tai
xương và ốc tai màng.
Ốc tai xương được hình thành bởi vỏ mê đạo tai mà vỏ này phát triển
do sự cốt hóa nội sụn và cốt hóa màng xương. Ốc tai xương được chia hai
ngăn bởi mảnh xoắn, ngăn trên là vịn tiền đình, ngăn dưới là vịn nhĩ liên quan
với hòm nhĩ qua cửa sổ tròn, hai vịn thông với nhau ở chõm ốc tai. Ngoài ra
vịn nhĩ còn thông ra ngoài sọ bằng cống ốc tai đi từ cạnh cửa sổ tròn đến bờ
dưới xương đá.
3 ống bán khuyên

Thần kinh tiền đình

Thần kinh ốc tai


Ốc tai

Cầu nang

Soan nang

Vết cầu nang

Vết soan nang

9
Ốc tai màng còn gọi là loa đạo màng được hình thành và phát triển từ
tấm nhĩ ngoại bì. Nó bao gồm một hệ thống các hốc chứa nội dịch. Nội dịch
đi qua ống nội dịch và tận cùng ở một túi bịt là túi nội dịch nằm ở khoang
ngoài màng cứng, ở mặt sau của tháp đá gần với xoang xích ma.


Hình 4: Ốc tai
Ốc tai xương bọc ngoài ốc tai màng, giữa ốc tai xương và ốc tai màng
là khoang ngoại dịch chứa ngoại dịch.
Hệ thống ngoại dịch là một khoảng rỗng liên thông tiếp với khoang
dưới nhện qua ống ốc tai. Ngoài ra hệ thống ngoại dịch lại thông thương với
các khe bạch huyết của niêm mạc – màng sụn tai giữa. Do đó sự thay đổi các
chất chuyển hóa và dịch có thể xảy ra ở tai giữa và tai trong do áp suất thủy
tĩnh.
Nội dịch là phần lọc của ngoại dịch nhưng nồng độ ion K
+
và ion Na
+


thì hoàn toàn khác hẳn. Nồng độ ion K
+
không thay đổi ở cạnh biểu mô của
khía mạch. Nồng độ ion Na
+
ở ngoại dịch gấp mười lần so với nồng độ ion
Khe tiền đình màng nhĩ

Vịn tiền đình

Cơ quan Corti

Ống ốc tai

Vịn nhĩ

Sợi thần kinh ốc tai

10
Na
+
ở nội dịch. Ngược lại, nồng độ ion K
+
ở nội dịch cao gấp hai mươi lần so
với nồng độ ion K
+
ở ngoại dịch. Chính sự khác biệt về nồng độ giữa hai loại
ion Na
+
và ion K

+
là cơ sở để tạo nên điện thế thường xuyên. Thành phần chất
điện giải của nội dịch điều hòa khối lượng chất lỏng lưu thông trong hệ thống
nội dịch.
Trong ống ốc tai có: Nội dịch, màng nền, màng mái, màng nuôi. Đặc
biệt trên màng nền có bộ phận tiếp thu các rung động âm thanh, đó là cơ quan
Corti. Cơ quan Corti là phần giác quan chủ yếu của bộ máy thính giác, cấu
tạo rất phức tạp gồm:
Các trụ: Tạo thành khung ở giữa cơ quan corti, có 2 dãy trụ gồm các
trụ trong và trụ ngoài, chúng cách xa nhau ở màng đáy và hội tụ ở đầu trên tạo
nên một khoang tam giác gọi là đường hầm Corti.
Các tế bào nâng đỡ: Gồm tế bào nâng đỡ trong và tế bào nâng đỡ
ngoài. Tế bào nâng đỡ trong đi từ chân màng mái, ở trên màng đáy tới tựa vào
trụ trong, đầu trên các tế bào này kết hợp với đầu trên trụ trong thành yếu tố
nâng đỡ bao quanh các tế bào thính giác lông trong. Tế bào nâng đỡ ngoài ở
ngoài trụ ngoài, dựa trên màng đáy đi ra tới thành ngoài, gồm có tế bào
Deiters là tế bào nâng đỡ chính, tế bào Hensen ở phía ngoài, có đỉnh to hơn
đáy, tế bào Claudius ở phía ngoài cùng.
11

Hình 5: Cơ quan Corti

Các tế bào giác quan: Gồm tế bào lông trong và tế bào lông ngoài.
Tế bào lông ngoài có ba hàng, khoảng 13.500 tế bào nhiều hơn 3 lần tế
bào lông trong, mỗi tế bào có hàng trăm lông nổi lên bề mặt, độ cao không
đều, sắp xếp hình chữ W lồng lên nhau, nhưng chỉ có một hàng cao nhất tiếp
xúc với màng mái ngay lúc nghỉ, các chuyển động cơ học ở các lông sẽ phát
sinh thay đổi về điện, đó là biến đổi điện – cơ học. Tế bào lông ngoài không
phải là tế bào giác quan thật sự nhưng có khả năng khuếch đại những chuyển
động nhỏ, rất tinh tế của màng đáy và truyền những chuyển động đó đến phần

dịch xung quanh các lông nổi của tế bào lông trong. Các tế bào lông ngoài
đóng vai trò giúp tai trong phân loại các tần số.
Tế bào lông trong mới thực sự là tế bào thần kinh giác quan (có nhiều
điểm khác tế bào lông ngoài) chỉ có 1 hàng khoảng 3.500 tế bào, xếp thành
hình chữ V, ngăn cách với tế bào lông ngoài bằng đường hầm Corti, các lông
không trực tiếp cắm vào màng mái, mà đáy tế bào tiếp khớp chủ yếu với các
Tế bào lông ngoài
Màng mái
Tế bào Hensen
Tế bào
Claudius
Bó lông
Tế bào
lông trong
Tế bào biểu mô
phủ màng đáy
Màng đáy
Tế bào Deiters
Tế bào trụ
Đường hầm Corti
Sợi thần kinh ốc tai
12
sợi thần kinh thính giác hướng tâm tạo thành khớp thần kinh (synape). Ở đây
diễn ra quá trình tiếp nhận các tín hiệu thần kinh.
Màng mái: Là một phần xoắn trên toàn bộ chiều dài cơ quan Corti,
màng mái nằm tựa nhẹ lên các tế bào lông của cơ quan Corti nhưng có một
khoảng cách để đảm bảo sự rung động các lông của tế bào thần kinh giác
quan này.
Thần kinh nghe: Dây thần kinh VIII có hai chức năng nghe và thăng
bằng. Các sợi thần kinh xuất phát từ tế bào lông của cơ quan Corti tập trung

về hạch Corti và hình thành bó ốc tai. Các sợi thần kinh xuất phát từ soan
nang, cầu nang, ống bán khuyên tập trung về hạch Scarpa ở đáy ống tai trong
hình thành bó tiền đình.



Hình 6: Thần kinh tiền đình ốc tai
Nhánh thần kinh tiền đình


Bán khuyên trước

Bán khuyên sau

Bán khuyên
ngang

Vết soan nang

Vết cầu nang

Màng tiền đình


Ống ốc tai

Ốc tai

Ống ốc tai


Vịn tiền đình


Vịn nhĩ


Thần kinh tiền đình
ốc tai (VIII)


Thần kinh số VII


Nhánh thần kinh ốc tai


13
Hạch Scarpa và hạch Corti là nơi tập trung các tế bào thần kinh
(neuron). Từ hạch Scarpa trở đi hai bó hợp lại thành dây thần kinh số VIII hay
dây tiền đình ốc tai, đi trong ống tai trong bên cạnh dây thần kinh số VII, dây
thần kinh Wrisberg và động mạch tai trong.
Dây thần kinh số VIII chui vào não ở rãnh hành cầu và tách ra thành
hai bó tiền đình và ốc tai, mỗi bó đi về trung tâm riêng của mình. Bó ốc tai
chạy lên hành não tới các nhân ốc tai trước, nhân trám lưỡi, nhân hình thang.
Từ các nhân này phát sinh các sợi bắt chéo sang bên đối diện và những sợi đi
thẳng lên dọc theo dãy Reil hai bên, khi tới ngang củ não sinh tư sau một số
sợi đi vào đấy, còn phần lớn đi thẳng lên các hồi thái dương I và II ở vùng
thính giác Hesch ở bờ dưới rãnh Sylvius.
Các sợi thần kinh hướng tâm đa số (95%) tiếp khớp với tế bào lông
trong, vai trò sinh lý của nó là dẫn truyền các thông tin thính giác về não và

có thể đo được các hoạt động của các sợi thần kinh hướng tâm bằng kĩ thuật
đo điện thính giác thân não. Các sợi ly tâm xuất phát từ thân não xuống tiếp
khớp với đa số các tế bào lông ngoài, vai trò chưa biết chính xác, có lẽ góp
phần vào sự ức chế, biến đổi và điều chỉnh hoạt động của cơ quan Corti.
Động mạch tai trong
Động mạch tai trong là nhánh của động mạch tiểu não trước dưới, xuất
phát từ động mạch thân nền, cấp máu cho vùng tai trong bởi ba nhánh đó là
nhánh động mạch ốc tai, nhánh động mạch tiền đình và nhánh động mạch ốc
tai tiền đình.
14

Hình 7: Động mạch tai trong
Động mạch tai trong là động mạch tận không có nhánh nối, nên khi bị
tắc thì tai trong sẽ bị thiếu máu nuôi.
2. SINH LÝ NGHE
Sinh lý nghe là một vấn đề khá tinh vi và phức tạp gồm hai phần cơ bản
là sinh lý truyền âm và sinh lý tiếp nhận âm.
2.1. Sinh lý truyền âm
Chức năng truyền sóng âm đến bộ phận tiếp nhận ở tai trong:
Tai ngoài: Vành tai cấu tạo như phễu thu, đón nhận âm thanh vào ống
tai, giúp khu trú nguồn âm, để biết được âm thanh đến từ hướng nào. Ống tai
ngoài truyền sóng âm đến màng nhĩ.
Tai giữa: Màng nhĩ có vai trò quan trọng trong tiếp nhận sóng âm và
chuyển dao động âm (dạng âm đơn hình sin) thành rung động cơ học, rung
động này sẽ được chuỗi xương con chuyển đến tai trong qua cửa sổ bầu dục.
Để thực hiện tốt chức năng truyền âm, tai giữa cần có bốn điều kiện sau:
- Màng nhĩ bình thường và rung động tốt theo tác động của sóng âm.
15
- Chuỗi xương con liên tục từ màng nhĩ đến cửa sổ bầu dục và cử động
dễ dàng trong môi trường khí.

- Chuyển động hòa hợp giữa hai cửa sổ bầu dục và cửa sổ tròn với sự
lệch pha theo tác động của sóng âm và sóng thủy lực trong dịch ốc tai.
- Không khí trong hòm nhĩ được đổi mới liên tục qua sự đóng mở tự
động của vòi nhĩ.
Tai trong: Vào cuối thập kỷ 50, Von Bekesy đã chứng tỏ có 2 bộ phận
ở tai trong có chức năng truyền âm là các chất dịch, chủ yếu là ngoại dịch của
ốc tai và màng đáy. Rung động cơ học ở đế xương bàn đạp gây nên chuyển
động của ngoại dịch, ngoại dịch chuyển động làm màng đáy rung động, kéo
theo nội dịch chuyển động sẽ tác động đến các tế bào thính giác ở cơ quan
Corti.
Hiệu quả truyền âm và khuếch đại của tai giữa:
Sóng âm khi truyền từ nguồn âm đến tai giữa, được truyền trong môi
trường không khí và khi qua cửa sổ bầu dục vào tai trong thì nó được chuyển
sang môi trường nước. Theo quy luật vật lý, do sự khác biệt về trở kháng âm,
sóng âm mất 99,9% năng lượng tương ứng 30 dB, và nhiệm vụ của bộ máy
dẫn truyền với sự điều chỉnh trở kháng phải thu hồi được sự chênh lệch 30 dB
này.
- Yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu là sự tương quan của diện tích bề
mặt màng nhĩ và bề mặt đế xương bàn đạp, phần di động hữu ích của màng
nhĩ khoảng 60 mm
2
, còn diện tích đế xương bàn đạp là 3 mm
2
. Tỉ lệ chênh
lệch khoảng 20 lần. Điều này dẫn đến áp lực âm thanh từ màng nhĩ đến đế
xương bàn đạp được tăng khoảng 25 dB.
- Yếu tố thứ hai là hiệu quả đòn bẩy: Cán búa dài hơn cành xuống của
xương đe gấp 1,3 lần, sự chênh lệch cơ học này giúp thu hồi 2 – 3 dB.
16
Tổng cộng của hai yếu tố thì hệ thống màng nhĩ chuỗi xương con giúp

tai thu hồi được 28 dB trong số 30 dB bị mất. Ngoài ra còn có khả năng cộng
hưởng tự nhiên của hòm nhĩ và khoang ống tai ngoài.
Cơ chế bảo vệ tai trong:
Cơ bàn đạp khi co sẽ kéo nghiêng xương bàn đạp khỏi cửa sổ tiền đình,
lệch về phía sau theo chiều ngang, làm giảm áp lực ngoại dịch, giảm áp lực tai
trong. Khi chỏm bàn đạp bị kéo nghiêng ra sau, làm thân xương đe và chỏm
xương búa quay vào trong, đẩy cán búa ra ngoài làm giảm căng màng nhĩ, cơ
bàn đạp là cơ của tiếng bổng, cơ chịu sự chi phối của thần kinh số VII.
Cơ búa khi co sẽ kéo cán xương búa vào trong, đẩy chỏm búa ra ngoài
làm kéo theo thân xương đe ra ngoài, làm cành dài xương đe ấn xương bàn
đạp vào cửa sổ tiền đình làm tăng áp lực ngoại dịch. Cơ búa là cơ của tiếng
nhỏ và trầm, cơ chịu sự chi phối của thần kinh số V
3
.
2.2. Sinh lý tiếp nhận âm
Hoạt động của ốc tai như là một cơ quan tiếp nhận và phân tích tần số
sóng âm. Những rung động cơ học được đưa vào tai trong bằng đường chuỗi
xương con qua cửa sổ bầu dục, và bằng đường không khí qua cửa sổ tròn.
Giữa các sóng cơ học này có sự lệch pha về thời gian, mặc dù rất nhỏ (nhỏ
hơn một phần nghìn giây) nhưng rất cần thiết cho sự chuyển động của chất
dịch ở tai trong. Khi xương bàn đạp di động dưới kích thích của sóng âm làm
ngoại dịch rung động, sự rung động này sẽ tác động vào nội dịch trong ống ốc
tai qua màng nền và màng Reinsner. Theo thuyết di chuyển sóng của Bekesy,
ở màng nền có sự phân vùng tiếp nhận âm thanh, tùy theo tần số rung động:
Vùng gần cửa sổ tiếp nhận những âm cao, vùng gần đỉnh tiếp nhận những âm
trầm và đoạn giữa tiếp nhận những âm trung bình.
Sự rung động của màng nền làm cho những bộ phận dính liền với nó
rung động theo, cụ thể là cơ quan Corti. Khi cơ quan Corti rung động thì tế
17
bào lông sẽ va chạm vào màng mái, làm cho lông của các tế bào này bị uốn

cong, kéo căng, đè nén. Những thay đổi cơ học này sẽ tác động đến điện sinh
học của tế bào lông.
Qua các màng đo vi điện thế với các vi điện cực, người ta thấy có nhiều
loại điện thế:
Điện thế nội ốc tai hay điện thế nghỉ: Đo được lúc không có kích thích
âm, còn gọi là điện thế liên tục. Mỗi bộ phận của ống ốc tai có một điện thế
liên tục riêng biệt, điện thế của vân mạch là +80 mV, của tế bào lông là -80
mV, của màng Reinsner là -20 mV, riêng màng mái không có điện thế. Nguồn
cung cấp điện thế này là vân mạch của tế bào lông. Sự có mặt của Oxy, ion
K
+
, ion Na
+
ở một tỉ lệ nhất định rất cần thiết cho sự ổn định các điện thế này.
Điện thế đo được lúc có kích thích âm phản ánh hoạt động của cơ quan
Corti gồm:
- Điện thế vi âm (điện thế microphone): Là dòng điện xoay chiều, có
nguồn gốc từ tế bào lông. Sự rung động của màng đáy dưới tác dụng sóng âm
làm lông của tế bào bị rung động, đè nén, làm điện thế liên tục trong ốc tai
biến đổi do hiện tượng khử cực hoặc thay đổi điện trở. Biến đổi này tạo ra
dòng điện xoay chiều.
- Điện thế cộng: Gồm hai dòng điện một chiều, một âm và một dương,
xuất hiện khi lông của tế bào giác quan bị đè nén một cách liên tục, kéo dài
bởi màng mái, và cường độ âm thanh cao hơn cường độ gây ra điện thế vi âm
20 dB, nó có tác dụng tu chỉnh đối với điện thế vi âm.
- Điện thế hoạt động: Nguồn gốc là do các điện thế liên tục và điện thế
cộng tác dụng vào tế bào giác quan, và giải phóng một chất trung gian hóa
học, chất trung gian hóa học này giải phóng theo nhịp rung của màng đáy và
đi xuống tập trung ở phần đáy của tế bào lông. Khi đạt đến một nồng độ nhất
18

định, nó sẽ tạo ra xung ở khớp thần kinh. Xung này dẫn truyền theo sợi thần
kinh tạo nên điện thế động hay luồng thần kinh. Luồng thần kinh tức điện thế
hoạt động phát sinh từ cơ quan Corti được đưa về vỏ não qua ba chặng neuron
thần kinh.
+ Neuron thứ nhất: Từ tế bào giác quan của cơ quan Corti đến nhân
thính giác ở hành não. Các thân neuron tập trung thành hạch Corti, các sợi
trục tập trung thành dây thần kinh ốc tai.
+ Neuron thứ hai: Từ hành não đến đồi thị, tại đây có sự bắt chéo các
sợi trục tạo ra sự liên lạc giữa các nhân trám cầu, thể thang, cấu tạo lưới.
+ Neuron thứ ba: Là neuron đồi thị vỏ não, đi từ thể gối trong và tận
cùng ở vỏ não thùy thái dương tại vùng thính giác, mỗi vùng thính giác đều
nhận xung điện ở cả hai tai. Tại vùng thính giác, các tín hiệu xuất phát từ cơ
quan Corti được đưa đến dưới dạng mật mã, sẽ được giải mã và ghi nhớ, gọi
là hiện tượng hiểu – nhận.
Nhờ có hiểu – nhận được các tín hiệu nên chúng ta phân biệt được
cường độ, âm sắc, tần số, mới phân biệt được tiếng động và tiếng nói, nhận ra
được giọng nói của người quen, lạ, giọng nói buồn, vui,…vv. Nếu vùng thính
giác bị hủy thì dòng điện hoạt động vẫn đến được não, nhưng bệnh nhân sẽ
không hiểu được ý nghĩa của các tín hiệu
.
3. ĐIẾC ĐỘT NGỘT
3.1. Đại cương
ĐĐN là mối quan tâm lớn không những cho người bệnh mà còn cho cả
thầy thuốc, phần lớn các chuyên gia Tai Mũi Họng định nghĩa ĐĐN là điếc
tiếp nhận từ 30 dB trở lên ít nhất ở 3 tần số liên tiếp nhau và xuất hiện trong
vòng 3 ngày. ĐĐN có thể vĩnh viễn, tạm thời và trở lại bình thường hoặc gần
như bình thường, thường xảy ra một bên tai (80 – 85%) nhưng cũng có thể hai
19
bên tai (15 – 20%), ngoài nghe kém ra thì có thể ù tai, chóng mặt. Bệnh sinh
đến nay vẫn chưa rõ ràng mà vẫn chỉ dừng lại ở các giả thuyết. Phần lớn các

trường hợp ĐĐN đều không tìm thấy nguyên nhân, và được xem như là ĐĐN
vô căn.
ĐĐN là một hội chứng (không phải là một bệnh) hay gặp ở cấp cứu Tai
Mũi Họng nên cần điều trị càng sớm càng tốt, đặc biệt phải có thính lực đồ để
theo dõi thường xuyên.
3.2. Tần suất
Tần suất ĐĐN vô căn ước tính khoảng 1/5.000 người mỗi năm. Tuy
nhiên, tần suất này có thể cao hơn vì có những bệnh nhân tự nhiên khỏi bệnh
mặc dù chưa kịp đi điều trị. Tần suất dường như tăng theo độ tuổi, tuổi trung
bình bệnh nhân bị ĐĐN là 46 - 49 tuổi. ĐĐN thường một bên tai, tỷ lệ tai
phải bằng tai trái, điếc cả hai tai chiếm khoảng 15 - 20%. Tần suất không khác
nhau theo giới tính, yếu tố nghề nghiệp không rõ ràng và ĐĐN không theo
mùa.
3.3. Nguyên nhân
Đa số ĐĐN đều vô căn và người ta ít biết đến sinh bệnh lý của nó. Tuy
nhiên, có nhiều giả thuyết được đề xuất về nguyên nhân của ĐĐN: Giả thuyết
do mạch máu, do nhiễm virus, do bệnh tự miễn, do khối u…vv. ĐĐN có thể
xảy ra do các tổn thương tại ốc tai hoặc dây thần kinh thính giác hay tổn
thương thần kinh trung ương.
Các nguyên nhân do ốc tai gồm:
- Bệnh mạch máu: Các bệnh lý mạch máu có thể gây ĐĐN như tăng
huyết áp, bệnh Berger, bệnh máu tăng đông, tăng độ nhớt của máu…vv. Các
bệnh lý này có thể gây ra hiện tượng tắc mạch, co thắt mạch, hoặc vỡ mạch ở
ốc tai dẫn đến ĐĐN.
20
- Nhiễm siêu vi: ĐĐN xảy ra trên người bị cảm cúm, đang bị viêm mũi
họng…(do cúm, sởi, herper simplex, zona…) gây ra viêm mê nhĩ.
- Vỡ màng tai trong và các cửa sổ: Chấn thương làm rách mê nhĩ màng,
gây dò ngoại dịch, như vỡ xương đá, chấn thương do áp lực, do chấn động âm
quá lớn, hoặc sau phẫu thuật vào vùng cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục. Cũng có

thể gặp ĐĐN sau bị điện giật, sau điều trị tia xạ vv.
- Bệnh tự miễn: ĐĐN có thể gặp trên những bệnh nhân bị luput, viêm
nút quanh động mạch hay hội chứng Cogan. McCabe cho rằng ĐĐN có liên
quan đến bệnh tự miễn ở tai trong, việc điều trị bằng corticoid có kết quả tốt.
- Nhiễm độc: Nhiễm độc do thuốc đứng hàng đầu, trong đó chủ yếu là
nhiễm độc kháng sinh nhóm Aminozid. Do sự lắng đọng của thuốc trong nội
dịch tai trong gây ra những hậu quả kéo dài ngay cả khi đã dừng thuốc. Ngoài
ra có thể gặp nhiễm độc do rượu, nhiễm độc do thuốc lá.
- Rối loạn chuyển hóa: Các nguyên nhân gây rối loạn chuyển hóa toàn
thể như suy thận, nhiễm toan máu do nguyên nhân tại thận, đái tháo đường,
tăng lipid máu, suy giáp trạng. Các rối loạn chuyển hóa thường đưa đến tình
trạng thiếu máu của động mạch tai trong hoặc gây tình trạng nhiễm độc tai
trong.
- Các bệnh máu: Bệnh của hệ thống tạo máu, bệnh đa hồng cầu, bệnh
hồng cầu hình liềm, bệnh đông globulin. Sự thiếu máu và chứng nghẽn mạch
sẽ gây nên sự thiếu hụt máu trong ốc tai và sẽ dẫn đến sự thiếu máu thứ phát
của các tế bào lông và vân mạch là nguyên nhân gây nên ĐĐN.
Các nguyên nhân sau ốc tai gồm:
Tổn thương sau ốc tai có thể do bệnh lý ở dây thần kinh thính giác hoặc
hệ thống thần kinh trung ương.
21
- Do tổn thương dây thần kinh thính giác: U dây thần kinh số VIII, u
góc cầu tiểu não, viêm dây thần kinh thính giác.
- Do tổn thương hệ thống thần kinh trung ương: Thiểu năng tuần hoàn
não, khối u hành não cầu, u củ não sinh tư, bệnh xơ cứng rải rác.
3.4. Cơ chế bệnh sinh
Theo tác giả Michele M Carr, cơ chế bệnh sinh của ĐĐN được nhiều
tác giả công nhận có bốn giả thuyết sau: Tổn thương mạch máu mê đạo,
nhiễm virus mê đạo, vỡ màng trong ốc tai, bệnh tai trong qua trung gian miễn
dịch (bệnh tự miễn). Ngoài ra còn có giả thuyết về cơ chế bệnh sinh của ĐĐN

là do khối u tân sinh.
Mỗi giả thuyết có thể giải thích một phần của những giai đoạn ĐĐN,
nhưng không giả thuyết nào có thể giải thích cho tất cả các giai đoạn.
Cơ chế tổn thương mạch máu mê đạo:
Chi tiết giải phẫu quan trọng là động mạch nuôi mê nhĩ tức động mạch
tai trong là nhánh tận của động mạch tiểu não trước dưới, không có tuần hoàn
nối. Do đó khi bị tắc nghẽn thì không có động mạch nào khác bù trợ và sẽ gây
tình trạng thiếu máu (thiếu oxy) nuôi cơ quan Corti.
Hiện tượng tắc nghẽn động mạch tai trong thường do co thắt dưới ảnh
hưởng của tâm lý như sợ sệt, mệt mỏi, chấn thương tâm lý, đồng thời cũng có
thể do tắc nghẽn trong lòng mạch do xơ vữa mạch máu, huyết khối,…vv.
Khi động mạch tai trong bị tắc nghẽn sẽ dẫn đến thiếu oxy của tổ chức,
toan hóa tế bào, rối loạn hoạt động chức năng enzyme nội bào. Điện thế ốc tai
giảm sẽ dẫn tới ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các tế bào thần kinh
thính giác và gây hậu quả là tế bào thần kinh thoái hóa không hồi phục. Vì
vậy việc cung cấp Oxy giúp cải thiện quá trình lành bệnh được xem là chìa
khóa giải quyết rối loạn chức năng tai trong.

×