Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Môn lý luận hành chính nhà nước trở thành người lái thuyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.8 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 5
Khi bàn tới vai trò của nhà nước hiện nay, David Osborne và Ted Gaeble đã đưa ra
một nguyên tắc quan trọng “Nhà nước cần phải trở thành người lái thuyền chứ không
phải người chèo thuyền” 5
Với những kiến thức được học tập, nghiên cứu, Em xin phân tích làm rõ nguyên tắc
trên, bài phân tích của Em tập trung vào một số vấn đề: 5
1.Khái niệm, vai trò, đặc trưng của Nhà nước 5
2.Nền hành chính công truyền thống (Bộ máy thư lại) 5
3.Nền hành chính công phát triển (hành chính công mới) 5
4.Liên hệ thực tiễn nền hành chính Việt Nam 5
5.Đề xuất một số giải pháp cải cách nền hành chính Việt Nam theo hướng “Nhà nước
trở thành người lái thuyền” 5
1.Khái niêm, vai trò, đặc trưng của nhà nước 6
1.1.Khái niệm : 6
1.2.Nhà nước có vai trò : 6
1.3.Nhà nước có các đặc trưng cơ bản sau đây: 6
2.Nền hành chính công truyền thống (bộ máy thư lại) 6
3.Những đòi hỏi của xã hội phát triển tất yếu phải chuyển sang nền hành chính công mới.
9
+ Sự phát triển năng động của khu vực tư nhân. Xuất phát từ mục tiêu thu được lợi
nhuận cao nhất trên đồng vốn bỏ ra, khu vực tư nhân là nơi đầu tiên hình thành nên các
tư duy, ý tưởng, khoa học về quản lý con người, tổ chức. Cùng với sự gọn nhẹ, đơn
giản trong quản lý của khu vực tư nhân, các kiến thức này dễ dàng được triển khai thử
nghiệm, hoàn thiện thường xuyên trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Điều này làm
cho khu vực tư nhân không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Sự năng động, hiệu quả trong
khu vực tư nhân đã làm cho nhà nước phải xem xét lại mô hình quản lý của mình để
hoàn thiện. Mặt khác, sự năng động của khu vực tư nhân còn làm cho khu vực này thấy
được các nhu cầu dịch vụ mà nhà nước làm chưa tốt hoặc còn bỏ ngỏ như một thị
trường mới cho mình. Đây là điều kiện quan trọng để nhà nước có thể chuyển dần các


dịch vụ công cho khu vực tư nhân đảm nhận 10
4.Nền hành chính công mới (lái thuyền) 11
Có thể hiểu, hành chính phát triển thường được sử dụng khi nói đến “Mô hình hành
chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao
nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị
truờng phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn
nhau”. Bắt đầu từ thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, sự chuyển
đổi từ Hành chính công truyền thống sang Hành chính phát triển đang trở thành xu
hướng phổ biến trên thế giới, đặc biệt là những nước kinh tế thi trường phát triển 11
Theo quan điểm mới, vai trò của Chính phủ có sự chuyển từ “chèo thuyền” sang “lái
thuyền”. Nhà nước không ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà thực hiện dân chủ hoá gắn
liền với phân quyền, xã hội hoá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý của
Nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ; xu hướng “thị trường
hóa” và “toàn cầu hoá” kinh tế; xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội … Nhà nước
buộc phải xã hội hoá, tư nhân hoá, chấp nhận sự tham gia của công chúng vào công
việc quản lý nhà nước, đồng thời phải can thiệp ngày càng sâu vào các quá trình kinh
tế- xã hội và cải tiến mô hình nền hành chính công và nâng cao chất lượng dịch vụ đối
với người dân - những “khách hàng” của nền hành chính… 11
Đối với công chức của hành chính phát triển: Trách nhiệm của người công chức, nhà
quản lý chủ yếu là bảo đảm thực hiện mục đích, đạt kết quả tốt, hiệu quả cao. Những
quy định, điều kiện để công chức thực thi nhiệm vụ có hình thức linh hoạt, mềm dẻo
hơn. Thời gian làm việc linh hoạt hơn, công chức cam kết về mặt chính trị cao hơn
trong các hoạt động của mình, các hoạt động hành chính mang tính chính trị nhiều hơn.
11
Sự xuất hiện của mô hình hành chính phát triển đã làm cho cách thức hoạt động của
khu vực công có nhiều thay đổi đáng kể. Với các đặc tính của mô hình mới: chú ý hiệu
quả hoạt động quản lý, phi quy chế hoá, phân quyền, áp dụng một số yếu tố của cơ chế
thi trường, xã hội hoá một phần hoạt động của Nhà nước, vận dụng nhiều phương pháp
quản lý doanh nghiệp, xu hướng quốc tế hoá. Có thể nói, mô hình hành chính phát
triển xuất hiện nhằm khắc phục những yếu kém không phù hợp của mô hình hành

chính truyền thống 11
5. Liên hệ thực tiễn Việt Nam 12
5.1. Thực trạng nền hành chính Việt Nam 12
Tuy nhiên nền hành chính Việt Nam còn một số tồn tại sau : 12
5.2. Kiến nghị các giải pháp 13
Trong bối cảnh vận hành theo cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự đổi mới sâu sắc. Cùng với
sự đổi mới đó, chức năng của Chính phủ chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách
thức của thị trường trong nước và thị trường thế giới. Vì vậy, vận dụng những nhân tố
hợp lý của mô hình Hành chính phát triển để xây dựng một mô hình phù hợp với Việt
Nam, đẩy mạnh cải cách hành chính theo kịp cải cách kinh tế đang là một yêu cầu cấp
thiết. Để việc cải cách đạt nhiều kết quả và theo mô hình “người lái thuyền” cần tập
trung một số giải pháp sau: 13
Thứ nhất, nhà nước tập trung vào việc ban hành các chính sách và lãnh đạo việc thực
hiện các chính sách: 13
Khi ban hành cách chính sách, nhà nước cần có tầm nhìn tốt và xác định con đường
đúng nhất để đi đến đích; đồng thời, có một cơ chế àm cho khu vực tư cũng như toàn
xã hội tích cực tham gia trong sự năng động nhất mà họ có thể để cùng nhà nước thực
hiện các định hướng ấy. Nhà nước cần tập trung vào việc nâng cao tính hiệu quả của
các chính sách được đề ra. Tính hiệu quả của chính sách thể hiện ở chỗ phải tập trung
vào mục tiêu và kết quả đạt được. Cần tránh những quy định chỉ chú trọng đến đầu vào
và quy trình. Tính hiệu quả thể hiện ở việc tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, huy
động được các nguồn lực từ khu vực tư vào đầu tư phát triển kinh tế - xã hội và sử
dụng các nguồn lực này một cách tiết kiệm, hữu ích nhất. Khi khu vực tư đã tham gia
vào quá trình cung cấp dịch vụ công và xã hội hóa đầu tư công, hiệu quả từng dự án cụ
thể sẽ do họ quyết định, song hiệu quả tổng thể thuộc về trách nhiệm của nhà nước. Nó
gắn liền với chất lượng chính sách về công tác quy hoạch kinh tế- xã hội, cơ chế hỗ
trợ, kết nối nguồn lực Cũng như một người lái thuyền, để có thể làm tốt các công
việc trên, nhà nước cần có sự trao đổi, tạo sự đồng thuận với khu vực tư – những
"người chèo thuyền" – khi xây dựng và ban hành chính sách. Đây là công việc không

đơn giản, bởi "người lái thuyền" thì chỉ có một, nhưng lại có rất nhiều "người chèo
thuyền" mà họ lại có xu hướng bảo vệ mục tiêu, lợi ích "của mình" bằng bất cứ giá
nào. Do đó, chính sách của nhà nước ban hành phải thực sự là một chính sách đem lại
2
lợi ích chung cho toàn xã hội. Khi chính sách của nhà nước bị chi phối bởi lợi ích của
bất cứ nhóm nào hoặc thiếu tính khách quan, minh bạch, nó sẽ không tạo được sự đồng
thuận chung của những "người chèo thuyền" và chắc chắn nó sẽ không được thực thi
một cách có hiệu quả. Song song với ban hành các chính sách mang tính "cầm lái", nhà
nước cũng phải tạo ra các "tổ chức cầm lái". Thông thường, khi tách các dịch vụ ra
khỏi chính sách, nhà nước bộc lộ những yếu kém trong năng lực quản lý chính sách.
Nhiều tổ chức nhà nước không còn phù hợp để thực hiện tốt vai trò "cầm lái" do không
tương thích với một sự năng động mới từ những dịch vụ công, đầu tư công đã được xã
hội hóa. Để thực hiện tốt vai trò "cầm lái", cần thiết phải hình thành những "tổ chức
cầm lái" với sự tham gia của khu vực nhà nước với khu vực tư nhân. Quá trình này sẽ
hình thành một khu vực thứ ba ngoài khu vực tư nhân, khu vực nhà nước, đó là khu
vực tự nguyện. Lịch sử thế giới đã chứng minh nhiều tổ chức thuộc khu vực được hình
thành trong khu vực này như Chữ thập đỏ, Chữ thập xanh, Lá chắn xanh 13
Thứ hai, nhà nước tách rời hoạt động cung cấp dịch vụ ra khỏi hoạt động lãnh đạo thực
hiện chính sách, tiến hành xã hội hóa các dịch vụ công: 14
Trong phạm vi vĩ mô của nền hành chính, nhà nước phải phân định được phạm vi của
công tác lãnh đạo thực hiện chính sách và phạm vi của các hoạt động cung cấp dịch vụ.
Phân định rõ phạm vi này giúp cho nhà nước có điều hơn trong việc tập trung vào các
quyết định có tính chất căn bản là những quyết định có tác dụng cầm lái. Đồng thời,
không can thiệp quá sâu vào các hoạt động tác nghiệp cụ thể, từ đó tạo cho các tổ chức
cung cấp dịch vụ có sự tự chủ, năng động cần thiết trong hoạt động của mình 14
Tách hoạt động cung cấp dịch vụ ra khỏi hoạt động lãnh đạo thực hiện chính sách, xã
hội hóa dịch vụ công tạo ra môi trường cạnh tranh giữa những người cung cấp dịch vụ,
làm cho họ có trách nhiệm hơn với chất lượng dịch vụ của mình mà không cần đến sự
can thiệp của nhà nước. Quá trình xã hội hóa dịch vụ công chính là biểu hiện bên ngoài
của quá trình chuyển nhà nước từ người "chèo thuyền" sang "cầm lái". Quá trình này

làm cho bộ máy nhà nước nhỏ lại nhưng mạnh hơn do có điều kiện tập trung tất cả các
nguồn lực có được vào mục tiêu "cầm lái" 14
Thứ ba, xã hội hóa đầu tư công: 15
Trong hành chính công truyền thống, đầu tư công luôn là hoạt động rất quan trọng cho
sự phát triển của một quốc gia. Nó cũng là hoạt động sử dụng nhiều nhất ngân sách của
nhà nước và chứa đựng nguy cơ tham nhũng, thất thoát, lãng phí nhiều nhất. Do vậy,
hoạt động quản lý đầu tư công trong hành chính công truyền thống luôn cần rất nhiều
sự đầu tư của nhà nước. Xã hội hóa đầu tư công giúp cho nhà nước giảm được gánh
nặng về tài chính cũng như quản lý. Xã hội hóa đầu tư công cũng làm cho năng lực
khu vực tư nhân mạnh dần lên thông qua quá trình quản lý đầu tư và lợi nhuận thu
được từ hoạt động này. Vì thế xã hội hóa đầu tư công làm cho nhà nước có thể tập
trung vào việc đưa ra các tầm nhìn, chiến lược trong đầu tư như nhiệm vụ vốn dĩ phải
làm của "người lái thuyền" và làm cho khu vực tư phát triển, đưa xã hội nhanh chóng
đi đến mục tiêu nhà nước đã vạch ra như vai trò của một "người chèo thuyền" mạnh
khỏe 15
Bên cạnh sự đòi hỏi nhất định về năng lực sẵn sàng của khu vực tư nhân, hiệu quả của
xã hội hóa đầu tư công đối với xã hội chủ yếu phụ thuộc vào định hướng, tầm nhìn
chiến lược của nhà nước. Cho dù khu vực tư có mạnh đến đâu thì xã hội cũng không
thể phát triển nếu nhà nước, với vai trò "cầm lái" định hướng sai. Thậm chí điều này
còn làm cho khu vực tư giảm đi sức mạnh của mình. Lúc này, xã hội đứng trước nguy
cơ thụt lùi 15
Thứ tư, xã hội hóa các hoạt động mang tính chất phúc lợi, trợ cấp, nhân đạo khác: 15
3
Nhà nước nào cũng có lúc gặp khó khăn liên quan đến các vấn đề xã hội như: phúc lợi,
trợ cấp, nhân đạo. Trong đó, khó khăn chủ yếu là không đủ nguồn lực tài chính và
nhân lực để tài trợ cho các hoạt động này. Giải quyết những nhu cầu này không làm
cho kinh tế của quốc gia tăng trưởng, song nó là yếu tồ cần thiết cho sự ổn định của
con thuyền quốc gia 15
KẾT LUẬN 16
4

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước là một tổ chức xã hội đặc biệt, được giai cấp thống trị thành
lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước xuất hiện kể từ
khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai cấp đối kháng
nhau. Trải qua sự phái triển của lịch sử, nhà nước cũng có những sự phát
triển để phù hợp với sự phát triển chung cũng như phù hợp với các hình thái
kinh tế xã hội.
Lịch sử đã có 4 kiểu nhà nước : Nhà nước chiếm hữu nô lệ; Nhà nước
phong kiến; Nhà nước tư bản chủ nghĩa; Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước đều có những ưu, nhược điểm khác nhau, cùng với
sự phát triển của kinh tế, xã hội loài người, vai trò của nhà nước ngày càng
được nâng lên nhằm mục đích giữ cho xã hội phát triển ổn định, ngày càng
đảm bảo được quyền lợi của người dân.
Khi bàn tới vai trò của nhà nước hiện nay, David Osborne và Ted
Gaeble đã đưa ra một nguyên tắc quan trọng “Nhà nước cần phải trở thành
người lái thuyền chứ không phải người chèo thuyền”
Với những kiến thức được học tập, nghiên cứu, Em xin phân tích làm rõ
nguyên tắc trên, bài phân tích của Em tập trung vào một số vấn đề:
1. Khái niệm, vai trò, đặc trưng của Nhà nước.
2. Nền hành chính công truyền thống (Bộ máy thư lại)
3. Nền hành chính công phát triển (hành chính công mới).
4. Liên hệ thực tiễn nền hành chính Việt Nam.
5. Đề xuất một số giải pháp cải cách nền hành chính Việt Nam
theo hướng “Nhà nước trở thành người lái thuyền”
Trong quá trình học tập, nghiên cứu chắc chắn còn nhiều vấn đề Em
chưa tìm hiểu và khả năng phân tích còn hạn chế, Em mong nhận được sự
hướng dẫn, góp ý và giúp đỡ của Thầy giáo và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn.
Học viên
5

1. Khái niêm, vai trò, đặc trưng của nhà nước.
1.1.Khái niệm :
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của
quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền
lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp. Nhà nước
xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực lượng giai
cấp đối kháng nhau; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống trị
(kinh tế, chính trị, xã hội) thành lập nên, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy
toàn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ
các quyền lợi của lực lượng thống trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của
cuộc đấu tranh giai cấp.
1.2.Nhà nước có vai trò :
- Ban hành pháp luật và văn bản dưới luật;
- Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô, điều tiết, điều phối các chính
sách kinh tế - xã hội;
- Đầu tư, cung cấp sản phẩm, dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm
dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra, v.v );
- Giải quyết các vấn đề xã hội (người già, trẻ em, người tàn tật, v.v );
- Bảo vệ môi trường, giao thông, phòng chống thiên tai, bão lụt, v.v
1.3.Nhà nước có các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Có chủ quyền quốc gia.
- Có quyền lực chính trị công cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng chế, quản
lí những công việc chung của xã hội.
- Có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn vị hành
chính.
- Có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều chỉnh các
quan hệ xã hội bằng pháp luật.
- Có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế.
2. Nền hành chính công truyền thống (bộ máy thư lại).
Một trong những hình thức chủ yếu của các tổ chức thuộc khu vực

nhà nước hiện nay trên thế giới là bộ máy thư laị. Từ ngữ này thường được
sử dụng với nghĩa tiêu cực để chỉ các tổ chức nặng về quan liêu, phi hiệu
suất. Thực ra thì thuật ngữ này chỉ một hình thức tổ chức xã hội đặc biệt cho
6
các mục đích hành chính. Max Weber (1864 - 1920), nhà xã hội học người
Đức, là người đầu tiên đã mô tả và hệ thống hoá các đặc tính của bộ máy thư
lại. Ông đã miêu tả sự nhất thiết phải có bộ máy thư lại tại xã hội Châu Âu,
và phân tích các ưu điểm cũng như các nhược điểm của nó. Qua phân tích
sâu sắc lịch sử và so sánh kỹ lưỡng nền văn minh phương Đông và phương
Tây, ông đi đến một kết luận là một trong những nét đặc thù của xã hội
phương Tây là định hướng hợp lý hoá các quá trình kinh tế và xã hội. Theo
ông thì khái niệm hợp lý hoá là nỗ lực sâu sắc để hiểu được và kiểm soát
được thế giới vật chất qua phương diện các mối quan hệ “nhân quả”, mà
không dựa vào cách giải thích theo lối tôn giáo hay huyền bí. Về tri thức, xu
thế này được chứng minh qua phát triển khoa học “trung lập giá trị” và các
phương thức của nó. Về mặt hành vi, thì xu thế này thể hiện qua việc tính
toán hợp lý các công cụ và kết quả có thể đạt được nhằm mục tiêu kinh tế xã
hội cao nhất. Đối với Max Weber, bộ máy thư lại pháp lý - hợp lý là ví dụ
hàng đầu của hợp lý hoá và có tác động cực kỳ quan trọng lên các thể chế
chính trị, xã hội và kinh tế. Ông đã dùng cái gọi là “mô hình lý tưởng” để
miêu tả bộ máy thư lại pháp lý- hợp lý như sau:
- Sắp xếp các cơ quan theo hệ thống thứ bậc, mỗi cơ quan có quyền
hạn của mình và có các quyền lợi chính đáng. Như vậy, cơ cấu hành chính
của bộ máy thư lại là theo hình tháp, mỗi cơ quan cấp dưới chịu sự kiểm soát
của các cơ quan cao hơn, các quan chức cấp cao giám sát các quan chức cấp
thấp, và quyền hạn không tập trung vào cá nhân mà tập trung vào chức danh
của viên chức đó.
- Phân công lao động hợp lý và có hệ thống, mỗi cơ quan hay chức vụ
có phạm vi thẩm quyền xác định cụ thể được thể hiện thành các trách nhiệm
và quyền hạn.

- Các quy tắc được viết chính thức thành văn bản, và các thể thức
được ứng dụng một cách nhất quán. Những quy tắc này được thực hiện và
tuân thủ nghiêm ngặt, phù hợp với các quy định pháp luật của Nhà nước độc
quyền nắm pháp luật và có đầy đủ các lực lượng cưỡng chế trong tay.
- Tính chất vô nhân xưng - các viên chức lệ thuộc vào một trình tự vô
nhân xưng và các tiêu chí thực hiện được quy định trong các văn bản chính
thức. Họ chỉ hoạt động phù hợp với các quy tắc đó trong những mối quan hệ
với những người khác, dù là người trong cùng hay ngoài tổ chức. Nghĩa là,
trong khi làm việc với tư cách là một viên chức trong bộ máy thư lại, người
viên chức đó chỉ tuân theo pháp luật và các quy định đã có trước, làm việc
thay mặt Nhà nước, chứ không phải là một con người cụ thể nào cả, như vậy
7
mới bảo đảm là xử lý công việc vô tư, không thiên vị với bất kỳ ai khác, dù
đó là người thân quen.
- Tính trung lập là biểu hiện đặc trưng của người viên chức trong bộ
máy thư lại. Các viên chức được tuyển lựa và đề bạt thông qua chức nghiệp
trên cơ sở năng lực kỹ thuật của họ, không xem xét tới các mặt khác như địa
vị xã hội, lòng trung thành hay sự ủng hộ của họ.
Max Weber khẳng định rằng hình thức bộ máy thư lại là có hiệu quả
hơn so với các hệ thống hành chính khác, do nó có thể vô nhân xưng các quy
tắc và thể thức của mình, do vậy có thể đạt được sự tính toán chính xác hơn
trong quá trình ra quyết định. Ngoài ra, ông cho rằng bộ máy thư lại là ưu
điểm do nó chính xác, ổn định và có kỷ luật nghiêm ngặt trong thực tiễn hoạt
động thực thi các nhiệm vụ hành chính.
Mô hình hành chính truyền thống Max Weber mang một số nhược
điểm mà ngày nay nó càng bộc lộ rõ do nhận thức hiện đại.
Trước hết, vấn đề hợp lý hoá và thư lại hoá nền hành chính là mong
muốn, song trên thực tế thì rất khó có thể hướng dẫn được mặt tinh thần và
đạo đức của người viên chức trong bộ máy đó. ảnh hưởng sâu sắc của bộ
máy thư lại trong xã hội với quyền lực bao trùm do trình độ chuyên môn cao

của chức nghiệp hành chính và do bộ máy thư lại nắm các công cụ của
Chính phủ trong tay. Từ đó, đưa đến một vấn đề là khó có thể đảm bảo sự
cân bằng giữa một bên là tính chất đáp ứng nhanh nhạy của nền hành chính
với một bên là tính trách nhiệm của nền hành chính đối với các công dân.
Bộ máy thư lại hợp lý - pháp lý của Max Weber, mặc dù hiện nay
đang còn là hình thức được sử dụng nhiều nhất tại các hệ thống hành chính
của các quốc gia, song cũng có những nhược điểm nhất định đáng xem xét.
Điểm đầu tiên là liên quan tới mặt thực nghiệm, có thể phê phán mô hình
này là không hoàn thiện về năng lực hành vi hay tâm lý xã hội nội tại. Max
Weber đã phân tích sâu, song phần nhiều là về mặt cơ cấu và quan hệ giữa
các cấp độ trong hệ thứ bậc, mà còn ít chú trọng tới mặt hành vi tổ chức
cũng như phương diện tâm ly, quan hệ xã hội của các công chức hoạt động
trong bộ máy thư lại đó. Khi ông đặt ra yêu cầu đối với tính “vô nhân xưng”
trong hoạt động của bộ máy này, về mặt lý thuyết thì sẽ là lý tưởng nhằm
bảo đảm cho sự hoạt động vô tư, không thiên vị của người công chức khi
thực thi các nhiệm vụ hành chính. Trên thực tế, nhiều học giả đã dẫn chứng
rất nhiều ví dụ để chứng minh rằng bản thân các viên chức là những thực thể
xã hội với các mối quan hệ chằng chịt, đan xen nhau, cả bên trong lẫn bên
ngoài bộ máy đó, và đi đến kết luận là không thể tách biệt hoàn toàn tính
8
chất vô nhân xưng trong khi thi hành nhiệm vụ hành chính ra khỏi các mối
quan hệ đó.
Thứ hai, việc bộ máy thư lại tập trung nhiều hơn vào chế độ kiểm soát
thông qua các quy tắc và theo hệ thứ bậc quyền lực từ trên xuống dưới có
thể gây nên sự cứng nhắc trong hoạt động, không sẵn sàng ra quyết định một
cách linh hoạt mỗi khi có yêu cầu mới phát sinh đòi hỏi giải quyết vấn đề
một cách nhanh nhạy. Thậm chí, có thể có nguy cơ tạo nên thái độ đùn đẩy
hay dựa dẫm giữa các cấp độ khác nhau trong toàn bộ tổ chức. Các thành
viên tại mỗi cấp độ có xu hướng ủng hộ các mục tiêu của đơn vị mình nhiều
hơn là ủng hoọ các mục tiêu của toàn tổ chức. Trong nhiều trường hợp, cơ

cấu kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống dưới cũng tạo nên tâm lý căng thẳng và
có thể cả đụng độ giữa người giám sát và những người dưới quyền. Đó là
những vấn đề mà nguyên tắc vô nhân xưng đầu tiên được thiết kế nên để
ngăn ngừa, nhưng lại chính là do nguyên tắc đó mang lại.
Cũng liên quan tới điểm thứ hai này, do cơ cấu quyền lực của bộ máy
thư lại là từ trên xuống dưới, việc điều phối chủ yếu chỉ là theo trục dọc và
tỏ ra không phù hợp với các nhu cầu và giá trị của đội ngũ công chức có
trình độ chuyên môn ngày càng cao. Các tổ chức hiện nay ngày càng phải
tuyển dụng nhiều chuyên gia có tay nghề vững vàng để vận hành những
công nghệ mới, do đó, tạo nên những cơ cấu hành chính phức tạp đòi hỏi có
cơ chế phối hợp ngang (liên cấp, liên ngành) nhiều hơn, khác với cơ chế
theo hệ thứ bậc. Từ đó, hiệu suất công tác của tổ chức không chỉ lệ thuộc
vào hệ quả của công tác điều phối theo trục dọc, mà còn phải đảm bảo cả
công tác phối hợp theo trục ngang giữa các đơn vị, tổ, đội, cá nhân trong
cùng một cấp.
3. Những đòi hỏi của xã hội phát triển tất yếu phải chuyển sang
nền hành chính công mới.
Trong một thời gian dài, mô hình hành chính công truyền thống đã
bộc lộ những nhược điểm như: mô hình thư lại nhiều tầng nấc đã tạo ra sự
cồng kềnh, quan liêu trong tổ chức bộ máy nhà nước; các quy trình, thủ tục,
quy tắc chặt chẽ đã tạo ra sự cứng nhắc, chậm chạp, kém năng động trong
quá trình tác nghiệp, cung cấp dịch vụ - hầu như không có chỗ cho sự sáng
tạo, linh hoạt; thiếu những cơ chế khuyến khích nhân viên hợp lý; tập trung
quản lý đầu vào và quy trình mà không chú ý đến đầu ra và hiệu quả trong
quá trình tác nghiệp của công chức và cơ quan nhà nước. Từ những năm
1970-1980, các nước phát triển có một số thay đổi quan trọng. Cụ thể:
9
+ Sự khủng hoảng tài chính công xảy ra ở hầu hết các quốc gia phát
triển đã làm cho nhà nước đứng trước sự khó khăn nghiêm trọng trong việc
đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động của chính phủ và đầu tư phát triển

kinh tế. Theo mô hình hành chính công truyền thống, các giải pháp có thể
giải quyết được vấn đề này chỉ có thể hoặc là tăng thuế, tăng vay để đảm bảo
nguồn thu hoặc giảm quy mô bộ máy hành chính để tiết kiệm chi đồng thời
với thắt chặt đầu tư công. Việc tăng thu sẽ dẫn đến những hậu quả xấu về
mặt chính trị cho nhà nước, nhất là khi họ huy động quá sức dân, vay quá
mức hoặc sử dụng tiền vay không có hiệu quả. Giảm quy mô bộ máy hành
chính đồng nghĩa với giảm số lượng và quy mô các dịch vụ có thể cung cấp
cho xã hội. Do đó, nó không thể là một giải pháp tốt vì không thể giảm các
dịch vụ thiết yếu. Thắt chặt đầu tư công sẽ làm cho kinh tế - xã hội chậm
phát triển. Bài toán đặt ra là không được tăng thu ngân sách, tăng vay nhưng
vẫn đảm bảo dịch vụ công để giải quyết các nhu cầu quản lý xã hội và vẫn
đảm bảo sự đầu tư cần thiết để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Điều này
buộc nhà nước phải tính đến việc chuyển giao các dịch vụ công vốn là độc
quyền của mình sang cho khu vực tư đảm nhận; đồng thời, phải xã hội hóa
đầu tư công.
+ Sự phát triển của khoa học và công nghệ, quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế đã làm cho khu vực kinh tế này phát triển một cách nhanh
chóng. Lượng hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều, khu vực tư nhân không
chỉ còn tồn tại trong phạm vi từng quốc gia mà đã có sự giao thương, phát
triển rộng trên đa quốc gia. Lúc này, khu vực tư nhân không còn bị bó hẹp
trong phạm vi quản lý của một nhà nước, một khu vực địa lý nhất định. Các
doanh nhân có quyền lựa chọn quốc gia, nhà nước thuận lợi nhất cho việc
phát triển doanh nghiệp của mình. Điều này làm xuất hiện sự cạnh tranh
giữa các quốc gia trong việc làm thế nào để thu hút, thúc đẩy khu vực tư
nhân đầu tư vào quốc gia của mình với mục tiêu cả nhà nước, khu vực tư
nhân và xã hội cùng có lợi. Do đó, các nhà nước phải tìm cho mình một mô
hình quản lý tốt nhất cho yêu cầu này.
+ Sự phát triển năng động của khu vực tư nhân. Xuất phát từ mục tiêu thu
được lợi nhuận cao nhất trên đồng vốn bỏ ra, khu vực tư nhân là nơi đầu tiên
hình thành nên các tư duy, ý tưởng, khoa học về quản lý con người, tổ chức.

Cùng với sự gọn nhẹ, đơn giản trong quản lý của khu vực tư nhân, các kiến
thức này dễ dàng được triển khai thử nghiệm, hoàn thiện thường xuyên trong
quá trình sản xuất – kinh doanh. Điều này làm cho khu vực tư nhân không
ngừng đổi mới, hoàn thiện. Sự năng động, hiệu quả trong khu vực tư nhân
đã làm cho nhà nước phải xem xét lại mô hình quản lý của mình để hoàn
10
thiện. Mặt khác, sự năng động của khu vực tư nhân còn làm cho khu vực này
thấy được các nhu cầu dịch vụ mà nhà nước làm chưa tốt hoặc còn bỏ ngỏ
như một thị trường mới cho mình. Đây là điều kiện quan trọng để nhà nước
có thể chuyển dần các dịch vụ công cho khu vực tư nhân đảm nhận.
4. Nền hành chính công mới (lái thuyền)
Có thể hiểu, hành chính phát triển thường được sử dụng khi nói đến “Mô
hình hành chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy
bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa
trong các điều kiện kinh tế thị truờng phát triển mạnh mẽ và những quan hệ
quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau”. Bắt đầu từ thập kỷ 80 và
những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, sự chuyển đổi từ Hành chính
công truyền thống sang Hành chính phát triển đang trở thành xu hướng phổ
biến trên thế giới, đặc biệt là những nước kinh tế thi trường phát triển.
Theo quan điểm mới, vai trò của Chính phủ có sự chuyển từ “chèo
thuyền” sang “lái thuyền”. Nhà nước không ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà
thực hiện dân chủ hoá gắn liền với phân quyền, xã hội hoá nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học, công nghệ; xu hướng “thị trường hóa” và “toàn cầu hoá” kinh
tế; xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội … Nhà nước buộc phải xã hội hoá,
tư nhân hoá, chấp nhận sự tham gia của công chúng vào công việc quản lý
nhà nước, đồng thời phải can thiệp ngày càng sâu vào các quá trình kinh tế-
xã hội và cải tiến mô hình nền hành chính công và nâng cao chất lượng dịch
vụ đối với người dân - những “khách hàng” của nền hành chính…
Đối với công chức của hành chính phát triển: Trách nhiệm của người

công chức, nhà quản lý chủ yếu là bảo đảm thực hiện mục đích, đạt kết quả
tốt, hiệu quả cao. Những quy định, điều kiện để công chức thực thi nhiệm vụ
có hình thức linh hoạt, mềm dẻo hơn. Thời gian làm việc linh hoạt hơn, công
chức cam kết về mặt chính trị cao hơn trong các hoạt động của mình, các
hoạt động hành chính mang tính chính trị nhiều hơn.
Sự xuất hiện của mô hình hành chính phát triển đã làm cho cách thức
hoạt động của khu vực công có nhiều thay đổi đáng kể. Với các đặc tính của
mô hình mới: chú ý hiệu quả hoạt động quản lý, phi quy chế hoá, phân
quyền, áp dụng một số yếu tố của cơ chế thi trường, xã hội hoá một phần
hoạt động của Nhà nước, vận dụng nhiều phương pháp quản lý doanh
nghiệp, xu hướng quốc tế hoá. Có thể nói, mô hình hành chính phát triển
xuất hiện nhằm khắc phục những yếu kém không phù hợp của mô hình hành
chính truyền thống .
11
5. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
5.1. Thực trạng nền hành chính Việt Nam.
- Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện, góp
phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước
trong kink tế thị trường
- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà
nước được nâng lên, tập trung đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức
theo hướng chuyên môn hóa cao.
- Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian
qua được quan tâm triển khai trên diện rộng, kết hợp huy động nhiều giải
pháp và đã đạt được một số kết quả tích cực.

- Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và
Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp có bước đổi mới. Các cơ quan nhà nước
tập trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp
lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản
lý nhà nước bằng pháp luật.
Tuy nhiên nền hành chính Việt Nam còn một số tồn tại sau :
- Hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và
trong một số lĩnh vực chưa bám sát và nhiều quy định chưa phù hợp với thực
tiễn. Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ một số
luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn triển
khai chậm được ban hành. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu hướng giữ
thuận lợi cho hoạt động quản lý của mình nhiều hơn là đáp ứng nhu cầu tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân, vẫn còn nhiều thủ tục hành chính
không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà cho dân và doanh nghiệp.
- Nhiều công việc chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành
chính nhà nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước,
nhất là ở cấp Chính phủ và các bộ.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng nấc.
Bộ máy hành chính ở cấp Trung ương còn quá lớn, số lượng tổ chức bên
trong các bộ, ngành còn nhiều, sau nhiều năm thực hiện tinh giảm biên chế
đội ngũ công chức không giảm mà có biểu hiện tăng thêm. Đặc biệt gần đây
dư luận đang xôn xao vụ việc xã Quảng Vinh huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa có 500 cán bộ hưởng lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước và
các khoản đóng gòp của nhân dân.
12
- Chế độ công vụ mới chậm hình thành đầy đủ, chất lượng cán bộ,
công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Đội
ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu tính nhạy
bén thị trường, trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Một bộ phận cán bộ,
công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng gây bức xúc trong

nhân dân.
- Cơ sở vật chất cho bộ máy hành chính tuy đã được đầu tư những chưa
đáp ứng được yêu cầu mới. Chưa có chế độ tiền lương, phụ cấp thỏa đáng
cho đội ngũ cán bộ, công chức. Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ
thuật và nhất là công nghệ tin học vào hoạt động quản lý nhà nước còn
chậm, đạt hiệu quả thấp (Đề án tin học hóa 212 gây thất thoát,lãng phí lớn và
không hiệu quả).
5.2. Kiến nghị các giải pháp.
Trong bối cảnh vận hành theo cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam đã có những sự đổi
mới sâu sắc. Cùng với sự đổi mới đó, chức năng của Chính phủ chắc chắn sẽ
phải đối mặt với những thách thức của thị trường trong nước và thị trường
thế giới. Vì vậy, vận dụng những nhân tố hợp lý của mô hình Hành chính
phát triển để xây dựng một mô hình phù hợp với Việt Nam, đẩy mạnh cải
cách hành chính theo kịp cải cách kinh tế đang là một yêu cầu cấp thiết. Để
việc cải cách đạt nhiều kết quả và theo mô hình “người lái thuyền” cần tập
trung một số giải pháp sau:
Thứ nhất , nhà nước tập trung vào việc ban hành các chính sách và lãnh
đạo việc thực hiện các chính sách:
Khi ban hành cách chính sách, nhà nước cần có tầm nhìn tốt và xác
định con đường đúng nhất để đi đến đích; đồng thời, có một cơ chế àm cho
khu vực tư cũng như toàn xã hội tích cực tham gia trong sự năng động nhất
mà họ có thể để cùng nhà nước thực hiện các định hướng ấy. Nhà nước cần
tập trung vào việc nâng cao tính hiệu quả của các chính sách được đề ra.
Tính hiệu quả của chính sách thể hiện ở chỗ phải tập trung vào mục tiêu và
kết quả đạt được. Cần tránh những quy định chỉ chú trọng đến đầu vào và
quy trình. Tính hiệu quả thể hiện ở việc tạo ra sự đồng thuận cao trong xã
hội, huy động được các nguồn lực từ khu vực tư vào đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội và sử dụng các nguồn lực này một cách tiết kiệm, hữu ích nhất. Khi
khu vực tư đã tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ công và xã hội hóa

đầu tư công, hiệu quả từng dự án cụ thể sẽ do họ quyết định, song hiệu quả
tổng thể thuộc về trách nhiệm của nhà nước. Nó gắn liền với chất lượng
chính sách về công tác quy hoạch kinh tế- xã hội, cơ chế hỗ trợ, kết nối
13
nguồn lực Cũng như một người lái thuyền, để có thể làm tốt các công việc
trên, nhà nước cần có sự trao đổi, tạo sự đồng thuận với khu vực tư – những
"người chèo thuyền" – khi xây dựng và ban hành chính sách. Đây là công
việc không đơn giản, bởi "người lái thuyền" thì chỉ có một, nhưng lại có rất
nhiều "người chèo thuyền" mà họ lại có xu hướng bảo vệ mục tiêu, lợi ích
"của mình" bằng bất cứ giá nào. Do đó, chính sách của nhà nước ban hành
phải thực sự là một chính sách đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Khi
chính sách của nhà nước bị chi phối bởi lợi ích của bất cứ nhóm nào hoặc
thiếu tính khách quan, minh bạch, nó sẽ không tạo được sự đồng thuận
chung của những "người chèo thuyền" và chắc chắn nó sẽ không được thực
thi một cách có hiệu quả. Song song với ban hành các chính sách mang tính
"cầm lái", nhà nước cũng phải tạo ra các "tổ chức cầm lái". Thông thường,
khi tách các dịch vụ ra khỏi chính sách, nhà nước bộc lộ những yếu kém
trong năng lực quản lý chính sách. Nhiều tổ chức nhà nước không còn phù
hợp để thực hiện tốt vai trò "cầm lái" do không tương thích với một sự năng
động mới từ những dịch vụ công, đầu tư công đã được xã hội hóa. Để thực
hiện tốt vai trò "cầm lái", cần thiết phải hình thành những "tổ chức cầm lái"
với sự tham gia của khu vực nhà nước với khu vực tư nhân. Quá trình này sẽ
hình thành một khu vực thứ ba ngoài khu vực tư nhân, khu vực nhà nước, đó
là khu vực tự nguyện. Lịch sử thế giới đã chứng minh nhiều tổ chức thuộc
khu vực được hình thành trong khu vực này như Chữ thập đỏ, Chữ thập
xanh, Lá chắn xanh.
Thứ hai , nhà nước tách rời hoạt động cung cấp dịch vụ ra khỏi hoạt
động lãnh đạo thực hiện chính sách, tiến hành xã hội hóa các dịch vụ công:
Trong phạm vi vĩ mô của nền hành chính, nhà nước phải phân định
được phạm vi của công tác lãnh đạo thực hiện chính sách và phạm vi của các

hoạt động cung cấp dịch vụ. Phân định rõ phạm vi này giúp cho nhà nước có
điều hơn trong việc tập trung vào các quyết định có tính chất căn bản là
những quyết định có tác dụng cầm lái. Đồng thời, không can thiệp quá sâu
vào các hoạt động tác nghiệp cụ thể, từ đó tạo cho các tổ chức cung cấp dịch
vụ có sự tự chủ, năng động cần thiết trong hoạt động của mình.
Tách hoạt động cung cấp dịch vụ ra khỏi hoạt động lãnh đạo thực hiện
chính sách, xã hội hóa dịch vụ công tạo ra môi trường cạnh tranh giữa những
người cung cấp dịch vụ, làm cho họ có trách nhiệm hơn với chất lượng dịch
vụ của mình mà không cần đến sự can thiệp của nhà nước. Quá trình xã hội
hóa dịch vụ công chính là biểu hiện bên ngoài của quá trình chuyển nhà
nước từ người "chèo thuyền" sang "cầm lái". Quá trình này làm cho bộ máy
14
nhà nước nhỏ lại nhưng mạnh hơn do có điều kiện tập trung tất cả các nguồn
lực có được vào mục tiêu "cầm lái".
Thứ ba, xã hội hóa đầu tư công:
Trong hành chính công truyền thống, đầu tư công luôn là hoạt động rất
quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. Nó cũng là hoạt động sử
dụng nhiều nhất ngân sách của nhà nước và chứa đựng nguy cơ tham nhũng,
thất thoát, lãng phí nhiều nhất. Do vậy, hoạt động quản lý đầu tư công trong
hành chính công truyền thống luôn cần rất nhiều sự đầu tư của nhà nước. Xã
hội hóa đầu tư công giúp cho nhà nước giảm được gánh nặng về tài chính
cũng như quản lý. Xã hội hóa đầu tư công cũng làm cho năng lực khu vực tư
nhân mạnh dần lên thông qua quá trình quản lý đầu tư và lợi nhuận thu được
từ hoạt động này. Vì thế xã hội hóa đầu tư công làm cho nhà nước có thể tập
trung vào việc đưa ra các tầm nhìn, chiến lược trong đầu tư như nhiệm vụ
vốn dĩ phải làm của "người lái thuyền" và làm cho khu vực tư phát triển, đưa
xã hội nhanh chóng đi đến mục tiêu nhà nước đã vạch ra như vai trò của một
"người chèo thuyền" mạnh khỏe.
Bên cạnh sự đòi hỏi nhất định về năng lực sẵn sàng của khu vực tư
nhân, hiệu quả của xã hội hóa đầu tư công đối với xã hội chủ yếu phụ thuộc

vào định hướng, tầm nhìn chiến lược của nhà nước. Cho dù khu vực tư có
mạnh đến đâu thì xã hội cũng không thể phát triển nếu nhà nước, với vai trò
"cầm lái" định hướng sai. Thậm chí điều này còn làm cho khu vực tư giảm
đi sức mạnh của mình. Lúc này, xã hội đứng trước nguy cơ thụt lùi.
Thứ tư , xã hội hóa các hoạt động mang tính chất phúc lợi, trợ cấp, nhân
đạo khác:
Nhà nước nào cũng có lúc gặp khó khăn liên quan đến các vấn đề xã
hội như: phúc lợi, trợ cấp, nhân đạo. Trong đó, khó khăn chủ yếu là không
đủ nguồn lực tài chính và nhân lực để tài trợ cho các hoạt động này. Giải
quyết những nhu cầu này không làm cho kinh tế của quốc gia tăng trưởng,
song nó là yếu tồ cần thiết cho sự ổn định của con thuyền quốc gia.
15
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh thế giới và khu vực đang có nhiều những thay đổi
nhanh chóng, cùng với xu thế toàn cầu hóa,và những thành tựu khoa học
mới, các nước trên thế giới nói chung hiện đang đối diện với nhiều thách
thức hơn, các yếu tố môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến từng
quốc gia và cả ở phạm vi khu vực và quốc tế nhanh hơn, mạnh hơn, khó dự
đoán hơn. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế diễn
ra trên quy mô toàn cầu trong những năm qua tác động không nhỏ tới nền
kinh tế của các quốc gia. Hành chính công ở mỗi nước ngày càng phải giải
quyết nhiều vấn đề phức tạp hơn của đời sống xã hội diễn ra không chỉ trong
phạm vi một quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế. Đối với Chính phủ ở nhiều
nước và để vượt qua được thách thức đó đòi hỏi hành chính công ở các nước
phải thay đổi mạnh hơn và theo hướng tích cực hơn nữa. Trong thực tế,
những thay đổi đó đang diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau và các xu
hướng này thường được diễn ra đan xen và kết hợp với nhau nhằm đạt được
hiệu quả cao hơn.
Việt Nam đang trong tiến trình đẩy mạnh cải cách hành chính, hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế của thế giới. Những thuận lợi và

khó khăn chung của các quốc gia trên thế giới sẽ ảnh hưởng nhanh chóng
đến Việt Nam Để hội nhập thành công, ngoài sự quyết tâm về mặt chính trị,
Việt Nam đang tập trung cải cánh mạnh mẽ nền hành chính để xây dựng mô
hình quản lý có hiệu quả.
Qua thời gian học tập được Tiến sĩ Đặng Khắc Ánh truyền giảng và tự
nghiên cứu tài liệu đã giúp Em và tập thể lớp sáng tỏ được nhiều vấn đề về
lý luận và thực thiễn của nền hành chính công, từ đó chắt lọc được những ưu
điểm và khắc phục được những hạn chế để vận dụng vào công việc hiện tại,
hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ công chức, phục vụ nhân dân
được tốt hơn.
16

×