Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

phân loại quan hệ pháp luật hành chính và nêu đặc điểm cơ bản của từng loại quan hệ pháp luật hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.63 KB, 6 trang )

MỞ BÀI
Luật Hành chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong đó, quan hệ pháp luật hành
chính là một dạng của quan hệ pháp luật. Ðó là những quan hệ xã hội phát sinh
chủ yếu trong lĩnh vực chấp hành điều hành giữa một bên mang quyền lực nhà
nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước và một bên là đối tượng quản
lý. Các quan hệ này được điều chỉnh bởi những quy phạm pháp luật hành chính.
Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ
của bên kia và ngược lại. Chúng rất phong phú và đa dạng, phát sinh trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em đã
lựa chọn đề tài: “Phân loại quan hệ pháp luật hành chính và nêu đặc điểm
cơ bản của từng loại quan hệ pháp luật hành chính.”
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm.
Quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực chấp hành và điều hành của nhà nước được điều chỉnh bởi quy phạm pháp
luật hành chính giữa những chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo
quy định của pháp luật hành chính.
2. Những đặc trưng của quan hệ pháp luật hành chính.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp của
chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước mà không phụ thuộc
vào sự đồng ý của bên kia.
- Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ pháp lí
hành chính của các bên tham gia quan hệ đó.
- Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụng quyền
lực nhà nước.
- Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên này ứng với
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
- Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được
giải quyết theo thủ tục hành chính.


- Khi tham gia quan hệ pháp luật hành chính bên nào vi phạm yêu cầu của
pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp trước nhà nước.
Tóm lại, quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình quản lí hành chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
hành chính giữa các cơ quan tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với
nhau theo quy định của pháp luật hành chính, và các quan hệ này dưới dạng
quan hệ “quyền lực-phục tùng”.
II. PHÂN LOẠI QUAN HỆ PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA TỪNG LOẠI QUAN HỆ HÀNH CHÍNH
1. Căn cứ vào tính chất mối quan hệ giữa các chủ thể.
+ Quan hệ pháp luật hành chính nội bộ: Là loại quan hệ pháp luật hành chính
phát sinh giữa các chủ thể có quan hệ lệ thuộc về mặt tổ chức, các quan hệ phát
sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước kiện toàn cơ cấu tổ chức của cơ quan
mình. VÍ DỤ : Quan hệ giữa thủ trưởng cơ quan nhà nước với các cá nhân dưới
quyền trong quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm, kỷ luật công chức.
Do yêu cầu về tính thống nhất và hiệu quả hoạt động của Nhà nước nên các
cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước chịu sự chi phối
bởi các quan hệ lệ thuộc về tổ chức – quan hệ giữa 1 bên là cơ quan, tổ chức
hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền quyết định đối với bên kia về việc thành
lập, giải thể cơ quan, tổ chức hoặc bầu, bãi nhiệm, bổ nhiệm, cách chức cán bộ,
công chức. VÍ DỤ : Quan hệ giữa Chính Phủ với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ hoặc quan hệ giữa Bộ trưởng bộ tư pháp với thanh tra Bộ tư
pháp hay quan hệ giữa Ủy ban nhân dân với cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân
dân…
Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính nội bộ: thường đề cập đến các
vấn đề như phân cấp quản lí, chỉ đạo điều hành, kiểm tra đối với các cơ quan, tổ
chức trực thuộc hoặc kiện toàn về tổ chức và bảo đảm kỉ luật trong bộ máy nhà
nước.
Mỗi cơ quan nhà nước đều có chức năng cơ bản riêng, phải tiến hành những
hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán

bộ, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận của cơ quan, công việc văn phòng,
đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết để hoàn thành chức năng cơ bản của
mình. Ðây là hoạt động tổ chức nội bộ, nhưng có quan hệ chặt chẽ với hoạt
động hành chính. Nếu hoạt động này được tổ chức tốt thì hiệu quả hoạt động
của cơ quan hành chính ấy sẽ cao và ngược lại.
+ Quan hệ pháp luật hành chính liên hệ: Là một loại quan hệ ngang: Quan hệ
giữa các bên không những không trực thuộc nhau về mặt tổ chức mà trong quan
hệ đó ý chí của các bên được biểu hiện theo phương thức thỏa thuận.
Đó là quan hệ giữa cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước với các tổ chức, cá nhân ngoài bộ máy nhà nước. VÍ DỤ: quan hệ giữa
cảnh sát giao thông với công dân vi phạm luật giao thong. Như vậy cảnh sát
giao thông là cán bộ trong bộ máy nhà nước đồng thời là chủ thể xử phạt vi
phạm hành chính.
Có thể là quan hệ ngang cấp giữa các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước với nhau. VÍ DỤ : quan hệ giữa Bộ tài chính với Bộ giáo
dục trong việc kiểm tra việc sử dụng ngân sách nhà nước của Bộ giáo dục.
Trong thực tế cho thấy các quan hệ pháp luật hành chính liên hệ (quan hệ
ngang) sẽ chuyển hóa dần thành quan hệ hành chính nội bộ (quan hệ dọc). Hay
nói cách khác: quan hệ pháp luật hành chính liên hệ là tiền đề cho sự hình thành
quan hệ pháp luật hành chính nội bộ. VÍ DỤ: trong các giai đoạn của trình tự
ban hành nghị quyết, thông tư liên tịch thì tồn tại quan hệ ngang giữa các cơ
quan tham gia ban hành nghị quyết, thông tư liên tịch đó. Nhưng khi nghị quyết,
thông tư liên tịch đã được ban hành thì nghị quyết, thông tư liên tịch đó là căn
cứ làm phát sinh quan hệ dọc giữa mỗi cơ quan đã tham gia ban hành nghị
quyết thông tư liên tịch với các chủ thể khác thuộc hệ thống của mình.
Quan hệ pháp luật hành chính liên hệ cũng thường tồn tại trong quá trình
chuẩn bị hoặc thảo luận trước khi ra quyết định đơn phương, khi nhà làm luật
quy định cơ quan ban hành phải thỏa thuận trước các cơ quan khác. Quan hệ
pháp luật hành chính liên hệ ở các mức độ khác nhau chủ yếu mang tính chất
thủ tục. VÍ DỤ: khi xây dựng các đề án trình Chính phủ thì Bộ trưởng, thủ

trưởng cơ quan chủ trì đề án có quyền mời các Bộ trưởng hoặc thủ trưởng cơ
quan có liên quan đến bàn việc chuẩn bị đề án Gửi dự thảo đề án đến các Bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh có liên quan để lấy ý kiến. Cơ quan được hỏi ý kiến phải trả lời trong thời
hạn nhất định, nếu quá thời hạn đó mà không trả lời thì coi như đồng ý và phải
chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Bộ,
ngành mình (mục 1 và 2 Điều 13 Quy chế làm việc của Chính phủ). Trong
trường hợp công dân gửi đơn kiến nghị, khiếu nại v.v thì trước khi cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền ra quyết định đơn phương, giữa công dân đó và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cũng đã xuất hiện quan hệ ngang.
2. Căn cứ vào tính chất quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
+ Quan hệ nội dung là loại quan hệ pháp luật hành chính được thiết lập để trực
tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đó. Quyền
và nghĩa vụ ở đây là các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lí của các chủ thể tham
gia vào các quan hệ đó, các quan hệ đó luôn luôn mang tính mệnh lệnh - chấp
hành, tính bắt buộc đối với các chủ thể chấp hành và nó luôn do quy phạm nội
dung điều chỉnh.
Các chủ thể tham gia vào quan hệ nội dung có thể là các cơ quan nhà nước, tổ
chức hay các nhân; hoặc có thể là các chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước,
nhân danh quyền lực của chính mình song dù là chủ thể nào đi chăng nữa thì họ
đều phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ do quy phạm hành chính quy định.
VÍ DỤ: Quan hệ giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện với Chánh thanh tra
huyện, khi tiến hành thủ tục cách chức đối với Chánh thanh tra huyện, và thống
nhất với Chánh thanh tra tỉnh (khoản 2 điều 20 Luật thanh tra ngày 15/6/2004
quy định Chánh thanh tra huyện do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh).
+ Quan hệ thủ tục là loại quan hệ pháp luật hành chính hình thành trong quá
trình các chủ thể thực hiện các thủ tục pháp lí cần thiết giúp cho việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của họ trong các quan hệ nội dung được nhanh chóng và
đúng đắn. Các quan hệ này do quy phạm thủ tục điều chỉnh.

VÍ DỤ: Quan hệ giữa Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ phát sinh khi bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ “ kiến nghị với
Thủ tướng đình chỉ việc thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước hoặc
của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ phụ
trách ”. Sở dĩ đây là một quan hệ pháp luật thủ tục bởi đây là một quan hệ pháp
luật hành chính hình thành trong quá trình bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang
bộ tuân thủ đúng quy phạm pháp luật về thủ tục của việc đình chỉ việc thi hành
các nghị quyết của hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trung ương trái với các
văn bản pháp luật của mình. Theo đúng quy định của pháp luật thì Thủ tướng
chính phủ mới có quyền đình chỉ các văn bản này. Và hoạt động kiến nghị trên
của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ là một hoạt động tuân thủ đúng thủ
tục pháp lí để giúp cho việc thực hiện quyền đình chỉ văn bản trái pháp luật của
thủ tướng chính phủ được nhanh chóng hơn.
Như vậy, quan hệ thủ tục có những đặc điểm cơ bản sau:
• Quan hệ pháp luật hành chính thủ tục có thể phát sinh theo yêu cầu hợp
pháp của chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước.
Trong ví dụ trên, quan hệ thủ tục đã phát sinh theo kiến nghị của bộ
trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
• Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ
pháp lí hành chính của các bên tham gia quan hệ đó. Mà ở đây, quyền của
bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ là kiến nghị với Thủ tướng về
vấn đề này. Thủ tướng có quyền và nghĩa vụ đình chỉ các văn bản trái
pháp luật đó.
• Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải là chủ thể đặc biệt,
được sử dụng quyền lực nhà nước. Trong trường hợp này, cả hai chủ thể
trong ví dụ đều là chủ thể đặc biệt.
3. Căn cứ vào lĩnh vực phát sinh quan hệ.
Các quan hệ pháp luật hành chính có thể được phân loại thành các nhóm
quan hệ về quản lý kinh tế, văn hóa, an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội…

về xử lý vi phạm pháp luật, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trong thực tế, việc phát sinh các quan hệ pháp luật hành chính này rất phổ biến.
VÍ DỤ: Chính phủ cử một đoàn thanh tra về kiểm tra việc thực hiện một đề án
mà Chính phủ mới phê chuẩn tại một địa phương hay cảnh sát giao thông xử
phạt một vi phạm hành chính của một cá nhân đi sai luật giao thông. Khác với
hai căn cứ trước đó, ở căn cứ này, chỉ có một bên là chủ thể của quan hệ pháp
luật hành chính, còn bên kia là cá nhân, tổ chức. Các chủ thể của quan hệ pháp
luật hành chính sẽ tác động một cách trực tiếp hay gián tiếp lên các cá nhân, tổ
chức nhằm mục đích quản lý, giải quyết, xử phạt,…các vấn đề về kinh tế, văn
hóa, an ninh, trật tự an toàn xã hội,…
4. Căn cứ vào yếu tố chủ thể và một phần khách thể của quan hệ pháp
luật hành chính
Dựa vào căn cứ này, quan hệ pháp luật hành chính được phân thành 2 loại
chính yếu là quan hệ pháp luật hành chính công và quan hệ pháp luật hành
chính tư.
Chúng có những đặc điểm chung về chủ thể quản lý và khác nhau về chủ thể
của quản lý. Mục đích của việc phân chia quan hệ pháp luật hành chính "công"
và "tư" là giúp chúng ta nhận ra được sự khác nhau của chủ thể và hợp lý hơn;
thấy rõ được phạm vi điều chỉnh của luật hành chính ở tầm rộng, nhận ra bản
chất các mối quan hệ pháp luật có nguồn gốc hoặc có khả năng được điều chỉnh,
hoặc quan hệ trực tiếp với quan hệ pháp luật hành chính; tăng cường sự tham
gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước phù hợp theo từng lĩnh vực.
Ðặc biệt là sự tham gia trực tiếp vào việc xây dựng những qui định trong quan
hệ pháp luật hành chính tư ở địa phương mình,…
Tuy nhiên, mọi sự phân chia đều là tương đối bởi vì 2 loại quan hệ pháp luật
này đều gắn bó và hỗ trợ cho nhau: không chú ý quan hệ pháp luật hành chính
công thì bộ máy hành chính không thực hiện tốt, không chú ý quan hệ pháp luật
hành chính tư thì mất đi mục đích cao nhất của quan hệ pháp luật hành chính là
phục vụ cho nhân dân. Nói tóm tại, chúng có mối liên hệ không thể tách rời bởi
vì cùng là quan hệ pháp luật hành chính, chúng thể hiện và phục vụ cho quan hệ

chấp hành điều hành.
5. Các căn cứ khác
- Căn cứ vào mục đích, ý nghĩa của quan hệ pháp luật hành chính có thể chia
các quan hệ pháp luật hành chính thành: các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ
chức, thực hiện các nhiệm vụ của quản lý hành chính nhà nước (gọi là quan hệ
tích cực) và các quan hệ có liên quan tới hoạt động bảo vệ pháp luật, chống vi
phạm trong quản lý hành chính nhà nước (quan hệ bảo vệ pháp luật).
- Căn cứ nội dung cụ thể của các quan hệ ta có các quan hệ vật chất và phi vật
chất.
- Theo vị trí, vai trò của các chủ thể ta có quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
và quan hệ có sự tham gia của công dân và tổ chức xã hội.
- Theo phương thức bảo vệ ta có các quan hệ được bảo vệ theo trình tự thủ tục
hành chính và theo trình tự thủ tục tư pháp.
- Căn cứ tính chất các quan hệ ta có các quan hệ vật chất (quan hệ nội dung) và
quan hệ thủ tục (quan hệ hình thức). Quan hệ vật chất là những quan hệ xã hội
chịu sự tác động điều chỉnh của các quy phạm vật chất luật hành chính, còn
quan hệ thủ tục chịu sự tác động điều chỉnh của các quy phạm thủ tục hành
chính.
C.KẾT LUẬN
Nghiên cứu vấn đề phân loại quan hệ hành chính và nêu được những đặc
điểm cơ bản của từng loại quan hệ pháp luật hành chính có ý nghĩa quan trọng.
Chúng ta cần nhận thức rõ vấn đề này để bảo vệ quan hệ pháp luật hành chính,
phát huy vai trò của nó và hoàn thiện nó hơn nữa về mặt lý luận cũng như thực
tế góp phần hoàn thiện nền hành chính nhà nước vững mạnh.

×