Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luan van thac sy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.32 KB, 102 trang )

MỤC LỤC

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về lý luận
Trước bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, yêu cầu đặt ra về chất lượng
nguồn nhân lực là yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên thế mạnh của một
quốc gia. Cho đến nay, sau nhiều năm thực hiện cơ chế mở cửa thị trường,
nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, cùng với
việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng
điểm, công nghệ mới được ứng dụng, ngành nghề mới xuất hiện càng nhiều
và đa dạng. Vì vậy, chú trọng phát triển nguồn nhân lực với chất lượng cao
chính là chìa khóa để phát triển nền kinh tế. Nguồn nhân lực nói chung, nhân
viên công tác trong các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, du lịch có chất lượng
cao nói riêng đang thực sự trở thành yếu tố cơ bản cạnh tranh trên thị trường
lao động trong nước, khu vực và quốc tế.
Giáo dục Đại học có vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc
dân Việt Nam, trong đó đội ngũ giảng viên trong nhà trường đóng vai trò
quyết định chất lượng đào tạo. Đội ngũ giảng viên ở trường Cao đẳng và Đại
học có nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng,
nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân vừa có đức lại vừa có
trình độ kỹ thuật tiên tiến để góp phần "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài" cho đất nước. Chính vì vậy mà việc Phát triển đội ngũ giảng
viên ở trường Đại học, Cao đẳng là việc làm cần thiết, cấp bách hiện nay.
Nhà giáo là người tác động trực tiếp đến quá trình phát triển về đạo đức, tri
thức và hình thành nhân cách của người học. Từ ngàn đời nay nhà giáo luôn
được coi trọng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên”;
2
“Tôn sư trọng đạo” là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta, được nhân
dân ta không ngừng vun đắp và phát triển.


Bác Hồ nói: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Vai trò của
thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục được khẳng định trong nghị quyết hội nghị
lần thứ 2 BCH TW Đảng khóa VIII: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất
lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh” và “khâu then chốt để thực hiện
chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và
tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về
chính trị tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ”.
Chỉ thị 40/CT-TW của Ban Bí thư TW Đảng khóa IX ngày 15/06/2004
về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và quản lý giáo dục,
đã chỉ đạo:
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục một cách toàn
diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa mang tính chiến
lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển giáo dục 2001
-2010 và chấn hưng đất nước. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu ”.
Về mặt lý luận, các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta đều khẳng định
tầm quan trọng của nhà giáo và công tác xây dựng, phát triển đội ngũ nhà
giáo một cách toàn diện là một trong những nội dung quan trọng của đổi mới
công tác quản lý giáo dục.
1.2. Về thực tiễn
Sinh viên các trường CĐ nói chung, Trường CĐ VH, TT & DL Nguyễn
Du nói riêng sau khi tốt nghiệp ra trường là lực lượng lao động quan trọng
tham gia trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, nhà trường phải đào
tạo nên những sinh viên có trình độ chuyên môn cao, năng lực thực hành tốt,
3
năng động, sáng tạo và có đầy đủ phẩm chất của người lao động mới. Bên
cạnh đó, Trường CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du với nhiệm vụ đào tạo những
thầy giáo, cô giáo đứng trên bục giảng thông qua dạy chữ để dạy người,
những hướng dẫn viên, những cán bộ văn hoá, những diễn viên, nghệ sĩ, vận

động viên những người làm công tác định hướng lý tưởng, thẩm mĩ. Cho
nên, để làm được nhiệm vụ nặng nề ấy cùng với các nguồn lực khác như tài
chính, cơ sở vật chất , nguồn lực con người đóng vai trò hết sức quan trọng.
Nguồn lực con người ở đây chính là đội ngũ giảng viên của nhà trường. Đội
ngũ ấy phải đủ về số lượng, chuẩn về chất lượng, hợp lý và đồng bộ về cơ
cấu.
Hiện nay, nhà trường vừa mới được nâng cấp lên trường CĐ, bởi vậy
so với yêu cầu, nhiệm vụ mới của trường, đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH,
TT&DL Nguyễn Du còn những bất cập sau đây:
- Đội ngũ giảng viên còn thiếu về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng
được với yêu cầu nhiệm vụ mới.
- Trình độ chuyên môn giảng viên ở từng khoa chưa đồng đều, kỹ năng
sư phạm của một số giảng viên còn hạn chế.
- Thực hiện kế hoạch, nội dung, chương trình bồi dưỡng nâng cao năng
lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên chưa thường xuyên.
- Tổ chức biên chế đội ngũ giảng viên chưa phù hợp với yêu cầu của
trường CĐ.
Do vậy, công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên của Trường
CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du trở nên vô cùng cấp bách nhằm đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ sắp tới của nhà trường.
Từ những lý do trên đây, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Một số
giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Văn hoá, Thể
4
thao và Du lịch Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài luận văn cao học
chuyên ngành Quản lý Giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH,
TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của
nhà trường.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Đối tượng
Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH,
TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được những giải pháp mang tính hệ thống,có cơ sở khoa
học và thực tiễn thì có thể sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng và phát triển đội
ngũ giảng viên đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ mới của nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài.
5.3. Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên
Trường CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu chúng tôi sử dụng các nhóm phương
pháp nghiên cứu sau đây:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
5
Sử dụng và phối hợp các phương pháp: tổng hợp, phân tích, phân loại
dự báo, khái quát hóa các tài liệu khoa học có liên quan để xác định khái niệm
công cụ và xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Để khảo sát thực trạng đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH, TT&DL
Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh và thu thập các thông tin có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài, chúng tôi sử dụng các
phương pháp:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn

- Phương pháp điều tra bằng phiếu thăm dò
- Phương pháp trao đổi
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý các dữ liệu thu được về mặt định lượng.
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Luận văn hệ thống hoá các vấn đề lý luận về giảng viên, đội ngũ giảng
viên, làm rõ thêm một số đặc trưng của giảng viên ở Trường Cao đẳng Nghệ
thuật, phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn khảo sát tương đối toàn diện thực trạng đội ngũ giảng viên
Trường Cao đẳng VH, TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh; đưa ra các giải
pháp có cơ sở khoa học và có tính khả thi để phát triển đội ngũ giảng viên nhà
trường giai đoạn 2011 - 2015.
8. Cấu trúc luận văn
6
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Phụ lục và Tài liệu
tham khảo, luận văn gồm có 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Chương 3. Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường
Cao đẳng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngày nay, các quốc gia coi giáo dục là nền tảng và là nhân tố quan
trọng có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội và hưng thịnh
của mỗi quốc gia. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, thế kỷ của công nghệ

thông tin, của nền kinh tế tri thức và xu thế hội nhập, toàn cầu hoá trên tất cả
các lĩnh vực. Thế giới ngày nay đang diễn ra cuộc chạy đua quyết liệt để phát
triển, trong đó tập trung vào phát triển kinh tế. Tuy nhiên để có thể thắng
trong cuộc chạy đua này hoặc ít nhất không bị tụt hậu, các quốc gia cần phải
đầu tư và chăm lo cho sự phát triển giáo dục của đất nước mình. Điều này
càng đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển, như nước ta
hiện nay. Sự đầu tư chăm lo phát triển giáo dục đi trước một bước, đón đầu
các yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học, xã hội,… đã được các nước
Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,… thực hiện có hiệu quả cao.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến
nghĩa vụ, quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội, đồng
thời có tác động mạnh đến tiến trình phát triển của một quốc gia. Mặt khác
chúng ta đều biết chất lượng giáo dục được đào tạo nên từ tổ hợp gồm nhiều
yếu tố nhưng trong tổ hợp các yếu tố đó thì đội ngũ giáo viên là yếu tố quan
7
trọng và chủ yếu nhất quyết định chất lượng giáo dục, vì đội ngũ giáo viên là
người trực tiếp thi hành các mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục, với vai trò
chủ đạo trong giáo dục đào tạo ở các trường. Do đó xây dựng và phát triển đội
ngũ giáo viên là một vấn đề được các nước quan tâm cho dù là nước lớn hay
nước nhỏ, nước giàu hay nước nghèo, nước phát triển hay đang phát triển. Vì
vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển, mô hình đào tạo đội ngũ giáo
viên ở các nước trên thế giới và vận dụng phù hợp vào điều kiện nước ta là
một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc đổi mới sự nghiệp
giáo dục nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Mô hình đào tạo giáo viên một số nước trên thế giới
- Cộng hoà Liên bang Đức: Giáo viên chuyên nghiệp được đào tạo
chính quy tại các khoa sư phạm kỹ thuật trong các trường Đại học theo mô
hình thống nhất trong toàn Liên bang mà đầu vào là học sinh tốt nghiệp các
trường nghề và sau khi học xong chương trình phải có hai năm làm việc theo
nghề đã đào tạo sau đó mới được cấp bằng giáo viên.

- Ở Mỹ: Mô hình đào tạo giáo viên đa dạng hơn, đầu vào là sinh viên
tốt nghiệp các trường Đại học kỹ thuật, các trường Cao đẳng cộng đồng… sau
đó đào tạo tiếp nghiệp vụ sư phạm để trở thành giáo viên chuyên nghiệp.
- Ở Australia: Giáo viên chuyên nghiệp được đào tạo tại các trường Đại
học nhưng đầu vào là những người đã có tay nghề đang làm việc tại các cơ sở
sản xuất.
Nhìn chung mô hình đào tạo giáo viên ở các nước rất khác nhau, nhưng
có một điểm chung: Đầu vào đều là những người có kiến thức, kinh nghiệm
về một nghề nào đó sau mới được đào tạo thành giáo viên chuyên nghiệp.
Ở Việt Nam, trong Kết luận của Hội nghị lần thứ 6 BCH TW khoá IX về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW II khoá VIII về phương hướng phát triển
giáo dục đào tạo khoa học công nghệ từ 2005 đến 2010 có ghi “tạo chuyển
8
biến cơ bản về chất lượng giáo dục trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên…” và ông cha ta thường nói “không thầy đố mày làm nên” điều này
không ngoài ý khẳng định vai trò, công lao của người thầy đối với mỗi con
người.
Luật Giáo dục đã xác định rõ vai trò của giáo viên: “Nhà giáo giữ vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục…” [21].
GS.TSKH. Nguyễn Minh Đường đề cập tới vấn đề Bồi dưỡng và đào
tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới (Nhà in Bưu điện, Hà Nội,
1996). Trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia Chiến lược phát triển giáo dục trong
thế kỷ, kinh nghiệm của các quốc gia (tháng 10/2002, tập II), tác giả đã đưa ra
một số giải pháp để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 -
2010 đó là việc hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Theo tác
giả đó là một giải pháp quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện phát triển
chiến lược giáo dục của nước ta trong giai đoạn này.
Về vấn đề quản lý chất lượng và kiểm định đánh giá chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH được đề cập đến trong
công trình nghiên cứu Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo

ISO và TQM của PGS.TS. Trần Khánh Đức.
Một số công trình nghiên cứu sau đây cũng liên quan đến vấn đề xây
dựng phát triển đội ngũ giáo viên như Mô hình đào tạo giáo viên kỹ thuật của
PGS.TS. Nguyễn Tiến Đạt (1990), Xây dựng mô hình giảng viên kỹ thuật ở
trình độ Đại học cho các trường THCN - dạy nghề do PGS.TS. Nguyễn Đức
Trí là chủ biên (1996), Xây dựng mô hình hoạt động cho giáo viên dạy nghề
của Thạc sĩ Nguyễn Đăng Trụ (2004)… ngoài ra còn một số công trình
nghiên cứu có đề cập tới việc đào tạo giáo viên dạy nghề của Phan Chính
Thức, Trần Hùng Lượng, Hoàng Ngọc Trí vào những năm 2003 - 2005.
9
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên đã có những tác động
nhất định đối với công tác quản lý GD&ĐT nói chung và lĩnh vực xây dựng
phát triển đội ngũ giáo viên nói riêng ở các cấp độ bình diện khác nhau.
Trong đó các tác giả đã đề cập khá toàn diện cả về mặt lý luận và cả những
giải pháp cụ thể được xác lập trên cơ sở khảo sát thực trạng của mỗi trường.
Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về giải pháp phát triển đội
ngũ giảng viên Trường CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du, tỉnh Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay. Trong lúc đó một thực tế đặt ra là Trường CĐ VH, TT&DL
Nguyễn Du mới được thành lập chưa được 01 năm và đang bước vào thời kỳ
xây dựng đề án quy mô tổng thể giai đoạn 2010 - 2020, nên cần thiết phải có
sự khảo sát cụ thể về thực trạng phát triển đội ngũ giảng viên, nhằm đưa ra
các giải pháp phát triển phù hợp, hướng tới xây dựng nguồn nhân lực cho
trường CĐ đa ngành với cốt lõi là các ngành nghệ thuật.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Giảng viên và đội ngũ giảng viên
1.2.1.1. Giảng viên
Theo Từ điển tiếng Việt, giảng viên “là tên gọi chung người làm công
tác giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, các lớp đào tạo, huấn luyện, các
trường trên bậc phổ thông” [24, 376].
Luật Giáo dục 2005, điều 70 quy định: “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở

giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên,
ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [21].
Theo phân loại hệ thống cán bộ, công chức nhà nước của Ban Tổ chức -
CB Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), giảng viên có 3 bậc (gọi là ngạch), là:
giảng viên, giảng viên chính và giảng viên cao cấp. Mỗi ngạch có tiêu chuẩn
nghiệp vụ riêng, quy định tại quyết định số 538/TCCP-BCTL, ngày 18/12/1995
của Ban Tổ chức - CB Chính phủ.
10
Ở đây, trong đề tài nghiên cứu này, giảng viên được hiểu là đội ngũ nhà
giáo, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học, không phân biệt rạch ròi
theo cách hiểu trên.
Điều 26, Điều lệ trường Cao đẳng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ của
giảng viên:
1. Tiêu chuẩn
a) Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng, sức khoẻ tốt và lý lịch bản thân rõ
ràng;
b) Tối thiểu phải có bằng tốt nghiệp đại học và phải được bồi dưỡng về
nghiệp vụ sư phạm.
Nhà trường ưu tiên tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học loại
khá, giỏi, có phẩm chất tốt và những người có trình độ đại học và sau đại học
có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có nguyện vọng trở thành giảng viên để
tiếp tục đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm.
2. Nhiệm vụ
a) Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các quy chế của Bộ GD&ĐT, Điều lệ
trường cao đẳng và Quy chế tổ chức và hoạt động của trường.
b) Giảng dạy theo đúng nội dung, chương trình đã được Bộ GD&ĐT và
nhà trường quy định; viết giáo trình, phát triển tài liệu phục vụ giảng dạy, học
tập theo sự phân công của nhà trường, khoa, bộ môn.
c) Chịu sự giám sát của các cấp QL về chất lượng, nội dung, phương

pháp đào tạo và NCKH.
d) Tham gia hoặc chủ trì các đề tài NCKH, ứng dụng chuyển giao công
nghệ theo sự phân công của trường, khoa, bộ môn;
đ) Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân
cách của người học, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người học, hướng
11
dẫn người học trong học tập, NCKH, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, tác phong,
lối sống.
e) Không ngừng tự bồi dưỡng nghiệp vụ, cải tiến phương pháp giảng
dạy để nâng cao chất lượng đào tạo;
g) Hoàn thành tốt các công tác khác được trưởng, khoa, bộ môn giao.
1.2.1.2. Đội ngũ
Theo Từ điển tiếng Việt, đội ngũ được định nghĩa:
“1) Khối đông người được tập hợp và tổ chức thành lực lượng chiến đấu.
2) Tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp,
thành một lực lượng” [24, 328].
Như vậy khái niệm đội ngũ xuất phát theo cách hiểu thuật ngữ quân sự.
Nói đến đội ngũ là nói đến một số đông người được tổ chức thành một lực
lượng, có sự gắn bó chặt chẽ với nhau bằng những quy định về điều lệnh, điều
lệ, kỷ luật… để tạo nên sức mạnh hành động nhằm đạt một mục đích chung.
Chẳng hạn: Đội ngũ công nhân, đội ngũ nhà văn, đội ngũ cán bộ khoa học,
đội ngũ giáo viên…
Còn có nhiều cách diễn đạt khác nhau về khái niệm đội ngũ nhưng có
thể thống nhất quan niệm:
- Là một số đông người;
- Được tập hợp lại và có tổ chức;
- Có nhiệm vụ và mục đích chung.
1.2.1.3. Đội ngũ giảng viên
Không có định nghĩa cụ thể cho “đội ngũ giảng viên”. Có thể coi đội
ngũ giảng viên là một phạm trù. Trên cơ sở khái niệm giảng viên và đội ngũ

ta có thể hiểu: Đội ngũ giảng viên là tập hợp những người làm công tác giảng
dạy ở các trường đại học, cao đẳng, được tổ chức thành một lực lượng, có
chung một nhiệm vụ là giảng dạy, giáo dục và NCKH theo quy định của Bộ
12
GD&ĐT, nhằm mục tiêu “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức,
có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp
tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [21].
1.2.1.4. Đặc trưng của đội ngũ giảng viên
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã ghi rõ: “Phát triển đội
ngũ nhà giáo, đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất
lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục” [8, 30].
Chỉ thị 40/CT-TW, ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và CBQL giáo dục cũng đã nêu: “Mục
tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo về CBQL giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo
chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo…”
[3].
Như vậy đặc trưng của đội ngũ nhà giáo hay nói cách khác, yêu cầu xây
dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo là: đủ về số lượng, hợp lý và đồng bộ về cơ
cấu, đạt chuẩn về chất lượng. Việc phát triển đội ngũ GV của trường CĐ phải
hướng vào mục tiêu ấy.
* Về số lượng: Phải đảm bảo đủ, tính theo định mức quy định của Bộ
Giáo dục - Đào tạo và Bộ Nội vụ.
- Đảm bảo có đủ GV cơ hữu cho tất cả các bộ môn của các chuyên
ngành đào tạo;
- Đảm bảo tỷ lệ SV/GV bình quân là 20. Trong đó, các ngành khoa học
tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ từ 10 - 15 SV/GV; các ngành khoa học xã hội
và nhân văn, các ngành kinh tế từ 20 - 25 SV/GV [8; 32].

13
- Ngoài ra phải dành một tỷ lệ thích hợp GV làm công tác kiêm nhiệm
về giáo dục, QL học sinh - sinh viên, công tác đoàn thể quần chúng.
* Về cơ cấu: - Cơ cấu ngành (chuyên môn): Đồng bộ về ngành nghề
đào tạo, có sự cân đối GV các môn học, các ngành nghề đào tạo; có GV dạy
lý thuyết và GV hướng dẫn thực hành;
- Cơ cấu trình độ: Vừa có số lượng GV đạt chuẩn nhưng phải có một bộ
phận GV đạt trình độ trên chuẩn (thạc sĩ, tiến sĩ), GV có tay nghề bậc cao GV
chính, GV giỏi trong từng ngành học, môn học để làm nòng cốt.
- Cơ cấu độ tuổi: Có độ tuổi hợp lý, tuổi đời bình quân không quá cao
và phân bố các độ tuổi hợp lý, có lớp trẻ, lớp trung bình và lớp già để đảm
bảo tính kế thừa và liên tục trong hoạt động giảng dạy, giáo dục của nhà
trường. Mặt khác bổ sung cho nhau những ưu thế, mặt mạnh của mỗi lứa
tuổi.
- Cơ cấu giới tính - vùng miền: Thể hiện ở tỷ lệ nam/nữ hợp lý với từng
môn học, ngành học; có tỷ lệ Đảng viên thích hợp để giữ vai trò lãnh đạo
trong các môn học, ngành học. Nếu đào tạo nguồn nhân lực là người dân tộc
cần có GV là người dân tộc, hiểu biết văn hoá, phong tục tập quán… của dân
tộc đó để thuận lợi trong giao tiếp sư phạm.
* Về chất lượng
- Về trình độ: Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo giảng dạy cao
đẳng, đại học là: có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ nghiệp vụ
sư phạm.
Chất lượng của GV được thể hiện ở năng lực chuyên môn, bao gồm cả
kiến thức cơ bản, kiến thức cơ sở của chuyên ngành được đào tạo; tinh thông
các nghiệp vụ sư phạm: kỹ thuật thiết kế bài giảng, kỹ năng truyền thụ kiến
thức, kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học…; sử dụng được ngoại ngữ, tin học
vào việc giảng dạy và NCKH.
14
Theo tiêu chuẩn GV (ban hành theo Quyết định 538/TCCP-BCTL đã

nêu trên) thì còn phải có ít nhất 2 chứng chỉ bồi dưỡng sau đại học là: “Chương
trình chính trị - triết học nâng cao” và “Những vấn đề cơ bản về tâm lý học và
lý luận dạy học bộ môn ở Đại học”; sử dụng được một ngoại ngữ trong chuyên
môn ở trình độ B (đối với GV ngoại ngữ phải là ngoại ngữ thứ hai).
- Về phẩm chất: Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt.
Hiểu và vận dụng đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước và các quy định của ngành trong công tác GD&ĐT đại học, cao đẳng.
Phải nắm vững đường lối đổi mới của Đảng, quan điểm, đường lối phát
triển giáo dục đào tạo trong từng giai đoạn. Hiện nay GD&ĐT phải góp phần
tích cực vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước. Người GV phải có đạo đức, tác phong, tư tưởng đúng đắn theo gương
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Có sức khoẻ tốt để đảm bảo được công tác giảng dạy và giáo dục lâu
dài; có lý lịch bản thân rõ ràng.
1.2.2. Phát triển, phát triển nguồn nhân lực và phát triển đội ngũ
giảng viên
1.2.2.1. Phát triển
Thuật ngữ phát triển theo triết học là biến đổi hoặc làm biến đổi từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp. Lý luận của
phép biện chứng duy vật khẳng định: Mọi sự vật hiện tượng không phải chỉ
là sự tăng hay giảm về mặt số lượng mà cơ bản chúng biến đổi chuyển hoá
từ sự vật này đến sự vật khác, cái mới kết thúc cái cũ, giai đoạn sau kế thừa
giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Nguyên nhân
của sự phát triển là sự liên hệ tác động qua lại của các mặt đối lập vốn có
bên trong các sự vật, hiện tượng, hình thái, cách thức của sự phát triển đi từ
15
những biến đổi về lượng đến những biến đổi, chuyển hoá về chất và ngược
lại.
Con đường, xu hướng của sự phát triển không theo con đường thẳng,
cũng không theo đường tròn khép kín mà theo đường xoáy ốc tạo thành xu

thế phát triển từ từ, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX thuật ngữ phát triển được sử dụng khá
đơn giản với nhiều cách hiểu đơn giản là phát triển kinh tế, sau đó khái niệm
này được bổ sung nội hàm và được hiểu một cách toàn diện hơn. Ngày nay
khái niệm phát triển được dùng để chỉ ba mục tiêu cơ bản của nhân loại: Phát
triển con người toàn diện, bảo vệ môi trường, tạo hoà bình và ổn định chính
trị. Phát triển là quá trình nội tại, là bước chuyển hoá từ thấp đến cao, trong
cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm năng những khuynh hướng dẫn đến cái
cao là cái thấp đã phát triển. Phát triển là quá trình tạo sự hoàn thiện của cả tự
nhiên và xã hội. Phát triển có thể là quá trình thực nhưng cũng có thể là một
tiềm năng của sự vật hiện tượng.
1.2.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là tạo ra sự phát triển vững chắc, bền vững
về hiệu năng của một thành viên và hiệu quả chung của tổ chức, gắn liền với
không ngừng tăng về số lượng và chất lượng của đội ngũ cũng như chất lượng
sống của nhân loại. Nội dung của sự phát triển xét trên bình diện xã hội là
phạm trù rộng lớn. Theo quan điểm của chương trình phát triển Liên hợp
quốc, có năm nhân tố của sự phát triển nguồn nhân lực: giáo dục - đào tạo - sử
dụng - bồi dưỡng; sức khoẻ và dinh dưỡng; đầu tư - việc làm; sự giải phóng
con người. Trong năm nhân tố đó, nhân tố giáo dục và đào tạo là nhân tố giữ
vai trò quan trọng hơn tất cả bởi nó là cơ sở cho sự phát triển của các nhân tố
khác. Một số quan niệm nghiên cứu cho rằng: phát triển nguồn nhân lực bao
16
gồm ba mặt chủ yếu: giáo dục - đào tạo, sử dụng - bồi dưỡng và đầu tư - việc
làm.
Phát triển nguồn nhân lực được đặt trong nhiệm vụ quản lý nguồn nhân
lực và là một nội dung quan trọng của quản lý nguồn nhân lực. Có thể hình
dung quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển nguồn nhân lực
qua sơ đồ dưới đây

Sơ đồ 1.1. Quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực
với quản lý nguồn nhân lực
1.2.2.3. Phát triển đội ngũ giảng viên
Phát triển đội ngũ giảng viên là tạo ra một đội ngũ (một tổ chức) giảng
viên cho một trường Cao đẳng, Đại học đủ về số lượng, đảm bảo về chất
17
Quản lý nguồn nhân lực
Phát triển nguồn
nhân lực
Sử dụng nguồn
nhân lực
Môi trường
nguồn nhân lực
- Giáo dục
- Đào tạo
- Phát triển
- Bồi dưỡng
- Nghiên cứu
phục vụ
- Tuyển chọn
- Sàng lọc
- Bố trí
- Đánh giá
- Đãi ngộ
- Kế hoạch hóa
sức lao động
- Mở rộng việc
làm
- Mở rộng quy


- Phát triển tổ
chức
- Đánh giá
lượng, có trình độ được đào tạo đúng quy định có phẩm chất đạo đức, có năng
lực trong quá trình dạy học và giáo dục sinh viên, trên cơ sở đó đội ngũ này
được đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu của chương trình đào tạo giáo dục
Đại học.
1.2.3. Giải pháp và giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên
1.2.3.1. Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt “giải pháp là phương pháp giải quyết một công
việc, một vấn đề cụ thể” [24, 378].
Để hiểu rõ hơn về khái niệm giải pháp, chúng ta cần phân biệt rõ một
số khái niệm tương tự như: phương pháp, biện pháp. Điểm giống nhau của
các khái niệm này là đều nói về cách tiến hành, cách giải quyết một công việc,
một vấn đề. Còn điểm khác là ở chỗ, biện pháp chủ yếu nhấn mạnh đến cách
làm, cách hành động cụ thể, trong khi đó phương pháp nhấn mạnh đến trình
tự các bước có quan hệ với nhau để tiến hành một công việc có mục đích.
Trong một giải pháp có thể có nhiều biện pháp, giải pháp được đánh
giá theo các tiêu chí sau:
+ Tính hiện thực: giải pháp phải giải quyết được vấn đề đặt ra.
+ Tính hiệu quả: giải pháp phải giải quyết được vấn đề đặt ra và không
làm nảy sinh những vấn đề phức tạp hơn.
+ Tính khả thi: giải pháp không bị các yếu tố chi phối, nó ràng buộc ở
góc độ cao.
1.2.3.2. Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên
Giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên là hệ thống các cách tổ chức,
điều khiển hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên. Từ đó, đề xuất các giải
pháp phát triển đội ngũ giảng viên thực chất là đưa ra các cách tổ chức,
điều khiển có hiệu quả hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên theo hai
hướng sau đây:

18
- Xác định giải pháp tương ứng với các phương pháp phát triển đội ngũ
giảng viên. Mỗi phương pháp phát triển đội ngũ giảng viên sẽ bao gồm những
giải pháp cụ thể. Những giải pháp này tác động đến những khía cạnh khác
nhau của đội ngũ giảng viên và tạo ra sự thay đổi của đội ngũ theo mục tiêu
đã xác định.
- Xác định giải pháp theo nội dung phát triển đội ngũ giảng viên. Xuất
phát từ các đặc trưng và các nội dung của công tác phát triển đội ngũ giảng
viên Trường CĐ VH, TT&DL xác định được các giải pháp phát triển đội ngũ
này. Đây là các giải pháp mang tính độc lập tương đối tương ứng với hoạt
động cụ thể được thực hiện theo nội dung của công tác phát triển đội ngũ
nhằm tác động đến các thành tố của đội ngũ.
Với tư cách là những hoạt động cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ xác
định trong công tác phát triển đội ngũ, các giải pháp phát triển đội ngũ giảng
viên có khả năng tác động để làm thay đổi về số lượng, cơ cấu và chất lượng
đội ngũ giảng viên. Chẳng hạn với nội dung giáo dục bồi dưỡng của công tác
phát triển đội ngũ hàng loạt các tác động có thể được triển khai để nâng cao
năng lực chuyên môn và phẩm chất nghề nghiệp cho đội ngũ giảng viên.
Trong khuôn khổ luận văn này, các giải pháp phát triển đội ngũ giảng
viên sẽ được xác định theo phức hợp các định hướng đã nêu trên. Từ đó,
chúng tôi quan niệm: giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường CĐ VH,
TT&DL là các hoạt động cụ thể được chủ thể quản lý, sử dụng tác động đến
các thành tố cấu trúc của đội ngũ giảng viên nhằm giải quyết những vấn đề
tồn tại của đội ngũ này, phát triển nó theo mục tiêu đã xác định.
1.3. Một số vấn đề lý luận về phát triển đội ngũ
1.3.1. Một số nội dung về công tác cán bộ trong Nghị quyết của Đảng
Trong quá trình thực hiện CNH - HĐH vai trò đội ngũ cán bộ là cực kỳ
quan trọng vì họ là người vạch ra kế sách; người tổ chức thực hiện các mục
19
tiêu đề ra, vì vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trở nên quan trọng

và cấp bách.
“Một đội ngũ cán bộ có chất lượng cao là đội ngũ có đủ bản lĩnh, phẩm
chất và năng lực, nắm bắt được các yêu cầu của thời đại, có đủ tài năng, đạo
đức và ý chí để thiết kế và tổ chức thực hiện những kế hoạch của tiến trình
CNH - HĐH” [29, 109].
Nghị quyết lần thứ 4 BCH TW khoá VII đã ghi: “Xây dựng đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục: Đối với giáo viên, khuyến khích người
giỏi làm nghề dạy học. Có chính sách ưu đãi đặc biệt về tiền lương và phụ cấp
đối với giáo viên giảng dạy ở những nơi khó khăn thuộc vùng cao, vùng sâu,
hải đảo và một số vùng miền núi” [11, 65].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 BCH TW khoá VIII về chiến lược cán
bộ thời kỳ CNH - HĐH đất nước đã xác định mục tiêu xây dựng đội ngũ cán
bộ đến năm 2020 là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức từ Trung ương
đến cấp cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có đủ
bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng
giữa các thế hệ cán bộ thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH, giữ vững
độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội” [12, 36].
Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 BCH TW Đảng khoá VIII nói về đổi mới
công tác đào tạo đội ngũ giáo viên ghi: “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Sử dụng giáo viên đúng năng
lực, đãi ngộ đúng công tác và tài năng với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề
dạy học” [12, 109].
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX ghi: “Phát triển đội ngũ giáo viên,
coi trọng chất lượng giáo dục và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ.
Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ giáo viên so
20
với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế chính sách đảm bảo đủ
giáo viên cho các vùng miền núi cao, hải đảo” [14, 204].
Kết luận của Hội nghị lần thứ sáu BCH TW khoá IX và tiếp tục thực

hiện Nghị quyết TW 2 khoá VIII, phương hướng phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ đến năm 2005 và đến năm 2010 ghi rõ: “Ban chấp
hành Trung ương chủ trương từ nay đến năm 2010 toàn Đảng, toàn dân mà
nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục cần tập trung vào những
nhiệm vụ sau: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục tạo chuyển biến cơ
bản về chất lượng giáo dục, trước hết cần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo. Thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng, lối
sống cho người học” [20, 128].
Chỉ thị 40/CT-TƯ của Ban Bí thư TW Đảng khoá IX ngày 15/06/2004
về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục đã chỉ đạo: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa
mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển
giáo dục 2001 - 2010 và chấn hưng đất nước. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu…”.
Trên đây là một số Văn kiện cơ bản của Đảng, liên quan đến công tác
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ nhà giáo nói riêng
nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Những định hướng
đó sẽ giúp cho việc tìm ra các biện pháp để xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên Trường CĐ VH, TT&DL Nguyễn Du.
1.3.2. Quan niệm về xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên
1.3.2.1. Xây dựng và phát triển
21
Theo Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 1997 khái niệm xây dựng
mang ý nghĩa xã hội:
1. Làm hình thành một bộ máy hay một chỉnh thể xã hội, chính trị, kinh
tế, văn hoá theo một phương hướng nhất định.
2. Tạo ra, sáng tạo ra cái có giá trị tinh thần, có ý nghĩa trừu tượng.
Theo Từ điển Hán - Việt, phát triển có nghĩa là “mở mang ra”.

Theo Từ điển tiếng Việt, phát triển là: “Biến đổi hoặc làm cho biến đổi
từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [24, 743].
Triết học lại quan niệm: “Ở cấp độ chung nhất, phát triển được hiểu là
sự thay đổi hay biến đổi tiến bộ, là một phương thức của vận động, hay là quá
trình diễn ra có nguyên nhân, dưới những hình thức khác nhau như tăng
trưởng, tiến hoá, phân hoá, chuyển đổi, mở rộng cuối cùng tạo ra sự biến đổi
về chất” [33, 35].
Các tác giả Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: “Ở cấp độ chung nhất,
phát triển được hiểu là sự thay đổi hay biến đổi tiến bộ, là một phương thức
hay quá trình diễn ra có nguyên nhân dưới những hình thức khác nhau như
tăng trưởng, tiến hoá, phân hoá, chuyển đổi, mở rộng cuối cùng là tạo ra sự
biến đổi về chất” [22, 43].
Ngoài ra còn có nhiều cách hiểu khác về khái niệm phát triển, xuất phát
từ nhiều góc độ nghiên cứu. Tuy nhiên có thể thống nhất coi phát triển phương
thức vận động làm biến đổi theo chiều hướng tích cực, tăng về số lượng, nâng
cao về chất lượng và sắp xếp điều chỉnh cơ cấu một cách hợp lý hơn.
1.3.2.2. Quan niệm về xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên
Như vậy, việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên trước hết phải
tạo ra một đội ngũ (một tổ chức các nhà giáo), từ đó phát triển đội ngũ cả về
số lượng, chất lượng, cơ cấu, giới tính.
22
Việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên thực chất là phát triển
nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục. Theo GS.TSKH. Nguyễn Minh
Đường, phát triển nguồn nhân lực có thể hiểu như sau:
“+ Với nghĩa hẹp nhất, đó là quá trình đào tạo và đào tạo lại, trang bị hoặc
bổ sung thêm những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để người lao động có
thể hoàn thành tốt nhiệm vụ mà họ đang làm hoặc tìm một việc làm mới.
+ Với nghĩa rộng hơn bao gồm cả bổ túc văn hoá cho người lớn, xoá mù
chữ là những cơ sở trí thức cần thiết để học nghề và phát triển nghề nghiệp.
+ Phát triển nguồn nhân lực được hiểu với một khái niệm rộng hơn bao

gồm cả ba mặt: phát triển sinh thể, phát triển nhân cách đồng thời tạo một môi
trường xã hội thuận lợi cho nguồn lợi phát triển” [17, 27].
Việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên thực chất là phát triển
nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục.
Đội ngũ nhà giáo nói chung và đội ngũ giảng viên trong trường cao
đẳng nói riêng là nguồn nhân lực rất quan trọng, quyết định chất lượng
GD&ĐT, quyết định sự phát triển của nhà trường.
Đội ngũ giảng viên, như đã nêu trên, có những đặc trưng về số lượng,
cơ cấu và chất lượng. Phát triển đội ngũ giảng viên phải mang tính toàn diện
và bền vững trên cả ba mặt đã nêu trên.
Phát triển đội ngũ giảng viên về mặt số lượng là bằng các phương thức
vận động trong công tác quản lý để gia tăng số lượng hiện có theo yêu cầu đủ
giảng viên giảng dạy, NCKH ở tất cả các bộ phận của các ngành nghề đào tạo
hiện nay. Chọn trong số giảng viên làm công tác giảng dạy một số giảng viên
có kiến thức, có kỹ năng và hứng thú các hoạt động giáo dục, hoạt động xã
hội, kiêm nhiệm các mặt hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho HS - SV
theo quy định. Cán bộ, giảng viên làm công tác kiêm nhiệm được giảm định
mức giảng dạy, được quy định tại Thông tư 37/TT, ngày 14/11/1980 của Bộ
23
Giáo dục (nay là Bộ GD&ĐT). Mục tiêu chung là giảm tỷ lệ SV/GV đề đạt
bình quân 20 SV/GV vào năm 2010, trong đó chú ý đặc thù của từng môn
học, ngành học.
Phát triển cơ cấu đội ngũ giảng viên là chuyển đổi, điều chỉnh, bổ sung
thành phần giảng viên hiện có sao cho hợp lý, cân đối, đồng bộ. Tính hợp lý và
đồng bộ được thể hiện ở chỗ: giải quyết được mâu thuẫn nội tại, phát huy được
sức mạnh tổng hợp, hạn chế được những bất cập yếu kém của đơn vị, bộ phận.
Phát triển chất lượng là làm chuyển biến chất lượng theo hướng tích
cực. Cần coi trọng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Nói theo thuật ngữ
thường dùng trong giáo dục - đào tạo là phát triển đại trà và mũi nhọn. Tức là
vừa phát triển chất lượng toàn diện, vừa nâng cao chất lượng của từng mặt.

Phát triển chất lượng đội ngũ GV trên cơ sở phát triển chất lượng giảng viên.
Chúng ta coi đội ngũ giảng viên là nguồn nhân lực, trong đó mỗi GV là con
người cụ thể của nguồn nhân lực, giữa chúng có mối quan hệ hết sức bền
chặt. Về mặt giá trị, phát triển con người là gia tăng giá trị nói chung của con
người, còn phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị sử dụng của con
người, vì thế, trong nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực luôn luôn đặt ra mục
tiêu phát triển con người: có con người phát triển đầy đủ giá trị thì mới có
nhân lực chất lượng cao.
Chính vì vậy, bằng các con đường, các biện pháp quản lý tạo điều kiện
và cơ hội để mỗi giảng viên đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, về phẩm chất,
đạo đức, tư tưởng, về sức khoẻ thể chất và tinh thần. Đồng thời phải luôn luôn
có ý thức và hành động cụ thể để nâng cao trình độ đã đạt. Trong điều kiện cụ
thể cần có sự lựa chọn ưu tiên nâng cao chất lượng từng tiêu chí để đạt hiệu
quả phát triển.
Phát triển đội ngũ giảng viên trên cơ sở phát triển (gia tăng) về số
lượng, phát triển (nâng cao) về chất lượng và phát triển (điều chỉnh, chuyển
đổi) về cơ cấu. Trong quá trình phát triển phải luôn coi trọng tính cân đối, hợp
24
lý giữa các mặt nêu trên. Đồng thời để bảo đảm sự phát triển bền vững của
đội ngũ giảng viên, cần tính đến yếu tố môi trường xã hội về nguồn nhân lực
lao động trong tương lai và những yêu cầu để hội nhập khu vực và quốc tế.
1.3.3. Công tác quản lý phát triển đội ngũ giảng viên của Hiệu trưởng
Luật Giáo dục 2005 quy định: “Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò
quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục” và
“Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục”
[18]. Vì vậy, việc quản lý đội ngũ giảng viên là nhiệm vụ rất quan trọng của
người Hiệu trưởng trong nhà trường.
Điều lệ trường cao đẳng còn quy định: “Hiệu trưởng là người đại diện
theo pháp luật của nhà trường, chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý và điều hành
các hoạt động của nhà trường theo các quy định của pháp luật, Điều lệ trường

cao đẳng, các quy chế, quy định của Bộ GD&ĐT, Quy chế tổ chức và hoạt
động của trường đã được cơ quan chủ quản phê duyệt”.
Cũng như quản lý nói chung, quản lý đội ngũ giảng viên cũng theo các
chức năng: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
1.3.4. Kế hoạch hoá công tác phát triển đội ngũ giảng viên
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Nguyễn Quốc Chi: “Kế hoạch hoá
nguồn nhân lực là lập kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu trong tương lai về
nhân sự của tổ chức khi tính đến cả những nhân tố bên trong và những nhân
tố của môi trường bên ngoài. Kế hoạch hoá bao gồm việc xây dựng mục tiêu,
chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện
cần thiết trong một thời gian nhất định của cả hệ thống quản lý và bị quản lý”
[9, 32].
Việc lập kế hoạch phát triển đội ngũ phải căn cứ vào quy hoạch phát
triển nhà trường, trong đó có phát triển đội ngũ; vào mục tiêu chiến lược của
ngành học, bậc học đã được Bộ GD&ĐT quy định. Đồng thời, kế hoạch còn
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×