Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiền đề ra đời của đảng cộng sản việt nam( 9đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.54 KB, 11 trang )

Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
1
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
A. LỜI MỞ ĐẦU
Khác với những nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh – lãnh tụ tối cao của
Đảng và của dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
một nhà lý luận mácxít – lêninnít của thời đại chúng ta. Một trong nhưng nguyên
nhân quan trọng trong sự thành công của cách mạng Việt Nam là có sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh. Quả thực không thể phủ nhận
những đóng góp to lớn của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam.
Vậy cơ sở nào dẫn tới sự ra đời của Đảng ta? Để giải quyết câu hỏi trên, trong
bài tập lớn học kì này, em đã chọn đề tài: “Tiền đề ra đời của Đảng Cộng Sản Việt
Nam”. Do kiến thức cũng như trình độ hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài làm có thể
còn nhiều thiếu sót mong quý thầy cô góp ý để bài viết trở nên hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
Khi thành lập Đảng, Người viết: “Chủ nghĩa Mác –Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng Sản
Đông Dương (Đảng Cộng Sản Việt Nam – Chương trình tóm tắt của Đảng) vào đầu
năm 1930”. Như vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời dựa trên những cơ sở tiền đề
dưới đây:
I – Chủ nghĩa Mác – Lênin
Năm 1920, khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường
chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Luận cương của V.I.Lênin đã
có ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đối với nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Người cho rằng việc xây dựng Đảng phải
bắt nguồn từ học thuyết của C.Mác và trực tiếp từ học thuyết về xây dựng Đảng kiểu
2


Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
mới của V.I.Lênin. Học thuyết của Mác là học thuyết xã hội khoa học, chỉ ra đúng con
đường đấu tranh giải phóng con người. Học thuyết Lênin làm sáng tỏ vai trò của giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, bản lĩnh, có tinh thần cách mạng triệt để và sẽ là
lực lượng lãnh đạo cách mạng. Người từng nói rằng: “chủ nghĩa Mác – Lênin là học
thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Học thuyết ấy chỉ ra con
đường của sự tự giải phóng con người và phát triển xã hội”. Xuất phát từ những điều
kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết ấy
để đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
Thế kỉ XIX ở Tây Âu, Mác và Ăng ghen đã nghiên cứu sâu sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản Tây Âu, nơi có sự phân hóa xã hội đến cực điểm, với mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa giai cấp vô sản và tư sản. Mác và Ăng ghen đã đặt sự quan
tâm chủ yếu của mình vào vấn đề thành lập các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản
chủ nghĩa với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách
mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Đến Lênin, khi chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được đặt ra như một vấn đề bức thiết cần được giải
quyết trong phần lớn các quốc gia dân tộc trên thế giới. Xuất phát từ tình hình thực tế
ở các nước tư bản phương Tây và nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra luận điểm: Đảng
Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân
phương Tây. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã
hội nhân đạo thực sự. Còn giai cấp công nhân phương Tây là giai cấp tiên tiến, đông
đảo về lực lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa,
có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
Hồ Chí Minh quan tâm tìm kiếm những cơ sở thực tiễn dẫn đến việc thành lập
Đảng Cộng sản ở những nước lạc hậu, phụ thuộc với những tàn tích phong kiến còn
rất nặng nề. Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng
3
Lư Kế Trường - 370930

Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Đảng có khả năng vận
động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách
mạng vô sản thế giới. Đồng thời Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản
là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân
cày. Không những thế, Đảng Cộng sản còn phải công khai lập trường, quan điểm của
mình về việc: Đảng đứng về phía nào? Bênh vực và bảo vệ ai, cái gì? Đảng chống lại
ai, cái gì? Và phải có phương pháp biện chứng duy vật trong đấu tranh cách mạng và
vận động quần chúng, nghĩa là phương pháp phải mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, nắm
bắt thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tạo thành phong trào quần chúng rộng
lớn.
Chúng ta có thể thấy Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, Người đã
chỉ ra Đảng Công sản Việt Nam là sản phẩm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước, đây chính là sự phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin
trên cơ sở tổng kết thực tiển cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-lênin là “mặt trời
soi sáng” con đường cách mạng Việt Nam, là “cái cẩm nang thần kì” để giải quyết
công việc đúng đắn. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành “cốt”, trở
thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
II – Phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân đã tạo môi trường
thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, làm cho giai cấp
công nhân giác ngộ cách mạng, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ từ
đấu tranh tự phát sang tự giác. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ làm cho giai
4
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh

cấp công nhân thấy được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân thế giới là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, đời sống sinh
hoạt tập trung, có tinh thần cách mạng triệt để nhất thì giai cấp công nhân Việt Nam
còn một số điểm riêng biệt như phải chịu ba tầng áp bức đó là thực dân Pháp, địa chủ
phong kiến, tư sản mại bản; giai cấp công nhân Việt Nam có quan hệ mật thiết với
giai cấp nông dân, kế thừa truyền thống yêu nước đấu tranh bất khuất của dân tộc.
Đặc biệt giai cấp công nhân Việt Nam vừa mới ra đời đã ảnh hưởng mạnh mẽ sâu sắc
của phong trào cách mạng thế giới nhất là ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga
và phong trào công nhân thế giới. Hoàn cảnh ra đời, đặc điểm phát triển làm cho giai
cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất,
tự giác, là giai cấp nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin và những tư tưởng
tiến bộ, là lực lượng thấm nhuần tư tưởng cách mạng nhất, được trang bị vũ khí lý
luận là chủ nghĩa Mác- Lênin. Tuy nhiên giai cấp công nhân Việt Nam mới hình
thành nên còn mỏng về số lượng, phong trào còn non yếu, lại chưa có kinh nghiệm
nhiều trong đấu tranh cách mạng.
Trong khi đó ở Việt Nam những phong trào yêu nước rộng lớn đã và đang lôi
cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân vào cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân phong kiến. Nếu kết hợp được phong trào yêu nước của đông đảo
quần chúng nhân dân với phong trào công nhân thì sẽ tạo ra sức mạnh to lón. Xuất
phát từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo lý luận, bổ sung và phát triển
học thuyết của C.Mác và V.I.Lê nin về xây dựng Đảng: “Chủ nghĩa Mác – Lê nin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập
Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân là sự phát triển không ngừng
của phong trào yêu nước. Ở đất nước ta truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm
là truyền thống tốt đẹp, là sợi chỉ đỏ chảy xuyên suốt hàng ngàn năm dựng và giữ
5
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh

nước, bảo vệ độc lập dân tộc. Những năm đầu của thế kỉ XX, cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của xã hội, sự phân hóa giai cấp trở nên sâu sắc, nhiều giai cấp, tầng lớp
mới ra đời. Nhưng dù là giai cấp nào thì cũng chịu sự áp bức của thực dân Pháp nên
những người dân yêu nước đã đứng lên đấu tranh chống Pháp, dành độc lập cho dân
tộc, không chịu làm nô lệ, không chịu sự đô hộ, áp bức bóc lột của thực dân đế quốc
và bọn phong kiến tay sai. Việc chỉ ra phong trào yêu nước là một trong những yếu tố
quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng đã cho thấy sự sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng. Người chỉ ra phong trào yêu nước là
một bộ phận của phong trào cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước có vị trí, vai
trò to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt nam, trước kẻ thù xâm lược, dân
tộc ta luôn luôn anh dũng đứng lên đấu tranh mạnh mẽ. Các phong trào yêu nước có
những ưu điểm đó là thể hiện được truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc
nhưng lại chưa có đường lối cách mạng đúng đắn, đấu tranh không triệt để, thiếu một
giai cấp lãnh đạo cách mạng tiên tiến để có thể đưa cách mạng đi đến giành thắng lợi
cuối cùng.
Ở Việt Nam, nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với phong trào
yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cách mạng cũng sẽ
không đủ lực lượng để mở rộng được cuộc chiến tranh và đưa nó đến thắng lợi. Nếu
phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp công nhân và đội tiên phong
của nó là Đảng cộng sản thì cuộc đấu tranh của nó cũng không đi đến thắng lợi. Sở dĩ
Người chọn yếu tố phong trào yêu nước Việt Nam là một trong những yếu tố kết hợp
với phong trào công nhân Việt Nam dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt là
bởi:
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong
lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại
6
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm

dựng nước và giữ nước đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và nó đã trở thành giá trị
văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai
phong trào đó đều có mục tiêu chung. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có
phong trào đấu tranh, kể cả đấu tranh lúc đầu là đấu tranh kinh tế, và sau này là đấu
tranh chính trị, thì phong trào công nhân kết hợp ngay từ đầu và kết hợp ngay với
phong trào yêu nước. Cơ sở của việc kết hợp này là do xã hội nước ta tồn tại mâu
thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai vì vậy giữa
hai phong trào này đều có mục tiêu chung, yêu cầu chung là giải phóng dân tộc, làm
cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường.
Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong
trào yêu nước Việt Nam, phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông dân
Việt Nam chiếm tới khoảng hơn 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân. Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam do điều kiện lịch sử chi
phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân nghèo.
Do đó, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách
mạng.
Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự kết hợp các yếu tố do sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu
nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò trí
thức, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những "ngòi nổ" cho các phong trào yêu
nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai cũng như thúc đẩy sự
cách tân và chấn hưng đất nước. Trong lịch sử Việt Nam, đầu thế kỷ XX một trong
7
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
những nét nổi bật nhất là sự bùng phát của các tổ chức yêu nước mà thành viên và
những người lãnh đạo tuyệt đại đa số là tri thức.
Tuy nhiên việc gắn phong trào công nhân với phong trào yêu nước, giai cấp

với dân tộc của Hồ Chí Minh đã có lúc bị hiểu lầm, bị đánh giá là nặng về dân tộc,
nhẹ về giai cấp, là người dân tộc chủ nghĩa. Song thực tiễn phong trào cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh quan
điểm đó là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt
Nam, với cách mạng của các nước thuộc địa mà còn đúng với tất cả những nước đang
đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
III – Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong suốt quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ
Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính
đảng cách mạng, mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Người khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy”. Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã luôn quan tâm, chú ý đến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để
tiến tới thành lập một chính đảng cách mạng ở Việt Nam.
Về chính trị: Sau khi đọc bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy con đường giải phóng của
các dân tộc thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác
– Lê nin, chế độ Xô viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của Quốc tế
Cộng sản. Đặc biệt, Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập năm 1921 và Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở Á Đông được thành lập năm 1925 là những tổ chức quốc tế
8
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc, mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi
xướng vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò chủ yếu nhất. Năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả

ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng Cộng sảnViệt Nam
sau này.
Về tư tưởng: Thông qua tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Hồ Chí
Minh đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên theo chủ nghĩa Mác - Lênin
và đường lối cách mạng mới, bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ
năm 1925 đến năm 1927. Sau các khóa học, phần lớn họ trở về nước để truyền bá lý
luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, còn một số ít được chọn vào Trường
Quân sự Hoàng Phố và Trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở
Mátxcơva học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động. Đây chính là sự gặp gỡ tất
yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách
mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Về tổ chức: Trong thời kỷ chuẩn bị để tiến hành thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã tập hợp những người yêu nước tiêu biểu nhất vào trong một tổ
chức, trong tổ chức đó, Người đã giác ngộ họ về chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối
cách mạng mới, để từ đó truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam.
Sự xuất hiện của ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam từ giữa năm 1929 đến đầu
năm 1930 (Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ tháng 6/1929, An Nam Cộng sản
Đảng ở Nam Kỳ tháng 8/1929 và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung Kỳ
tháng 1/1930) là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến về ý thức hệ. Nhưng trong một
nước không thể tồn tại đồng thời ba tổ chức cộng sản có cùng mục tiêu, lý tưởng.
9
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì Hội nghị hợp
nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Việc
hợp nhất đó đã đáp ứng được đòi hỏi bức thiết nhất của thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
C. KẾT LUẬN

Như vậy việc thành lập Đảng đánh dấu bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam. Với sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam chính là ở chỗ dựa trên những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt
Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng, lý luận. Và từng bước tổ chức hoạt động thực
tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết, khái quát
được của mình.
Để đánh giá công lao to lớn của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta và dân tộc ta,
Báo cáo chính trị của Ban cháo hành Trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ IV của
Đảng đã viết: “Những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay
mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta,
người khai sinh nền Cộng hòa dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết
dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp
công nhân và nhân dân ta, người anh hung dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của
phong trào cộng sản quốc tế.”
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
Lư Kế Trường - 370930
Bài tập lớn học kì môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh
1. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà
Nội, năm 2012.
3. TS Nguyễn Mạnh Tường (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận
thức cơ bản, NXB. Chính Trị Quốc Gia, 2009.
4. TS Trần thị Huyền – Phạm Quốc Thành (đồng chủ biên), Tìm hiểu tư tưởng Hồ
chí Minh (hỏi – đáp), Nxb.Giáo dục, 2004.
5. PGS, TS Nguyễn Bá Linh, Tư tưởng Hồ chí Minh – Một số nội dung cơ bản,
NXB. Chính Trị Quốc Gia, 1995.

6. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí
Minh, NXB. Chính Trị Quốc Gia, 2003.
7.
5366/
8.
nam.1192568.html
11
Lư Kế Trường - 370930

×